633
00 TẬP TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢN Source : chim viet canh nam * *Bài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)*Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) *Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)* Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) * Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) *Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke* Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke *Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio *Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)* Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909- 1943)* Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965) *Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô *Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô *Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965) *Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965) *Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809) *Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai August 14, 2012 2012 Nhiều tác giả; Dịch:Nguyễn Nam Trân,Cung Điền chimviet-canhnam 7/15/2012

TẬP TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢN_Nhiều tác giả

Embed Size (px)

DESCRIPTION

 

Citation preview

00

Nhiều tác giả; Dịch:Nguyễn Nam Trân,Cung Điềnchimviet-canhnam

7/15/20122012

TẬP TRUYỆN NGẮN NHẬT BẢNSource : chim viet canh nam **Bài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)*Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) *Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)* Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) * Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) *Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke* Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke *Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio *Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)* Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)* Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965) *Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô *Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô *Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965) *Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965) *Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809) *Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu DazaiApril 9, 2023

mục lục(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

Bài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)  

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)  

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)  

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)  

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke  

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)  

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)  

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)  

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai  

HẾT

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 1

TỎ TÌNH VỚI NGƯỜI VỢ KHÔNG QUEN

Asada Jirô (1951- )

Nguyễn Nam Trân dịch

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 2

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Lời người dịch:

(nguyên tác Mishiranu Tsuma E, đăng trong tạp chí Shosetsuhoseki, Số tháng hai , 1995, in lại trong tập truyện cùng tên do nhà Kobunsha, Tokyo, 2001)

Asada Jiro sinh năm 1951 tại Tokyo. Bắt đầu viết văn từ 1991 khi đã 40. Chỉ ba năm sau, ông được tặng giải Tài Năng Mới mang tên nhà văn Yoshikawa Eiji qua tác phẩm Lấy Xe Điện Ngầm (Metoro ni Notte). Năm 1997, Nhân Viên Đường Sắt (Poppoya) mang về cho ông giải Naoki. Năm 2000, ông lại đoạt giải văn học mang tên nhà văn Shibata Renzaburo với Nghĩa Sĩ Đất Kinh Thành (Mibu Gishiden). Văn ông nhẹ nhàng, điềm đạm, mang mang hoài cảm, trầm trầm như bài thơ bình thanh. Độc giả Nhật bình thường, nhất là phụ nữ rất yêu thích. Nhân Viên Đường Sắt nói trên là một trong những tác phẩm cảm động và ăn khách nhất của văn học Nhật Bản đương đại, bán được trên một triệu rưởi cuốn và đã được dựng thành phim với nam tài tử quốc tế Takakura Ken. Asada Jiro hiện có chân trong hội đồng giám khảo giải Akutagawa, giải thưởng văn học danh giá nhất của Nhật, phát mỗi năm hai lần.

Nhà bình luận Hashizume Daisaburo nhân đọc Tỏ Tình Với Người Vợ Không Quen đã xem hình ảnh trò chơi lắp hình (puzzle) nói đến trong

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 3

truyện này như chủ đề của văn chương Asada, người làm công việc nhặt nhạnh và xếp lại vào khuôn những mảnh đời vỡ nát. Bản thân Asada cũng lắm phong trần. Sinh trong một gia đình có của, bị phá sản, mẹ đành làm chiêu đãi viên quán rượu để nuôi con. Ông sống rày đây mai đó, quen biết với giới du côn anh chị, đăng lính, sau ra buôn bán, trúng mánh làm giàu, cuối cùng mới bước vào làng văn và thành danh nhờ ngòi bút. Do đó, văn ông thường lấy khung cảnh thế giới đen tối của bọn băng đảng, cờ bạc, cá ngựa, rượu chè, đĩ điếm, nhà tù...làm đề tài. Lòng thương đời của ông trải rộng đến những "người nghèo mới", thất cơ lỡ vận, đầu đường xó chợ, kiều ngụ trái phép...trong một xã hội toàn cầu hóa với biết bao nhiêu cô gái ăn sương Hoa, Nga, Đông Âu, Phi, Thái, Việt... đang sống bám theo cơn lốc dục vọng quay cuồng sau lưng nền kinh tế hùng mạnh thứ hai thế giới nầy.

*

Chiều tháng chạp khi những Cây Nô-En hàng phố qua một đêm được trang hoàng trở lại để đủ biến thành bụi tùng cổ truyền đón chào năm mới, Hanada Akira choàng mình thức dậy vì tiếng chuông điện thoại gia đình dưới tỉnh gọi lên.

- Uả, bố đang ngủ ? Bộ ốm à ?

Ậm ừ qua quít, Hanada vỗ tí nước rửa mặt, tỉnh người xong mới cầm lại ống nghe :

- Đâu có, tại đi chơi với mấy ông khách, uống rượu đến sáng mới về, con ạ.

- Tiền bố đã vào ngân hàng hôm qua, mẹ cám ơn bố đấy.

- Bố gửi ít quá, đừng buồn nghe. Bây giờ làm ăn khó, tiền thưởng cuối năm cũng chả thấm tháp.

- Được rồi ông ơi, thời buổi mà, trên Sapporo đây kiếm tiền cũng không dễ đâu. Nhưng bố ạ, con có chuyện này......

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 4

Sau câu an ủi cha lém lỉnh như người lớn, giọng trong điện thoại của đứa con gái giữa chừng chợt xen lẫn tạp âm, tiếng được tiếng mất. Hanada vén màn cửa sổ, che bàn tay ngang tầm mắt, nhìn về dãy nhà chọc trời phía Shintoshin, khu trung tâm mới của thành phố, đang in lên mảng nắng cuối ngày.

- Nói gì, con, bố nghe không rõ !

- ........Thì đó, con muốn học trường cấp ba trên Tokyo. Mẹ với anh, hai người ngăn thì ngăn, con cũng lên với bố, bố à. Nói với họ hộ con nghe, bố !

- Nói hộ với không gì hử. Có bao giờ tao được dịp chuyện trò với mẹ mày đâu. Lúc nào cũng mỗi mình mầy chịu điện thoại tao thôi. Thế mẹ đâu, đưa máy bố nói dăm câu đi !

- Mẹ không có nhà, tới tối may ra. Tối bố gọi lại nhé ?

- Sao được hở con. Maa-chan (1) , con hiểu không ? Làm thế bố vô phép với " ông ta ".

Một sự yên lặng nặng nề kéo dài trong giây lát. Suốt mấy tháng nay, giữa người cha và đứa con gái, sự trao đổi qua điện thoại chỉ có từng ấy nội dung. Từ ngày ly dị và giao con cái cho vợ nuôi đến nay đã tròn năm năm , thì người vợ cũ ấy có sống cách nào đi nữa, Hanada thấy mình chẳng có quyền can thiệp. Y đâu ngờ đứa con gái ngày mình bỏ đi hãy còn tiểu học nay đủ đến tuổi để kéo y vào mấy chuyện rối rắm thế này.

- " Ông ta " cái gì, ai thèm biết lão đó. Bố ơi, đừng gửi tiền về nữa, bố nha ! Bộ khùng sao, hở bố !

- Chuyện gửi tiền về là bố hứa với mẹ, can gì con nói hành ông ấy. Dầu sao, phải bàn thêm nghe con. Tết này, anh mày về nhà cơ mà?

- Bố lúc nào cũng nói được bấy nhiêu. Thôi nghe, bố!

Điện thoại bỗng cúp ngang.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 5

Đứa con trai lớn lên học đại học ở Tokyo từ lâu đã không thèm lui tới. Ngoài việc nó chia một căn gác ở Setagaya với cậu bạn đồng hương, Hanada chả biết gì thêm. Thằng anh cũng như mẹ nó chắc chắn không thể tán đồng ý nghĩ quá quắt của con em.

- " Bộ khùng sao ! " Thế hả, con ?...................

Hanada vừa lẩm bẩm, vừa tắt diện thoại cầm tay.

Ngoài mười vạn yen đều đặn mỗi tháng, giữa hè hoặc cuối năm, Hanada bao giờ cũng rán châm thêm chút ít, nói dối gia đình là tiền thưởng của hãng. Gửi về như vậy, không nhất thiết vì kẹt lời hứa miệng với người vợ cũ, cũng không để chuộc lỗi lầm xưa. Lý do duy nhất là mỗi lần dưới tỉnh nhận được tiền, thế nào y cũng có dịp nghe giọng nói của con gái qua điện thoại. Giọng nói ấy là sợi dây gắn bó Hanada với quê hương miền bắc của y. Lúc sau này, từ khi cảm thấy sức khoẻ sa sút, giọng nói đó còn là cái phao giúp y khỏi buông trôi sự sống.

Hanada gập xong cái giường sắt rẻ tiền hay kẽo cà kẽo kẹt, thắng bộ đồ lớn vào cho đúng cái " nhãn " viên chức ngân hàng tự phong. Tém mấy đường lược che những chỗ tóc bạc đã bắt đầu đập vào mắt người ta, y tắt đèn phòng rồi lửng thửng ra Kabuki-cho, bước giữa vùng ánh điện muôn màu của cái xóm ăn chơi này như thể lao mình vào ngọn lửa địa ngục.

Căn phòng đơn trong chung cư Hanada mướn suốt năm năm nay lúc nào cũng thoảng cái không khí của lạnh lẽo, tạm bợ. Chẳng có lý do gì đặc biệt. Chỗ này chẳng qua là nơi dừng chân từ khi Hanada làm sập hãng của mình rồi dắt người tình, một nữ nhân viên, bỏ xứ lên Tokyo. Chỉ một tháng sau, nàng ta đã chịu hết nổi, cuốn gói về lại Sapporo. Căn phòng biến thành chỗ ẩn náu cho người đàn ông trung niên, cô độc, đã đánh mất tất cả. Không có ma nào đến thăm nên chỗ trú chân của một gã bình sinh chuộng sạch sẽ và tính khí tẻ nhạt này chẳng có gì để tạo ra bừa bãi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 6

Nhưng khi dợm bước khỏi phòng, Hanada bỗng làm rơi tung toé khỏi mặt bàn khung trò chơi lắp hình ráp đã gần xong. Y không nén được tiếng thở dài.

*

Bên cửa tiệm hăm-bác-gơ nhìn ra đại lộ Okubo, bọn con gái ngoại quốc trên đường đi làm đang xếp thành hàng dài.

- Hana-san, Hana-san ! (anh Hana, anh Hana ơi)

Một em da trắng đẫy đà vừa gặm bánh mì nhét hăm-bác-gơ vừa chạy theo Hanada gọi tíu tít, nghe giọng mà đoán, có lẽ người Nga. Hình như cô nàng muốn cảm ơn Hanada đã rước mối hộ, nhưng Hanada không tài nào nhớ nổi từng vụ một.

Trên mặt đường này, mỗi buổi tối có hàng trăm người bắt mối, kéo khách vào các tiệm nhậu. Tuy nhiên, nếu khách là người không chịu theo bài bản phiền phức, họ phải hướng dẩn khách điều đình thẳng với chị em đứng đường bên kia bờ kênh, nơi có trụ sở của Sở Giới Thiệu Việc Làm. Xóm Shinjuku này không biết có mấy nghìn ả như vậy, chúng nó hết đến lại đi thành thử Hanada chả phân biệt được ai với ai.

- Cảm ơn, anh Hana ! Có cái này nè !

Hanada lật đật đẩy trả lại tờ giấy bạc năm nghìn về phía cô gái có lòng thơm thảo và nở một nụ cười hệt như viên chức ngân hàng thứ thiệt:

- Không. Cảm ơn. Tôi có phải dân yakuza (2) đâu, em !

Khẽ vỗ vai cô gái, Hanada rẽ qua con đường nhỏ, cất bước vào vùng ánh sáng náo nhiệt của khu Kabuki-cho.

Đã qua cái tuổi bốn lăm, học lực không hơn mà chẳng kém ai, cắc cớ gì lại đưa chân vào cái nghề này. Nhiều khi trên con đường đến " sở làm " tức đại lộ Okubo, câu hỏi đó cứ ám ảnh trong trí y.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 7

Nhưng từ giờ là lúc phải suy nghĩ cho chín đây. Kiếm công chuyện gì đàng hoàng rồi mướn căn hộ hai buồng ở ngoại ô, rước con gái về. Nếu bỏ lỡ cơ hội này, Hanada có cảm tưởng mình sẽ bị chôn vùi mãi mãi trong thế giới của hàng vạn bóng nê-ông. Thế rồi, tuy hãy chỉ là đồ chừng, một khi con y đã lên đây học cấp ba thì mẹ nó dưới tỉnh thế nào cũng bước thêm bước nữa. Nội ba tháng sau thôi, chẳng còn ai còn muốn nhận tiền chu cấp của y và liên hệ gia đình rồi sẽ bị cắt đứt vĩnh viễn.

Hanada hết nói cười đùa nghịch với lũ con gái đã bắt đầu tụ tập trên con đường đầy hô-ten nhà chứa, lại bắt chuyện với bọn du côn trấn đóng khu vực. Khi băng qua con lộ có Sở Giới Thiệu Việc Làm, y bắt đầu đi vào khoảng không gian diện tích mỗi một cây số vuông mà đã tập trung đến tám nghìn quán nhậu chật ních người, cái xóm ăn chơi vĩ đại nhất thế giới.

Nơi đây là chỗ Hanada "làm việc" suốt năm năm qua. Trên cái quãng trường vừa náo nhiệt và trơ trẽn này, y đã để mặc giòng đời lôi cuốn mình đi.

Một thằng bắt mối non choẹt từ tiệm xì-phé điện tử bước ra. Hanada làm bộ không thấy, vượt qua mặt thì nó đã đuổi theo bén gót, đi tới ngang tầm :

- Chào anh Hana !

Giỏi thay cho oắt con còn mặt dày mày dạn bày đặt chào với hỏi. Số là mấy hôm trước, vào lúc hừng sáng, chính thằng khỉ này đã mời Hanada đi uống. Ngồi trước quầy nói với nhau dăm chuyện bàn dân thiên hạ xong, nó chợt lỉnh đâu mất. Đang tưởng mình gặp trúng đứa ăn uống chạc thôi thì Hanada đã cảm thấy đầu óc nặng trĩu và buồn ngủ. Y nhanh trí chạy thẳng vào nhà vệ sinh và dấu ngay chút tiền còm dưới bí tất. Khi tỉnh lại, y đã thấy mình đang nằm khềnh sau con hẻm giữa trời mưa.

- Nầy chú em, làm ăn có khó khăn đến đâu cũng đừng muối mặt cướp giật cả đồng bọn nhé.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 8

- Chết, anh hai nói chuyện gì kỳ dzậy.

- Anh sơ ý là lỗi tại anh. Nhưng chú mầy không chôm được đồng nào nên anh cũng đánh chữ đại xá cho chú. Anh đâu đến nỗi ăn phải mấy đòn sơ đẳng của chú để bị đá lăn ra đường đâu.

Nói xong ngoảnh lại thì thằng ma-cô tập sự đã chạy qua bên kia đại lộ, đang đeo sát một người khách. "Khứa" này có vẻ như nhân viên hãng nào dưới tỉnh lên đây công chuyện, tướng còn hoi phèn. Đeo xắc hành lý lang thang giữa giờ này là loại khách dễ xỏ mũi như chơi. Dắt "khứa" vào mấy cái "ba trấn lột", loại hay quảng cáo "chỉ cần đặt năm nghìn tiền cọc", thảy một liều thuốc ngủ vào cốc rượu, là "khứa" sẽ thành bị thịt ngoài hẻm ngay.

Hanada chợt ngước mắt lên khung trời đêm chật chội mà y chẳng có mấy dịp nhìn, suy nghĩ về "chương trình làm việc" của ngày hôm ấy.

*

Cao Hùng (Kao Shiung), do một "má" người Đài Loan kinh doanh, được coi như quán "đứng đắn". "Đứng đắn" có nghĩa là không bỏ thuốc ngủ vào rượu cho khách, không có mấy thằng đứng "ba" vũ trang bằng dùi nhọn chọc nước đá, chứ không phải tử tế như loại "ba" đơn thuần để uống rượu và hát karaoke. Nhưng dù sao, quán nào mở ra trên hai năm cùng một chỗ mà không thay bảng hiệu, không đổi chủ, có thể xem như có "lương tâm nghề nghiệp" rồi.

Bước xuống cầu thang hẹp, đẩy cửa vào tiệm, Hanada đã thấy vòng quanh phòng có đến hơn hai mươi em chiêu đãi viên ngoại quốc ngồi như dán cả vào tường. Trời mới sập tối nên chưa thấy bóng khách.

Hanada vừa đến ngồi bên quầy thì " má" đã chìa phong bì phần tiền thù lao ngày hôm trước, phân bua :

- Tại cái ông khách đầu tiên, tới mà không uống, bỏ về liền. Xin lỗi nhen.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 9

Sự thể ra sao, chỉ có trời biết, nhưng thôi, sá gì mấy chuyện nhỏ nhặt đó mà đòi thêm.

Luật chơi ở đây là hễ rước được khách thì người rước ăn huê hồng bằng phân nửa tiền rượu khách chi. Ở tiệm "đứng đắn" loại Cao Hùng thì có gửi chai (3) chăng nữa, một người khách trung bình bỏ ra khoảng hai vạn Yen. Tiền khách chi không phải là tiền rượu, nó chỉ là thứ lệ phí đóng cho tiệm để được phép lúc mới ngà ngà đã có thể kéo một em ưng ý ra đường. Muốn cô gái ở qua đêm phải mất bốn vạn Yen, trong đó năm nghìn thuộc về tiệm, đương sự lãnh vạn rưỡi, còn hai vạn kia phải đóng cho băng đảng trên thực tế quản lý cô ả.

Tuy nhiên cách phân chia lợi tức rõ ràng này chỉ đặt ra cho những tiệm nào thuộc loại ngon lành.

-Mấy con này sao lạ hoắc. Hay tôi nhìn lầm?

Hanada ngó quanh tiệm rồi đặt câu hỏi. Đã đành những cô nào không hợp nhãn khách phải theo chỉ thị của băng đảng đổi qua chỗ khác nên ít có ai trụ lại được lâu một chổ nhưng sao hôm nay, rặt những mặt lạ.

- Vài bữa nữa, có tin " cớm " sẽ " bố ráp" nên mấy con hết hạn cư-trú phải chạy về trên Ibaraki cả.

- À, ra thế ! Tin tức của ông Dobashi kinh khủng thật. Người đâu mà như thánh sống, biết trước mọi chuyện.

- Tại Dobashi không phải dân Yakuza. Ông quen lớn với cảnh sát đấy.

Quen lớn thế nào không biết nhưng nhiều tiếng đồn cho rằng Dobashi, hiện làm nghề giới thiệu công việc chui, hay "thầu người" cũng thế, trước đây đã từng là nhân viên công lực.

- A, a...nhớ ra rồi. Chú Hana ơi, ông Dobashi có chuyện muốn bàn với chú đó. Ổng đang đợi trên gác. Đừng bày đặt chuyện tào lao nghe mấy cha nội, cho tôi đỡ khổ.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 10

"Má" lo lắng nắm khuỷu tay Hanada giật lia. Chuyện Dobashi muốn bàn, "má" đã đoán già đoán non. Chắc lại có tiệm sắp mở muốn nhờ Hanada đem khách đến. Đối với những quán chỉ sống bám người rước khách, bắt mối là cả một vấn đề sinh tử.

- Lo gì "má". Có mở tiệm mới giữa thời buổi khó khăn bây giờ chắc "thọ" không quá ba tháng.

- Nhưng nếu chú Hana bỏ đi thì tui cũng dẹp tiệm luôn.

Có bóng một người khách được dắt mối giới thiệu tới vừa bước vào cửa. "Má" ra bộ đon đả, xồ tới. Làm nghề này, tuy không mất xu teng trả lương mấy cô chiêu đãi, nhưng khổ cái tiền nhà rất cao. Hết giật chỗ này đến vay chỗ khác còn phải dính vào nợ chui. Số tiệm mỗi tháng có sức trả nợ sòng phẳng không được bao nhiêu. Thế là đành mượn thêm mấy món nặng lãi.

Khổ nỗi, cái đon đả thiếu tự nhiên của má chỉ làm người khách mới vào đâm ra lúng túng.

*

Dobashi ngồi ở tầng trệt quán nước trước mặt con đường có cơ quan hành chánh quận, mắt dán vào cuốn sổ , tay bấm máy tính con.

Cặp kính râm ngày đêm đeo không rời và bộ vó chững chạc chỉ tạo cho hắn một vẻ khiếp đảm. Tuy vậy, dáng dấp đó coi bộ ăn khớp với cung cách nghiêm nghị cần thiết mà anh chàng nhà thầu sức lao động của đám ngoại quốc bỏ xứ lang bạt kiếm ăn cần phải có.

- Nghe nói bác Dobashi dạo này bận lắm? Mấy em út phải dọn lên mãi Ibaraki cơ à ?

Dobashi giật mình nhìn lên và tháo cặp kính ra.

- Con mụ Cao Hùng chết tiệt, miệng không kéo da non. Chẳng có đứa nào lên Ibaraki cả, Kofu thôi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 11

Hanada trong bụng chắc mẫm là Ibaraki rồi, chớ chẳng chạy vào đâu.

- Muốn bàn gì với em đó, bác. Có tiệm nào sắp mở ?

- Không, không phải.

Vừa nói Dobashi vừa đảo mắt nhìn quanh tiệm. Hắn gọi cho Hanada cà-phê và xăng-uýt.

- Thôi nhé, chuyện rắc rối đừng để dính tới em nghe. Như bữa trước lãnh giữ dùm bác mấy thứ đồ quỷ. Từ rày cho em xin đi !

- Không phải thứ đó nữa đâu mà !

Dobashi khều Hanada ghé mặt sát lại giữa bàn, châm cho y điếu thuốc.

- Ừ, kỳ này không phải giữ giùm nhưng cùng như giữ giùm. Hana, chú có nói tôi biết chú bị "hỏng một lần" rồi phải không. Thế thủ tục ly dị đã xong xuôi chưa ?

- Bây giờ em "cu-ky" một trăm phần trăm .... Nầy, đừng ỡm ờ, mà em độc thân thì đã sao?

- Vậy là " xịn " rồi . Chú lấy vợ cho tôi nhờ, chớ sao?

Hanada giật mình, phun bắn cả cà-phê.

- Đừng đùa, bác Dobashi. Tại sao em lại phải.........

- Có gì đâu, hình thức thôi ! Làm bộ cưới giùm " moả " con Xẩm. Năm trăm ngàn thù lao, chịu không ? Ở cái tuổi chú mày thì còn sợ cóc gì miệng thế gian. Thân hư đã hư mấy kiếp rồi. Này, được không, nói đi !

Giọng điệu Dobashi thúc bách. Giữa cái quán này, nói chuyện xì ke ma túy hay súng đạn cũng không làm ai ngạc nhiên, nhưng rù quến kiểu này thì bụi đời như Hanada cũng chạy mặt.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 12

- Không ổn đâu. Em tuy chẳng trẻ trung lại lỡ cỡ một lần rồi nhưng bề gì cũng có con trai sắp sửa đi làm, con gái đến tuổi lấy chồng, chứ bác.

Làm như chê Hanada ăn nói kiểu thế gian thường tình, Dobashi banh miệng cười.

- Được rồi, như thế này đi ! Không lấy giả, cứ sống chung thẳng thừng với nhau. Chế độ ưu đãi đặc biệt đó nghe, cha nội.

- Thôi bác ơi. Thế còn tệ hơn !

- Thật sao? Nhỏ này ngon lành lắm nghe, chú ! Nấu cơm giặt đồ được hết. Chuyện xong xả rồi cũng không thèm mè nheo chú đâu. Lấy nó còn sướng một chục lần hơn là chạy theo đuôi mấy chị em dưới xóm.

Khéo ăn khéo nói quá đi, Hanada khen thầm. Đến cái tuổi không còn thèm đàn bà chỉ vì xác thịt, nên nội hình ảnh người nội trợ mặc tấm tạp-dề đứng làm cơm trong bếp cũng đủ làm rung động trái tim y.

Tiếng la lối ồn ào của bọn trẻ vọng vào tiệm, một gã ăn mặt loè loẹt ra dáng đầu nậu bước vào. Mới thoáng thấy dáng hắn ta, Dobashi đã chậc lưỡi :

- Làm ăn trên đe dưới búa như kiểu xóm này khó sống quá. Không cách chi phất nổi. Vụ này là sinh mạng "moa" đó. " Toa " rán nghĩ giúp "moa" nghe.

Nắm tờ giấy tính tiền nước, Dobashi đứng dậy, tiến đến chỗ ông anh khi nãy ngang ngược bước vào đang ngồi, chào hỏi xong rồi mới ra cửa và mất hút vào đường phố đêm.

Bên ngoài cửa sổ, bọn dắt mối bắt đầu tụ tập. Quanh vùng này là cứ điểm làm ăn của chúng nó.

Không phải Hanada không hiểu tình thế cấp bách của Dobashi. Từ hồi có chiến dịch tảo thanh tới nay, bọn con gái đứa nào đứng đường cũng bị xét hỏi nghề nghiệp hết.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 13

Nhân viên công lực có thể xuất kỳ bất ý lục soát các tiệm. Ngay cả trường hợp tiệm không bị tình nghi dính vào cái tội rối rắm nhất là chứa gái mãi dâm, nhân viên sở nhập cảnh và cảnh sát vẫn có lý do khác để đổ xô vào tóm cổ bọn con gái đem đi.

Trong cái khu phố đầy những mắc míu cỡ này, bắt buộc phải đối phó với bao nhiêu tổ chức khác nhau, cái nghề " thầu người " của Dobashi thật là một nghề dễ nguy hiểm đến tính mạng.

Chịu đủ ba món trời hành là tảo thanh cảnh sát, kinh tế suy thoái và nỗi lo mắc phải Sida, hàng họ từ Nô-en bước qua năm mới cứ ế ẩm dài dài, không biết lối nào ra.

*

Thêm một lần nữa, ngày cuối năm lại đến như mọi năm. Mai là mồng một rồi mà sao ngày giờ cứ thủng thỉnh đi qua làm cho Hanada nghĩ mình chẳng cần gì phải tất tả.

Cùng lúc, y lại có cảm tưởng trái ngược mỗi mình mình là người bị bỏ lại bên bờ một giòng thác chảy xiết, nên vừa tỉnh giấc, Hanada đã vội ra khỏi nhà.

Hết khu phố Ichibangai, qua con đường Yasukuni là vùng Shinjuku của mọi ngày mà y đã nằm lòng. Hanada bước đi như thể đang cố tình xô đẩy mình vào cái thế giới hưởng lạc quen thuộc. Y ghé tiệm sách đầu đường mua quyển truyện đang ăn khách mà chắc chắn sẽ không lật lấy một trang, lửng thửng về hướng cửa hàng bách hóa.

Chiều cuối năm, cửa hàng chẳng có mống nào.Trước mắt, không thấy có món gì cần, nhưng chợt nhớ, y mới mua chút quà cho đứa con gái với thằng con trai.

Cho thằng Yoshikazu chiếc đồng hồ đeo tay nhôm ti-tan, con nhỏ Masae sợi dây chuyền bằng bạc hiệu Tiffany's. Về nhà rồi sẽ tạt qua Bưu Điện, gửi cho tụi nó, ba hôm chắc tới.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 14

Còn vợ, hay đúng hơn người đàn bà ngày xưa có thời là vợ mình, thì, nghĩ đi nghĩ lại, thôi kệ. Có mua gì gửi cho, có khi bả lại không vui.

Xách cái bọc giấy ra khỏi tiệm mới sực nhớ hôm nay Bưu Điện đóng cửa. Ngày cuối năm mà lại. Mới dợm trở lại căn buồng, viết bức thư cho hợp tình hợp cảnh để kèm theo món quà, rồi nhờ hãng tư nhân chuyển hàng tận nhà gửi đi vậy.

Lúc đang đợi đèn xanh trên đường Yasukuni, Hanada tự dưng cảm thấy ngao ngán. Từ cái xóm nhộn nhịp không khí Tết nhất kia, chỉ cần băng qua con đường là đã đi vào một khu vực tẻ nhạt, suốt năm không có lấy chút hội hè để thay đổi không khí, không cả dấu hiệu mùa đến mùa đi.

Hanada bước vào quán cà-phê đầu ngã tư không vì lý do gì đặc biệt, cùng lắm là do chút tình cảm quyến luyến với nơi đó. Độ rày, cốc cà-phê bán hai trăm Yen ở mấy chỗ khác đang được yêu chuộng, rẻ mà ngon gấp mấy cốc giá một nghìn Yen trong mấy tiệm khu Kabuki-cho này.

Lơ đãng nhìn đám đông chen lấn, bỗng nhiên y để ý đến bóng một thiếu nữ trạc tuổi con gái mình. Nghe nói con nhỏ được chọn vào đội bóng rổ tranh giải toàn vùng thì chắc nó phải cao to giống mẹ chứ đâu giống mình. Đọc thư nhận được, coi bộ thành tích học tập cũng thuộc loại khá. Từ lúc chia tay tới nay, mỗi đầu tháng nó gửi đều đặn một lá, nhìn tuồng chữ thấy nó viết ngày càng đẹp ra.

Không biết sao Hanada buồn buồn. Con gái y thích chống đối mẹ. Và trong lòng nó, lúc nào hình ảnh cái ông bố xa cách năm năm nay cùng được xem như thần tượng. Mình không đáp lại nguyện vọng của con thì có khác gì thần thánh từ chối lời cầu xin của tín đồ......Nghĩ đến đấy, bất chợt trong đám đông đứng đợi đèn xanh, Hanada bỗng khám phá ra một sự tình cờ đến lạ lùng. Thằng con trai y ! Khoác trên vai cái áo da, thằng nhỏ đang ngồi trên thành rào sắt bên đường cùng đám bạn bè có vẻ sinh viên. Tướng nó nhỏ con, mắt ngay mũi thẳng, chẳng khác năm năm trước bao nhiêu.

Hanada vội phóng ra đường:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 15

- Yotchan, Yotchan (1) ơi !

Miệng cười toe, Hanada đưa tay vẫy vẫy. Thằng con trai hơi kinh ngạc trong giây khắc, bỗng nhấc mông xoay người định biến. Hanada đuổi sát theo giữa đoàn người xuôi ngược, rốt cuộc chộp được tay nó.

- Sao mày , Tết không về nhà hở ?

- Về chớ. Tại chưa lấy được vé xe !

- Này, may quá. Bố định gửi món quà này cho Maa-chan với mày mà Bưu Điện nó lại....

Không thèm nghe hết câu, thằng con giật tay hắn ra và lẫn vào trong giòng người đông nghịt. Đứa bạn tác người cao cao quay lại phía nó với điệu bộ như dò hỏi :

( - Cha đó , ông già mầy hả?

( - Già gì mày, chả nhìn lộn tao với ai chắc.)

Hanada có cảm tưởng nghe những lời xì xào như vậy giữa hai đứa.

*

Tối hôm đó, Hanada lại đi làm.

Ngày cuối năm thuận tiện cho mưu đồ của bọn bất lương. Ngân hàng đóng cửa nên thiên hạ ai cũng thủ đầy nhóc tiền mặt trong túi mà không mảy may đề phòng. Đó là một tối dễ dàng nhất trong năm để tìm ra mấy "khứa" chưa hiểu Kabuki-cho là chốn thế nào, dụ họ vào mấy cái "ba" mà vặt lông.

Trong khi chờ đợi khách bị làm thịt, phải đánh một vòng chào hỏi mấy tiệm quen thân nên sau khi ba hoa chích chòe mỗi nơi xong, Hanada mới tạt vào Cao Hùng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 16

Tiệm trông nhộn nhịp ra phết. Mới ngồi xuống bên quầy, đã thấy " má " với vẻ mặt khó đăm đăm, đẩy ly uýt-ki pha đá về hướng y.

- Sao kìa ! Làm ăn coi bộ phát tài mà !

- Khách gì mấy ông nội nầy. Dân Showa-kai (4) không hè.

Rồi bực bội lẩm bẩm mấy câu tiếng Tàu mà y không hiểu ý nghĩa. Đại khái như là năm hết Tết đến mà lại bị uống rượu chạc, chán bỏ xừ.

- " Má " không biết điều gì hết. Mỗi năm một lần nhằm nhò gì. Cũng phải biết đền ơn trả nghĩa chứ.

- Không, không được đâu. Làm ăn kiểu Nhựt Bổn, lúc nào cũng nhiêu đó.

"Má" vừa dợm nói gì thêm thì đã thấy Dobashi ngồi xuống cái ghế đẩu cao bên cạnh.

-Thiệt há "má". Cuối năm mà nhè ăn chực uống chực, không khá hả " má ".

-Dạ, em đâu dám.

Dobashi khều "má" đưa mặt lại sát mình, gấp mấy tờ giấy một vạn Yen nhét vào chỗ ngực áo hở hang.

- Ấy chết. Em lấy có sao không?

Má bỗng đổi giận làm lành, nhìn về phía khách cười tươi rói rồi chui xuống thành quầy bước ra, cất giọng the thé, nắm tay mời khách hát karaoke với mình.

Bọn yakuza cười hô hố, hết đứa này đến đứa khác dắt các cô gái chúng vừa ý ra khỏi tiệm.

- Coi kìa, bọn nó chuồn hết rồi, đừng xù xụ nữa. Để họ kiếm chác chút rượu cho nó xong đi. Mà này, Hana-san?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 17

Dobashi nghiêng đầu sát tai Hanada, thì thầm.

- Chuyện nói với chú hôm trước, chú tính giúp tôi chưa?

Tưởng đã quên rồi nhưng nghe nhắc lại việc ấy, Hanada cũng thấy lòng nao nao.

- Dobashi-san, bác thấy em có ra hồn người không?

Để tránh phải trả lời ngay, Dobashi nâng cốc ực một hơi.

- Sao vậy, tự dưng .......

- Tình thật, bữa nay em đụng đầu thằng con ngoài đường, bị nó khinh tái.

Dobashi làm bộ ra chiều suy nghĩ, rồi cả cười:

- A ha... té ra có nhiêu đó mà chú đã làm cái bản mặt tẻ ngoét. Tụi lỏi, đứa nào cũng như đứa đó. Không mắc mớ đến bề ngoài của chú mày gì ráo. Con nít tuổi đó ở "mô" nó cũng " rưa rứa".

- Thật vậy sao bác.

- Dĩ nhiên. Nghe này: chú lo cho con trai sắp đi làm, con gái sắp lấy chồng nhưng đối với chúng, chú chỉ gây thêm phiền phức thôi.

- Chứ bác Dobashi có cháu nào không ?

Dobashi chỉ cười hừm hừm bằng mủi.

- Thôi, cứ mần thử con nhỏ rồi " toa " cho " moa " biết. Thế nào "toa" cũng mết nó cho coi.

Vừa nói, Dobashi vừa ngoảnh lại nhìn trong quán:

- Ủa, mới thấy nó đây mà, sao có ai rước rồi hả ?

- Cái gì, cổ là gái Cao Hùng à ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 18

- Không, bình thường thì ở đằng tiệm Sylvia kia. Nhỏ mới từ Asakasa chuyển xuống sau này thôi. Hana-san không biết nhỏ đâu ! Chắc tại cứ chạng vạng là đã có khách bao nguyên đêm rồi.

Lúc đó, cặp mắt Hanada và Dobashi bỗng giao nhau. Dobashi như thầm nói tuy hắn định dàn xếp một cuộc hôn nhân trá hình nhưng muốn hứa với Hanada rằng người này là một cô gái xứng đáng được bảo bọc.

- Sống là phải biết dứt khoát chọn lựa, chú ơi. Dứt khoát ! Nếu là người biết thương vợ thương con thì ai đi sống lây lất như kiểu tụi mình. Có phải không, Hana-san?

Dobashi nốc một hơi cạn sạch ly uýt-ki xong mới thốt ra câu nói trên như để hả hết chất độc trong người.

*

Khi Hanada đi thu hết phần chia lời từ mấy tiệm nhậu "trấn lột" rồi trở về tới khu chung cư ở Okubo thì cũng sắp đến giao thừa.

Thực tình, y có đầu óc đâu mà vẽ chuyện năm mới năm me. Bây giờ vô buồng tắm, ngâm mình trong bồn nước nóng, ra tợp ngụm rượu ướp lạnh rồi mở ti-vi xem cho có tiếng người ồn ào là đủ để đón chào năm mới rồi.

Nghĩ thế, Hanada vừa ca ư ử, vừa leo lên bậc thang xỉn màu bồ hóng. Khi vòng qua hành lang phía ngoài phòng, chân y bỗng khựng lại. Có bóng ai đang ngồi xệp trước cửa phòng y. Đèn nê-ông của khu hô-ten hắt những mảng màu lên mái tóc xõa xuống ngang đầu gối.

- Ai đó ?

Người đàn bà ngước mặt lên, đưa tay sửa lại cổ áo khoác mỏng dính cho ngay ngắn, đứng dậy.

- Chào Hana-san !

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 19

Cô vụng về cất tiếng hỏi thăm.

- Sao, gấp gáp gì dữ vậy. Bộ tối nay không đi khách à?

Cơ sự xảy ra đột ngột nên những điều Hanada định nói thêm như bị ngáng trong họng. Phía bên kia chẳng thấy trả lời, có lẽ cô nàng không hiểu ý nghĩa câu hỏi.

- Hana ! anh Hana !

Cô gái tay ôm một gói lớn, tiến về phía y. Như muốn phân trần điều chi, cô chìa cho Hanada xem một mảnh giấy con trên đó nguệch ngoạc hình vẽ chỉ dẫn đường đến nhà y.

-Không bữa nay thì bữa khác đến cũng được mà !

Suy nghĩ một chút, cô gái nói như để giải đáp sự ngờ vực của Hanada:

- Khách, nó về rồi.

Nói cho cùng, làm thân yakuza chăng nữa, gặp dịp Tết nhất cũng phải biết về với gia đình. Chắc cô gái này làm xong chuyện cái vèo để trở lại tiệm thì vừa vặn được Dobashi chỉ thị phải đến đây.

- Trăm sự nhờ anh nhé, anh Hana !

Có khi cả Dobashi cũng không rành tên thật của Hanada nên cô ấy mới bắt chước gọi theo gọn lỏn như thế. Trên mảnh giấy chỉ viết theo cách đọc ba âm Ha-Na-san. Khi thấy người con gái vừa nói vừa kính cẩn cúi rạp người xuống, y không khỏi cảm thấy có gì bất ổn. Hôn nhân đâu phải trò hề. Cho dầu giả mạo, một nghi lễ quan trọng trong đời người ta không thể bắt đầu bằng cung cách này. Thật kỳ kỳ sao sao ấy.

Bậm môi để khỏi bật cười, Hanada tra chìa vào ổ khóa, mở cửa phòng.

- Thôi, vào đi vậy. Chưa biết tính sao nhưng kể từ hôm nay, cô cứ tạm xem nơi đây như nhà cô nhé. Ừ nhỉ, phải đánh thêm cái "spare key" nữa.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 20

Chẳng thấy người con gái trả lời. Hầu như cô nàng không thông tiếng Nhật lắm. Lại lôi thôi đây, Hanada nghĩ trong bụng. Những cô Phi Luật Tân hay Đài Loan không biết tiếng còn võ vẽ dăm chữ Anh để truyền đạt ý nghĩ. Dân Trung Quốc, ít ai học qua tiếng Anh, nên khi Hanada dùng chữ "spare key" để chỉ cái chìa khóa đúp phải đánh thêm cho cô, cô ta không nắm được ý .

- Lạnh phải không? Chờ tôi lâu quá hử?

Nói mà như để một mình mình hiểu, Hanada vói tay bật đèn. Quay lại nhìn cô gái vẫn đứng lặng ở ngạch cửa, Hanada khẽ rùng mình. Mới thoáng thôi, y đã hiểu ngay cô ta là cái mối lợi lớn nhất trong đám gái mà chủ chứa không bao giờ chịu để đánh mất.

Bỗng dưng, Hanada đâm ra bối rối, vội hướng cái nhìn của mình về phía lò sưởi.

- Cứ tự nhiên nhé. Tôi sửa soạn nước tắm đây.

Người con gái níu tay Hanada khi anh ta dợm bước vào phòng tắm. Cô làm động tác như muốn nói thôi anh để em làm cho. Không những chẳng cởi áo khoác ngoài , lại chẳng sợ ướt tất, cô bắt đầu cọ bồn tắm.

Hanada bật Ti-Vi, vét mấy món nhắm bày lên bàn. Coi bộ nước đã nóng nhưng chưa đầy bồn nên cô nàng không chịu ra. Cô ta loay hoay trông giống một con búp bê trông thật xinh xẻo nhưng chẳng có chút thần hồn.

- Vô ngâm mình trước đi, đừng làm khách mà, cô hai. Please, tắm trước đi.

Người con gái lúc lắc cái đầu ra vẻ không chịu. Cô ta mang túi giấy của mình vẫn nằm ngạch cửa đặt vào một góc phòng, lấy áo khoác phủ lên như ngượng ngùng về mớ hành lý nghèo nàn.

- Uống tí nhé !

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 21

Cô gái gật đầu cười. Khi tia nhìn của Hanada bắt gặp cái nụ cười đang ghé sát mặt mình, y thiếu điều bật ngửa vì cô gái nom xinh không chịu được.

- Uýt-ki ?

Cô gái đưa tay chỉ bình rượu nhỏ như muốn bảo cô thích sake hơn.

Thôi thì trước tiên phải nâng cốc mừng, mà mừng cái giống gì không biết nữa, xong, Hanada mới nhớ ra, lấy tập giấy nháp và cây bút liên tử bày lên bàn. Đối với cô Tàu không thông tiếng Nhật, chỉ còn mỗi lá bài ...bút đàm.

Đặt bút viết tên mình bằng ba chữ Hán, Hoa-Điền Chương (Hanada Akira) xong, hắn đã thấy cô gái nhìn theo nét chữ lẩm nhẩm:

- Howa Dien Chan

- Ha-na-da. Hanada Akira. Biết đọc không?

- Ha-na-da?

Người con gái ra vẻ vui mừng, giật lấy cây bút từ tay Hanada, viết mấy chữ Hán trông thật mềm mại liền bên cạnh.

- Lý Linh Minh (Li Lin Min)

Cô ta đọc tên mình với những âm thanh thánh thót như tiếng chuông rung. Bất đồ, cô lấy bút xóa lia lịa chữ Lý. Hanada vội chụp tay cô, chận lại.

- Khoan mà ! Tôi đã hứa hẹn gì đâu, cô !

Cô ta khéo léo vuột khỏi bàn tay của Hanada, dí bút viết Hoa Điền thay vào chỗ chữ Lý vừa mới xoá. Nghiêm trang đặt cây bút bên cạnh, cô ta nhìn về phía Hanada, chắp hai tay, bập bẹ :

- Hanada Lin Min. Hanada-san ơi, Hanada Lin Min được không ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 22

Không biết cô đang cầu khẩn hay van lơn nhưng khi tia mắt hắn gặp cái nhìn dìu dịu mà chân thành của cô gái, lồng ngực Hanada chợt nóng ran lên. Y không còn nghĩ xa gần về thân thế của cô gái nữa. Đi tìm cái không khí gia đình ư ?... Nó chỉ là thế này thôi !

- Hanada Lin Min. Hanada-san ơi, Hanada Lin Min nhé ?

- Không được ! Phải đọc Hanada Lei Mei (5) chứ !

Nghe thế, Lin Min chợt thở hắt ra như để vợi hết bao lo lắng chứa chất bấy lâu trong lòng.

- Hanada Lei Mei. Tsui (6). Cảm ơn Hanada-san !

Hanada viết con số 46 vào bên cạnh tên mình và cất tiếng hỏi:

- Cô bao nhiêu? Mấy tuổi hử ?

Lin Min ghi lên giấy 27.

Đến đây, ít nhất Hanada đã mường tượng được cô gái này người Trung Quốc, 27 tuổi, tên là Lin Min. Có tí rượu vào, cô nàng liếng thoắng hẳn. Như muốn thông tin thêm về mình, cô ta ghi chi tiết vào tập giấy nháp bằng những chữ Hán giản thể hơi khó hiểu. Có thể cô muốn giải thích hồi nhỏ mình ra sao và hoàn cảnh nào đã đưa đẩy mình đến đây. Tuy nhiên, Hanada lại coi những chuyện đó không phải có gì đáng nói nếu không bảo là y không muốn để ý tới. Ngay khi hai bên hiểu về quá khứ của nhau đến mức nào đi nữa, có lẽ họ chỉ nắm được cái mặt ngoài giả dối mà thôi.

Dầu sao, Hanada tiếp tục đưa mắt nhìn những điều Lin Min ghi trong cuốn sổ. Chương trình ca nhạc Kôhaku (7) trên truyền hình giữa hai đội ca-sĩ nam nữ hoạt náo vừa chấm dứt thì cái tĩnh lặng của đêm trừ tịch đã len đến không biết tự lúc nào. Khi Lin Min để bút xuống cũng là lúc hai người cảm thấy cái sức nặng của ngọn sóng thời gian ồ ạt đã bao trùm lên họ. Thêm một năm nữa đến rồi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 23

- Shin Nien Hao(8) Lin Min mỉm cười chúc Tết.

- Akemashite, omedeto (8) ! Hanada chúc mừng trả lại. Thôi, mình đi ngủ đi !

Hanada kéo cái chăn của chiếc giường xếp bằng sắt mua ở một tổ hợp chào hàng bằng tạp chí, thảy lên cái gác sát trần nhà.

- Cô nằm giường này đi, tôi lên ngủ trên kia.

Hanada vừa hoa tay để cố diễn tả, thì Lin Min đã nghiêng nghiêng cái đầu, ra dáng không hiểu tại sao.

- Ngại ngùng gì ! Đừng để ý mất công. Thật mà !

Cách giải thích coi bộ khó hiểu cho cô gái. Hanada dắt tay cô đẩy vào phòng tắm, Dù trong đầu đang tưởng tượng đến cái thân hình mềm mại này đẫm ướt hơi nước nóng nhưng Hanada chẳng thấy dậy lên sự thèm muốn nào cả.

Rốt cuộc, Lin Min trong chiếc áo thun dài tay từ phòng tắm bước ra. Tóc đã bới cao lên nên vẻ thanh tú của khuôn mặt cô càng hiện ra rõ nét.

Lin Min thu người nằm xuống ngủ ở một góc giường. Trên sàn nhà, giữa mấy vệt sáng tối mà cái rèm cửa in lên, cái áo thun lót đã cởi ra bỏ lăn lóc.

Khi Hanada rón rén leo cầu thang để lên cái gác con thì Lin Min khẽ nhỏm dậy, kéo gấu áo ngủ qua một bên, nhường chỗ.

- Được rồi, mấy khi đầu năm đầu tháng, cứ thong thả ngủ một mình đi !

Lin Min lắc đầu, hai tay lại chắp trước ngực. Cô này muốn lời hứa thành vợ thành chồng phải được dứt điểm một cách cụ thể hay sao đây ? Trong cái nhìn khẩn khoản không nói không rằng ấy, Hanada đọc được tất cả sự buồn bã của cô.

- Đừng lo nữa, tôi không dối em đâu !

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 24

Như chợt nhớ ra, Hanada mở cái gói hàng mua hồi chiều ở tiệm bách hóa vẫn nằm trên sàn và lục ra hộp quà mua cho con gái, để lên đầu gối quần ngủ.

- Đây không phải nhẫn, nhưng cứ coi như mình hứa hôn đi.

Lin Min ngạc nhiên đón lấy cái hộp, cởi thắt nơ ra, thốt lên tiếng kêu kiểu người Trung Quốc biểu lộ khi mừng rỡ.

- Đeo thử ! Cô đeo chắc chắn đẹp.

Choàng sợi dây chuyền lên cổ mình xong, Lin Min bất giác vươn hai cánh tay tròn lẵn, trắng muốt về hướng Hanada.

Trong cái hôn của hai người đã có thoáng hương vị của sự bất hạnh.

Vừa tiếp nhận đôi tay của Lin Min, Hanada vừa nghĩ thầm chắc cô ả đối xử kiểu này với bất cứ thằng đàn ông nào cũng không chừng.

Nhưng sao thân hình của người con gái anh ta đè lên lại săn cứng như gái tân.

*

Khi hai người mở mắt ra thì vừa vặn trưa mồng một.

Đã lâu lắm cả hai mới ngủ được đẫy giấc như vậy. Lin Min khoác tấm chăn lên người, ngồi ở thành giường.

- Shin Nen Hao, Hana-san !

- Ô, chào ! Làm gì đó?

Lin Min đang chí thú lắp lại mấy mẩu hình mà Hanada làm rơi tung tóe lúc ra khỏi nhà và không buồn xếp lại.

- Cha Shi Shem Ma ? Cái này, cái gì?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 25

Chắc cô ta đang tự hỏi nếu mình lắp xong thì trên khung này sẽ hiện ra cái hình thù gì đây.

- Căn nhà đó mà. Đúng hơn là cái chòi con giữa tuyết, giống như chỗ tạm trú của người đi săn, có cả ống khói, nằm giữa rừng tùng bách đại thụ.

Hanada bắt đầu vụng về vẽ một bức tranh trên tập nháp cô gái chìa về phía mình. Đúng là có khung cửa sổ với ánh sáng ấm áp của ngọn đèn, trên hàng hiên, con chó soãi người nằm ngủ. Y tiếp tục đến cả những chi tiết như chiếc xe trượt mà khung xe đã lún phân nửa trong đống tuyết, nằm bên hông nhà..

- Hao ! Lin Min mỉm cười như thể mơ theo.

- Em có sắp lại được cho tôi không ? Đã mất mấy ngày công mới gắn cho ra hình thù, lại lỡ chân đá phải văng tung tóe cả.Tôi thật chán mớ !

Hai người quàng vai chung một tấm chăn và cùng hý hoáy xếp lại khung hình một lúc lâu, tuy không nói không rằng nhưng có cảm tưởng đang nói rất nhiều với nhau.

Tiếng chuông điện thoại cầm tay bỗng reo. Tiếng con gái "Chúc mừng năm mơơơới..." vang vang trong giây nói vừa lọt vào tai là Hanada đã quay phắt lưng về phía Lin Min.

- Nầy bố. Hồi nãy anh con mới gọi điện thoại, nói đã lấy được vé tàu nên mai về tới nhà đấy.

- Thế à. Tốt quá còn gì !

Chắc Yohikazu không hở môi cho ai hay chuyện nó mới chạm trán y.

- Lúc anh ấy gọi, con mới mở miệng nói có việc muốn bàn với ảnh là ảnh đã nổi nóng lên. Chắc bố chưa cho ảnh biết chuyện con bàn với bố hôm trước, hở bố ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 26

- Tao có biết gì đâu.

- Con bảo con không muốn làm phiền ai cả mà.

- Chắc anh con ghét bố rồi nên con nói thể nào nó cũng chống thôi.

- Bố giúp con nghe bố. Giúp con nghe !

Nghe con gái nói đến câu đó, từ ký ức của Hanada một điều cấn cái bỗng bật tung ra như khi răng cấm cắn nhằm hạt sạn. Chắc chắn đứa con gái đang dùng hết sức bình sinh để giữ chặt y như muốn níu cha nó trở lại cái khung cảnh một gia đình bình thường.

- Thế mẹ đâu?

- Mẹ xuất hành đầu năm với lão ta rồi. Họ định kéo cả con đi nữa. ....À, mà họ về rồi kìa. Thôi, con cúp nghen, xin lỗi bố nhé.

Điện thoại bỗng cắt ngang xương.

Hanada cảm thấy làn da của Lin Min áp lên cái lưng trần của y và hai người ngồi đâu lưng với nhau một đỗi rồi cất tiếng thở dài cùng lúc.

- Vợ hở ?

Trực giác của người đàn bà chăng ?

- Không, vợ ly hôn từ lâu rồi. Nãy là con gái. Hiểu không ? Con gái của anh.

Không biết sao, Lin Min có vẻ hiểu chữ ly hôn có nghĩa là gì. Cô quay lại, gương mặt như vừa trút đi một gánh nặng, áp má mình lên vai Hanada.

- Em cũng ly hôn. Con, một.

Nghĩ ngợi giây lát, Hanada chợt ngẩng đầu lên. Tấm kính trên mặt bàn phản chiếu khuôn mặt Lin Min đang cúi gầm.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 27

- Bỏ con ở lại mà đi hả. Bye bye nó hả ?

Mới vẫy tay ra dấu thì Lin Min đã gật đầu đáp:

- Beijing. Shan-u-men. Con, một.

Beijing đúng là Bắc Kinh rồi. Shan-u-men chắc tên chỗ ở.

Không để cô nàng phải mủi lòng, Hanada mới tự kể chuyện mình :

- Anh, trai, một, gái, một. Hiểu không ? Ở Sapporo. Sapporo trên Hokkaido.

- Sapporo. Tsui. Sapporo.

Cô gái ôm hai cánh tay làm ra vẻ suýt soa như ớn lạnh, chìa bàn tay ra rồi ngước mắt nhìn trời như muốn tỏ ra cô cũng biết Sapporo là một tỉnh miền Bắc, lạnh lẽo và tuyết rơi nhiều.

- Beijing cũng lạnh, rét run. Nhiều tuyết lắm chứ ?

Lin Min gật đầu, mắt nhìn xa xôi ngoài cửa sổ.

Hanada đã từng nghe chuyện trong đám những người lao động trái phép, có những kẻ để chồng con lại, dùng cả thủ đoạn như ly hôn trá hình để rảnh rang sang Nhật kiếm ăn.

-Bỏ đi như thế thì gia đình còn gì !

Biết cô gái sẽ chẳng hiểu mình muốn nói gì nhưng Hanada không kìm được để khỏi thốt ra mấy câu sặc mùi đạo đức. Chính vợ chồng y trước đây cũng giả vờ ly hôn để trốn nợ và để bảo vệ gia đình, ít nhất họ cũng đã làm thủ tục vì mục đích đó. Thế nhưng sự tình mỗi ngày thêm phức tạp, rốt cục, thời gian và không gian đã khiến chuyện thôi nhau trở thành chính thức.

Lin Min không khóc.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 28

Hanada nhìn lên trần nhà và suy nghĩ. Tiền khách bao qua đêm là bốn vạn yen, phần cô gái còn lại trong tay được một vạn đến vạn rưỡi, từ đó mà trừ đi tiền ăn với phần chia tiền mướn phòng, mỗi tháng cô ta giỏi lắm để dành được chừng mười vạn yen. Nhưng mười vạn đó gửi về gia đình trong nước thì có lẽ sẽ là món tiền lớn không tưởng tượng nỗi. Hanada chắt bóp để gửi về Sapporo suốt năm năm nay mỗi tháng cũng chỉ lên tới mười vạn.

Lin Min vẫn loay hoay tìm cách sắp cho được mấy mẩu hình vào khung.

*

Hai thân thể như muốn làm quen với nhau, Hanada và Lin Min quyến luyến không rời , đến lúc họ chợt ý thức ra thì đã hết ngày mồng ba.

Dobashi ghé chung cư thăm họ nhằm chiều mồng bốn.

- Điện thoại chẳng ai thèm bắt. Không thấy mặt mũi đâu cả, tưởng có chuyện gì rồi. May quá !

- Shin nen hao !

Lin Min tươi tắn chào.

- Được rồi, được rồi. Thì Shin nen hao. Ta lên quận đi. Giấy tờ cô này đâu đã vào đó. Còn hơi kẹt chút đỉnh nhưng sẽ thông qua thôi. Không biết Hana-san có tin nổi không chớ đầu năm đầu tháng mà thành được bảy đám rồi. Chắc " moả " là ông mai số một ở xóm Shinjuku này đa.

- Bảy đám !

Ra vẻ không muốn đi vào chi tiết, Dobashi xua xua Hanada ra, và quay lại giải thích cho Lin Min bằng một thứ tiếng Hoa khá lưu loát.

- Khùng hay sao mà mới ra giêng hai vợ chồng đã xúm lại chơi lắp hình. Mà coi bộ lắp gần xong rồi hả. Để tôi tác thành lè lẹ cho mấy người nhờ.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 29

Trong xe Dobashi, Lin Min nín thinh không nói một lời.

Ủy Ban Hành Chánh Quận ồn ào nhộn nhịp chẳng khác phòng đợi sân bay quốc tế. Bên trong quầy các bàn giấy, nhân viên thông dịch tíu ta tíu tíu tít. Bên ngoài, người đủ mọi màu da đứng đợi đông nghẹt.

Lúc nộp đơn làm đám cưới, mọi chuyện rốt cục trót lọt hết. Tháo cặp kính râm ra, Dobashi oai vệ như một viên tư chức, không thèm để ý bọn dân ngoại quốc tới bắt chuyện làm quen. Anh ta lo mọi thủ tục đám cưới cho hai người chẳng khác nào ông mai lành nghề.

- Những lúc này mới thấy công việc của Ủy Ban là quí hóa há. Chúc mừng hai người nghen. Thôi, mình dzọt đi.

Như đám hung thủ chạy trốn khỏi phạm trường, bọn họ bỏ Ủy Ban Hành Chánh Quận lại sau lưng, lẫn vào đám đông. Hanada nhìn quanh quất bốn bên rồi đặt câu hỏi:

- Bây giờ bọn em ra sao đây, bác ?

- Đâu có ra sao ! Dắt mối với chiêu đãi chịu nhau thì lấy nhau, chớ sao ! Tôi chỉ nhúng tay giúp chút đỉnh thôi, ai xía vô được.

- Vậy Lin Min sẽ chồng con đàng hoàng ?

- Ê, giỡn chơi sao chú ! Dobashi la lên và cả cười, tay trao cho Hanada cái phong bì đựng số tiền thù lao đã hứa. Hanada cảm thấy lưng mình nhột nhạt như vướng cái nhìn buồn bã của Lin Min, đang đi sau y một bước.

- Cảm ơn bác, em xin nhé ?

- Được, chú cứ cầm, tôi có đau lòng xót dạ gì đâu ! Tiền này coi như con bé nó vay thêm đấy thôi !

- Thế cô ấy nợ bao nhiêu tất cả ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 30

- Ai biết bao nhiêu ! Chú muốn tìm hiểu thì cứ dẫn xác đến đằng trụ sở Showa-kai mà hỏi. Đến đó để mà coi ai thiếu ai bao nhiêu à, cái chú Hana này hay thật !

- Nếu cổ trả nợ thì còn tiền gửi về nuôi gia đình không, bác ?

- Chuyện làm ăn, hai bên phải nghĩ cho nhau. Dân yakuza thời buổi này cũng không tàn ác đến nỗi sang đoạt hết để người ta cạn cả tiền gửi về nhà đâu !

Hanada kéo tay áo của Dobashi, đứng lại. Nếu cơ sự đã thế, hắn muốn đặt câu hỏi để xác nhận một chuyện :

- Này bác Dobashi, nếu con bé sạch bách nợ thì được tự do chứ gì ?

Gương mặt Dobashi chợt đanh trở lại đúng như mặt viên thanh tra hình sự :

- Này Hana, chú muốn nói gì ?

- Em định hỏi có ngày cô ấy cũng phải hoàn lương, có chồng có con như ai chứ !

Mấy lần Dobashi muốn trả lời tình thật nhưng cứ bị ngúc ngắc khó nói, rốt cục, như không tự kìm hãm được, hắn phá lên cười ngặt nghẽo, cay độc :

- Nợ nần còn mớ bên nầy với mớ bên kia nữa chớ chú. Đường giây Bắc Kinh lôi thôi lắm. Không biết từ lúc nào họ tính toán như vậy nữa.

Dobashi ấn vai Lin Min, kéo cô rời Hanada.

- Còn chống nổi hai chưn thì cô này còn phải đi làm. Tôi nói chú nghe ! Cả chú với tôi cũng vậy thôi. May có cái đất này mới kiếm được miếng cơm mấy năm nay. Nói chuyện mai sau chi cho nó tức cười.

*

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 31

Mãi đến xế trưa hôm sau, Lin Min, mặt mũi hốc hác, mới tra cái chìa khoá đúp vào ổ khóa để mở cửa căn phòng của hai người. Em mới về ! Cô gái nói, nửa muốn nhìn mặt Hanada nửa không dám, rồi vào dưới vòi sen tắm một đỗi lâu.

- Có gì vậy? Trong người mệt hử ?

Hé cửa phòng tắm nhìn vào hỏi thăm, nhưng Hanada thấy Lin Min đang để mặc cho vòi sen tưới ướt lưng, úp mặt vào lòng bàn tay mà khóc.

- Hana-san. Em xin lỗi. Xin lỗi anh nghen.

Không biết học ở đâu, Lin Min quì dưới đất, dập đầu xuống sàn phòng tắm, xin lỗi lấy xin lỗi để hệt như cung cách Nhật Bản.

Tối hôm qua, lòng Hanada đầy thống hận. Tuy nhiên, y nghĩ trong cùng giây phút đó, Lin Min phải đau khổ biết bao khi nằm trong vòng tay những người đàn ông lạ.

- Thôi, xin lỗi làm chi em, số tụi mình nó vậy. Không sao, anh không nghĩ xấu cho em đâu.

- Em, vợ. Vợ Hana-san.

-Biết rồi. Thôi, không khóc nữa. Không được khóc !

Đêm ấy, Lin Min lại dịu dàng đáp lại sự âu yếm của Hanada.

*

Sự việc xảy ra cách đó ít lâu, vào đúng một chiều mưa lạnh. Mưa dai dẳng như thế đã mấy hôm rồi.

Hanada đang lảng vảng kiếm mối trên con đường Ủy Ban Hành Chánh Quận thì bỗng nghe tiếng còi xe cấp cứu hụ chói tai chạy băng qua. Lọt được vào đám đông người hiếu kỳ, hắn vừa kịp thấy xe cấp cứu ngừng trước tiệm Cao Hùng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 32

- Lại có vụ ăn kẹo đồng nữa rồi. Trời đất quỉ thần!

Người ta khiêng một chiếc băng ca len lỏi giữa đám đông hoảng hốt. Theo sau là nhân viên xe cấp cứu đang hộ tống cho "má" Đài Loan, hai cánh tay băng bó, vừa chạy vừa bù lu bù loa như người loạn trí.

Bọn dắt mối đứa nào đứa nấy mặt mày xanh lét, nhìn về hướng Hanada. Trên xe cấp cứu, một nhân viên cứu thương đang cúi xuống, tất bật làm động tác xoa bóp tim cho người bị nạn.

-Ô kìa, Hanada !

Một nhân viên hình sự quen biết với y, kéo mép nón lên, tiến lại gần. Bọn kiếm mối ngại tai bay vạ gió, lảng đi mất.

- Bộ mày hồi nãy có trong quán à?

- Không, em mới tới tức thì.

-Thế à, may cho mày. Con mụ Cao Hùng bị đạn lạc đó.

- Ai vậy, tụi nào nhắm ai vậy, hở thầy ?

Lúc đó, xe cứu thương rú còi rồi chạy như biến.

- Dobashi chớ ai. Thiệt không khá. Bắn cái đùng trúng chỗ này, chả đang ngồi trên quầy nguyên con.

Nhân viên hình sự vừa giương dù cho Dobashi núp mưa, vừa lấy tay xoa xoa chỗ gân cổ hắn.

- Vô đây, tao hỏi cái nầy coi !

Không đợi ừ hử, anh ta ẩy Hanada vào trong xe đi tuần.

- Mày biết gì về Dobashi nói hết cho tao nghe ! Cha nội có dính vô chuyện làm ăn của nó không ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 33

- Chuyện làm ăn nào, em sao biết. Em quen chớ đâu có thân !

-Con mẹ mày ! Người hình sự lừ y. Bộ mầy chắc ăn là tụi tao chỉ thảy vô bóp một hai đêm rồi cho về tiếp tục ăn no ngủ kỹ sao chớ. Nè, Hanada, ngoài cái tội cản trở lưu thông công lộ, bọn tao còn thiếu gì luật để "úm " tụi bay.

- Nói thật mà, em có hay biết gì đâu.

- Hả, chắc không ? Mầy chuyên môn trấn lột ở khu này mà. Một ngày thịt được ít nhất ba bốn mống chớ gì. Tao chỉ cần kêu tụi nạn nhân của mầy tới điều tra là có chục đứa đâm đơn kiện liền.

Luật bất thành văn của khu Kabuki-cho là người đi lừa cũng như kẻ bị lừa đều mắc kẹt như nhau. Cảnh sát không thèm ra sức đánh dẹp mấy cái ba trấn lột, họ chỉ thủ mấy lá đơn khiếu nại của nạn nhân để làm áp lực khi cần người điềm chỉ .

- Mầy không làm hôn thú giả là gì ?

Viên hình sự ném một câu hăm dọa vào giữa mặt Hanada, đang ấp a ấp úng.

- Hôn thú giả gì thầy, nói tội nghiệp. Em chỉ....

- Chỉ chỉ cái gì ? Nè, Hanada, đừng giỡn mặt chính quyền ! Mày chớ quên rằng cảnh sát hay hành chánh quận đều là nhà nước hết, nghe chưa !

- Bề gì một bên cũng là dân sự, chứ thầy !

Viên hình sự khuỳnh cái cùi chỏ tay áo ướt nước mưa hích vào cằm Hanada.

- Mở miệng ra là dân sự, dân quyền...Bộ tụi bay là két hay sao ? Nói cho mà biết, xưa giờ giữa cảnh sát tụi tao với bọn yakuza không có lý luận

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 34

khó khăn kiểu đó. Thằng Dobashi dịch vật không hiểu trời trăng cứ lộn xộn mới lãnh đủ. Hiểu chưa, vi phạm luật chơi là toi mạng !

- Luật chơi nào ?

- Chớ sao ! Ở xóm này, không theo đúng luật pháp chăng nữa cũng ít khi ăn cơm tù nhưng hễ phạm luật chơi là đi đong liền. Rước họa vào thân tại nhiêu đó.

Hanada câm như hến. Viên hình sự rút còng sắt ra, gõ lên đầu gối y.

- Về bót đi. Hanada, tao nói thiệt chớ không hăm đâu. Tội danh lừa đảo chắc chắn lãnh án từ hai tới ba năm. Dân ma cô ma cạo thứ mày là rác rưởi của khu Kabuki-cho này mà.

Như muốn chấm câu cho lời đe dọa, những giọt mưa mùa đông rơi lộp độp trên nóc xe tuần cảnh làm cho toàn thân Hanada phát rét.

Y đành khai hết tự sự.

Lúc thốt ra cái tên Lin Min, tim Hanada bỗng thắt lại. Chắc không vì chuyện này mà cô bé bị liên lụy đâu nhỉ. Nhưng hắn không hiểu tội tình gì mà viên hình sự chép cả tên cô vào cuốn sổ tay.

- Chớ vợ em có bị gì không, thầy ?

- Vợ nào ? Mầy nói ai?

- Thì vợ em chớ ai. Tuy không biết nhau nhiều nhưng cũng là vợ em.

Viên hình sự cười ha hả. Người cảnh sát ngồi bên tay lái cũng quay lại cười góp.

- Thôi, chuyện đó cũng chẳng có gì đáng cười. Yên trí đi, tụi tao không làm được gì bọn bay đâu.

- Không phải chuyện đó, em muốn hỏi từ nay cổ sẽ ra sao thôi ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 35

Viên hình sự mắt nhìn ra màn mưa dày ngoài đường phố, trả lời :

- Ừ, hớ ! Dobashi đã ra nông nỗi này thì hết hòng làm ăn được ở vùng này rồi. Bọn chung quanh nó không để cho yên đâu. Chuyện đó, tụi Showa-kai nắm hết. Nếu còn thương tình đôi chút thì tụi nó còn để làm ăn nội đêm nay thôi.

Bước xuống khỏi xe tuần cảnh, Hanada cảm thấy bợn dạ và ói ra trên mặt lộ giữa trời mưa. Viên hình sự giương dù che cho cái lưng đang rét run của y, tay chìa vuông mùi-soa.

- Đừng tưởng làm như mầy là cứu giúp được con nhỏ. Đó là cái chắc.

- Thầy nói vậy là ý gì ?

- Thiệt mày khùng hết cỡ. Viên hình sự vừa đảo mắt xem có kẻ hiếu kỳ nào chung quanh không, thì thầm với hắn:

- Tới cơ sự này thì Sở Cư Trú chẳng làm được gì, đuổi về nước cũng không. Có nghĩa là con đó sẽ bị lôi cổ đi khắp địa phận của bọn Showa-kai và bị để xài xể đến hộc cơm luôn. Có thương thì cùng lắm là đợi nó chết rồi tới lãnh xác về. Khôn hồn đừng héo lánh xóm này nữa, tụi yakuza biết thừa là mầy cặp kè với con nhỏ rồi.

Viên hình sự đỡ Hanada đứng dậy rồi vỗ lưng hắn:

- Còn chuyện này hơi thừa nhưng cũng nói cho mà nghe....

Hình sự bỏ nhỏ vào tai y:

-Xe buýt của tụi Showa-Kai cứ mười giờ mỗi tối là đi ruồng. Buýt định kỳ từ Công Viên Trung Ương thẳng đường tới địa ngục đó, nghe con !

*

Căn phòng có ánh đèn.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 36

Trên bếp ga, y như Hanada chỉ dẫn dặn dò, bát canh bột đậu nành miso còn tỏa hơi nóng, nồi cơm điện có tiếng cơm sôi.

- Lei Mei ơi ?

Không thấy cái xắc tay của Lin Min, Hanada kêu tên vợ để kiểm cho chắc.

Chợt tập giấy nháp dùng để bút đàm giửa hai người đập vào mắt y. Mấy hàng chữ Hán viết tháu không biết muốn nói gì. Chỉ thấy ở phía cuối có đề " Tái Kiến " với " Linh Minh " mà thôi.

Hanada đứng khựng, thở dài. Khung trò chơi lắp hình đã sắp xong đâu vào đấy, được đặt ở trên giường. Trên cái đệm ngồi, còn in rõ hình chiếc mông, chứng tỏ cô bé đã dành chút thì giờ còn lại để lắp ráp cho xong.

Từ căn phòng, Hanada vọt ra đường. Y nghẹn ngào không biết bây giờ mình phải làm gì.

Y chộp cái tắc xi đang trờ tới. Không biết từ lúc nào mưa nặng hạt thêm.

Vừa cho người lái xe biết mình muốn đi đâu thì anh ta đã tỏ ra ngờ vực :

- Ông khách nói Công Viên Trung Ương hả. Nó rộng lắm. Khúc nào ?

- Chú cứ chạy cho tui một vòng. Chờ người ta mà !

Tài xế tránh lối đổ vào Shinjuku thường bị kẹt xe, chạy vòng đường tắt sau khu Kashiwagi. Trên mấy ngôi nhà chọc trời mới xây ở khu Shintoshin, ánh đèn đỏ chớp tắt như thể đang đánh dấu thời gian trôi qua.

Chợt Hanada tự đặt câu hỏi trong đầu về cái tương lai u ám của mình. Mai, mốt, ngày tháng rồi sẽ kế tiếp trôi qua mà chắc mình sẽ cứ đứng ngu ngơ, chôn chân một chổ. Cái giòng thời gian rất vô tình, rất bất công ấy, có chờ đợi ai đâu. Bây giờ cũng như biết bao lần, tấm thân y như thể trơ trơ giữa giòng nước xiết vì chẳng biết tiến thoái ra sao. Ôi, cái cảnh

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 37

phòng đợi ở phi trường Chitose ngày tất tả bỏ quê hương lại đằng sau ! Rồi lúc bước chân đến khu phố Kabuki-cho này, đứng bên bờ cái bồn phun nước của quãng trường kia. Con nhỏ tình nhân, thấy như làm tròn nhiệm vụ, đã đá mình cái rụp, tếch đi mất dạng ngoài ga Ueno. Đứa con trai coi mình chẳng ra cái giống gì trong đám đông xô bồ giữa ngã tư đèn xanh đèn đỏ.

Thêm một tấm thân khác đang đứng tựa trời trồng ở cái chốn này đây.

Chiếc tắc-xi giảm tốc độ, đánh một vòng ngoài thành Công Viên Trung Ương. Trước đền thần đạo trên con phố Junisô, một chiếc xe buýt cỡ nhỏ đã chực sẳn. Tắc-xi lướt chậm qua thì bọn trai trẻ như dân canh chừng cũng đảo mắt nhìn theo.

- Chú ngừng đây, cho tôi xuống.

Bước xuống tắc xi, Hanada tiến lại gần một gã trẻ tuổi quen mặt .

- Ê, cha kia, sao léng phéng ở đây, hả !

Thằng trẻ tuổi xem chừng còn để ý đến cái bóng tối bao chung quanh Hanada hơn là con người y.

- Trong xe có con nhỏ nào tên Lei Mei không ? Tôi muốn gặp cô ta.

-Bộ mơ ngủ hay sao, tía. Ai mà nhớ tên từng đứa một.

Hanada chẳng nói chẳng rằng tiến lại chiếc xe thì thằng kia đã túm lấy cổ áo hắn. Cùng lúc, từ trong bóng tối mấy thằng trẻ khác cũng túa ra.

- Gì mậy, phải mầy dân bắt mối không? Sao dẫn xác tới đây chi ? Ê, muốn cái gì hả ?

Bị đá thốc vào bụng, Hanada ngã nằm giữa vũng nước. Chiếc xe buýt con rồ máy chạy.

- Hana-san, Hana-san !

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 38

Lin Min thò đầu ra ngoài khi xe chuyển bánh và gọi thất thanh. Hanada hất tay bọn trẻ, nhảy qua rào sắt và đuổi theo chiếc buýt.

- Anh Hana. Tsai Chien. Xin lỗi nghen. Tsai Chien(9)!

- Ơi, Tsai Chien nhé. Nhớ viết thư. Hiểu không ? Viết thư nghe!

Lin Min thò đầu ra ngoài cửa xe, buồn bã lắc đầu. Có lẽ vì cô ta không biết địa chỉ hoặc không muốn viết thư cũng nên. Không đâu, cô ấy có muốn viết chăng nữa cũng đâu sành tiếng Nhật. Hanada cứ tạm cho rằng cái cử chỉ lắc đầu kia hẳn có nghĩa như vậy.

Bất đồ, Lin Min vạch ngực áo khoác, giật đứt sợi giây chuyền trên cổ ra. Trong khi ấy, Hanada cố gắng đuổi theo chiếc buýt mỗi lúc mỗi tăng tốc độ.

- Hana-san, Hana-san !

-Được rồi, trả lại làm gì. Cái đó, tặng em mà.

-Hana-san, Hana-san !

-Được rồi, có chút đó thôi mà!

-Hana-san, Hana-san !

Không hiểu ý Hanada, Lin Min ném trả sợi dây chuyền về hướng y.

-Rán làm ăn, giữ gìn sức khoẻ nghe.Cố gắng lên!

Thấy dầu mình đang nói những câu chia tay thật tầm thường đang vụt đến trong đầu nhưng trong hoàn cảnh này thì tựa hồ như đang rủa cô ta "Chết phứt đi ! ", Hanada mới dừng chân.

-Hana-san, Hana-san !

Lúc tiếng kêu không đủ sức vọng đến nơi nữa, Lin Min chắp hai tay lại trước bộ ngực trắng ngần.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 39

- Đừng làm thế, Lei Mei ơi !

Hanada vừa lẩm bẩm một mình, vừa nhặt sợi dây chuyền rơi trên mặt đất. Cơn mưa lạnh đã biến thành mưa tuyết.

Lin Min quăng trả sợi dây chuyền biết đâu chẳng có dụng ý xa xôi. Có khi cô nghĩ anh đàn ông đang đuổi theo mình để đòi lại món nữ trang cũng không chừng ?

Trong màn mưa tuyết bốn bề, một mình Hanada lầm lũi.

*

Leo lên cái đình trú chân của công viên, Hanada châm một điếu thuốc.

-Ông hai ơi, còn thuốc lá cho tụi tui xin!

Một bọn vô gia cư không biết kéo đến khu này tự bao giờ, đang xúm xít vây quanh cái lò sưởi tạm. Vừa móc nguyên bao thuốc lá đưa ra, bọn họ liền chuyền cho ít rượu trong cái cốc giấy.

-Ngon thì không ngon nhưng ấm bụng, ông hai ơi. Mà cũng chả dở đâu nhá. Có tới đây lai rai với tụi tui không?

Hanada ngẩng đầu về phía mấy ngôi nhà chọc trời cao nghệu. Dưới chân, từ chỗ này mà nhìn, Hanada thấy những dinh thự ấy chẳng giúp người ta hiểu được gì về cảnh đời đô hội ban đêm. Chúng chỉ giống những tấm mộ bia khổng lồ nhưng vô nghĩa.

Tiếng Lin Min gọi mãi tên mình vẫn còn vang bên tai Hanada. Cúi miệng xuống cái cốc, mùi hăng hắc của một thứ rượu không rõ gốc gác làm Hanada hơi khựng lại.

-Dở khẹt phải không. Kẹt quá cũng uống đại đi. Uống thét rồi quen mà.

Chung quanh cái đình trú chân, những bông tuyết dày rơi xuống nãy giờ đã tụ thành đống. Ngước nhìn chăm chăm về hướng dãy nhà chọc trời,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 40

Hanada có cảm tưởng mình và bọn không cửa không nhà đang đáp một chiếc thuyền tạc bằng đá và bơi dần lên thinh không.

Chuông điện thoại trong túi áo bỗng reo lên.

-A-lố, a-lô. Hanada đây !

-Vâng, a-lô, đây cũng là Hanada ạ !

Tiếng đứa con gái tươi sáng, vượt màn đêm đen xa xôi tìm đến với y. Nghe câu chào đầy vẻ nghịch ngợm của con, Hanada bỗng ú ớ không biết trả lời làm sao.

-Uả, có gì thế bố. Sao bố êm ru vậy?

-Maa-chan, chính con mới im đó chứ ! Sao thế ?

-Này nhé bố....Tiếng đứa con gái trở thành ủ dột.

-Anh hai nhất định không cho con đi đâu cả. Ảnh nói chắc bố cũng không muốn con lên.

Giữ im lặng thì không xong nhưng biết nói thế nào trả lời nó đây.

-Nói gì đi chứ bố. Con...con...phải đổi họ đó nghe bố. Lão đó cứ chạy theo bắt con phải đổi họ theo lão, không thì không được.

-Con không lấy họ mẹ được sao?

Hanada chợt nhận ra khẩu điệu của mình sao mà quá lạnh lùng.

-Con không chịu thế đâu. Con muốn con lúc nào cũng mang tên Hanada Masae thôi. Nhưng lão cứ nói mang họ Hanada mà chẳng bao giờ thấy Hanada, người gì như cô hồn vất vưởng đâu đâu. Lão nói khó nghe quá bố nhỉ ? Con chịu hết nổi!

Tiếng đứa con gái nhỏ lại, nghèn nghẹn ở cuối câu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 41

-Maa-chan, bố không cho phép con ăn nói ngang ngược. Con cứ làm đúng lời ông ấy cho bố nhờ.

-Con, con bỏ nhà con đi cho mà xem. Con lên ở với bố đó, bố lãnh trách nhiệm đó nghe.

Con gái cứng đầu thế này, chẳng hiểu giống ai. Đang không biết tính thế nào, bỗng dưng cái câu mà y bao lần rắp tâm nói vọt bắn ra khỏi cửa miệng:

- Không được nhé Maa-chan! Lúc này bố không đủ sức " cáng " con đâu. Anh con nghĩ về bố thế nào là đúng thế ấy, con ạ.

-Tại sao hở bố. Con ghét bố quá. Làm gì có chuyện như thế !

Đứa con gái khóc. Nó khóc vì van vỉ mà cũng chẳng ăn nhằm. Phía sau tiếng khóc, văng vẳng như có ai đang nói gì. Tiếng người tựa hồ từ máy truyền hình vọng ra, hay là, giữa một trận cãi cọ trong nhà, con gái y trơ vơ thất thế phải chạy ra ôm điện thoại lần cuối để cầu cứu cha. Như một sợi dây mong manh giữ cái cầu treo với bờ đất, tiếng khóc tỉ ti của đứa con gái tưởng chừng sắp đứt đoạn.

Nắm chặt trong bàn tay sợi dây chuyền đã bị bứt đôi, Hanada thu hết can đảm :

-Bố nói thật con nghe, bây giờ bố hết là bố của con rồi, nếu con còn ăn nói kiểu đó, bố không gửi tiền về nữa đâu.

-Con không cần tiền, con thèm vào tiền của bố !

-Thôi, đừng điện thoại cho bố nữa nghe? Nhớ nhé, Maa-chan, bố không muốn bắt điện thoại mày nữa. Đừng làm phiền tao nữa!

Đứa con gái như á khẩu vì ngạc nhiên. Một lúc sau, điện thoại lặng lẽ cúp.

Chắc trên Sapporo, giờ này, trời cũng đang đổ tuyết.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 42

Hanada ôm ngực tức tưởi.

-Nè, ông hai, tới đây " dzô " với tụi tui cái coi.

Bọn vô gia cư như chẳng đành lòng nhìn thảm cảnh của y , lên tiếng rủ rê.

Đưa cái cốc giấy lên môi, Hanada nghĩ thầm : cái thứ rượu này coi vậy mà uống cũng được đến.  

Asada Jirô (Dịch xong ngày 30/05/2003)

Chú Thích

"Tỏ Tình Với Người Vợ Không Quen" có đặc điểm sử dụng nhiều tiếng lóng (zogugo) của giới bình dân Nhật Bản. Người dịch cũng cố gắng đi trong chiều hướng đó.

(1) Maa-chan, tiếng gọi tắt và thân mật của Masae cũng như Yotchan là tiếng gọi tắt của Yoshikazu.

(2) Yakuza, đoàn thể phạm tội sinh sống ngoài vòng pháp luật và kiếm ăn bằng cách dùng bạo lực uy hiếp người khác.

(3) Gửi Chai hay Keep Bottle, tập tục bắt nguồn từ việc các hãng mua rượu của quán với giá đắt và đặt chai tại chỗ để nhân viên có thể mời khách hàng đến uống mà không phải bỏ tiền túi ra.

(4) Showa-kai, tên một tổ chức băng đảng yakuza quản lý khu vực Kabuki-cho, xóm ăn chơi giữa trung tâm Tokyo, có lẽ mang tên đó vì thành lập dưới thời thiên hoàng Chiêu Hòa hay Showa (băng đảng thường cực hữu và bảo hoàng)..

(5) Lei Mei la cách đọc chữ Linh Minh theo âm Hán Nhật.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 43

(6) Đối (Tsui trong nguyên văn), tiếng Trung Quốc có nghĩa là vâng, phải rồi.

(7) Kôhaku (Hồng Bạch Ca Hợp Chiến) : chương trình ca nhạc thi đua để định thắng bại giửa hai đội nam (bạch) và nữ (hồng) ca sĩ được tuyển lựa trình diễn vào mỗi đêm giao thừa từ 50 năm nay, rất được khán thính giả Nhật yêu chuộng.

(8) Hai câu đều có nghĩa Mừng Năm Mới. Câu tiếng Hoa là "Tân Niên Hảo".

(9) Tsai Chien (Tái Kiến) tiếng Hoa nghĩa là chào từ biệt.

*

__________________________________________________________________________

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 44

BỨC HỌA NÚI THU

Nguyên tác : Shuzanzu Tác Giả: Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) 

Người dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 45

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

 Lời Người Dịch:

Cũng như nhiều nhà văn Nhật Bản, Akutagawa Ryunosuke thường mượn bối cảnh và đề tài Trung Quốc cho tác phẩm của ông. Bức Họa Núi Thu (Thu Sơn Đồ) đã được đăng tải lần đâu tiên trên tờ Kaizô vào tháng giêng năm 1921, lúc ông 29 tuổi.

Các họa phổ của Trung Quốc thường nhắc đến bức Phỏng Họa Hoàng Đại Si Thu Sơn Đồ của Vương Thạch Cốc mà không thấy ghi chép về bản chính Thu Sơn Đồ do Đại Si sáng tác. Nếu Thu Sơn Đồ, bức danh họa mà nhà văn nói đến ở đây,không hề có thực thì có quan trọng không? Vẻ đẹp tuyệt đối của một tác phẩm nghệ thuật phải chăng chỉ có trong tâm khảm của người thưởng thức nó ?

Hai lần nhìn một bức tranh, người ta có thể cảm nhận hai cách khác nhau nhưng có thể nào cùng một người xem mà một bức tranh được coi là đẹp khi treo trong ngôi nhà hoang phế của khách tài tử phong lưu lại đâm ra xuống sắc khi chưng trên tường phủ đệ một phú hào thiếu nghệ sĩ tính.

Người dịch sử dụng bản Nhật Ngữ của Tuyển Tập Văn Học Nhật Bản (quyển 29: Akutagawa Ryunosuke) do nhà Chuô Kôron ấn hành lần đầu tiên năm 1962 và tham khảo bản dịch qua Anh Ngữ nhan đề Autumn Mountain ( bị cắt xén nhiều chổ so với nguyên tác ) của nhà Nhật Bản Học Ivan Morris (Modern Japanese Short Stories, Charles E. Tuttle Co.,Tokyo, 1962).

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 46

- Nói đến Hoàng Đại Si (1) , thế cụ đã xem Thu Sơn Đồ của Đại Si chưa ạ?

Một tối mùa thu, Vương Thạch Cốc (2) đến thăm Âu Hương Các và khi đang nhấp mấy ngụm trà với chủ nhân Uẩn Nam Điền (3) , câu chuyện đưa đẩy thế nào mà tự dưng khách đi vào câu hỏi đó.

- Thưa không, tôi chưa được xem ạ. Thế cụ đã có dịp thưởng thức tranh ấy chưa ?

Đại Si Lão Nhân Hoàng Công Vọng tề danh với Mai Đạo Nhân (4) và Hoàng Hạc Sơn Tiều (5) , đời coi là ba thánh thủ hội họa dưới triều Nguyên. Uẩn Nam Điền vừa nói thế mà có cảm tưởng những bức danh họa của Đại Si mình có dịp chiêm ngưỡng ngày xưa, nào Sa Tích Đồ, nào Phú Xuân Quyển như phảng phất hiện về trong ký ức.

- Ấy, biết thưa thế nào đây, bảo là xem rồi thì vẫn đúng mà bảo chưa xem cũng chẳng sai. Chuyện nói ra thật khó tin, bẩm cụ ...

- Cái gì mà xem rồi lại như chưa xem, thế nhỉ ...?

Uẩn Nam Điền lộ vẻ thắc mắc, nhìn Vương Thạch Cốc như dò hỏi.

- Hay tranh cụ xem là bức họa mô phỏng thôi chứ gì ?

- Thưa không, chẳng phải phỏng họa nào cả. Rõ ràng tôi được xem bản chính đấy. Nào phải một mình tôi đâu., Cả Yên Khách tiên sinh (6)(Vương Thì Mẫn) lẫn Liêm Châu tiên sinh (7)(Vương Giám) đếu có chút duyên may với bức Thu Sơn Đồ nầy cả đấy, cụ ạ !

Vương Thạch Cốc mới nhấp thêm ngụm trà, ra vẻ nghĩ ngợi lung lắm, rồi mới mỉm cười.

- Nếu không nhàm tai cụ thì tôi xin được phép kể lại đầu đuôi câu chuyện.

- Vâng, cụ tự nhiên cho.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 47

Uẩn Nam Điền khêu lại ngọn lửa trên giá đuốc đồng, vừa ân cần thôi thúc khách.

*

Chuyện xảy ra hồi Nguyên Tể tiên sinh (8)  (Đổng Kỳ Xương) còn sinh tiền cơ. Mùa thu năm ấy, có hôm đang cùng Yên Khách Ông luận về hội họa, bất chợt tiên sinh hỏi Ông đã được xem Thu Sơn Đồ của Hoàng Nhất Phong chưa. Như cụ thừa biết, trong ngành họa, Ông là môn hạ họa phái Đại Si, nên có thể bảo đã là tác phẩm của Đại Si lưu lại trên cõi đời nầy, Ông đều xem không sót. Thế mà mỗi một bức gọi là Thu Sơn Đồ, rốt cục ông chưa hề được xem.

- Không ạ, tên còn chưa nghe tới, nói chi đến xem !

Yên Khách Ông vừa trả lời như thế vừa không khỏi thẹn thùa.

-Thế thì khi nào có dịp, xin ông xem một lần cho biết. So với Hạ Sơn Đồ và Phù Băng Đồ, tranh ấy còn nổi hơn một bậc. Có lẽ trong số họa phẩm của Hoàng Đại Si lão nhân, Thu Sơn Đồ chính là bạch mi ( 9 )đấy ạ !

- Kiệt tác như thế hở cụ. Tôi phải tìm xem mới được. Thế cụ có biết hiện nay ai là chủ bức tranh ấy không?

- Nó nằm ở nhà họ Trương xứ Nhuận Châu. Trên đường vãng cảnh Kim Các Tự chẳng hạn, ông nhớ tạt qua gõ cửa hỏi thăm chủ nhân xem. Tôi sẽ xin vì ông mà thảo một phong thư giới thiệu.

Yên Khách Ông lãnh thư của tiên sinh, tức thời lên đường đi Nhuận Châu. Nghĩ thầm nếu nhà họ Trương là nơi sở tàng một bức danh họa như vậy thì đến đó, ngoài tranh Hoàng Nhất Phong chắc còn có cơ chiêm ngưỡng được những bức họa tuyệt vời khác, nên Yên Khách Ông bồn chồn bứt rứt không thể nào nán lại thư phòng Tây Viên (10) thêm một khắc nào nữa.

Thế nhưng khi tới Nhuận Châu, Ông mới vỡ lẽ. Ngôi nhà họ Trương mà ông thèm thuồng đến viếng kia, cơ ngơi đồ sộ thì có đấy nhưng sao hoang phế tiêu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 48

điều quá. Giây trường xuân leo đầy tường dậu, cỏ dại um tùm trên sân, một đàn gà vịt nhớn nhác nhìn khách lạ. Cảnh tượng như thế làm cho một người trung hậu như Ông cũng bất giác nghi ngờ lời nói của Nguyên Tể tiên sinh vì không nghĩ ra cớ gì mà tranh Đại Si lạc loài đến chốn hoang vu thế nầy. Nhưng đã cất công đến lại chưa chìa danh thiếp mà đã bỏ về thì sao gọi là sở nguyện bình sinh. Vừa vặn lúc ấy người canh cửa bước ra, Ông đành phải trình bày việc làm khách viễn phương ghé xem tranh Hoàng Nhất Phong, rồi trao phong thư giới thiệu của Tư Bạch Tiên Sinh.

Chỉ trông chốc lát, Yên Khách Ông đã được mời lên đại sảnh. Ở đây cũng vậy, tuy có đặt bộ trường kỷ bạch đàn nom rất trang nhã nhưng thoang thoảng mốc meo, như thể mùi hoang phế bốc lên cả từ nền gạch. May thay, khi chủ nhân bước ra thì dầu nhìn mặt thấy như người mang bệnh nhưng tướng mạo nom ra cũng hiền lành. Không những thế, khuôn mặt xanh xao và bàn tay thanh tú kia cho ta cảm tưởng người ấy có cái phong thái con nhà dòng dõi. Sau khi hai bên phân chia ngôi thứ theo đúng lễ sơ kiến, Ông bèn thưa với chủ nhân xin được chiêm bái tác phẩm cao diệu của Hoàng Nhất Phong. Nghe giọng khẩn khoản mới thấy Ông có vẻ đang bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ nếu không tìm xem cho được bức họa bây giờ, e nó sẽ biến thành sương thành khói mất.

Chủ nhân vui vẻ nhận lời và cho treo ngay lên tường của sảnh đường một bức họa :

- Xin thưa đây là Thu Sơn Đồ mà quí khách hằng ao ước.

Yên Khách Ông mới nhìn bức tranh trên tường một lượt thôi đã bất giác thốt ra tiếng kêu kinh ngạc.

Nền họa tuyền một màu xanh lục.Chỗ dòng khe uốn mình như rắn lượn, lác đác xóm làng và mấy nhịp tiểu kiều. Bên sườn ngọn núi vút lên cao nhất, chòm mây thu nhàn nhã được điểm đậm nhạt bằng mấy lớp phấn trắng. Núi xếp giăng hàng theo phép hoành điểm (11)  của Cao Phòng Sơn (12) , tươi tắn sau cơn mưa như một nét mày xanh, lại ánh lên nét đẹp của màu son rắc đó đây trên những khóm cây lá đỏ. Không biết dùng lời nào để diễn tả cho hết ý, và

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 49

còn lo đòi hỏi đó vượt cả khả năng của ngôn ngữ nữa. Chỉ thấy bức họa vừa diễm lệ, vừa hùng tráng, bút mực lại rất đổi nồng đượm. Có thể nói màu sắc rực rỡ như thế mà vẫn toát ra một cái gì xa xưa, hư không lãng đãng.

Yên Khách Ông để thần hồn bay bổng, mắt mải mê không rời bức họa. Càng nhìn càng ngắm, Ông khám phá hết chỗ ảo diệu nầy đến chỗ ảo diệu khác.

- Thế nào, quí khách có hài lòng không ạ ?

Chủ nhân miệng hơi mỉm cười, nghiêng nhìn ông dò hỏi.

- Quả là thần phẩm ! Lời tán tụng của Nguyên Tể tiên sinh chẳng những không quá đáng tị nào mà còn như là chưa đủ đấy ạ. Đem những danh họa tôi xem được cho đến nay mà so với bức tranh nầy thì chúng đều ở thế hạ phong cả.

Miệng thì nói nhưng mắt Yên Khách Ông vẫn không rời khỏi bức họa.

- Thế cơ, bức tranh nầy là kiệt tác đến mức đó sao, thưa quí khách ?

Yên Khách Ông lúc đó mới đảo mắt nhìn chủ nhân, ra dáng ngạc nhiên :

- Tại sao bây giờ ngài lại tỏ ra mất tin tưởng như thế.

- Không ạ, tôi nào có mất tin tưởng gì đâu. Chẳng qua là........

Lúc đó, chủ nhân bỗng đâm ra bẽn lẽn như cậu thư sinh, mặt đỏ lên vì lúng túng. Mãi sau mới nở một nụ cười buồn bã, tần ngần nhìn bức họa và tiếp lời :

- Thực tình, mỗi lần nhìn bức họa nầy, dù mắt đang mở trao tráo, tôi vẫn thấy mình như đang ở trong cõi mộng.Thu Sơn đẹp đến thế nầy ư ? Vẻ đẹp ấy chỉ có mình tôi cảm nhận được thôi sao ? Ngoài tôi ra, dưới mắt người khác nó chỉ là một bức họa tầm thường chăng ? Không hiểu tại sao sự ngờ vực đó cứ dằn vặt tôi. Đâu là nguyên nhân ? Một là tâm trí tôi bấn loạn vì nó hoặc giả bức tranh kia quá đẹp để có thực ở trên đời ? Mang một tâm trạng lạ lùng như vậy nên lời tán thưởng mới đây của quí khách chỉ làm tôi dao động thêm thôi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 50

Thật tình lúc đó Yên Khách Ông chẳng có vẻ để ý gì lời biện bạch của chủ nhân. Đang bị Thu Sơn Đồ hớp hồn, ngoài nó Ông không thấy gì khác. Ông chỉ có cảm tưởng từ đầu chí cuối, chủ nhân toàn ăn nói lung tung nhằm che dấu sự yếu kém về khả năng thưởng thức hội họa của mình.

Sau khi trò chuyện một đỗi, Yên Khách Ông cáo từ họ Trương và rời ngôi nhà hầu như hoang phế ấy để lên đường.

Thế nhưng làm sao thì làm, từ khi bức Thu Sơn Đồ mở bừng con mắt cho Ông thì nó không rời khỏi tâm trí Ông nữa. Thực sự nếu ta đặt mình vào địa vị Yên Khách Ông, người truyền thừa họa phong của Đại Si, thì chắc chắn sẽ sẵn sàng lìa bỏ mọi thứ miễn sao bức họa kia lọt vào tay mình cho được. Ngoài lý do tình cảm đó, cá nhân ông còn là nhà sưu tập tranh. Những bức danh họa gia bảo trong đó kể cả Sơn Âm Phiếm Tuyết Đồ của Lý Doanh Khâu (13) mà ông đã phải trả bằng hai mươi dật hoàng kim, so với Thu Sơn Đồ thì vẫn còn thua sút về mặt thần diệu. Vì thế, ở cương vị một người chơi tranh sành sõi, ông càng thèm thuồng bức họa hi hữu của đại sư Hoàng Nhất Phong.

Trong thời gian ở Nhuận Châu, bao lần Ông cho người đến thương lượng với họ Trương để nài Thu Sơn Đồ nhưng Trương thị trước sau không khứng. Theo lời kể của người nhà được Ông phái đi, chủ nhân có khuôn mặt xanh xao kia đã nhắn lại : " Nếu quí khách có lòng yêu bức tranh ngần ấy thì tôi xin cho ngài mượn nhưng xin thứ cho việc bắt tôi phải xa lìa nó vĩnh viễn". Đối với người hiếu thắng như Yên Khách Ông, lời từ chối đó như chạm mạnh đến tự ái. Được rồi, thèm gì mà mượn, một ngày nào đó bức tranh sẽ vào tay ta cho xem. Ông định bụng như vậy rồi, cuối cùng tạm xa Thu Sơn Đồ và rời khỏi Nhuận Châu.

Vừa vặn một năm sau, Yên Khách Ông đã trở lại chốn cũ. Tới nơi, Ông liền đến ngay nhà họ Trương. Cảnh vẫn chẳng có gì thay đổi , giây trường xuân bò lan tường dậu và cỏ dại mọc đầy sân, màu sắc cứ như xưa. Tuy nhiên khi hỏi thăm người giúp việc, mới hay chủ nhân đi vắng. Không gặp được chủ nhân nhưng Ông cũng xin phép ngắm lại Thu Sơn Đồ. Có điều dầu khẩn khoản bao lần, mượn cớ chủ không có nhà, gia nhân quyết ngăn Ông vào. Cuối cùng, họ còn sập cửa, không thèm cả ừ hử. Ông chỉ còn cách tơ tưởng đến cái bức danh

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 51

họa hiện đang được cất giấu một xó nào trong căn nhà điêu tàn ấy, bồi hồi trở gót quay về.

Sau lần đó, lúc Ông có dịp gặp Nguyên Tể tiên sinh thì cụ lại báo cho biết ở nhà họ Trương, ngoài Thu Sơn Đồ của Đại Si, còn có cả những kiệt tác khác như Vũ Dạ Chỉ Túc Đồ và Tự Thọ Đồ của Thẩm Thạch Điền (14)nữa.

- Lần trước định nhắn ông rồi lại quên khuấy. Hai bức tranh tôi vừa kể ra phải nói là những kỳ quan của họa đàn cũng như Thu Sơn Đồ đấy ạ. Thế nào cũng phải tìm xem cho được, ông nhé.

Yên Khách Ông tức tốc phái người nhà đến Nhuận Châu gặp họ Trương. Ngoài tờ thư với thủ bút của Nguyên Tể tiên sinh, người nhà còn được soạn sẵn cho cả một đãy bạc để dùng vào mua tranh. Thế nhưng họ Trương vẫn khăng khăng không chịu nhượng lại tác phẩm của Hoàng Nhất Phong. Ông đành bấm bụng bỏ rơi chuyện Thu Sơn Đồ.

*

Vương Thạch Cốc chợt ngừng bặt trong giây lát.

- Những điều tôi kể đế đến đoạn này là nghe từ chính miệng Yên Khách Ông đấy, thưa cụ.

- Thế thì chỉ có mỗi mình Yên Khách tiên sinh được chiêm ngưỡng Thu Sơn Đồ thôi phỏng ?

Uẩn Nam Điền vừa mân mê chòm râu, vừa hỏi lại Vương Thạch Cốc cho chắc.

-Tiên sinh bảo với tôi người đã xem rồi. Còn việc tiên sinh có thực thấy nó chưa thì chẳng ai dám quả quyết.

- Nhưng qua nội dung câu chuyện dường như ... ... ... ... ....

- Ậy, để tôi kể thêm cái đã. Nếu mà nghe cho đến cuối thì e rằng cụ sẽ đưa ra

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 52

kết luận khác tôi cũng không chừng.

Lần này, Vương Thạch Cốc, trà cũng chẳng nhấp, kể luôn một mạch.

*

Yên Khách Ông cho tôi nghe câu chuyện trên, tính ra từ hồi cụ được xem Thu Sơn Đồ lần đầu tiên là gần năm mươi năm sau, trải qua biết mấy tinh sương rồi. Lúc đó Nguyên Tể tiên sinh ra người thiên cổ từ lâu mà cơ nghiệp họ Trương cũng đã truyền đến đời thứ ba. Cho nên bấy giờ tôi chẳng những không biết ai là người giữ bức Thu Sơn Đồ mà còn ngay ngáy nỗi bức danh họa kia đã ngọc nát vàng phai. Lúc Yên Khách Ông tả cho tôi xong cái thần diệu của bức tranh mà cụ như đang cầm chắc trên tay, bèn ngậm ngùi than : " Cái bức Hoàng Nhất Phong ấy giống như đường kiếm của Công Tôn Đại Nương (15) anh ạ. Bút mực có đó mà không thấy bút mực. Cái thần khí của bức tranh như ụp lên trái tim mình. Như thể nhìn rồng bay trong mây, không sao phân biệt đâu là người đâu là kiếm ".

Chừng một tháng sau lần gặp gỡ nói trên, gặp lúc gió xuân sắp nổi, tôi định một mình thăm thú phương nam. Đem chuyện đó thưa với Ông, Ông mới bàn :

-Thế thì còn gì bằng. Anh cũng nhân cơ hội nầy tìm gặp Thu Sơn thử xem. Nếu bức danh họa xuất hiện với đời lần nữa thì đúng là một tin vui cho làng họa đấy.

Dĩ nhiên tôi chỉ mong chừng đó, liền phiền Ông thảo hộ phong thư. Thế nhưng trên bước đường du lịch, hết xem chỗ nầy đến chỗ nọ, không tìm ra thời giờ đến nhà họ Trương xứ Nhuận Châu. Tôi để lá thư giới thiệu của Ông trong tay áo, mãi khi cuốc gọi vào hè vẫn quên bẵng việc viếng Thu Sơn.

Chợt lúc ấy có tin đồn một vị quí thích họ Vương mới là người hiện giữ Thu Sơn Đồ lọt vào tai tôi. Nếu thế thì là trong khi du lịch, tôi có lần đem thư Yên Khách Ông cho một người quen xem và họ cũng là chỗ đi lại với một tân khách của Vương. Chắc Vương thị nghe tin từ đó mới biết bức tranh đang nằm ở nhà họ Trương Nhuận Châu. Theo lời thiên hạ kể thì nào là khi cháu Trương

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 53

thị tiếp người của vị họ Vương kia phái tới đã mang hết đỉnh vạc thư tịch tổ tiên truyền lại, kể cả Thu Sơn Đồ của Hoàng Đại Si, mà hiến dâng ngay. Rồi nào là Vương thị quá đỗi mừng rỡ, mời cháu nhà họ Trương ngồi ghế trên, hết sai ca kỹ trong nhà ra tấu nhạc thù tiếp, yến ẩm linh đình, lại còn tặng nghìn vàng làm lễ thọ...Tôi mừng muốn nhảy tưng tưng vì trải qua năm mươi năm dâu bể Thu Sơn Đồ vẫn bình yên vô sự ! Hơn nữa, nó đang nằm trong tay Vương thị, người mà tôi có chút quen biết. Ngày xưa Yên Khách Ông lao khổ là thế, lại không được nhìn lấy bức họa được lần thứ hai, hẳn là bị quỉ thần ghét bỏ để cuối cùng đành nuốt hận. Trong khi họ Vương kia cứ đủng đỉnh chẳng phải chờ mà bức họa lộ ra ngay trước mặt như lâu đài tiên xây cho. Chỉ có thể ví với cái may sung chín rụng nhằm mồm. Tôi vội thu nhanh vén gọn tìm đến ngay phủ đệ nguy nga của họ Vương để hội kiến Thu Sơn.

Đến nay tôi vẫn nhớ rõ như in mấy cành mẫu đơn khoe sắc thắm giữa một buổi xế trưa đầu hè lặng gió ngoài hàng lan can đẹp như ngọc của viên đình nhà họ Vương. Mới nhìn Vương thị, chưa chào hỏi xong xuôi mà tôi đã không nén được tiếng reo vui :

- Giờ đây Thu Sơn là báu vật của quí phủ rồi. Yên Khách tiên sinh mất ăn mất ngủ bao nhiêu vì nó nhưng chắc lần nầy cụ ấy đã an tâm. Chỉ nghĩ chừng đó thôi đã đủ sung sướng.

Mặt Vương thị lộ vẻ mãn nguyện.

- Hôm nay cả Yên Khách tiên sinh và Liêm Châu tiên sinh cũng ghé chơi. Thế nhưng ta cứ theo thứ tự, ông đã đến xin mời ông vào xem trước cho.

Vương thị mới sai người treo bức Thu Sơn Đồ ấy lên trên tường bên cạnh. Vẫn thôn làng trong rừng lá đỏ nhìn xuống giòng nước, vẫn chòm mây trắng che khuất thung lũng, cả những ngọn núi gần xa vút lên như mấy tấm bình phong, những gì Đại Si lão nhân tô vẽ đã hiện ra lồ lộ trước mắt tôi. Quả thật là một cõi tiểu thiên địa mà xem còn thần diệu hơn cả đại tự nhiên. Lòng rộn ràng, mắt tôi đăm đăm ngắm bức họa trên tường. Cái cảnh khói mây gò trũng này, phân vân gì nữa, Hoàng Nhất Phong đây rồi. Ngoài Si Ông ra, hỏi có mấy ai

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 54

thành công được khi vừa gia phép tuấn điểm (16) mà vẫn làm dậy nét mực, tô màu đậm đến thế mà không dấu ngọn bút. Tuy nhiên, vâng, tuy nhiên bức Thu Sơn Đồ này so với bức tranh mà ngày xưa Yên Khách tiên sinh đã được xem ở nhà họ Trương là một Hoàng Nhất Phong khác mất. Bức này nếu đem ra mà so sánh với Thu Sơn Đồ mà ông đã tả cho nghe, hẳn còn thua một bậc.

Từ họ Vương cho đến đám thực khách đang ngồi vây chung quanh đều nhìn vẻ mặt tôi như chờ đợi. Chính vì vậy tôi cảm thấy cần giữ ý không để một chút thất vọng nào lộ ra cả. Cố gắng được có bấy nhiêu, rốt cuộc vẫn không tài nào dấu nỗi vẻ không phục. Vương thị mới từ từ quay lại phía tôi, lo lắng cất tiếng hỏi :

- Thấy thế nào hở ông ?

Tôi mới làm bộ trả lời:

- Thần phẩm ! Bức tranh nầy xưa có làm điêu đứng Yên Khách tiên sinh thì cũng chẳng lấy làm lạ. Mặt Vương thị mới tươi lên được một chút. Dù sao giữa khoảng đôi mày vẫn thấy có gì không được hài lòng về lời tán thưởng của tôi.

Vừa lúc đó, Yên Khách tiên sinh, người từng đem cái cao diệu của Thu Sơn Đồ ra thuyết tôi nghe, đến nơi. Trong lúc chào hỏi họ Vương, tôi thấy Ông tủm tỉm cười ra dáng vui mừng.

- Năm mươi năm trước được xem Thu Sơn Đồ trong ngôi nhà đổ nát của Trương thị, ngày nay lại diện kiến Thu Sơn giữa khung cảnh dinh thự phú quí như thế này, thật là một mối nhân duyên kỳ lạ.

Vừa nói thế, Yên Khách Ông ngước nhìn bức họa trên tường. Thu Sơn này có đúng là Thu Sơn ông nhìn thấy năm xưa hay không, chuyện đó ngoài ông ra không ai có thể rõ hơn. Biết vậy, cả họ Vương lẫn tôi đều đổ dồn con mắt theo dõõi nét mặt Ông lúc xem tranh. Quả nhiên, tôi bỗng nhận ra ngay khuôn mặt Ông như vương vướng chút mây mờ.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 55

Sau một hồi im lặng trầm tư, Vương thị càng thêm lo lắng, nhìn về hướng Ông, giọng run run:

- Sao hở cụ? Mới đây Thạch Cốc tiên sinh vừa không tiếc lời khen.

Lúc đó, bụng tôi sợ hết vía, không khéo một người thẳng thắn như Yên Khách Ông sẽ trả lời bộc trực quá chăng. Nhưng chắc Ông chẳng đành lòng để Vương thị chuốc lấy thất vọng. Mắt nhìn Thu Sơn xong, ông mới nghiêm trang trả lời họ Vương:

- Ngài thật may mắn mới thu nạp được bức tranh nầy. Từ đây, kho tàng gia bảo của quí phủ sẽ thêm mười phần hương sắc.

Thế nhưng nghe được lời nầy, nét mặt của Vương thị chỉ đắm chìm trong u ẩn.

Nếu lúc đó không có Liêm Châu tiên sinh vì trễ hẹn hộc tốc chạy vào thì bầu không khí giữa chúng tôi sẽ còn nặng nề hơn. May quá, lời bình phẩm của Yên Khách Ông vừa đến chỗ ngúc ngắc thì tiên sinh đã khoái hoạt nhập đám:

- Ủa, Thu Sơn Đồ vẫn được truyền tụng là đây à?

Chào hỏi vội vàng xong, tiên sinh đến đứng trước mặt bức tranh của Hoàng Nhất Phong. Im lặng hồi lâu, tiên sinh chỉ cắn râu không thốt ra một tiếng.

- Yên Khách tiên sinh cho biết năm mươi năm về trước cụ đã được xem tranh nầy một lần rồi.

Vương thị ra chiều lo lắng, giải thích thêm. Thật ra, Liêm Châu tiên sinh chưa hề được Yên Khách Ông bình phẩm cho nghe cái thần diệu của Thu Sơn Đồ.

- Thế nào ? Cụ giám định ra sao ?

Tiên sinh chỉ khẻ thở hắt ra, mắt vẫn không rời bức họa.

- Xin cụ chớ ngại ngùng, cứ bảo ban cho chúng tôi biết.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 56

Vương thị gượng cười, dục tiên sinh thêm lần nữa.

- Bức nầy đấy à, bức nầy nó ... .....

Mồm Liêm Châu tiên sinh mím lại.

- Bức nầy nó ... ... ... ... ... ... ... ... ....?

- Nó là danh tác số một của Si Ông đấy. Ngài cứ xem chỗ mây khói đậm nhạt kìa ! Không tràn trề sức sống là gì. Cách cho màu rừng cây phải gọi là thiên tạo mới đúng ! Nhìn cái đỉnh núi xa xa kia thử đi ! Toàn thể bố cục hài hoà với nó, không có gì sinh động hơn được.

Sau một hồi im lặng mới thấy Liêm Châu tiên sinh quay về hướng Vương thị không ngớt lời ca tụng và giảng giải từng chút cái cao diệu của bức họa. Tôi không thưa chắc cụ cũng đoán được là nghe đến đâu, mặt mày Vương thị rạng rỡ ra đến đấy.

Trong khi đó tôi và Yên Khách Ông ngầm đưa mắt nhìn nhau.

- Thưa thầy, đây là Thu Sơn Đồ thật sao ?

Thấy tôi hạ giọng hỏi, Ông khẻ lắc đầu, vừa nháy mắt một cái thật khó hiểu :

- Tóm lại mọi sự ở đời chỉ là thoáng chiêm bao. Xem sự thểxảy ra mới nghĩ thầm biết đâu chủ nhân họ Trương kia lại chẳng là một thứ tiên chồn!

*

- Chuyện Thu Sơn Đồ chỉ có thế thôi, thưa cụ !

Vương Thạch Cốc kể xong, mới chiêu trọn một chung trà.

- Thế à, câu chuyện quái lạ đấy chứ nhỉ !

Từ nãy giờ, Uẩn Nam Điền vẫn lặng ngắm ngọn lửa trên giá đuốc đồng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 57

-Về sau, dường như Vương thị cũng hết lòng thăm hỏi nhiều nơi nhưng nếu nói đến Thu Sơn Đồ của Si Ông thì ngoài bức ấy, ngay nhà họ Trương chắc cũng chẳng biết gì khác. Do đó, Thu Sơn Đồ mà Yên Khách Ông có lần được xem, một là có ai dấu biệt đâu đâu, hai là không gì khác hơn một điều lầm lẫn trong trí nhớ của cụ ta thôi. Sự thật thế nào, tôi không dám quyết. Có khi việc cụ khăn gói đến nhà họ Trương để tìm xem Thu Sơn Đồ cũng chỉ là một câu chuyện hoàn toàn huyễn hoặc ... ... ... ... ....

- Thế nhưng trong tâm trí Yên Khách Ông vẫn ghi khắc rành rành hình ảnh bức Thu Sơn Đồ kỳ quái kia chứ hở cụ ? Và trong tâm trí của cụ cũng thế phải không ?

- Màu lục đậm của đá núi và màu son đỏ của rừng phong cho đến bây giờ vẫn rõ mồn một trong đầu tôi.

- Nếu thế thì cho dù Thu Sơn Đồ không có thực chăng nữa, cụ có điều gì để tiếc hận đâu nào !

Đến đây, Uẩn, Vương hai bậc đại gia một lượt vỗ tay, cùng cười ha hả.

(Tháng 12 năm Taishô thứ 9)  Akutagawa Ryunosuke 

Người dịch : Nguyễn Nam Trân

 Chú thích

(1) - Hoàng Đại Si tức Hoàng Công Vọng (1269-1354) hiệu Nhất Phong, họa gia đời Nguyên, nổi tiếng về tranh sơn thủy. Một trong Tứ Đại Gia khoảng Tống mạt Nguyên sơ. (2) - Vương Thạch Cốc tức Vương Kỳ (1631-1717), họa gia đời Thanh, thiện tranh sơn thủy, tập đại thành họa pháp hai phái Nam Bắc Tống. (3) - Uẩn Nam Điền hay Uẩn Thọ Bình (1633-1690) họa gia đời Thanh, sau khi xem tranh sơn thủy của Vương Thạch Cốc thì bỏ sơn thủy mà chuyển qua tranh hoa điểu và thành công trong lĩnh vực nầy. 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 58

(4)  - Mai Đạo Nhân Ngô Trấn (1280-1354), họa gia đời Nguyên, có công nâng cao kỹ thuật của tranh sơn thủy, mặc trúc, mặc hoa, là một trong Tứ Đại Gia cũng như Hoàng Đại Si. (5) - Hoàng Hạc Sơn Tiều Vương Mông ( ? � 1385) họa gia đời Nguyên, một trong bốn đại gia, nổi tiếng về hội họa ( sơn thủy) lẫn văn chương. (6) - Yên Khách Ông Vương Thì Mẫn(1592-1680), họa gia thời Minh mạt Thanh sơ. Cuối đời, về ở ẩn và đào tạo đệ tử trong đó có Vương Thạch Cốc. (7) - Liêm Châu Vương Giám (1598-1677) cũng là họa gia cuối Minh đầu Thanh. Đứng ngang hàng với Vương Thì Mẫn, giỏi tranh sơn thủy. (8) - Nguyên Tể tiên sinh Đổng Kỳ Xương (1554-1636), hiệu Tư Bạch, họa gia thời Minh mạt. Đầu đàn họa phái Nam Tông. Giỏi thi phú. (9) - Mã Lương đời Tam Quốc có đôi mày trắng, tài tuấn nhất trong năm anh em, tất cả đều là người giỏi (Thục Chí, Mã Lương Truyện). (10) - Tây Viên Thư Phòng là thảo am của Yên Khách Ông Vương Thì Mẫn, người còn có biệt hiệu là Tây Lư Lão Nhân. (11) - Hoành điểm là phép vẽ núi, khe, sương, khói bằng cách chấm chấm nhiều điểm theo hàng ngang bên nhau.(12) - Cao Phòng Sơn tức Cao Khắc Cung (? - 1310) hoạ gia đời Nguyên, hiệu là Tú Sơn, vẽ sơn thủy có tiếng. (13) - Lý Doanh Khâu tức Lý Thành ( ?-967), họa gia Đường mạt Tống sơ, đại sư về tranh sơn thủy. (14) - Thẩm Thạch Điền tự Thẩm Chu (1426-1509), họa gia sơn thủy, sống giửa đời Minh, ông tổ của Ngô phái.(15) - Công Tôn Đại Nương là người diễn trò dưới đời Đường Huyền Tông, múa kiếm cực giỏi. Đổ Phủ từng làm thơ ca ngợi (Quan Công Tôn Đại Nương Đệ Tử Vũ Kiếm Khí Hành) (16) - Tuấn điểm: thủ pháp chấm phá từ thời Bắc Tống để làm khói mây, núi non đất đá trên mặt tranh nổi bật lên cả chiều dày, sinh động như thực.

__________________________________________________________________________

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 59

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 60

CHIẾC MÙI-SOANguyên tác : Hankechi 

Tác Giả: Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Người dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

 Lời Người Dịch:

Người dịch được đọc Hankechi bằng tiếng Việt lần đầu tiên khoảng năm 1963 ở Saigòn trên tạp chí Văn Họccủa nhóm các nhà văn Phan Kim Thịnh, Dương Kiền... dưới cái tựa "Chiếc Khăn Tay" nhưng không nhớ tên dịch giả. Năm 1972, người dịch đã thử dịch từ bản tiếng Nhật và đăng trên một nội san sinh viên ở Paris. Sau vài lần dọn nhà, bản đó cũng mất.Bản dưới đây dịch lại từ nguyên tác đăng trong Văn Học Nhật Bản Toàn Tập (A Treasury of Japanese Literature) của nhà Chuô-Kôron (1964), tập 29 nói về Akutagawa. Trong khi dịch, đã tham khảo bản tiếng Pháp do giáo sư Mori Arimasa (Le Mouchoir, in Rashômon et autres contes, Gallimard, Unesco, Paris, 1965).

Vũ sĩ đạo (Bushidô) được xem như một qui phạm đạo đức của giới quân nhân hình thành từ cuộc chiến tranh giữa hai họ Taira và Minamoto (cuối thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 12) thời trung cổ Nhật Bản, phát triển với mạc phủ Kamakura (1185-1333). Đến thời Tokugawa (1600-1868), nó kết hợp với tư tưởng Nho Giáo và trở thành một định chế chặt chẽ nhằm củng cố chế độ phong kiến. Trung thành, hy sinh, tín nghĩa, liêm sỉ, giữ lễ, kiệm ước, đơn sơ, trong sạch, trọng danh dự, yêu vũ nghệ, không sợ chết... là những đức tính cần thiết của người vũ sĩ được nhắc trong Hagakure (Diệp Ẩn, 1716), tác phẩm có tính cách kinh điển của vũ sĩ đạo do đệ tử của Yamamoto Jôchô (Sơn Bản Thường Triều, 1659-1719) chép lại lời ông giảng.Từ nhiều thế kỷ, dù đúng hay sai, vũ sĩ đạo được nhiều người coi như đồng nghĩa với lối sống Nhật Bản.

"Chiếc mùi-soa" là tác phẩm tiêu biểu của Akutagawa Ryuunosuke, trong đó, ông đặt lại vấn đề giá trị đích thực của vũ sĩ đạo từ một câu chuyện giản dị.

*

Ngả lưng trên chiếc ghế mây dưới hàng hiên, Hasegawa Kinzô (1), giáo sư

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 61

luật khoa Đại Học Đế Quốc Đông Kinh (2), đang đọc quyển Nghệ Thuật Viết Kịch (3) của Strindberg.

Lãnh vực nghiên cứu chuyên môn của giáo sư là chính sách thuộc địa nên chắc độc giả không khỏi chưng hửng khi thấy tả ông ta đang đọc quyển sách về thuật viết kịch. Tuy nhiên, giáo sư vừa có tiếng là một học giả kiêm nhà giáo dục nên sách vở dẫu không liên quan tới phạm vi nghiên cứu của mình, miễn nó ảnh hưởng đến lề lối suy nghĩ và tình cảm của đám sinh viên là giáo sư muốn liếc qua một lần cho biết.Dạo nầy, chỗ trường Cao Đẳng Chuyên Khoa nơi giáo sư vừa nhậm chức hiệu trưởng, đám sinh viên đang mê đọc Từ Hố Thẳm   (4)  và Ý Hướng Nghệ Thuật   (5)  của Oscar Wilde (6). Chừng đó lý do cũng đủ làm giáo sư bỏ công ra đọc mấy cuốn trên. Tính giáo sư thế đấy nên bây giờ có kể là sách ông đang cầm đọc vốn trình bày về các vở tuồng và diễn viên làng kịch Âu Châu cận đại thì chẳng có gì khiến ta phải lạ lùng. Nếu muốn rõ nguồn cơn thì xin thưa trong đám học trò giáo sư đào tạo, ngoài những cậu viết khảo luận về Ibsen (7), Strindberg hay Maeterlinck còn có cả nhiều cậu hăm hở theo dấu các nhà soạn kịch cận đại để sinh sống bằng nghề viết kịch nữa kia.

Cứ mỗi lần đọc xong một chương thấm thía, giáo sư lại để quyển sách bìa bọc vải màu vàng lên trên đùi, lơ đãng đưa mắt về phía chiếc lồng đèn Gifu (8) treo dưới mái hiên. Lạ cái là mỗi lần như thế, dòng suy nghĩ của giáo sư bỗng rời khỏi Strindberg lúc nào không biết. Thay vào đó, hình ảnh bà vợ, người đã cùng ông đi mua chiếc lồng đèn, lại hiện ra trong trí. Ông kết hôn trong thời gian du học Hoa Kỳ và dĩ nhiên ( 9 )  bà nhà là người Mỹ. Thế nhưng tình yêu đối với đất nước và con người Nhật Bản của bà chẳng thua gì kém chồng. Đặc biệt bà hết sức yêu thích đồ mỹ nghệ khéo léo của người Nhật. Do đó, chiếc lồng đèn Gifu treo dưới hiên nhà chính ra thể hiện sở thích cá nhân bà giáo chứ không phải khiếu thẩm mỹ của giáo sư Hasegawa.

Mỗi lần đặt sách xuống, dòng suy tưởng của giáo sư hết hướng về người vợ, về chiếc lồng đèn Gifu, rồi đến nền văn minh Nhật Bản tiêu biểu bằng chiếc lồng đèn nầy. Theo chỗ ông nhận xét, trong vòng năm mươi năm nay, văn

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 62

minh Nhật Bản đã có những bước tiến rõ rệt về phương diện vật chất. Thế nhưng về mặt tinh thần mà nói, hầu như không có tiến bộ nào đáng kể. Chẳng những thế, ở một ý nghĩa nào đó, nó còn tụt dốc nữa. Thế thì nhiệm vụ của nhà tư tưởng thời nay là phải tìm cách chỉ bảo đường lối thế nào giúp cho Nhật Bản thoát khỏi nguy cơ tuột dốc. Theo ông nhận định, không có cách gì khác hơn là dựa vào vũ sĩ đạo, một truyền thống lâu đời. Không nên xem vũ sĩ đạo như một thứ đạo đức hẹp hòi và cứng nhắc của một giống dân ở đảo. Ngược lại, trong vũ sĩ đạo đã có những giá trị giống y tinh thần Cơ Đốc Giáo của các quốc gia Âu Mỹ. Nếu làm mọi người chấp nhận được là với vũ sĩ đạo, có thể chấn chỉnh lại trào lưu tư tưởng Nhật Bản hiện đại thì coi như đã cống hiến lớn lao cho văn minh tinh thần của Nhật Bản rồi. Nhân đó tiến xa hơn mà giúp sự giao cảm giữa người Nhật và dân tộc các quốc gia Âu Mỹ thêm dễ dàng, chưa nói đến lợi ích đóng góp cho hòa bình thế giới. Điều này phù hợp với ước mơ đóng vai trò chiếc cầu nối hai bờ Đông Tây mà từ lâu giáo sư vẫn thường ôm ấp. Suy nghĩ đến đó, giáo sư không khỏi cảm thấy dễ chịu khi nhận ra có một sự cân đối hài hòa giữa ba yếu tố: bà vợ, chiếc lồng đèn Gifu và nền văn minh Nhật Bản tượng trưng bằng chiếc lồng đèn ấy.

Sự sung sướng mà giáo sư cảm nhận cứ trở về liên hồi làm ông tuy tiếp tục đọc sách mà chợt thấy tâm trí mình đã lãng đãng rời khỏi Strindberg. Ông bực bội lắc đầu và lại chăm chú cúi xuống dán mắt vào những hàng chữ li ti. Vừa vặn lúc đó, đoạn ông đọc tới có viết như thế nầy:

"Khi diễn viên tìm ra được một kỹ thuật diễn xuất thích hợp để diễn tả một tình cảm thường thức nào đó và thành công với lối diễn xuất ấy rồi, họ có thói quen cứ dùng đi dùng lại bất kể trong tình huống nào, có khi vì chuộng sự dễ dãi, có khi vì thành công nó đem đến. Đó là cái mà người ta gọi là " kiểu cọ (10)"...

Xưa nay, giáo sư vốn không phải là người rành rẽ về nghệ thuật. Kịch đối với ông như đàn gảy tai trâu. Ngay cả sân khấu truyền thống, từng tuổi nầy mà ông đã đi xem mấy lần đâu! Có lần một cậu sinh viên, khi viết tiểu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 63

thuyết, nhắc đến cái tên Baikô. Một người tự phụ học rộng nhớ dai như giáo sư mà cũng chịu, không biết nhân vật nầy là ai. Sau đó, giáo sư có dịp gọi anh chàng sinh viên ấy đến hỏi :

-Nầy em, Baikô là ai vậy ?

-Thưa thầy, Baikô (11) à ? Ông nầy là kép thường trực của rạp kịch Đế Quốc khu Marunouchi, hiện đóng vai Misao trong hồi thứ mười vở Taikôki (12) đấy ạ.

Anh học trò, mặc cái hakama (có sọc) của vùng Kokura kính cẩn trả lời thầy.

Do sự kém hiểu biết đó, giáo sư không thể có ý kiến gì về các loại kỹ thuật diễn xuất mà Strindberg đã phẩm bình với một ngòi bút sắc cạnh. Nó chỉ đem đến cho giáo sư chút đỉnh thích thú trong phạm vi những vở kịch mà ông nhớ đã được xem ở phương Tây thời còn du học. Nói cách khác, trường hợp của giáo sư không khác chút nào cảnh một như ông thầy Anh Văn bậc trung học, nhân vì đi kiếm vài thành ngữ mà bắt buộc phải đọc kịch bản của Bernard Shaw (13) . Tuy cái ích lợi quyển sách đem đến không phải thứ ông muốn tìm nhưng dù sao nó cũng là một thứ ích lợi.

Chiếc lồng đèn Gifu treo lửng trên trần hàng hiên vẫn chưa ai thắp. Và trên chiếc ghế mây, giáo sư Hasegawa Kinzô nhà ta vẫn đang xem giở cuốn " Thuật Viết Kịch " của Strindberg. Người viết chỉ cần tả như vậy thiết tưởng cũng đủ giúp độc giả hình dung một cách dễ dàng đó là một buổi xế trưa đầu hạ ngày còn dài lê thê. Tuy nhiên khi nói thế, tác giả không có ý bảo giáo sư chán ngán cái gì đâu. Nếu có vị nào giải thích kiểu đó là cố ý đem ý nghĩa câu văn của tác giả bóp méo để mỉa mai đấy.

Và bây giờ, cho dù là Strindberg đi nữa, giáo sư cũng đành cho rơi nửa chừng. Tại sao ấy à, vì cô bé giúp việc vào báo có khách đến thăm làm giáo sư chợt mất đi cái hứng thanh tao. Cho dù ngày có dài đến đâu, coi bộ người đời không tìm đến quấy quả giáo sư là họ không chịu được hay sao ấy!

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 64

Giáo sư đặt quyển sách xuống, cầm tấm danh thiếp cô bé giúp việc vừa mới đưa vào, liếc qua một lượt. Tấm thiệp mầu ngà có ghi mấy chữ Nishiyama Atsuko xinh xắn. Thật tình giáo sư không nhớ đã gặp người mang tên nầy bao giờ cả.Vừa đứng dậy khỏi cái ghế dựa bằng mây, con người giao thiệp rộng như giáo sư đã thử soát lại cuốn sổ trong đầu ghi tên tuổi tất cả những người quen biết một lần cho chắc. Thôi chịu, không có khuôn mặt nào trùng hợp với cái tên ấy. Giáo sư bèn xen tấm danh thiếp vào giữa quyển sách thay cho thẻ đánh dấu trang, đặt quyển sách lên trên chiếc ghế mây, xong, với thái độ hơi bồn chồn, ông vừa sửa lại tấm áo bằng tơ Meisen mặc trên người cho ngay ngắn, vừa thoáng ngước nhìn lần nữa chiếc lồng đèn Gifu treo ngang tầm mắt. Thói thường, trong trường hợp như thế nầy, kẻ nôn nóng không phải là người khách bị bắt chờ mà là chủ nhân bắt khách phải chờ. Huống chi giáo sư là người xưa nay vẫn hết sức cung kính đối với khách dầu lạ hay quen, nên ông không thể lấy cớ người đàn bà hôm nay không quen mà cố ý làm khác đi cho được.

Xem chừng giờ, giáo sư mở cửa phòng khách. Khi tay ông vừa buông khỏi nắm đấm cửa thì hầu như cùng một lúc, khách, một người đàn bà tuổi trạc bốn mươi đang ngồi trên ghế bỗng bật dậy. Khách mặc một chiếckimono lụa xám ánh lục thật sang trọng mà phẩm chất vượt ngoài cả tầm hiểu biết của giáo sư. Ở chỗ khép lơi lơi trước ngực áo haori choàng ngoài bằng sa đen, ánh lên một viên bích ngọc hình củ ấu để giữ chiếc thắt lưng, trông thật mát mắt. Một người không mấy tinh tế như giáo sư mà cũng nhận ra ngay bà khách búi tóc theo kiểu marumage(14)  . Bà ta có khuôn mặt bầu bầu và nước da đỏ thắm, đúng là dáng dấp tiêu biểu của bậc mẹ hiền dâu thảo trong xã hội Nhật cổ truyền. Mới nhìn thoáng thôi mà giáo sư có cảm tưởng đã thấy gương mặt nầy ở đâu rồi.

-Thưa tôi là Hasegawa.

Giáo sư vui vẻ cúi đầu chào. Tự giới thiệu đi thì nếu là người mình đã gặp rồi, thế nào phía kia cũng thông báo chuyện đó trước.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 65

-Dạ tôi là mẹ cháu Nishiyama Ken-ichirô.

Người đàn bà xưng tên bằng một giọng rõ ràng. Xong, lễ phép cúi đầu chào trả giáo sư.

Ai chứ Nishiyama Ken-ichrô thì giáo sư có biết. Chính anh ta là một trong những cậu sinh viên đã viết bình luận về Ibsen và Strindberg. Nếu không lầm thì anh ta chuyên môn về luật Đức nhưng từ khi lên đại học tới nay thường hay đem mấy vấn đề tư tưởng đến thỉnh ý giáo sư. Thế rồi mùa xuân nầy, anh mắc chứng viêm màng bụng phải vào nằm nhà thương của đại học. Giáo sư nhân dịp cũng đã vào thăm anh ta một hai lần. Suy ra, điều ông nghĩ rằng khuôn mặt của bà khách nầy mình đã có lần gặp ở đâu đó rồi cũng không phải thiếu căn cứ. Người con trai có cặp mày rậm và năng nổ kia với người phụ nữ nầy quả đúng như cách ví von của người Nhật, dung mạo hệt như " một quả dưa bổ đôi ". Giống nhau đến mức sửng sốt được.

-À, chú Nishiyama à. Ra thế!

Giáo sư vừa gật gù, chỉ tay về phía cái ghế đối diện bên kia chiếc bàn nhỏ:

-Xin mời bà ngồi.

Người đàn bà trước tiên xin lỗi đã đường đột đến gặp, lại cúi đầu thi lễ, rồi mới ngồi xuống chiếc ghế giáo sư vừa trỏ. Trong lúc làm động tác như thế, bà lấy trong ống tay áo ra một vật gì màu trắng, có lẽ là một chiếc mùi soa. Thấy vậy, giáo sư mau mắn mời bà dùng cây quạt Triều Tiên trên bàn rồi đến lượt mình ngồi xuống chiếc ghế trước mặt bà.

-Thưa nhà giáo sư trông đẹp quá ạ.

Người đàn bà có vẻ cố tình đảo mắt nhìn quanh căn phòng một vòng.

-Dạ chỉ được cái rộng chớ bừa lắm.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 66

Giáo sư vốn đã quen lối chào hỏi kiểu cách như thế.

Vừa vặn lúc đó, cô giúp việc mang trà ướp lạnh ra, giáo sư bảo cô ta để cho ngay ngắn trên bàn trước mặt khách, xong đổi hướng câu chuyện qua mục đích của cuộc thăm viếng.

-Thế chú Nishiyama thế nào? Bệnh tình chú ấy có khá ra không?

-...Vâng.

Người đàn bà đặt hai bàn tay lên đầu gối như đang băn khoăn điều gì. Tiếng của bà đứt ngang, xong mới tiếp tục bằng một giọng trầm tĩnh, thong thả:

-Thực ra, hôm nay tôi đến gặp giáo sư cũng là để thưa chuyện của cháu. Từ dạo đó trở đi, bệnh vô phương cứu chữa. Lúc còn sinh tiền, cháu đã làm phiền giáo sư quá đỗi...

Cho rằng người đàn bà chưa đưa tay ra đụng vào tách trà vì còn ngại ngùng, nên lúc đó, giáo sư định nhấc tách trà của mình đưa lên môi. Ông nghĩ thay vì mời mọc lôi thôi chi bằng cứ cho khách thấy mình uống trước thì họ sẽ làm theo. Thế nhưng tách trà chưa chạm vào bộ râu mép mềm mại của ông thì câu nói bà khách đã đập thốc vào tai. Uống trà hay là không uống trà? Câu hỏi nầy thực ra hoàn toàn độc lập với cái chết của người sinh viên kia nhưng trong một khoảnh khắc nó làm ông bối rối. Chẳng lẽ cứ nhấc tách lên như thế nầy, chẳng nhẽ chưa nhấp mà đặt xuống. Nghĩ đến đó, giáo sư không dùng dằng nữa, hớp một hớp cạn đến nửa tách, lòng dàu dàu se lại và giọng nói nghèn nghẹn.

-Ôi chao ôi!

-Lúc nằm bệnh viện, cháu nó vẫn hay nhắc đến giáo sư cho nên dù biết thời giờ giáo sư quí báu chúng tôi vẫn đánh bạo đến để xin phép báo tin cháu và tỏ lòng tri ân .....

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 67

-Thưa, tôi đâu dám.

Giáo sư đặt tách trà xuống, tay cầm cây quạt Triều Tiên có những cái nan đánh bóng mầu xanh, thừ người :

-Thế không cứu chú ấy được à. Khổ thân chưa ! Đường tương lai còn dài. Lúc sau nầy tôi không có dịp ghé đằng bệnh viện nên cứ ngỡ chú ấy khá ra rồi ... Thế chú ấy mất từ hồi nào vậy ?

-Hôm qua vừa đúng một tuần ạ.

-Trong bệnh viện à ?

-Thưa phải.

-Chết chửa! Thật ai mà ngờ!

-Dù sao thì việc gì trong tầm tay chúng tôi cũng đã làm hết sức, chỉ biết cúi đầu trước số mệnh. Nhưng mỗi khi nhớ đến cuộc đời của cháu, thật tôi không khỏi than trời trách đất.

Trong khi hai bên đang trao đổi câu chuyện, giáo sư chợt để ý đến một điều kỳ lạ. Nhìn thái độ và cử chỉ của người phụ nữ nầy, không thấy bà có vẻ gì đang nói về cái chết của con trai mình. Mắt không rưng một giọt lệ, giọng nói cũng bình thường. Không những thế, bên khoé miệng như còn điểm một nụ cười. Nếu không nghe bà ta nói chuyện mà chỉ nhìn dáng dấp bên ngoài thôi, ta chỉ có thể nghĩ bà đang nói chuyện cơm canh trà nước trong nhà. Giáo sư thấy đó là điều không tưởng tượng nỗi.

Ngày xưa, giáo sư có thời du học ở Berlin. Lúc đó nhằm khi Kaizer (15) William I tức là bố của Kaizer bây giờ, băng. Giáo sư nghe tin đó ở một quán cà phê ông hay lui tới và chẳng thấy cảm động gì cho lắm. Thế rồi cũng như mọi ngày, ông tươi tỉnh cắp gậy dưới nách trở về nhà trọ. Đến nơi vừa kịp mở cửa thì đã thấy hai đứa bé con nhà chủ chạy ùa ra bá cổ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 68

ông bù lu bù loa. Một đứa là con gái độ 12 tuổi, mặc cái áo len màu nâu, đứa kia là trai mới lên 9, quần xanh nước biển. Giáo sư vốn yêu trẻ con nên tuy không hiểu ất giáp gì cũng vò mái tóc nhàn nhạt của hai đứa vỗ về an ủi chúng: "Sao vậy mấy em? Sao vậy hở?". Bọn trẻ vẫn không ngừng khóc. Sau một hồi như vơi đi nỗi sầu khổ, chúng mới bảo "Đức vua ông nội chết rồi, chú ơi!"

Đối với giáo sư, cái chết của một nguyên thủ quốc gia khiến cho cả trẻ con cũng buồn bã như thế là một điều khó tưởng tượng. Thế nhưng không chỉ có liên hệ tình cảm của thần dân đối với vị hoàng đế của họ khiến giáo sư kinh ngạc. Từ khi đặt chân lên các quốc gia phương Tây, qua nhiều dịp tai nghe mắt thấy, giáo sư đã xúc động vì lối bộc lộ rõ ràng xung động tình cảm của người dân bản xứ, và lần ấy, sự bày tỏ nơi mấy đứa trẻ đã làm một người Nhật tin tưởng vào vũ sĩ đạo như ông phải sửng sốt. Ông không bao giờ quên được sự ngạc nhiên pha lẫn đồng tình đã dậy lên cùng một lượt trong lòng ông lúc đó. Hôm nay, ngược lại, ông cũng ngạc nhiên biết bao thấy người phụ nữ nầy không có lấy một giọt nước mắt.

Thế nhưng sau phát hiện đầu tiên nầy, ông lại phát hiện thêm một điều thứ hai.

Câu chuyện giữa chủ khách sau khi xoay quanh mối hoài niệm về chàng thanh niên đã khuất, đến chỗ mấy chi tiết về cuộc sống hằng ngày của anh ta, xong lại quay về với nỗi tiếc thương. Vừa vặn lúc ấy, không biết sái nhịp thế nào mà cây quạt Triều Tiên bất chợt tuột khỏi tay giáo sư rơi xuống mặt sàn lát gỗ vân. Câu chuyện đang nói dĩ nhiên chẳng phải gấp gáp đến nỗi không thể cắt ngang trong giây lát cho nên giáo sư mới hơi nhoài người ra khỏi ghế, cúi xuống duối tay về hướng mặt sàn. Dưới chân cái bàn nhỏ, lá quạt đang nằm bên cạnh bàn chân mang tất tabi trắng ẩn trong chiếc dép của bà khách.

Khi đó, mắt giáo sư tình cờ nhìn lên khoảng đầu gối của người đàn bà. Hai bàn tay cầm chiếc mùi soa của bà đang đặt trên đầu gối. Chỉ thấy chừng đó chi tiết thì chưa đáng nói là phát hiện gì cả. Thế nhưng cùng một lúc giáo sư

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 69

nhận ra rằng hai bàn tay ấy đang run lẩy bẩy. Không biết bà khách đang dồn hết sức lực để đè nén trào lòng đang dậy lên mãnh liệt hay sao mà hai bàn tay bà ghì chiếc mùi-soa chặt đến nỗi thiếu điều làm nó muốn rách. Thế rồi, từ giữa những ngón tay mềm mại đang nắm chiếc mùi-soa lụa vò nhàu kia thoảng ra một âm thanh nhẹ như gió thoảng làm lệch chỗ viền thêu xanh lục. Người phụ nữ kia, ngoài mặt như thể tươi cười nhưng từ khi nãy đến giờ, chính ra toàn thân bà đang nức nở.

Sau khi nhặt xong chiếc quạt và ngẫng đầu lên, vẻ mặt giáo sư khác hẳn từ đầu buổi gặp gỡ đến giờ. Một phần vừa ngượng ngùng vừa kính cẩn vì đã nhìn thấy một điều gì đáng lẽ mình không nên thấy, hai là vui thoả về điều vừa bắt gặp đã mang đến cho mình. Tuy hơi đóng kịch một chút nhưng đó là gương mặt biểu lộ cái tình cảm phức tạp bên trên kèm theo ý thức muốn phô bày sự hài lòng về điều đã cảm nhận.

-Thưa bà, tuy không có con nhưng tôi cũng thông cảm được với sự đau xót của bà.

Như người đang nhìn phải cái gì làm lóa mắt, giáo sư ngẩng đầu lên cao và hất cần cổ đằng sau, thốt ra câu nói với một giọng nhè nhẹ u buồn.

-Tôi xin hết sức cảm tạ lòng quí hóa của giáo sư. Nhưng nay chuyện đã qua rồi, còn biết thưa gì với giáo sư bây giờ....

Bà khách cúi đầu ngỏ lời. Thế nhưng trên khuôn mặt thanh thản kia vẫn điểm một nụ cười nhẹ nhàng.

*

Thế rồi hai tiếng đồng hồ sau, giáo sư khi đã đi tắm, dùng cơm chiều và nhón mấy quả anh đào tráng miệng xong, lại thủng thỉnh ra buông người lên chiếc ghế mây kê dưới hàng hiên.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 70

Buổi chiều một ngày hạ dài, ánh sáng sâm sẩm vẫn còn đọng không đi. Trên hàng hiên rộng mà cửa kính nhìn ra ngoài vườn mở toang, trời chưa dễ dàng chịu tối hẳn. Trong ánh nắng yếu lịm, giáo sư, chân trái gác tréo lên chân phải, dựa đầu vào thành ghế mây lơ đãng ngắm tua giây đỏ kết dưới chiếc lồng đèn Gifu. Quyển Strindberg kia, giáo sư cầm trên tay tự nãy giờ nhưng chưa buồn giở ra xem lấy một trang. Chuyện cũng dễ giải thích! Đầu óc của giáo sư bây giờ hãy còn đầy ắp hình dáng và cử chỉ của bà Nishiyama Atsuko.

Trong lúc dùng bữa chiều, giáo sư có kể cho phu nhân nghe một phần câu chuyện xảy ra. Nhân đó ông tỏ ra tán thưởng tinh thần vũ sĩ đạo của người đàn bà Nhật Bản. Phu nhân vốn yêu nước Nhật và người Nhật, dĩ nhiên chỉ biết đồng ý với chồng. Về phần giáo sư, ông cũng mãn nguyện vì có một người sốt sắng chịu lắng tai nghe mình như bà giáo. Cả phu nhân, bà khách ban nãy và chiếc lồng đèn Gifu, bây giờ đã hiện ra trong trí giáo sư như một tổng hợp ba phần lồng trong một khung cảnh đạo lý.

Không biết giáo sư đã chìm đắm trong dòng hồi tưởng như thế một khoảng thời gian dài đến bao lâu nhưng sau đó ông chợt nhớ ra việc một tạp chí mời ông viết bài. Tạp chí đó đưa ra đề tài dưới hình thức "Thư gửi cho lớp người trẻ hôm nay" để các vị có tên tuổi khắp nơi có thể trình bày quan điểm của mình về vấn đề đạo đức nói chung. Giáo sư vừa gãi đầu vừa nghĩ chi bằng ta lấy ngay tư liệu từ câu chuyện xảy ra hôm nay mà trình bày cho độc giả cảm tưởng của mình.

Bàn tay gãi dầu của giáo sư lại chính là bàn tay đang cầm quyển sách. Bây giờ ông mới để ý đến quyển sách bỏ quên từ hồi nãy và mở ra đọc tiếp trang có xen tấm danh thiếp đánh dấu chỗ đang đọc. Cũng nhằm lúc đó, cô giúp việc bước vào thắp chiếc lồng đèn Gifu nên có đủ ánh sáng cho ông. Dù chữ trong sách in nhỏ, đọc cũng không khó lắm. Chả có hứng thú bao lăm, ông vẫn để cặp mắt lướt bâng quơ trên những hàng chữ mà Strindberg viết như sau:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 71

"Khi tôi còn trẻ, người ta có kể cho nghe câu chuyện về chiếc khăn tay của bà Heiberg, có lẽ bắt nguồn từ Paris. Đó là một kỹ thuật diễn xuất hai tầng: mặt thì vẫn mỉm cười mà đã xé rách chiếc mùi-soa cầm trong tay làm đôi. Diễn xuất lối đó thì người ngày nay cho là khôi hài đen".

Giáo sư lại đặt quyển sách lên đùi. Chỗ ông đang mở, tấm danh thiếp của bà Nishiyama Atsuko vẫn nằm giữa hai trang nhưng cái còn đọng lại trong tâm trí ông, chẳng phải là hình ảnh người đàn bà ấy nữa. Cả hình ảnh của phu nhân lẫn nền văn minh Nhật Bản cũng không tuốt. Có một vật gì kỳ lạ không rõ hình thù đã phá vỡ sự hòa hợp và bình lặng của ba yếu tố nói trên. Cái lối diễn xuất mà Strindberg phê phán dĩ nhiên không liên quan tới vấn đề đạo đức trong cuộc sống. Tuy vậy, sau khi tiếp nhận gợi ý đến từ trang sách vừa đọc, có một cái gì đã làm rối loạn sự thoải mái mà ông cảm thấy lúc từ bồn tắm bước ra. Vũ sĩ đạo, rồi cái "kiểu cọ" của nó!

Giáo sư lắc đầu hai ba lần với vẻ khó chịu. Thế rồi, ông nhướng mắt nhìn lên và bắt đầu chăm chú ngắm nghía ánh sáng của chiếc lồng đèn Gifu có vẻ hình mấy cọng cỏ thu.

Taishô thứ 5 (1916) tháng 9  Akutagawa Ryunosuke 

Người dịch : Nguyễn Nam Trân

 Chú thích

(1)  Nhân vật hư cấu tạo theo mẫu Nitobe Inazô (1862-1933), học giả Nhật Bản, từng dạy các đại học Sapporo, Kyoto và Tokyo, sau chết ở Canada. Nitobe chịu ảnh hưởng tư tưởng Ki-Tô Giáo, nổi tiếng với tác phẩm Bushidô   (Vũ Sĩ Đạo) viết bằng tiếng Anh.

(2) Một trong 8 đại học hàng đầu lúc Nhật còn tự xưng là đế quốc.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 72

(3) Thuật Viết Kịch (Dramaturgie, 1907-1910), tác phẩm của August Strindberg (1849-1912), nhà soạn kịch Thụy Điển,một trong những người tiên phong của kịch nghệ hiện đại.

(4) De Profundis   (1905) trong đó, Wilde kể lại hai năm sống trong ngục tối của mình.

(5) Intentions   (1891), tập bình luận với quan điểm " nghệ thuật trên hết " của Wilde.

(6) Oscar Wilde (1854-1900), người Anh, nhà văn tiêu biểu của trường phái duy mỹ.

(7)  Henrik Ibsen (1828-1906), người Na Uy, nhà viết kịch thuộc trường phái tự nhiên, phê phán xã hội thị dân, đề nghị một phong cách mới cho kịch cận đại.

(8) Gifu Chôchin, một loại đèn lồng nan nhỏ phết giấy mỏng của vùng Gifu, trung bộ Nhật Bản, trang trí cây cỏ chim chóc rất trang nhã, có tính nghệ thuật dân gian. Dùng để treo bên hiên trong những chiều mùa hạ để đón gió mát hay đặt bên ban thờ Phật dịp lễ Vu Lan, đưa đường cho người chết về nhà.

(9) Thời đó, phụ nữ Nhật sống ở Mỹ rất hiếm hoi nếu không nói là không có.

(10) Nguyên văn Manieru (Manière theo tiếng Pháp)

(11) Kép hát Kabuki nổi tiếng Onoue Baikô (Vĩ Thượng, Mai Hạnh) tập danh đời thứ sáu (1870-1934). Từng là giám đốc rạp hát Đế Quốc dưới thời Meiji.

(12) Tuồng dựa trên hành trạng của tể tướng Toyotomi Hideyoshi (1536 ?-1598), một trong ba danh tướng có công thống nhất Nhật Bản.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 73

(13) George Bernard Shaw (1856-1950) nhà soạn kịch người Anh, giải Nobel Văn Chương.

(14) Một kiểu búi tóc của người đàn bà có chồng.

(15) Hoàng đế nước Đức 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 74

Nguyên tác Nhật ngữ của Cháo Khoai (Imogayu) mà người dịch sử dụng trích từ tuyển tập bỏ túi (bunkobon) Akutagawa Ryunosuke Sakuhinshu Kaihen (Tuyển Tập Akutagawa Ryunosuke Cải Biên) của nhà Kadogawa Bunko (Tokyo) ấn hành năm 1989.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 75

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 76

CHÁO KHOAINguyên tác : Imogayu (1916)  

Tác giả : Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Người dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Chuyện sau đây xảy ra vào cuối năm Gan-gyo (1) hoặc đầu năm Ninna (1) thì phải. Mà thôi, thời đại hay niên hiệu thật chẳng ăn nhập gì với những gì sẽ được kể đâu. Độc giả chỉ biết giùm cho bối cảnh của câu chuyện này là triều đại Hei-an(1) xa lắc xa lơ là đủ. Thuở ấy, trong đám thị tùng ở dinh quan nhiếp chính Fujiwara Mototsune có một anh ngũ-vị (2), hàng chức sắc hạng bét, tên Mỗ.

Đúng ra không có quyền viết Mỗ không khống mà phải nói chức ngũ-vị ấy là ai cho đủ danh đủ tánh, nhưng khổ nỗi, sách cổ (3) chỉ để lại chừng đó chi tiết... Hoặc giả một gã đàn ông quá tầm thường như Mỗ không đáng cho người ta phải nhớ tới tên. Văn nhân đời xưa vốn chẳng thiết tha gì với đám phàm phu tục tử và mấy chuyện vặt vãnh xoay quanh bọn chúng. Ở điểm này, họ khác hẳn những nhà văn thuộc trường phái tả chân Nhật Bản ngày nay. Các cụ ta xưa đâu phải là dân rảnh rỗi...... Nói tóm lại, trong đám người tùng sự ở cửa quan nhiếp chính Fujiwara Mototsune, có anh ngũ vị họ Mỗ, chức sắc hạng thấp nhất, nhân vật chính của câu chuyện.

Thần thái Mỗ ta chẳng có gì khởi sắc. Người đã lùn tịt còn thêm cánh mũi đỏ và hai đuôi mắt xệ. Râu mép dĩ nhiên lưa thưa ba sợi, cặp má lại hóp khiến cho cái cằm choắt đi một cách khác thường. Cặp môi thì......thôi, kể từng thứ một thì biết bao giờ cho hết! Đó là tất cả cái vô cùng bê bối trong tướng mạo của ông bạn họ Mỗ chúng ta.

Mỗ ở đâu chui ra và đến hầu hạ ở phủ Mototsune từ đời kiếp nào, chẳng ai rõ. Điều chắc chắn là không biết từ bao giờ, Mỗ vẫn mặc manh áo khoác bằng vải bô đã bạc màu, đội cái mũ đen nhàu nát, mỗi ngày lập đi lập lại phận sự của mình không biết chán. Đến nỗi những người nhìn thấy Mỗ bây giờ, không ai tưởng tượng được hắn cũng có một thời trai trẻ như ai. (Ngũ-vị thật ra phải trên bốn mươi). Chẳng thế, thiên hạ còn có cảm tưởng cái mũi đỏ vì dạn dày sương gió và ba tí râu cằm để cho ra vẻ kia từ thuở cha sinh mẹ đẻ đã biết nếm mùi những cơn gió luồng thổi tạt qua đại lộ Suzaku (4) rồi. Trên từ ông chủ tức quan nhiếp chính Mototsune đến bọn chăn bò phía dưới, ai cũng yên chí về điều đó nên không hề thắc mắc.

Một gã đàn ông tướng mạo như thế bị người chung quanh đối xử như thế nào, không cần viết ra mọi người cũng hiểu. Bọn kẻ ăn người ở trong phủ coi anh chàng còn tệ hơn ruồi nhặng. Hữu vị hay vô vị (5), tất cả đám tiểu lại gần hai mươi người, chẳng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 77

ai đếm xỉa đến khi hắn đi ra đi vào. Ngay khi hắn thưa gửi điều chi, bọn chúng cũng không thèm bỏ giở câu chuyện gẫu đang tán với nhau. Đối với chúng, ngũ-vị cũng thể như không khí, có đó mà không có đó, chẳng bận mắt ai. Bọn kẻ ăn người làm còn đối xử như thế thì nói chi hàng quan chức trong phủ. Việc họ chẳng coi hắn vào đâu cũng là lẽ thường tình. Đối với ngũ-vị, bọn họ dấu đằng sau bản mặt lãnh đạm một chút ác ý rất trẻ con, có bảo ban gì chỉ cần phất tay ra dấu. Nhưng ở đời, ngôn ngữ không phải đặt ra để làm cảnh nên không hẳn lúc nào bọn họ đều phất tay đâu. Nói chung, tất cả dường như nghĩ rằng đầu óc của ngũ-vị lú lẫn nên khi không có việc gì sai bảo, họ thường quét một cái nhìn dò xét trên xuống dưới, dưới lên trên, từ chỏm mũ màu quạ nhàu nát đến gót đôi giép rơm lệch lạc của anh chàng, cười mũi một cái rồi ngoáy đít quay đi. Trước cảnh tượng như vậy, ngũ-vị vẫn không hề tỏ ra tức giận. Gặp bất công mà chẳng cảm thấy bất công để có phản ứng, mới biết anh ta khiếp nhược đến chừng nào.

Bọn đồng sự với ngũ-vị càng ngày càng lấn lướt trêu chọc. Lớp có tuổi một chút thường đem cái dáng dấp lôi thôi lếch thếch của hắn để khơi mào kho truyện tiếu lâm, người trẻ hơn thì lợi dụng những lúc đó để trau dồi tài giểu cợt. Trước mắt ngũ-vị, bọn chúng đàm tiếu không biết chán về cái mũi đỏ cà chua, hàm râu lún phún, vai áo vải bô và chiếc mũ quạ của anh chàng. Đôi lúc chúng còn đem cô vợ lẹm cằm mà ngũ-vị đã thôi nhau từ năm sáu năm trước cũng như tình tiết lem nhem của ả ta với ông sư nát rượu ra mà kháo. Đó là chưa tính đến những lối đùa nghịch trời đánh khác, không đếm hết. Chỉ cần viết ra chuyện bọn chúng lấy ống trúc đựng rượu của ngũ-vị (6), uống cho kỳ hết rồi đái vào đó thì mọi người có thể từ đó tưởng tượng ra bao nhiêu trò khác.

Ngũ-vị lại không mảy may xúc động trước những thí dụ mới đưa ra. Bảo "hình như" không xúc động thì có lẽ khách quan hơn. Ai nói mặc sức nói, sắc mặt của anh ta không thay đổi, chỉ lặng im, mân mê mấy sợi râu cằm rồi làm nốt việc đang bận tay. Ngoại trừ lúc bọn chúng chơi lố như kết tua giấy trên chỏm tóc hay cột giép rơm vào vỏ kiếm thì hắn mới mêu mếu một chút, dở cười dở khóc lên tiếng "không được nghe bay!". Nhìn khuôn mặt và nghe giọng nói đó, bọn mất dạy cũng có lúc chạnh lòng. (Người bị bọn chúng trêu chọc không chỉ có một mình ngũ-vị với cái mũi đỏ của y. Nhiều người bị chọc ghẹo đã mượn vẻ mặt và giọng nói của ngũ-vị để trách móc sự vô tình của chúng ) . Vì vậy, trong thoáng nào đó, cũng có tí thương cảm mơ hồ thấm

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 78

nhẹ vào lòng của chúng. Nhưng kẻ giữ được lâu dài chút tình cảm đó không có mấy ai. Trong đám hiếm hoi còn chút lòng tốt, có một anh vô-vị, nghĩa là không chức tước gì. Anh ta người xứ Tanba, hãy còn trẻ, trên mép miệng mới nhú chút râu mềm như lông măng. Dĩ nhiên anh chàng này buổi đầu còn bắt chước mọi người, chẳng mắc mớ gì cũng đem cái mũi đỏ của ngũ-vị ra chế nhạo. Đến một hôm, có dịp nghe "Không được nghe bay!" thì câu trách cứ kia không lúc nào rời khỏi tâm trí anh ta nữa. Từ ấy, trong ánh mắt của anh, ngũ-vị là một con người khác. Bởi vì khuôn mặt hom hem, xanh xao và khờ khạo của ngũ-vị đã toát ra tất cả uất ức của một "con người" bị đồng loại áp bức. Mỗi lần nghĩ về ngũ-vị là anh chàng vô (địa) vị này chợt thấy hiện ra trước mắt mọi thấp hèn của giống người. Cái mũi đỏ vì sương ăn và hàm râu thưa thớt kia tự dưng đã đem lại cho anh một chút dịu ngọt trong lòng.

Tình người tốt đẹp chỉ còn sót lại ở mỗi anh bạn ấy. Trừ lúc hưởng chút ngoại lệ trên, ngũ-vị vẫn tiếp tục sống cái kiếp chó ghẻ. Ngũ-vị ta không có cả lấy một tấm áo nên hồn. Thật tình hắn vốn có cái áo khoác bằng vải bô và cái quần cùng một màu xanh thẫm nhưng đến nay thì màu thẫm kia đã bạc thếch thành một thứ màu không biết gọi là xanh hay lam nữa. Cầu vai đã trệ xuống, chỗ cài khuy với đường viền hoa cúc biến thành một thứ màu dị hợm, còn gấu quần thì bên thấp bên cao. Bên trong quần lòi ra cặp chân khẳng khiu chẳng có nổi mảnh hakama (7) che đằng trước. Không đợi đến lời bàn ác nghiệt của bọn đồng liêu, ai mà chẳng tội nghiệp khi thấy cái tướng ngũ-vị bước đi hệt như con bò đói đang kéo xe cho một ông chủ đói. Đó là chưa kể thanh đao to bản hắn đeo hình thù cũng lơ mơ, thếp vàng trên cán đã phai mà nước sơn đen vỏ bọc cũng bong ra. Ngũ-vị vác cái mũi đỏ kia, lệch xệch đôi dép cũ, cong cái lưng vốn còng sẵn, co rút đi dưới bầu trời lập đông. Bước thấp bước cao, mắt hắn nhìn phải nhìn trái như đang tìm kiếm vật gì khiến bọn bán hàng rong bên đường cũng tìm cách trêu chọc. Cả những cơ sự như sau lại còn xảy ra nữa chứ!...

Hôm ấy, lúc ngũ-vị đi từ cửa Sanjobo về phía vườn Shinsen (8) thì bọn trẻ con năm sáu đứa đã tụ tập ven đường, không biết bày trò gì. Tưởng chúng lôi kéo con ngựa con nào chạy vòng vo chơi thì nhìn từ đằng sau mới biết chúng đang thắt thòng lọng trên cổ một chú khuyển lạc chủ, hùa nhau đánh con vật. Ngũ-vị vốn hèn nhát, cho đến nay có đồng tình với ai cũng suy trước tính sau, chưa bao giờ dám tỏ bằng hành động. Tuy nhiên kỳ này, đối thủ là bọn trẻ con nên anh ta bỗng dạn dĩ ra. Ngũ-vị sửa soạn một nụ cười cầu tài, bước đến vỗ vỗ vào vai thằng có lẽ là đầu đảng. "Thôi tha

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 79

cho nó đi. Chó cũng biết đau chứ, mấy em!." Nghe thế, thằng bé kia quay quắt lại, nhướng mắt trừng trừng nhìn hắn khinh miệt, cái ánh mắt mà ngũ-vị đã từng biết mùi khi cấp trên ném vào bản mặt của hắn lúc không được việc cho họ. "Đừng xía vô chuyện chúng ông!", thằng bé vừa đặt một chân chấm đất, vừa bĩu môi; "Mắc mớ gì mày hở, thằng mũi đỏ!". Ngũ-vị cảm thấy như ăn tát. Thế mà hắn ta vẫn không dám coi đó là hỗn xược, trong lòng cũng không hề loé lên một tia lửa giận. Hắn tự trách tại sao can thiệp làm chi vào chuyện chẳng dính dáng gì tới mình và chỉ mắc cỡ cho bản thân thôi. Hắn lúng ta lúng túng giấu nụ cười gượng gạo, lẳng lặng rảo bước về hướng vườn Shinsen. Sau lưng, bọn trẻ con quàng vai nhau, phùng mang trợn mắt, thè lưỡi làm hề. Dĩ nhiên, hắn không biết chuyện đó, mà có biết thì cái anh ngũ-vị chết khiếp này đã làm được gì nào?...

Nếu bảo nhân vật chính của câu chuyện này ra đời để cho người ta khinh rẻ chà đạp và không có một ước mơ gì thì không đúng đâu. Từ năm sáu năm nay, ngũ-vị hết sức thèm món ăn gọi là cháo khoai. Cháo khoai là cháo trộn với khoai rừng chặt thành miếng và ninh nhừ trong nước cốt của một loài sắn ngọt. Thời ấy, món ăn này được coi như ngon nhất trần đời, cỗ bàn của những bậc giàu sang không thể thiếu nó. Do đó, chỉ vào dịp thết khách ngày mùng hai Tết trong phủ, mỗi năm chàng Mỗ ngũ-vị của chúng ta mới được nếm một lần. Nói là ăn chứ thực tình hắn chỉ húp được một ngụm nhỏ để tráng sơ cổ họng. Ước mơ duy nhất của hắn thuở giờ là làm sao ăn được một bữa cháo khoai thứa bứa. Dĩ nhiên hắn chưa hề thổ lộ ước mơ này cho bất cứ ai. Tuy bản thân không hề ý thức một cách hẳn hoi rằng ăn một bữa cháo khoai cho đã thèm là giấc mộng bình sinh của hắn nhưng có ai bảo hắn sinh ra chỉ để ngồi đợi một nồi cháo khoai thì chắc không oan tí nào...... Con người ta có lúc hiến mất cuộc đời của mình cho một ước mơ, lúc đạt được lúc không, mà nội dung của ước mơ đó chính mình không nắm trọn. Ai mà cười cái điều ngu này là kẻ kết cuộc chỉ đứng bên lề cuộc đời.

Dầu sao đi nữa, cái mộng tưởng "cháo khoai ăn đã đời" đó đã được thực hiện một cách hết sức đơn giản và mục đích của truyện Cháo Khoai nhằm thuật lại đầu đuôi sự việc xảy ra.

***Một năm vào mồng hai tháng giêng, nhằm lúc tiệc Rinji No Kyaku được thết ở phủ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 80

đệ của Mototsune (tiệc này trùng ngày với tiệc tân niên trong hoàng cung, là dịp quan Nhiếp Chính Tể Tướng thết đãi các quan dưới cấp bậc đại thần nhưng nó cũng là một đại yến). Ngũ-vị cùng với bọn thị tùng đồng sự có dịp nếm các cỗ bàn thừa. Thời đó chưa có lệ chia cỗ thừa cho người ngoài, bọn vũ sĩ nhà nào nhà nấy họp nhau trên sảnh hưởng lộc mà thôi. Nói là đại yến nhưng vào thời xưa, đồ ăn tuy nhiều mà món ăn chẳng có bao nhiêu, quanh quẩn bánh dày tươi, bánh dầy rán, bào ngư hấp, khô chim, cá mùa đông ở Uji, cá chép vùng Omi, cá mè sống xắt lát, bọc trứng cá hồi, bạch tuộc nướng, tôm to, cam, quít, quất, hồng khô... Chỉ có điều trong số đó có chút cháo khoai đã nói. Mỗi năm, ngũ-vị lại có dịp thưởng thức món ăn khoái khẩu của hắn. Vì lúc nào nhân số cũng đông, có vài hớp cháo thật chẳng bõ dính mép. Năm nay đặc biệt lượng cháo lại ít, chắc thế nên hắn cảm thấy ngon hơn mọi lần. Sau khi húp xong phần mình, ngũ-vị đăm đăm nhìn đáy bát, vừa lấy tay lau mấy giọt cháo dính trên chòm râu, không biết nói một mình hay nói với ai: "Bao giờ ăn được bữa cháo cho đã đời hả ta!"

- Ông anh ngũ-vị chưa ăn bữa cháo nào sướng miệng hay sao?

Ngũ-vị ta chưa dứt lời đã có kẻ trêu cợt. Giọng ai lanh lảnh, tự tín, ra vẻ con nhà võ. Ngũ-vị ngẩng cái cổ rụt, lấm lét nhìn về hướng đó. Người đang nói chẳng ai khác hơn là Fujiwara Toshihito, con trai Tokinaga, đại thần coi về tài chánh. Toshihito là một trang nam tử lưng dài vai rộng, đang húp rượu sùm sụp và nhai mấy hạt dẻ nướng đưa cay. Coi bộ chàng ta đã ngà ngà.

- Tội nghiệp quan bác quá nhỉ!

Toshihito thấy ngũ-vị ngẩng đầu, bèn thốt ra một câu hỏi nửa thương hại nửa khinh miệt. Anh ta tiếp lời:

- Nếu muốn, Toshihito này sẽ giúp quan bác xơi bữa cháo đến ngấy mới thôi.

Con chó suốt đời bị bắt nạt thì có ai cho miếng thịt cũng chẳng dễ gì đến chụp ngay. Ngũ-vị lại phô ra cái gương mặt dở khóc dở cười cố hữu, hết nhìn Toshihito lại nhìn cái bát không như thể so sánh.

- Sao, chịu không?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 81

.............................

- Hử, nói đi chứ?

.............................

Ngũ-vị cảm thấy tia mắt đám thực khách đang đổ dồn lên mình hắn. Trả lời một câu sẽ bị chế nhạo một câu. Hắn biết nói cách nào chúng cũng giễu cợt cho được nên hơi chần chừ. Toshihito mới lập lại câu hỏi như có ý che chở:

- Muốn sao thì cứ nói đi chứ!

Nếu không nghe thế chắc ngũ-vị mãi mãi tiếp tục hết nhìn anh chàng rồi lại nhìn đáy bát. Lúc đó mới nghe ngũ-vị đáp:

- Thế còn gì bằng.

Câu trả lời suôn đuột của ngũ-vị một lúc đã làm cử tọa giật nẩy.

- Thế còn gì bằng.

Đã có kẻ nào nhại giọng ngũ-vị. Giữa đám mũ áo đang cúi xuống dãy bàn cỗ bàn chén bát la liệt thức ăn xanh đỏ đủ màu, bổng nổi lên trận cười và tiếng nói ồn ào như sóng vỡ bờ. Người cười lớn và có giọng to hơn cả chính là Toshihito.

- Được rồi, mai mốt tôi sẽ mời quan bác.

Vừa nói, hắn ta hơi nhăn mặt một tí. Đã nốc rượu nhiều lại muốn nhịn cười nên hắn cảm thấy nghèn nghẹn ở cổ:

- Có được không?

- Thế còn gì bằng.

Ngũ-vị mặt đỏ lên, lắp bắp lại câu trả lời và mỗi lần như thế lại gây thêm một tràng cười vỡ chợ. Toshihito cũng không nhịn được, cười rung cả hai vai. Anh chàng thô

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 82

lỗ người miền Bắc này chỉ biết có hai cách sống : một là uống rượu và hai là cười đùa.

May thay, thực khách rồi cũng bỏ quên hai người và đổi qua đề tài khác. Mặc dầu ngũ vị là cái đích cho mọi sự châm chọc, hình như cử tọa cảm thấy khó chịu khi họ phải dồn tất cả sự chú ý của mình vào cái anh mũi đỏ này. Lúc rượu và thức nhắm bắt đầu cạn, mọi người đang lắng nghe câu chuyện một anh vũ sĩ học việc ngu ngơ đút cả hai chân vào một bên bàn đạp bên hông để hòng trèo lên mình ngựa. Riêng có ngũ vị hầu như chẳng để tâm trí vào mấy chuyện đó vì hai chữ "cháo khoai" đã hớp hồn hắn rồi. Cho dù trước mắt có chim trĩ quay, hắn cũng không buồn đụng đũa, cho dù có bày cơm rượu ngọt (9), hắn cũng chẳng đưa lên miệng. Ngũ vị chỉ biết đặt hai tay lên đầu gối, sượng sùng đếm từng chân tóc đã dạn dày sương gió, bẽn lẽn như gái nhà lành đợi người coi mắt. Đăm đăm nhìn vào cái đáy bát sơn đen, hắn khờ khạo cười một mình.

*

Thế rồi năm sáu hôm sau, vào một buổi sáng, có hai ngươi đàn ông lặng lẽ sóng ngựa trên con đường dọc theo bờ sông Kamo về hướng Awataguchi. Một người mặc bộ quần áo đi săn màu xanh nhạt, bên sườn đeo thanh đại đao, râu tóc đen nhánh. Người kia là một vũ sĩ tuổi trạc bốn mươi, gã ta trùm lên người manh áo vải bô dúm dó. Từ giãi giây lưng thắt luộm tha luộm thuộm đến cánh mũi đỏ ướt rượt nước mũi, toàn thân anh ta toát ra một vẻ tội nghiệp. Hai người cưỡi hai con ngựa chừng ba tuổi, con đầu lông đỏ, con sau lông xám, là loại tuấn mã đủ làm cho bọn bán hàng rong và vũ sĩ đi đường phải ngoái đầu xem. Đằng sau họ, hai kẻ tùy tùng vác hòm xiểng đang rảo bước để đuổi theo kịp bước ngựa. Không nói ai cũng biết đó là bọn Toshihito và ngũ-vị.

Tuy là ngày đông nhưng thời tiết tạnh ráo, êm ả. Không có lấy một ngọn gió làm lay động mấy bụi cỏ bồng khô bên bờ sông nơi giòng nước lặng lẽ trôi giữa mấy phiến đá trắng. Vài cây liễu buông cành trụi lá xuống mặt nước được ánh nắng ngày ve vuốt, in bóng trên đường cái. Dưới mấy cành con, lũ chim chích quẩy đuôi đùa giỡn. Cao hơn vùng lục đậm của rặng Higashiyama, toàn bộ ngọn Hieinoyama hiện ra đầy đặn như hai cánh vai mượt bị sương ăn. Vỏ xa cừ cẩn trên yên lấp lánh dưới ánh mặt trời. Hai người khách không thèm ra roi, chậm rãi cho ngựa nhắm hướng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 83

Awataguchi.

- Mạn phép hỏi tôn ông đưa tôi đi tận đâu?

- Gần đây thôi, không đến nỗi xa như quan bác nghĩ.

- Thế chắc chung quanh vùng Awataguchi thôi nhỉ ?

- Quan bác cứ tạm xem như thế là được.

Sáng nay khi rủ rê ngũ-vị, Toshihito chỉ nói sẽ dẫn hắn đi xem một ngọn suối nước nóng mới phun ở vùng Higashiyama thôi. Anh ngũ-vị mũi đỏ tình thật nghe theo. Lâu ngày không được tắm suối, thân thể đã cảm thấy ngứa ngáy. Nếu vừa có cháo khoai xơi lại có nước khoáng để ngâm thì hạnh phúc nào bằng. Nghĩ tới đây hắn đã thấy Toshihito tiến đến, đành phải thúc con ngựa xám theo lên. Tuy thế, từ lúc cùng ra roi tới giờ, coi bộ Toshihito không hề có ý dừng chân ở gần nơi đây. Chẳng

biết từ lúc nào, hai người đã bỏ Awataguchi lại đằng sau.

- Uả, đây không phải là Awataguchi ?

- Mình vừa đi ngang qua đó đấy.

Toshihito vừa nén nụ cười, cố ý tránh cái nhìn của ngũ-vị, lẳng lặng rong cương. Nhà dân hai bên đường đã bắt đầu thưa thớt và giờ đây, trên cánh đồng hoang trải rộng dưới trời đông chỉ có vài chiếc quạ lẻ kiếm mồi. Chút tuyết nhờ nấp vào bóng núi vẫn chưa tan đang bốc hơi nước như những đợt khói xanh. Tuy ngày tạnh ráo nhưng cảnh những ngọn thù du trơ trụi chọc thủng nền trời đến nhức mắt không khỏi làm khách đi đường gây lạnh.

- Thế mình đã đến quãng Yamanashi chưa ông nhỉ ?

- Yamanashi hử, còn hơi xa chút xíu.

Nói thì nói chứ vừa vặn lúc đó, họ đã qua béng Yamanashi. Rồi không biết tự bao giờ, họ bỏ cả Sekiyama lại đằng sau, qua giờ ngọ, địa đầu vùng Miidera đã hiện ra.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 84

Trụ trì chùa Miidera vốn là chỗ tương đắc với Toshihito. Hai người vào thăm nhà sư, xin thụ trai. Cơm nước xong, khách lại tiếp tục ra roi. Quãng đường này so với đoạn trước lại càng hoang vắng. Thời buổi đó rất đỗi nhiễu nhương, đạo tặc như ong. Ngũ-vị rụt thêm cần cổ, nhìn Toshihito dò hỏi :

- Vẫn còn xa hử ông ?

Toshihito mỉm cười, nụ cười của một đứa trẻ chơi trò tinh nghịch bị người lớn bắt gặp. Nếp nhíu ở cánh mũi và bắp thịt dưới mắt đang giãn ra chứng tỏ anh ta chần chừ, nửa muốn cười nửa không. Thế xong, anh ta đáp một mạch :

- Thực tình tôi muốn đưa bác đến Tsuruga cơ !

Toshihito cười, trỏ roi ngựa về hướng chân trời xa. Phía roi trỏ đã thấy mặt hồ Omi loáng bạc dưới ánh mặt trời.

Ngũ-vị đâm ra hoang mang :

- Tsuruga nào, có phải Tsuruga mãi Echizen không ? Cái xứ đó nó .....

Chuyện Toshihito từ ngày làm rể tay hào tộc vùng Tsuruga là Fujiwara Arihito, lại vẫn thường về đấy chơi là điều ngũ-vị không phải không nghe nói. Tuy nhiên phải theo anh ta tận Tsuruga là điều đến giờ phút này hắn thật chưa hề nghĩ tới. Lý do thứ nhất là xứ Echizen đường xa diệu vợi, thứ hai chỉ dắt hai người tùy tùng thì biết có tới nơi an toàn hay không. Chưa kể độ rày thiên hạ đồn đại cường hào vùng này giết người như ngóe... Ngũ-vị nhìn Toshihito, vẻ mặt như van lơn :

- Tưởng là Higashiyama, té ra Yamanashi. Đinh ninh là Yamanashi, lại thành Miidera. Rốt cuộc phải đi Tsuruga tận xứ Echizen. Thế là thế nào hử ông ? Đúng ngay từ đầu, có phải ông đã chủ tâm kéo tôi đến đó rồi không ? Ai đời đi tận Tsuruga!

Ngũ vị thều thào và thiếu điều bật khóc. Nếu không có câu "cháo khoai ăn đã đời" cổ vũ cho lòng can đảm thì chắc anh ta đã rẽ cương lối khác trở về Kyoto rồi cũng nên.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 85

- Toshihito tôi một mình sức địch nghìn người. Quan bác chớ lo chuyện đường xá.

Nhìn vẻ bối rối của ngũ-vị, Toshihito hơi nhíu mày nhưng cả cười. Xong anh ta gọi tên phu khiêng đồ đến, lấy túi tên đeo lên lưng, rút cây cung cứng sơn đen đặt ngang yên, giục ngựa đi trước dẫn đường. Đã đến nước này thì người chết nhát như ngũ-vị cũng chỉ biết nhắm mắt tuân theo ý chí sắt đá của Toshihito thôi. Nhìn phong cảnh hoang vu ảm đạm chung quanh, lòng những lo âu, ngũ-vị lẩm nhẩm niệm mấy câu kinh Quan Âm còn nhớ chữ được chữ mất, cái mũi đỏ cúi gầm xuống gần chạm yên, để con ngựa bước thấp bước cao đưa mình đi.

Tiếng vó câu âm vang rời rạc giữa một vùng cỏ tranh vàng bạt ngàn điểm dăm ba đầm nước lạnh lẽo phản chiếu bầu trời trong khiến buổi chiều đông như sắp đóng giá. Đằng xa, rặng núi có lẽ đúng hướng mặt trời nên không còn chút tuyết tàn, trải thành một vệt tím bầm, chỉ điểm chút màu bạc của mấy bụi lau kkô, nhưng mấy gã tùy tùng có thời giờ đâu mà để ý tới những chi tiết ấy......Vừa lúc đó, Toshihito đột nhiên, hướng về ngũ-vị cất giọng:

- Ấy, sứ giả đến kia, mình nhắn tin cho Tsuruga đi !

Ngũ-vị không hiểu ý nghĩa của câu nói, lo lắng giương mắt nhìn về chỗ Toshihito trỏ cán cung. Dĩ nhiên phía đó tuyệt không một bóng người. Giữa lùm cây nơi có giống giây leo như nho dại bò lan, một chú chồn với bộ lông vàng ấm đang chậm bước dưới ánh nắng chiều... Thoắt cái, chồn ta phóng mình vọt chạy. Chỉ vì lúc ấy Toshihito bỗng quất roi, giục ngựa như bay về hướng đó. Ngũ-vị không còn hồn vía, chỉ biết đuổi theo Toshihito. Hai người tùy tùng cũng cố theo bén gót. Trong một chốc, tiếng vó ngựa đạp trên sỏi nghe cồm cộp phá tan sự yên tĩnh của cánh đồng rộng, rốt cục, đã thấy Toshihito dừng cương, xách chú chồn trên tay bằng hai chân sau và treo ngược nó bên yên ngựa. Có lẽ chồn ta chạy hết nổi, cùng đường phải nằm bẹp dưới chân ngựa để bị bắt. Ngũ-vị vội lấy tay quệt mồ hôi đọng trên bộ râu lưa thưa, tế ngựa đến bên cạnh.

- Này chồn, nghe rõ đây!

Toshihito kéo chồn lên ngang tầm mắt, ra vẽ kênh kiệu nói:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 86

- Nội đêm nay, phải báo dưới ấp có Toshihito sắp xuống Tsugura, hiểu chưa!

Nói vừa dứt lời, Toshihito đã vung tay ném chú chồn vào bụi cỏ đằng xa.

- Trời, coi nó chạy kìa, coi nó chạy!

Hai người tùy tùng đến giờ mới bắt kịp, nhìn về hướng con chồn đang chạy trốn, vỗ tay khen không dứt. Con thú với cái lưng màu lá úa vượt bờ bụi đất lá, thoăn thoắt trong ánh nắng của buổi chiều vàng. Từ chỗ bọn người đang đứng nhìn, tưởng gần như có thể đưa tay ra bắt lấy được. Họ có cảm tưởng như vậy vì trong khi mải đuổi theo con chồn, bọn họ đã đến chỗ cánh đồng đổ thoai thoải xuống lòng một con sông cạn, lúc nào không hay.

- Cái ông sứ giả này khó nhờ quá nhỉ!

Ngũ-vị bây giờ mới ngẩng mặt nhìn con người võ biền có tài lạ sai khiến cả muông thú kia, buột miệng đưa ra một nhận xét ngây thơ, vừa xu phụ vừa thật tình kính nể. Khỏi phải nói, ngũ-vị nhận ra khoảng cách giữa Toshihito và hắn là một trời một vực, có điều cái ý chí nhỏ bé của hắn được cái ý chí mạnh mẽ rộng lớn của Toshihito bao bọc làm hắn thấy yên tâm. Sự a dua có lẽ được sinh ra trong những trường hợp như thế này. Nếu từ đây về sau, độc giả có bắt gặp ở đâu thái độ phường tuồng của anh chàng mũi đỏ thì xin đừng lấy làm kỳ quặc.

Con chồn bị ném kia chạy lăn cù xuống triền dốc, phóng phom phom giữa mấy phiến đá giăng ngang lòng sông cạn rồi sẵn trớn, trèo cheo chéo lên được bờ dốc. Vừa chạy nó vừa ngoảnh lại thấy người vũ sĩ đã chụp được mình và đoàn người tháp tùng vẫn còn ghìm cương giăng hàng trên bờ dốc bên kia, trông xa nhỏ như những ngón tay sắp bên nhau. Hai con ngựa, một bờm hung đỏ, một bờm xám tắm nắng hoàng hôn, như trôi ra từ đợt sương chiều.

*Như dự định, sáng hôm sau mới khoảng giờ Tỵ, đoàn người đã đến Takashima. Đây là một vùng thôn ổ nhìn xuống hồ Biwa. Dưới bầu trời nặng mây khác hẳn hôm qua, chỉ có vài nếp tranh lơ thơ rải rác. Cạnh kè đá giữa mấy ngọn tùng là mặt nước hồ xám lạnh gợn chút sóng lăn tăn như một tấm gương lâu ngày bám bụi...... Đến quãng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 87

này, Toshihito mới ngoái lại nói với ngũ-vị:

- Này, bác xem, bọn người nhà đến đón chúng mình đó.

Đúng thế thật, một đám trai tráng hai ba mươi người, kẻ đi ngựa người cuốc bộ đang dắt hai thớt ngựa đủ cả yên cương, tay áo khoác phần phật trong gió lạnh, từ phía bờ hồ giữa những hàng tùng đang nhanh chân về phía khách. Chẳng mấy chốc bọn họ đã đến nơi, kẻ đi ngựa vội vàng xuống yên, người đi bộ giạt ra quì xuống bên đường, ai nấy đều tỏ ra cung kính chờ đợi cuộc viếng thăm của Toshihito.

- Đúng là chồn ta đã làm tròn nhiệm vụ sứ giả thật.

- Giống thú linh thiêng biết biến hóa như loài chồn thì mỗi việc ấy, làm gì lại chẳng được.

Giữa khi ngũ-vị và Toshihito trao đổi mấy câu như vậy, đoàn bốn người đã đến nơi bọn trai tráng đang chờ.

- Thôi miễn lễ!

Toshihito lên tiếng, bọn người làm đang quì vội vàng bật dậy, hai đứa tiến ra nắm lấy hàm ngựa. Bỗng nhiên cả đám náo hoạt hẳn lên:

- Bẩm tướng công, tối qua có chuyện lạ lắm.

Hai người vừa mới xuống ngựa, chân còn chưa chạm đất thì một lão tá điền tóc bạc, mặc chiếc áo khoác màu chàm, đã tiến tới thưa với Toshihito.

- Cái gì mà lạ?

Toshihito vừa chuyền bầu rượu giỏ cơm mọi người làm mới đem đến mời ngũ-vị, vừa điềm đạm hỏi.

- Thưa đúng thế thật. Tối hôm qua, vào khoảng giờ Tuất, bỗng phu nhân nhà ta chợt lăn ra, nói như người mất hồn: "Ta là hồ tinh ở Sakamoto. Lại đây, vểnh tai nghe cho rõ lệnh tướng công truyền cho các ngươi. Ngài với một đoàn đang trên đường xuống ấp. Các ngươi phải thưa với phu nhân là tướng công mời mấy vị khách đến chơi nhà.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 88

Ngày mai khoảng giờ Tỵ, bọn trai tráng nhớ dẫn theo hai con ngựa có đủ yên cương đến Takashima mà đón ngài". Bẩm phu nhân bảo chúng con như thế đấy ạ.

- Nếu thế thì đúng là chuyện hy hữu.

Ngũ-vị hết nhìn Toshihito lại nhìn bọn tá điền như dò xét rồi phát biểu một câu làm cả hai bên đều hài lòng.

- Phu nhân đâu chỉ có nói bao nhiêu đó thôi đâu. Lúc đó, bà phát run như cầy sấy, rồi còn bảo chúng con: "Đừng quên đấy nhá, không được quên. Chớ để tướng công quở trách ta", nói được đến đó thì bù lu bù loa.

- Sau đó sự thể thế nào?

- Phu nhân trở lại bình thường và ngủ say như trẻ con. Lúc chúng con khởi hành thì phu nhân vẫn chưa thức giấc.

- Bác thấy sao? Toshihito sai khiến được cả muông thú, có phải không?

Toshihito nghe bọn người nhà kể chuyện, nhìn ngũ-vị nói với vẽ tự mãn...

- Thế mà không lạ thì gì mới đáng gọi là lạ đây.

Ngũ vị một tay gãi mũi, đầu hơi cúi xuống, mồm há hốc làm như không còn biết nói gì hơn. Trên râu cằm, chỗ rượu uống khi nãy rớt ra đọng lại thành giọt.

Đêm hôm đó, ở một gian trong trang trại của Toshihito, ngũ-vị mắt lao láo, nhìn ánh bấc đèn đêm như người mất hồn ánh bấc đèn đêm, trằn trọc nằm chờ sáng. Cứ như thế, những sự việc xảy ra cho đến tối hôm qua, từ cảnh Toshihito và bọn tá điền cười nói với nhau, ngược lên cảnh rừng tùng, sông cạn, bình nguyên hoang dã, bóng cây, ngọn lá, đất đá, mùi khói ai đốt giữa đồng không...... hiện ra mồn một trong trí ngũ-vị. Nhất là cái thấp thỏm đeo theo hắn suốt hành trình đã biến đâu mất khi rốt cuộc đặt chân tới sơn trang và nhìn thấy những ánh lửa đỏ bập bùng trong lò than thổi cơm hiện ra sau làn sương xám buổi chiều. Bây giờ nằm ở đây mà tưởng bao nhiêu chi tiết đó đã thuộc về đời kiếp nào. Toàn thân trùm dưới tấm chăn màu vàng độn bông dày đến bốn năm tấc (ta), hai chân duỗi thoải mái, ngũ-vị lơ đãng nhìn quanh cái thế

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 89

nằm của mình. Dưới tấm chăn, ngũ-vị còn mặc phủ lên cả hai lớp áo vải dày màu vàng nhạt mà Toshihito đưa cho mượn. Bao nhiêu lớp như thế thật nóng đến vã mồ hôi. Nhất là trong bữa cơm chiều, hắn đã có vài cút rượu nên càng hừng hực. Cách tấm rèm cửa cạnh gối nằm, bên ngoài khu vườn rộng đang chìm trong sương nhưng cái tấm thân đang nằm ấm cúng nơi đây có cảm thấy gì đâu. Tình cảnh này so với những ngày chịu búa rìu của cấp trên ở Kyoto thì như cực lạc so với địa ngục. Tuy vậy, trong lòng ngũ-vị lúc này vẫn có mối lo khó hiểu. Một phần, hắn thấy thời gian sao mà đi quá chậm, một phần hắn lại chỉ mong cho đêm đừng sáng vội để được kéo dài thời giờ chờ đợi nồi cháo khoai. Nguyên nhân của hai thứ tình cảm đang chống chọi lẫn nhau này có lẽ là diễn biến quá nhanh chóng của hoàn cảnh. Sự bồn chồn trong lòng ngũ vị cũng như khí trời hôm đó, muốn lạnh mà còn ngần ngại. Tất cả những thứ đó như làm rộn ngũ-vị khiến cho chăn ấm nệm êm đến thế mà không tài nào hắn dỗ được giấc ngủ.

Chợt từ ngoài khu vườn rộng, có tiếng ai vọng tới. Nghe giọng mà đoán, có lẽ ông lão tóc bạc đã ra đón đoàn người đang sai bảo ai điều chi. Giọng khô sắc của lão vang vang giữa màn sương, mỗi lời mỗi chữ như cơn lốc xoáy vào xương cốt ngũ-vị.

- Tất cả chúng mày, nghe đây. Tướng công ra lệnh cho bọn bay bất kẻ già trẻ lớn bé đến sáng mai trước giờ Mão mỗi đứa phải đào cho được một củ khoai rừng vòng ngang ba tấc, dài năm thước (ta) và đem đến nộp tại đây. Ngày mai , trước giờ Mão, nhớ rõ chứ?

Lão già lập đi lập lại hai ba lần như thế. Dần dần không nghe rục rịch gì nữa, đêm mùa đông yên tĩnh trở lại. Trong cái yên lặng ấy, chỉ có tiếng reo của ngọn đèn dầu, ánh lửa bần bật như giải lụa đỏ. Ngũ-vị nén một cái ngáp, thừ người suy nghĩ...... Bảo đào khoai rừng mang đến thì nhất định để nấu cháo thôi. Sự bất an cho từ nãy nhờ tập trung nghe ngóng bên ngoài nên quên quấy được đi, nay có dịp trở lại xâm chiếm lòng hắn. Nó như ngọn sóng càng lúc càng dâng cao, và nỗi lo sợ được mời ăn cháo khoai như để trêu chọc, không chịu rời đầu óc hắn. Nhỡ giấc mơ "ăn một bữa cháo khoai cho đã đời" trở thành sự thực thì chẳng hoá ra bao nhiêu năm tháng dài cố chờ đợi cho đến nay chẳng là vô nghĩa hay sao. Nếu được thì khấn sao cho có thương tật gì xui không ăn được cháo và vì không ăn được cháo nên cuộc chiêu đãi này sẽ bị bãi bỏ đi. Ý nghĩ này quây tròn như con vụ trong đầu và ngũ-vị có lẽ mệt mõi vì

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 90

cuộc hành trình, thiếp đi lúc nào không biết.

Sáng hôm sau, vừa mở mắt dậy, ngũ-vị đã tiếp tục nghĩ đến chuyện cháo khoai tối hôm trước, vội vội vàng vàng vén rèm nhìn ra ngoài vườn. Thì ra ngũ-vị đã ngủ quên đến quá giờ Mão, và ngoài đó, trên bốn năm tấm chiếu cót dài đã có hai ba nghìn thanh gì dài dài, mập tròn, chồng chất lên nhau như núi, gần đụng mái nhà. Nhìn kỹ thì quả thật là những củ khoai rừng vòng quanh thân đo được ba tấc và độ dài phải đến năm thước (ta).

Dụi cặp mắt còn ngái ngủ, ngũ-vị đảo mắt nhìn quanh, kinh ngạc đến bối rối. Trên khoảng sân rộng, người ta đã đặt liên tiếp bên nhau năm sáu cái nồi chõ cực lớn kê trên những bệ gỗ có lẽ là thân cây vừa mới đẵn. Vài chục người tớ gái trẻ áo trắng đang chạy đi chạy lại chung quanh. Kẻ nhen lửa, người lên than, kẻ khác lại khuân những cái gàu bằng gỗ tạp thi nhau chuyên mật sắn vào nồi. Ai nấy đều chuẩn bị nấu cháo khoai, bận rộn tới lui đến hoa cả mắt. Khói lò và hơi nước từ nồi cháo tỏa ra hòa lẫn với sương sớm chưa tan thành một khối đặc khiến không sao phân biệt cảnh vật trên sân được nữa. Giữa màu khói xám bao trùm lên tất cả là màu lửa đỏ từ phía lò cháy ngùn ngụt. Tiếng động và màu sắc hỗn tạp ồn ào giống như lúc bọn hỏa đầu quân nấu cho đoàn lính ăn ngoài chiến trường. Nhìn cái núi khoai đang từ từ biến thành cháo trong dãy nồi ba mươi kia, ngũ-vị thấy mộng ước của hắn đang thành hình. Rồi hắn nghĩ đến bản thân, vì thèm ăn cháo mà lặn lội từ Kyoto đến tận Tsuruga trong cái xứ Echizen xa xôi này. Càng nghĩ hắn càng không khỏi hổ thẹn cho mình. Cái lòng thèm ăn của ngũ-vị như thể đồng tình với ông chủ của nó, giờ đây, đã hao đi quá nữa?

Chẳng mấy chốc đã đến giờ quà sáng, ngũ-vị đi theo Toshihito và Arihito, ông bố vợ của anh ta, tiến đến bàn ăn. Trên mâm lúc đó chỉ thấy bày một liễn bạc độ chừng một đấu mà hắn đã sợ hãi tưởng nó là cả một biển cháo khoai. Ngũ-vị đã chứng kiến cảnh mấy mươi người trai tráng hoa đao bén, nhanh nhẹn khéo léo vạt ngang chặt dọc đám khoai rừng chất đầy thành núi trước hiên nhà. Thế rồi, bọn đàn bà con gái lăng xăng tíu tít hết xúc lại đổ, hết đổ lại xúc trọn đống khoai vào nồi không chừa một củ. Cuối cùng, khi cái núi khoai kia đã mất dạng để trở lại mấy tấm chiếu cót, ngũ-vị lại được nhìn đến no mắt mấy cột khói dầy đặc tinh mùi khoai rừng và mùi mật sắn, toả lên từ dãy nồi cháo và múa lượn giữa tầng không của buổi sáng đẹp trời. Sau khi đã trông

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 91

thấy tận mắt từng ấy cơ sự, có lẽ ta sẽ thông cảm được với ngũ-vị nếu chưa húp một ngụm cháo nào mà hắn đã cảm thấy no nê...... Nhìn liễn cháo, ngũ-vị bỗng xuất hạn như người làm điều không phải.

- Quan bác chưa bao giờ ăn cháo khoai cho đã phải không? Thế thì cháo đây, tự nhiên xơi cho nhé!

Ông bố vợ của Toshihito hô bọn tiểu đồng bày lên bàn thêm ít liễn bạc nữa. Liễn nào liễn nấy cũng đầy ắp cháo với cháo. Ngũ-vị nhắm mắt mím miệng - cái mũi thường ngày đã đỏ nay lại ửng đỏ hơn - múc khoảng nửa liễn cháo vào tô sành, ráng húp sạch.

- Nhạc phụ tôi đã nói như thế thì bác đừng khách sáo nhé.

Toshihito đặt thêm liễn cháo mới bên cạnh ngũ-vị, vừa mời mọc lại vừa cười như trêu chợt. Ngũ-vị bị du vào thế khó xử. Nếu cho phép hắn "đừng khách sáo" thì tự lúc đầu, hắn có lẽ đã không muốn đụng đến cháo dù chỉ để hớp một hớp. Thế mà hắn chẳng đã cố gắng ăn được nửa liễn là gì!. Nếu ăn thêm nữa thì cháo chưa qua khỏi cổ họng chắc đã bợn dạ rồi. Bụng thì nghĩ vậy nhưng đồng thời lại sợ mình phụ lòng tốt của hai bố con Toshihito. Hắn bèn nhắm mắt bậm môi, cố gắng húp thêm được một phần ba nửa liễn cháo còn lại nhưng không có hơi sức húp thêm ngụm nào nữa.

- Xin thành thực cảm ơn cụ với ông. Tôi dùng như thế đã đủ. Thật hết sức cám ơn.

Ngũ-vị lắp ba lắp bắp nói. Dù giữa ngày đông tháng giá mà mồ hôi rịn ra trên sóng mũi và mép râu đã đọng thành những hạt to như sắp sửa rơi.

- Sao quan bác ăn ít thế. Ông khách nhà ta lại ngại ngùng gì nữa rồi. Bọn nhỏ đâu, sao cứ đứng xớ rớ đó ?

Lũ tiểu đồng vâng theo lời Toshihito, múc cháo khoai từ trong liễn mới vào tô sành. Ngũ-vị quơ hai tay loạn xạ như đuổi nhặng, cực lực thoái thác.

- Thưa thôi ạ, ăn hết nổi rồi. Xin lỗi, ăn thêm không được nữa.

Nếu lúc đó, Toshihito không đột nhiên trỏ tay ra phía ngoài hiên nhà đằng trước và

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 92

bảo "Kìa, quan bác xem!" thì Arihito chắc vẫn còn đon đả mời cháo. May thay, nghe tiếng Toshihito nói, mọi cái nhìn đều đổ ra phía hàng hiên. Lúc đó, mặt trời đang chiếu lên hiên nhà bọc bằng vỏ dà. Trong ánh mắt lấp lóa, một con vật với bộ lông mượt mà đang nằm phủ phục thoải mái. Để ý mới thấy đó là con chồn ở Sakamoto ngày hôm kia mà Toshihito đã bắt được khi đoàn người băng qua cánh đồng hoang.

- Chồn nó cũng đến xem quan bác xơi cháo đấy. Bọn bay đâu, cho nó cái gì ăn đi chứ.

Bọn thủ hạ tuân lệnh Toshihito. Con chồn bèn phóng từ hiên ra ngoài sân và sồ vào bát cháo khoai.

Ngũ-vị ngắm con chồn ăn cháo ngon lành, lòng bỗng đâm ra thương nhớ bản thân mình lúc chưa đến chốn này. Đó là cái thằng tôi ngày ở Kyoto bị bọn đồng liêu đem ra làm trò cười, cái thằng tôi thất tha thất thểu như con chó vô chủ trên đại lộ Suzaku trong chiếc áo khoác vải bô và cái quần đã ngả màu, cô độc đến thương tâm. Tuy nhiên cái thằng tôi đó còn có mục đích ở đời là đợi cái ngày đạt được niềm hạnh phúc: ăn một bữa cháo khoai thỏa thuê...... Giờ đây, an tâm là không ăn thêm cháo nữa thì cũng không ai ép uổng, mồ hôi đầm đìa trên mặt ngũ-vị đã dần dần khô, bắt đầu từ sống mũi trở đi. Dù trời tạnh ráo, buổi sáng ở Tsuruga cũng có chút gió lạnh đủ rùng mình. Ngũ-vị lật đật đưa tay lên chận mũi, nhìn về hướng liễn cháo và hắt hơi một tiếng rõ to (10).

(Tháng 8 năm Taisho thứ năm) Dịch xong ngày 9/6/2002, trên gác trọ nhìn ra vịnh Tokyo 

(đã đăng Tạp chí Hợp Lưu tháng 9/02 và duyệt lại ngày 5/4/2003)

Chú thích

(1) Niên hiệu Nguyên Khánh (Gan-gyo, 877-884) đời Dương Thành thiên hoàng (Yozei tenno) và Nhân Hòa (Nin-na,885-888) đời Quang Hiếu thiên hoàng (Koko tenno) dưới triều Bình An (Hei-an), một triều đại trung cổ Nhật Bản kéo dài 400 năm...

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 93

(2) Ngũ-vị (go-i) chức quan thấp nhất trong năm hạng vũ sĩ được phép lên điện.

(3) Sách cổ ám chỉ Kim Tích Vật Ngữ (Konjaku-monogatari) quyển 26 chương 17 và Vũ Trị Thập Di Vật Ngữ (Uji Shu-i Monogatari) quyển 1 chương 18. Akutagawa sử dụng tư liệu dã sử của hai tập này để soạn Cháo Khoai.

(4) Đại lộ Chu Tước (Suzaku Oji) tên con đường lớn phân chia thành Hei-an (Kyoto thời trung cổ) làm hai phần: tả kinh và hữu kinh. Thành nầy rập khuôn thành Trường An nhà Đường.

(5) Hữu vị và vô vị (có chức và không có chức), người dịch muốn giữ cách chơi chữ của tác giả.

(6) Ống trúc dùng để đựng rượu (Sasae).

(7)Hakama: mảnh vải như tấm tạp-dề (tablier) che trước bụng và chân.

(8) Shinsen (Thần Tuyền) tên một ngự uyển của thiên hoàng.

(9) Cơm rượu (amazake) giống như cơm rượu của ta nhưng ngọt và loãng hơn.

(10) Hắt hơi là phản ứng tự vệ của cơ thể. Người Nhật thường nghĩ hắt hơi sẽ đuổi được bệnh. Ngũ-vị có lẽ khoẻ khoắn ra vì hết thắc mắc về "cháo ăn đã đời " ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 94

__________________________________________________________________________

ĐỊA NGUC TRƯỚC MẮTNguyên tác : Jigokuhen 

Tác Giả: Akutagawa Ryunosuke (1892-1927) Người dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 95

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

 Lời Người Dịch:

Akutagawa viết Jigokuhen (1918) theo lối cố sự tân biên (chuyện cũ soạn lại), sở trường của ông. Đề tài một phần mượn từ Uji-shui-monogatari (Vũ Trị Thập Di Vật Ngữ), tập sách góp nhặt 197 truyện có màu sắc Phật Giáo do tác giả vô danh soạn vào thế kỷ 13 (dưới thời mạc phủ Kamakura), phần khác mượn từ Kokin Chobun Shu (Cổ Kim Trứ Văn Tập) (1)  liên quan đến bức bình phong địa ngục nổi tiếng. Akutagawa lấy cảm hứng viết Jigokuhen từ thái độ quái gở của một họa sư tên gọi Ryôshu hay Yoshihide (Lương Tú) bởi vì nhân vật nầy tỏ ra khoái trá khi thấy nhà mình bị hỏa tai thiêu rụi.

Jigokuhen (Địa Ngục Biến) là tên thu gọn của Địa Ngục Biến Tướng Đồ, bức tranh trên bình phong tả những cảnh tượng hình phạt dưới địa ngục mà tăng lữ Phật Giáo cho vẽ ra để răn dạy tín hữu làm lành lánh dữ.

Truyện này tuy không dính líu gì đến phim Địa Ngục Môn (2)  (1953) của Kinugasa Teinosuke, đã đoạt Giải Chính Đại Hội Điện Ảnh Cannes năm 1954 nhưng có liên hệ với Địa Ngục Biến (1969) do các tài tử hàng đầu Nhật Bản như Nakamura Kinnosuke, Nakadai Tatsuya và Naitô Yôko diễn xuất.

Akutagawa có lẽ viết theo phong cách kôdan (giảng đàm), nghệ thuật sân khấu hưng thịnh nhất vào thời Genroku (1688-1704), có lẽ đến từ Trung Quốc. Người kể truyện ngồi trước cái bàn con, cầm quạt gỏ nhịp, lên bổng xuống trầm kể những loại truyện có chủ đề chiến trận, vũ hiệp, báo ân báo oán, thế

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 96

thái nhân tình. Đây là một ví dụ điển hình của truyền thống kết hợp văn học với nghệ thuật trình diễn (misemono) của Nhật Bản, vẫn còn truyền đến ngày nay.

Quan điểm của Akutagawa là nghệ thuật trên hết (tuy lúc cuối đời ông có vẽ bị dao động vì những biến cố thời cuộc). Nghệ thuật dẫu thắng được quyền lực nhưng nếu hy sinh Thiện để chọn lấy Mỹ thì theo thiển ý, điều đó không hẳn thỏa đáng. Tuy nhiên, tác giả đã có lý khi bảo địa ngục không cần phải tìm đâu xa, nó đã có ở trong lòng ta hay trước mắt ta qua quan hệ với tha nhân.

Người dịch sử dụng nguyên tác Nhật ngữ của nhà xuất bản Kôdansha in lại năm 1971, tham chiếu The Hell Screen (bản dịch sang Anh Ngữ của Takashi Kojima, trong Ryunosuke Akutagawa,Japanese Short Stories, Tuttle Publishing, Tôkyô, 5th edition, 2000) cũng như bản Pháp ngữ Figures Infernales của Arimasa Mori, trong Rashômon et autres contes, Gallimard, Unesco, Paris 1965).

 MộtĐức ông Horikawa (3) có lẽ là nhân vật xưa nay chưa hề thấy mà mai sau khéo chẳng ai sánh kịp ngài. Người ta đồn trước khi ngài thác sinh vào cõi đời nầy, Đại Uy Đức Minh Vương (4)  đã hiện ra bên gối mộng của đấng từ thân nên tự thuở còn thơ ngài đã có cái gì khác hẳn người thường, nhất cử nhất động không ai lường được. Chỉ riêng qui mô phủ đệ ngài xây ở vùng Horikawa thì ôi thôi, tráng lệ, huy hoàng, cao kỳ đến mức bọn phàm tục chúng tôi dù có bóp trán cũng không sao nghĩ ra nỗi. Những điều thiên hạ thì thầm về ngài có cả chuyện liên quan tới tính hạnh mà kẻ bảo giống Tần Thỉ Hoàng (5) , người so với Tùy Dạng Đế (6) . Nhưng hạng bàn tán kiểu đó thì, như ngạn ngữ nói, khác chi lũ mù xem voi. Đức ông không bao giờ chuộng lộng lẫy hào nhoáng cho riêng mình mà lúc nào cũng nghĩ đến kẻ dưới, nói cách khác, có cái lượng cả chỉ lo cho trăm họ yên vui.

Con người ngài quang minh chính đại như thế nên ngộ nhỡ đêm khuya qua cung điện phường Nijô, có gặp phải quỉ sứ chắc chúng cũng chả dám động đến

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 97

lông chân. Ngay hồn ma của quan Tả Đại Thần Minamoto-no-Tôru mà thiên hạ đồn đại đêm đêm vẫn hiện về ở viện Kawara-no-in (7) phường đông Sanjô, nơi nổi tiếng vì có khu viên đình mô phỏng theo phong cảnh Shiogama trong xứ Michinoku (8) , bị ngài mắng cho, phải lủi mất. Nam phụ lão ấu đất kinh đô có tôn kính ngài như hiện thân Phật Tổ tái sinh thì cũng chẳng quá đáng. Đến độ hôm đi dự yến thưởng mai trong Hoàng Cung về, con bò kéo xe cho ngài lồng lên đâm phải ông lão bên đường đến bị thương, mà lão già ấy chỉ biết chắp tay xá dài, coi chuyện bò ngài húc phải như một vinh hạnh.

Suốt đời đức ông không thiếu chi những chuyện đáng lưu truyền hậu thế. Nầy nhé, nhân đại yến của Thiên Hoàng, ngài đã dâng ba mươi thớt ngựa, toàn ngựa kim, để làm quà cho khách; lúc gặp khó khăn khi xây một chiếc cầu dài, ngài lại đem cậu tiểu đồng hầu cận sủng ái nhất làm chân cầu sống để tế thần ( 9 ) ; có hôm còn to gan cho một nhà sư Trung Quốc đem cái thuật Hoa Đà mổ nhọt tấy trên đùi nữa đấy. Những chuyện thế đấy kể ra không hết, tuy nhiên trong số các giai thoại, xem ra không có gì thảm khốc hơn câu chuyện về nguồn gốc bức bình phong vẽ cảnh địa ngục mà con cháu ngài còn giữ làm của báu trong nhà. Thường ngài có bao giờ dao động vì điều gì đâu, thế mà trong thời gian câu chuyện bình phong xảy ra, đức ông cũng tỏ ra bối rối. Không thưa chắc quí vị cũng hiểu, kẻ chầu chực bên cạnh ngài như bọn tôi thì hồn xiêu phách tán cả lũ. Riêng bản thân từng hầu hạ trong phủ có trên hai mươi năm, thú thực tôi chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng nào hãi hùng như vậy.

Thế nhưng, để mào đầu câu chuyện, quí vị phải nghe tôi giới thiệu tay họa sư Yoshihide, tác giả tấm bình phong nói trên, là nhân vật thế nào cái đã.

Hai

Nhắc đến cái tên Yoshihide, có thể trong vòng quí vị, nhiều người hãy còn nhớ. Hồi đó, hắn ta là một họa sư danh tiếng lẫy lừng, cả giới cầm cọ chẳng có người nào qua mặt. Lúc câu chuyện sắp kể xảy ra, hắn đã là một lão già ngoại năm mươi, dáng dấp khẳng khiu chỉ có da bọc xương, khổ người thấp bé, tính nết khó ưa. Mỗi lần đến hầu cửa phủ, hắn ta hay mặc một bộ quần áo nhuộm màu nâu nhạt và đội chiếc mũ đen mềm, trông thật ti tiện. Không hiểu cớ nào từng ấy tuổi mà hắn còn tô môi đỏ chót khiến cho ta phải nghĩ tâm địa hắn có

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 98

cái gì quỉ quái. Hư thực thế nào chẳng rõ, chỉ nghe có người bảo cặp môi son kia là do thói quen mút đầu cọ vẽ lâu năm mà sinh ra. Kẻ xấu miệng hơn lấy cách đi đứng, cử chỉ giống như khỉ của hắn ta để đặt cho hắn cái biệt hiệu Saruhide, nghĩa là "con khỉ Hide".

Nói tới Saruhide, người ta còn nhớ cả câu chuyện như sau. Dạo đó, đứa con gái độc nhất của Yoshihide mới mười lăm tuổi được tuyển vào làm thị nữ trong phủ đức ông. May mắn cho hắn, cô gái nom ra đẹp đẽ yêu kiều, nghĩa là chẳng giống bố tí tị nào. Có lẽ vì mồ côi mẹ từ nhỏ hay sao mà cô ta sớm chín chắn, biết để ý để tứ, kính trên nhường dưới, tính lại lanh lợi nên mới từng ấy tuổi đã xử sự khôn khéo, được lòng mọi người, trên từ Lệnh Bà cho đến hàng thê thiếp.

Thế rồi không hiểu nhân cơ hội nào, có người ở vùng Tanba đem dâng một con khỉ nuôi đã thuần tính. Công tử con trai đức ông đang tuổi tinh nghịch mới mượn cái tên Yoshihide đặt cho nó. Khốn nỗi cái tên lại ăn khớp với tướng mạo kỳ khôi của con khỉ nên khắp phủ không ai là không buồn cười. Nào chỉ có thế, cứ mỗi lần con khỉ leo lên ngồi vắt vẻo trên cành tùng hoặc làm bẩn mặt chiếu phòng học công tử, bọn gia nhân lại kêu réo ầm tên Yoshihide để dọa cho nó sợ.

Nhưng có hôm, khi cô con gái của Yoshihide, tay cầm nhánh mai hồng có cài một tờ hoa tiên, đang đi dọc theo cái hành lang dài thì từ phía cánh cửa kéo đằng xa, con khỉ Yoshihide kia, chân khập khiễng như bị lọi, không đủ nhanh nhẹn để trèo cột nữa, đang cố lết mình chạy trốn ai đó cho thật nhanh. Thì ra sau lưng nó, công tử nhà ta đang hươi gậy đuổi, miệng mắng: Đợi đó, mầy chạy đi đâu, đồ trộm quít. Trước cảnh tượng ấy, đứa con gái của Yoshihide ban đầu có chần chừ giây lát nhưng khi con khỉ đến nơi, bám cứng vạt áo dài của mình và cất tiếng kêu thảm thiết như van lơn thì cô ta bỗng động lòng thương. Một tay cô đưa nhành mai lên cao, tay kia vung ngay ống tay áo thụng màu tím nhạt, nhẹ nhàng bế con khỉ vào lòng, tiến đến trước mặt công tử, khẽ cúi đầu cất tiếng trong thanh thưa:

- Dám xin công tử tha tội cho con vật ngu dại này.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 99

Công tử đang hùng hổ đuổi theo đến nơi, dễ gì mà tha, mặt người mới sa sầm, dậm chân ầm ầm hai ba lần, quát mắng:

- Nó là đồ trộm quýt, mi bao che cái gì?

-Thưa công tử, thú vật chúng đâu có hiểu phải trái ...

Cô gái mỉm cười hiền hậu đáp lời, rồi phân trần :

- Con vật nầy cũng mang tên Yoshihide như cha thiếp. Nếu nó bị trừng phạt khác thì khác nào cha bị phạt nên thiếp không nỡ giương mắt làm ngơ ...

Nghe vậy, ngạo ngược như công tử cũng phải vuốt bụng :

- Nếu ngươi có hiếu muốn cứu mạng cha thì lần này ta tạm tha cho nó đấy !

Còn hậm hực, công tử nói xong câu, vứt cái roi rồi đi khuất vào trong theo cánh cửa khi nãy.

Ba

Con gái Yoshihide và con khỉ nhỏ trở nên thân thiết từ ngày có câu chuyện kia. Cô đem cái lục lạc bằng vàng tiểu thư ban, gắn vào sợi dây đỏ cho nó đeo vào cổ. Còn con khỉ cứ quấn quít bên cô, ít khi chịu rời. Lúc cô bị cảm, trong người khó ở phải nằm một chỗ, nó cứ ngồi bên gối, cắn cắn móng tay, gương mặt đượm vẻ lo lắng.

Có điều lạ là cũng kể từ hôm đó, thiên hạ không còn xúm lại trêu chọc con khỉ như trước. Trái lại họ ngày càng yêu chìu nó, ngay cả người khó tính như công tử lâu lâu cũng ném cho nó quả hồng hay hạt dẻ. Lúc trong đám cận vệ có kẻ lấy chân đá nó, người bèn nổi ngay cơn thịnh nộ. Rồi đến phiên đức ông cũng có lần cho gọi con gái Yoshihide bế con vật đến chầu ngài, có lẽ vì đã nghe thuật lại chuyện liên quan đến con khỉ và duyên cớ những trận lôi đình của công tử.

- Mi hiếu thảo, ta khen cho đó!

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 100

Đức ông phán như thế và cô gái được thưởng cho một tấm yếm màu hồng. Con khỉ cũng nhanh nhẩu bắt chước cô gái nâng chiếc yếm lên trán để tạ ơn làm ngài vô cùng đẹp ý. Phải nhớ cho là con gái Yoshihide có lọt vào mắt đức ông chỉ nhờ cái đức hiếu hạnh tỏ ra khi che chở thương yêu con khỉ làm ngài cảm động chứ không phải ngài đắm đuối sắc đẹp như thiên hạ cứ hiểu lầm. Như tôi sẽ từ từ tường thuật, những lời đồn đại đó cũng không chỉ là chuyện bịa cả nhưng phải thưa trước là người như đức ông thèm gì tơ tưởng tới con gái anh thợ vẽ cho dầu nàng ta sắc nước hương trời đến đâu chăng nữa.

Con gái Yoshihide được đức ông khen thưởng xong, mới lui ra. Vì tính cô khéo ăn ở, các nàng hầu trong phủ không ai ghen tức cả. Ngược lại, kể từ hôm đó, họ càng đem lòng thương mến cô lẫn con khỉ, còn cô thì lúc nào cũng được ở cạnh tiểu thư, không thiếu gì dịp theo hầu xe loan xem hội đó đây.

Ta hãy tạm gác chuyện cô con gái ở đây để kể về người cha, tức là họa sư Yoshihide. Trong khi con khỉ kia chẳng mấy chốc bỗng được mọi người cưng yêu chìu chuộng thì cái lão Yoshihide chính hiệu vẫn bị ghét bỏ, người chung quanh hễ gặp dịp cứ gọi lén hắn là Saruhide. Chả riêng người trong phủ không ai ưa, bên ngoài như tăng quan chùa Yokawa bây giờ, lúc nghe ai nhắc tên Yoshihide là biến sắc như người gặp ma và ghét hắn ra mặt. (Có người cho biết nguyên do tại Yoshihide hay vẽ hí họa hành tung của ông ta nhưng đó chỉ là lời đồn có mười đã phải bỏ bớt tám chín, không lấy gì làm chắc). Dù hỏi ai chăng nữa, mọi người đều nghĩ không tốt về hắn. Không nói xấu hắn có lẽ chỉ là hai ba đồng nghiệp trong ngành họa hoặc những ai biết hắn qua tranh mà chưa tiếp xúc với người. Trên thực tế, thiên hạ ghét hắn không riêng chỗ tướng mạo ti tiện mà còn vì một số thói hư tật xấu nữa. Nếu có gì là do hắn tự chuốc vạ vào thân thôi chứ không thể nào giải thích lối khác.

Bốn

Thói hư tật xấu phải kể ra là keo bẩn, ích kỷ, trơ trẽn, biếng nhác, tham lam ... trong đó, nổi bật hơn cả tính phách lối ngạo mạn, lúc nào cũng vênh váo như có cái bảng đệ nhất họa sư bản triều treo trước mũi. Nếu hắn chỉ ngạo nghễ trong lĩnh vực hội họa thì còn được đi, nhưng không, hắn lại coi thường tất cả những gì gọi là qui củ phép tắc trong thiên hạ mới phiền chứ. Một đệ tử theo

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 101

học lâu năm ở cửa hắn kể chuyện có hôm ở phủ đệ nào đó, trong khi một cô đồng rất thiêng được linh nhập đang báo trước những tai họa thảm khốc thế mà hắn vẫn không thèm lắng nghe, sẵn bút mực cứ chăm chút vẽ lại từng chi tiết nét mặt hãi hùng của cô đồng. Dưới con mắt hắn những lời tiên tri của đức mẫu đều là trò đùa để dọa con nít chắc?

Gã họa sư tính khí như thế nên khi họa tiên nữ Kichijô (10) hắn mượn hình thù gái đĩ thô bỉ, còn vẽ Đức Bất Động Minh Vương(11) hắn lại chọn hình ảnh một tên vô lại mới ra tù, toàn chơi những trò bất kính phạm thượng. Hễ cật vấn thì hắn trả lời như khiêu khích: Nói nghe lạ chưa, Thần Phật Yoshihide tạo ra thì tài nào vật nổi Yoshihide nhỉ ! Lời ăn tiếng nói kiểu đó khiến bọn đệ tử thân tín cũng câm miệng hến, thiếu chi những đứa sợ hãi cho tương lai hậu vận đã tức tốc xin ra. Nói tóm lại, phải gọi Yoshihide là kẻ đầy tiền oan nghiệp chướng vì tội ngạo mạn, lúc nào cũng vỗ ngực coi ta nhất trần đời.

Khỏi nói cũng biết hắn ta tự cho tài nghệ hội họa của mình là cao cường. Nhất là khi trong những bức họa vừa kể, từ nét cọ đến cách chọn màu, nhất nhất đều khác phong cách các họa sư đương thời làm cho bọn đồng nghiệp ghét hắn đều cho là tà phái. Theo lời bọn họ bình phẩm thì đối với những họa phẩm của các bậc tổ sư đời xưa như Kawanari (12)hay Kanaoka, không hiếm chi những lời truyền tụng kiểu như, khi các vị ấy vẽ bức cành mai nở bên bờ giếng thì vào những đêm có trăng sẽ thoang thoảng hương thơm, còn nếu là bức bình phong tả cuộc sống nhà công khanh thì tưởng chừng có tiếng tiêu thiều vọng ra từ đó. Trong khi ấy, tranh của Yoshihide lúc nào cũng chỉ để lại một ấn tượng gây gây khó ở. Ví dụ khi gã ta vẽ cánh cửa chùa Ryugaiji (13)  thì riêng một cảnh tả năm cõi luân hồi (14)  thôi cũng làm cho những kẻ đi đường đêm khuya qua đấy tưởng chừng nghe đâu đây tiếng quỉ thần đang khóc than rên siết. Không những thế, có người còn bảo ngửi được cả mùi thây chết thối rữa từ bức tranh ấy bốc ra. Về những bức truyền thần mấy bà thê thiếp của đức ông mà ngài ra lệnh cho hắn làm thì bà nào được vẽ chỉ trong vòng ba năm đều lâm bệnh như bị ai hớp hồn rồi lần lượt ra ma cả. Bọn xấu miệng cứ bảo thế vẫn chưa đủ bằng chứng để kết luận là tranh của Yoshihide theo đường bàng môn tả đạo là gì à ?

Vâng, đúng như tôi đã thưa trước, Yoshihide là kẻ đạp đổ khuôn khổ của người

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 102

mà lại vô cùng thoả mãn về mình, đến độ lúc đức ông hỏi đùa hắn : " Coi bộ nhà người chỉ chuộng vẻ toàn cái xấu xa thôi nhỉ?" thì hắn vừa mỉm một nụ cười khó ưa trên cặp môi đỏ chót già không nên nết, vừa trả lời bề trên bằng một giọng trịch thượng : "Bẩm chính thế. Bọn họa sĩ hời hợt thường tình thì làm sao nhìn thấy nét đẹp nằm bên trong cái xấu để mà vẽ nó ra ạ ! ". Cho hắn là đệ nhất họa sư của bản triều đi, nhưng đứng trước mặt đức ông mà dám vênh váo thốt ra một câu như thế, quả to gan. Cậu đệ tử mà tôi dẫn chứng lúc nãy hay gọi lén hắn bằng cái hỗn danh Chira Eiju để chế nhạo tính tự mãn của hắn. Thật không có gì đúng hơn vì như quí vị thừa biết Chira Eiju là tên con thiên cẩu có cái mũi to, dài, xưa từ Trung Quốc vượt biển qua đây ấy mà.

Tuy vậy, ngay ở nơi Yoshihide, con người ngang ngược, bất chấp thiên hạ nầy, hãy còn một chút gì gọi là nhân tính, bởi vì hắn cũng biết yêu thương.

Năm

Xin thưa với quí vị rằng tên Yoshihide kia yêu đứa con một của hắn hiện đang làm thị nữ trong phủ của đức ông với một tình thương hầu như rồ dại. Như tôi vừa mới thưa qua, con gái của hắn là người rất mực dịu hiền, có hiếu với cha hết chỗ nói, nhưng hắn nào kém, đối với con cũng lo lắng chi li. Dù là một kẻ không hề cúng cho chùa chiền lấy một đồng kẽm nhưng hễ con gái xin đồ trang sức đầu tóc, quần áo thì hắn không tiếc mảy may tiền bạc, vội vàng sắm sửa cho ngay. Quí vị coi có tin nổi không?

Yoshihide yêu con gái nhưng chỉ yêu suông chứ không bao giờ nghe hắn đả động tới việc kiếm tấm chồng cho con. Ngược lại, nếu có ai tỏ ý săn đón cô gái thì hắn liền tụ tập bọn côn quang lập mưu lén nện người ấy một trận nên thân. Vì vậy lúc đức ông ra lệnh phải tiến cô ấy vào phủ làm thị nữ thì ông bố này không bằng lòng chút nào. Giữa sảnh đường trước mặt Đức Ông mà hắn lộ vẻ đau khổ ra mặt. Những kẻ tung tin ra cho rằng đức ông bị sắc đẹp của cô gái lôi cuốn mới cưỡng cô ta phải vào hầu bất chấp sự chống đối của cha cô có lẽ đã suy luận theo lối họ, nghĩa là những người từng lâm vào cảnh ngộ đó.

Cho dù những tin đồn kia có thất thiệt đi nữa, đối với một người thương con như Yoshihide thì chuyện khấn khứa sao cho nó sớm được trong phủ thải ra là

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 103

điều hợp lý. Có lần hắn theo lệnh đức ông lấy gương mặt một cậu hầu cận sủng ái của ngài làm mẩu để vẽ hình Văn Thù Bồ Tát thời niên thiếu. Bức tranh hết sức thành công làm đẹp lòng Đức Ông, ngài mới cao hứng ban cho một lời :

-Mi muốn thưởng gì, ta sẽ cho. Đừng ngần ngại, cứ nói thật !

Yoshihide lúc đó mới ngồi lại ngay ngắn. Người ta còn đang đoán thử hắn định xin gì thì bỗng nghe hắn dạn dĩ thưa:

-Xin lượng trên cho con gái của thần được thôi việc.

Ở nơi phủ đệ khác thì không nói, chứ đây là được hầu hạ đức ông Horikawa cơ mà! Dù thương con đến mức nào, ai đời lại ngu dại xin cho nó về nghỉ. Ngay cả người có lượng hải hà như đức ông mà cũng thấy bị xúc phạm. Ngài trầm ngâm chốc lát, trừng mắt nhìn Yoshihide rồi phán ngắn gọn:

-Cái đó không được!

Nói xong, mặc kệ hắn, ngài vùng đứng dậy vào trong.

Sự thể như thế phải lập đi lập lại đến bốn năm lần và bây giờ nhớ lại mới thấy cặp mắt đức ông nhìn Yoshihide mỗi ngày càng lạnh nhạt. Nhân chuyện đó, con gái hắn có lẽ vì lo lắng cho cha già nên mỗi khi lui về phòng thường cắn tay áo và thút thít khóc. Thế rồi lời xì xào chuyện đức ông tơ tưởng đến cô gái càng ngày càng lan ra trong phủ. Kẻ thì bảo nguyên do của sự tích bức bình phong vẽ cảnh địa ngục là vì cô gái kia không chìu theo ý muốn đức ông nhưng dĩ nhiên chuyện như thế làm gì có.

Theo con mắt của tôi, sở dĩ đức ông không cho cô gái kia nghỉ việc luôn vì ngài cám cảnh cô ta, thay vì để cô về với một người cha ương ngạnh gàn dở, ngài có hảo ý giúp cô có dịp may ở lại sống đời nhung lụa trong phủ. Dĩ nhiên ngài cũng muốn bảo bọc cô bé hiền hậu dễ thương kia nữa đấy nhưng nếu ta cứ nằng nặc bảo ngài háo sắc thì hơi quá. Đúng hơn, đó chỉ là chuyện đặt điều nói xấu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 104

Ai muốn bảo sao thì bảo nhưng lúc đó là thời điểm vì chuyện cô gái, ngài đâm ra ghét bỏ Yoshihide. Không hiểu suy nghĩ thế nào mà đột nhiên, ngài cho gọi hắn lại, hạ lệnh vẽ bức bình phong miêu tả cảnh tượng địa ngục.

Sáu

Xin thưa về bức Bình Phong Địa Ngục kia thì đến nay, cái cảnh tượng khủng khiếp trên bức họa vẫn còn hiện ra mồn một trước mắt tôi.

Cũng cùng vẽ cảnh tượng địa ngục như nhau nhưng nếu đem so sánh với tác phẩm của các họa sư khác thì tranh Yoshihide chẳng giống mảy may kể từ hình vẽ đầu tiên. Trên bức bình phong ấy, cả đến từng xó góc, cảnh tượng thập điện diêm vương và phán quan, quỉ sứ đều được tô vẽ tỉ mỉ, sau mới đến một mặt tranh rợn người với ngọn lửa hừng hực đốt sáng núi kiếm rừng gươm. Tưởng chừng lửa đang cuốn hút tất cả. Phẩm phục ra vẻ đời Hán của các vị phán quan còn điểm cho bức tranh một ít chấm xanh hoặc vàng, ngoài ra, cả nền họa bị trùm trong một bầu lửa đỏ. Giữa bức tranh, ta thấy những giọt mực tóe ra thành mấy cột khói đen uốn hình chữ vạn, còn kim nhủ bắn tung như đốm sáng của lửa ngọn đang múa may quay cuồng.

Chừng đó đã đủ mười phần bút lực để làm kinh ngạc người xem tranh nhưng hơn thế nữa, hầu như chưa ai thấy ở một bức tranh vẽ cảnh địa ngục nào khác có được cái cách trình bày cảnh tượng tội nhân đang bị ngọn nghiệp hỏa quay nướng, quằn quại thống khổ như thế. Giải thích tại sao ấy à ? Xin thưa là trong đám tội nhân mà Yoshihide vẽ ra đây, có đủ mọi hạng người: trên từ công khanh quyền quí, dưới đến bọn ăn mày ăn nhặt. Nào bậc cao sang đai mão uy nghiêm, nào ả hầu non lượt là tình tứ, nào nhà sư lần tràng niệm Phật, nào cậu hề đồng chân xỏ guốc cao, nào cô tiểu thư xiêm y thon thả, nào ông thầy cúng diện lớp đạo bào ... nhiều đếm không hết. Tất cả lũ người đó đang bị bọn ngục tốt đầu trâu mặt ngựa hành hạ khổ sở, mê loạn tứ tán trong ngọn lửa, ngọn khói, giữa giòng nước xoáy như những chiếc lá rụng bị cơn lốc cuốn. Người đàn bà tóc kẹt giữa thanh cương đao, tay chân co dúm như con nhện xưa kia không phải là một mụ đồng buôn thần bán thánh đó sao? Gã đàn ông mình treo ngược thân dơi, ngực bị ngọn giáo đâm xuyên thủng kia chẳng từng là tên quan lại ngồi chơi hưởng lộc là gì! Ngoài ra, những kẻ khác thì hoặc bị quật bằng roi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 105

sắt, hoặc bị nghiến nát dưới bàn đá nghìn cân, để cho quái điểu rỉa, độc xà ngoặm. Hễ tội nhân phạm lỗi thế nào thì có cách ứng báo thế đó, nói sao cho cùng.

Dầu vậy, khủng khiếp nhất vẫn là cảnh chiếc xe ngự do bò kéo rơi từ trên không thẳng xuống rừng gươm đao nhọn hoắc như nanh thú, lủng lẳng từng xâu người bị lưỡi kiếm xuyên ngang. Trong chiếc xe ấy, nhìn qua bức rèm trúc đã bị gió lửa tạt đến bật tung, có một nữ quí nhân ăn mặc lụa là như công nương, đang khô héo ngoắc ngoải chờ chết, dòng suối tóc bị lửa táp và chiếc cổ trắng ngần của nàng ưỡn ra đằng trước. Quang cảnh vị công nương hấp hối trong chiếc xe bò kéo là cao điểm tượng trưng cho mọi thống khổ trong cái hỏa ngục nầy. Tất cả sự khủng khiếp của tấm bình phong rộng lớn như tụ lại ở một nhân vật chính. Họa sư đã vẽ tới mức nhập thần khiến cho những ai nhìn bức tranh đều có cảm tưởng nghe được tiếng gào khóc thê thảm xoáy vào tai họ.

Ôi chao, vì nó đấy, vì để vẽ bằng được tấm bình phong ấy, mà câu chuyện thảm khốc kia mới xảy ra, quí vị ơi ! Nhưng nếu nó không xảy ra, tài thánh Yoshihide cũng chẳng vẽ được sống động cảnh tượng trừng phạt và thống khổ cùng cực dưới đáy địa ngục đâu! Để hoàn thành bức tranh, hắn đã chấp nhận một cảnh ngộ còn thê thảm hơn cả chuyện mất đi mạng sống. Nói cách khác, chính vv muốn sao cho bức tranh địa ngục đạt đến mức thần diệu mà Yoshihide, đệ nhất họa sư của bản triều. đã tự tay mở cánh cửa địa ngục để rồi lao mình xuống đấy.

Có thể tôi quá sôi nổi vì bức bình phong quí giá ấy nên kể hơi nhanh hay đã đem đuôi câu chuyện đổi ra đàng đầu. Vậy bây giờ cho phép tôi vòng lại kể tiếp việc đức ông Horikawa đã ra lệnh cho Yoshihide ra sao và hắn đã vẽ bức bình phong ấy như thế nào nhá.

Bảy

Từ hôm nhận lệnh, Yoshihide không lên hầu trên phủ suốt năm sáu tháng liền, mỗi ngày cặm cụi vì bức họa trên bình phong. Yêu con đến thế mà khi đã bắt đầu vẽ thì có bảo là hắn chẳng thèm gặp mặt con gái nữa thật cũng không ngoa. Theo lời cậu đệ tử mà tôi nhắc đến hồi nãy đấy, hễ lao đầu công việc rồi thì

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 106

hắn ta như bị ma chồn ám. Thiên hạ hay dè bỉu rằng Yoshihide mà thành công và có chút danh trong họa giới là vì hắn đã thề ước điều gì với hồ ly tiên để đánh đổi lấy phúc lộc. Chứng cứ là có kẻ kể rằng chỉ cần nấp vào một chỗ tối rình xem lúc gã vẽ tranh thì thế nào cũng thấy bóng không phải một con mà cả một đàn chồn tụ tập, trước mặt sau lưng, bên trái bên phải hắn. Chỉ cần được hỗ trợ thế thôi mà mỗi khi tay cầm cây cọ rồi là hắn có sức vẽ một lèo cho đến lúc hoàn tất bức tranh. Ngày đêm tự giam trong phòng kín, mắt ít khi thấy được ánh mặt trời. Nhất là khi vẽ bức bình phong địa ngục, thì hắn càng mê mải, quên bẵng mọi sự.

Nói rõ hơn, giữa ban ngày ban mặt Yoshihide cứ buông rèm kín mít, bắt lũ học trò mặc thử đủ loại áo xống từ áo dự hội đến áo mặc ngày thường, mang đủ loại trang sức, còn hắn thì, bí mật pha màu và chăm chú ghi chép lại chi tiết của từng người dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu. Nhưng nếu chỉ thế thôi thì đã lấy gì làm lạ vì mỗi lần vẽ tranh hắn đều có những thái độ lạ lùng chứ đâu riêng gì khi họa bức bình phong địa ngục. Ví dụ trong thời gian vẽ Năm Cảnh Luân Hồi ở chùa Ryugaiji, hắn có lần thấy một xác chết nằm bên đường. Nếu là người bình thường thì họ đã nhìn thật nhanh qua chỗ khác, thế mà hắn lại điềm nhiên ghé ngồi xuống, bắt đầu vẽ chi li từng chân lông cọng tóc trên mặt trên tay của cái thây đã bắt đầu rữa ra. Sự say mê đến thế của hắn phải được gọi thế nào cho đúng nhỉ ? Chắc nhiều vị sẽ không trả lời được. Bây giờ tôi chưa có thời giờ giãi bày tường tận đâu, trước hết, xin quí vị hãy nghe cho thủng câu chuyện đã.

Một tên đệ tử của Yoshihide (vẫn là anh chàng nhắc tới ban nãy) đang sửa soạn bột màu cho thầy thì bỗng dưng hắn ta đến đứng một bên, bảo :

- Ta đi nghỉ trưa một chốc. Không biết sao dạo này chiêm bao toàn ác mộng.

Chính ra chuyện đó Yoshihide vẫn thường gặp nên tên đệ tử chẳng làm lạ, vẫn không dừng tay, cất tiếng :

- Thế ạ.

Nó chỉ trả lời cho đủ lễ nhưng khác mọi ngày, mặt Yoshihide ra chiều buồn bã,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 107

y hỏi tên đệ tử bằng một giọng điệu mà nó cảm thấy khó từ chối.:

- Vì thế, ta muốn nhờ ngươi đến ngồi bên giường, canh giấc hộ ta cơ !

Tên đệ tử tự hỏi không biết sao lần nầy thầy nó lại có vẽ bứt rứt vì những cơn ác mộng đến thế, nhưng cũng lễ phép thưa.

- Vâng, thầy để con canh cho.

Yoshihide vẫn chưa hết vẻ lo âu, chần chừ bảo :

- Thế thì mi vào bên trong nầy với ta. Nếu có đứa khác đến trong lúc ta đang ngủ, tuyệt đối cấm nó đến bên cạnh nhé.

Chỗ gọi là bên trong có gì khác hơn là gian phòng ngày cũng như đêm cửa bít kín, nơi Yoshihide ngồi vẽ hay bâng quơ nhìn ngọn đèn dầu. Vòng quanh căn buồng là bức bình phong mới được thảo qua vài nét đơn sơ bằng hòn than. Tên đệ tử đến nơi đã thấy Yoshihide nằm đầu gối lên cánh tay, ra dáng đang thiếp đi vì quá mệt. Thế nhưng chỉ được một giờ sau, tên đệ tử ngồi canh giấc đầu giường bỗng nghe một chuỗi âm thanh rờn rợn vọng vào tai hắn.

Tám

Lúc đầu thực ra chỉ là một chuỗi tiếng động vô nghĩa nhưng lần hồi, tên đệ tử nghe ra đó là những câu nói mớ ngắt quãng của người đang ngộp nước, cố gắng hộc ra ằng ặc:

- Sao, bảo tôi xuống à? Đi đâu, xuống mãi đâu? Tận đáy địa ngục cơ à ? Bảo tôi xuống hỏa ngục? Ai đó? Vị nào đang gọi tôi đó? Tưởng ai chớ hóa ra....

Tên đệ tử quên cả bột màu, hoảng hốt nhìn như muốn xuyên thấu ông thầy để dò xét tận bên trong khuôn mặt nhăn nheo giờ đây đã đổi thành trắng bệch, đẫm những hạt mồ hôi to, cũng như cái miệng còn sót mấy chiếc răng thưa thớt giữa đôi môi khô queo đang thở đứt đoạn. Thế rồi trong cái miệng đó có một vật gì lay qua lay lại như được ai cột vào một sợi tơ mà kéo. Thì ra cái lưỡi của ông thầy nó. Những âm thanh rời rạc đang phát ra từ phía cái lưỡi ấy.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 108

- Hừ, té ra là ngươi . Ta cũng đoán chỉ có thể là ngươi thôi. Ngươi bảo gì ? Đến đón à ? Cùng nhau xuống tận đáy địa ngục đi. Ta đi thôi !. Con gái ta đang chờ dưới ấy mà...

Lúc ấy tên đệ tử có cảm tưởng ghê rợn như có những bóng hình mờ ảo kỳ quái vụt lướt qua mắt nó rồi tan biến vào bức bình phong. Dĩ nhiên nó vội vàng nắm bàn tay Yoshihide lay lấy lay để, đánh thức thầy cho bằng được nhưng ông ta vẫn tiếp tục mê sảng một mình, không có vẻ gì sắp mở mắt ra. Hoảng quá, tên đệ tử mới bưng chậu nước rửa cọ đang đặt ở bên cạnh, xối ào lên mặt thầy.

- Đợi ngươi đấy, lên xe nhanh đi ! Lên xe bò nầy mà xuống địa ngục với ta.

Câu nói phát ra giữa tiếng rên siết như đang bị tắt nghẽn trong cổ họng Yoshihide. Thế rồi hắn giật bắn như bị kim chích, bừng mở mắt, bật người dậy. Trong ánh mắt như vẫn còn đọng lại những cảnh tượng quái gở vừa thấy trong chiêm bao. Một hồi lâu sau, cặp mắt vẫn đầy kinh hãi, miệng há hốc, còn đôi mắt mở trừng trừng nhìn vào hư vô. Rốt cục, lại được thần hồn rồi, hắn mới lãnh đạm nói với tên đệ tử :

-Thôi, được rồi. Cho mi trở về chỗ cũ !

Tên đệ tử biết lúc nầy mà còn thêm tiếng một tiếng hai, chắc chắn không khỏi bị thầy mắng cho nên lật đật rút lui khỏi phòng. Ra đến bên ngoài nhìn được ánh nắng mắt trời, nó mới cảm thấy chính mình cũng vừa thoát khỏi cơn ác mộng.

Nếu chỉ có chừng đó chuyện thôi thì nói gì nhưng chưa đầy một tháng sau, Yoshihide lại cố tình gọi một tên đệ tử khác vào phòng vẽ. Đang ngồi trong bóng tối trước ngọn đèn dầu chập chờn, miệng cắn mũi bút họa, hắn thình lình quay sang ra lệnh cho tên đệ tử:

- Mi chịu phiền trần truồng ra cho ta xem !

Thông thường, mỗi khi sư phụ đã truyền điều chi, bọn chúng phải nghe theo răm rắp nên tên đệ tử bèn nhanh nhẹn cởi hết quần áo bày nguyên hình dạng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 109

cha sinh mẹ đẻ. Lúc đó, Yoshihide mới nhăn mặt nhìn nó một cách lạ lùng rồi bảo :

-Ta chưa hề được xem cảnh một người bị cột bằng xiềng sắt. Dù không thích, mi có vui lòng làm theo lời ta trong chốc lát hay không?

Giọng lưỡi thì bảo vui lòng kia nọ nhưng thái độ của hắn trông thật lạnh lùng. Nguyên lai, tên đệ tử nầy không có tướng là dân cầm cọ vẽ mà là thứ gã con trai mạnh bạo sinh ra để cầm đao kiếm cơ, nhưng khi nghe thầy nói thế, nó cũng hết hồn. Mãi sau nầy khi kể về câu chuyện trên, nó vẫn lập đi lập lại : Tôi cứ tưởng sư phụ nổi điên và thịt tôi đến nơi đấy chứ ! Thế nhưng lúc ấy Yoshihide thấy tên đệ tử ra dáng chần chừ là đã phát sốt. Không biết hắn kiếm đâu ra một sợi xích sắt mỏng, tay liền hoa nó lên rồi thoăn thoắt cuốn như bay quanh châu thân tên đệ tử. Thằng kia chưa kịp có thời giờ ừ hử gì cả thì đã bị xích kia siết hết hai cánh tay. Thế rồi Yoshihide lại hiểm ác rút thật chặt một đầu dây xích làm tên đệ tử đau thấu trời xanh, nó quị người ngã xuống mặt sàn đánh ầm và lăn lộn mấy vòng.

Chín

Lúc đó có thể nói hình thù tên đệ tử giống như cái vò rượu ngã lăn lóc, mình mẩy tứ chi đều bị trói chèo queo thật tội nghiệp, có mỗi cái đầu còn ngo ngoe được thôi. Xem ra thì trên thân thể vạm vỡ của nó, máu trong huyết quản bị xiềng sắt ngưng tụ lại đã căng ứa trên làn da làm ửng đỏ cả người. Thế mà trước quang cảnh đó Yoshihide vẫn bình thản như không, hắn cứ lửng thửng đi vòng quanh cái "vò rượu" kia, nhìn chỗ nầy ngắm chỗ kia, sao chép hết bức nầy tới bức nọ. Trong khi ấy thì tên đệ tử bị trói nằm kia chịu đau đớn khổ sở như thế nào thì tôi không cần tả ra làm gì, quí vị cũng đã đoán được.

Nếu không có gì bất ngờ xảy ra hôm đó thì chắc tên đệ tử kia còn phải chịu cái cực hình nầy không biết đến bao giờ, nhưng may cho nó (hay bảo không may cho nó mới phải) là sự việc kéo dài được một chốc thì từ chỗ khuất cạnh cái bồ góc nhà có một vệt gì đen bóng như dầu loang chầm chậm chảy thẳng ra thành một đường dài. Lúc đầu thì trông vật đó như dính chặt dưới nền nhưng lần hồi bỗng động đậy từ từ rồi bắt đầu trườn về phía trước. Khi thử chú mục nhìn cái

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 110

thân hình lấp la lấp lánh tiến gần đến trước mặt mình, tên đệ tử mới la ó thiếu điều đứt hơi:

-Rắn, rắn ...

Lúc ấy có bảo tưởng chừng máu toàn thân tên đệ tử sắp sửa đông đặc cũng không quá đáng vì con rắn chỉ còn xíu xiu nữa đã có thể thè cái đầu lưỡi lạnh buốt của nó chạm vào mảng thịt ở cổ tên đệ tử đang bị xiềng siết đến bắn máu. Chuyện không thể ngờ này chắc đã khiến cho con người ma giáo như Yoshihide cũng đâm ra hoảng hốt nên hắn vội vàng ném ngay mũi cọ, khom người chụp lấy đuôi rắn, thòng đầu cho nó đong đưa. Rắn cố vặn vẹo cả người để ngóc lên cho bằng được nhưng đầu nó không tài nào chạm nỗi cổ tay gã thợ vẽ.

-Con rắn khốn nạn, ông vẽ đang ngon .

Hắn lầm thầm nguyền rủa, thảy tọt con rắn vào trong cái bồ góc phòng rồi cáu kỉnh tháo vòng xiềng đang thắt chung quanh người tên đệ tử. Hắn chỉ làm mỗi việc tháo xiềng chứ nhất nhất không có lấy một lời dịu ngọt an ủi. Như thể hắn cáu kỉnh không phải vì suýt nửa con rắn ngoặm cổ tên học trò mà chỉ vì nó làm hỏng một nét họa mà thôi. Sau này nghe kể mới biết ra con rắn ấy cũng được Yoshihide cố ý nuôi để dùng làm mẫu vẽ.

Qua mấy chuyện như thế quí vị đã hình dung được Yoshihide điên khùng và tệ bạc đến chừng nào. Để kết thúc, tôi xin kể thêm chuyện một tên đệ tử khác tuổi vừa mười ba mười bốn đã thiếu điều mất mạng trong khoảng thời gian bức tranh địa ngục đang thành hình. Tên đệ tử này là một cậu trai bẩm sinh có nước da trắng trẻo như con gái. Một đêm, không hiểu cớ gì, cậu ta được gọi vào phòng thầy. Lúc đó, Yoshihide ngồi dưới ánh đèn, đang chăm chút đút cho một con chim quái dị ăn mấy mẩu thịt sống để trong lòng bàn tay mình. Con chim ấy phải to đến cỡ một con mèo nuôi trong nhà, lông vũ chỉa ra hai bên như những cái lỗ tai, cặp mắt tròn to màu hổ phách, tóm lại, mới nhìn qua cứ ngỡ là ông miêu nào đó.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 111

Mười

Nguyên lai, Yoshihide chúa ghét những ai chõ mõm vào chuyện của lão, thành thử trong xưởng vẽ cất giấu gì, cả con rắn vừa kể, hắn không hề hé môi cho lũ đệ tử biết. Do đó, có lúc trên bàn trong phòng hắn, những vật quái lạ như đầu lâu, bình bạc, mâm sơn ...được trần thiết, tùy theo cảnh trí cần cho bức vẽ. Không ai hiểu ngày thường Yoshihide chôn giấu những của lạ ấy ở đâu. Cho nên lời đồn đại về việc hắn được Thần Tài hỗ trợ chắc phải bắt nguồn từ những chi tiết đó thôi.

Tên đệ tử trẻ lúc ấy nghĩ thầm con chim quái dị kia cũng chỉ là một vật làm mẫu để vẽ bức bình phong nên mới thẳng thớm đến cúi xuống trước mặt thầy, kính cẩn :

- Thưa thầy gọi con có việc gì ạ ?

Yoshihide coi bộ không chú ý đến câu hỏi của nó, thè lưỡi liếm quanh cặp môi đỏ, hất hàm về hướng con chim, hỏi :

- Sao, mi thấy nó thuần chưa nào ?

- Thưa thầy, chim nầy là giống gì mà con chưa được biết bao giờ !

Đệ tử vừa hỏi vừa ngắm nhìn con chim hình thù giống mèo với cặp tai trông đến khiếp. Yoshihide vẫn giử vẽ trào lộng cố hữu:

- Cái gì ? Mi chưa thấy giống chim nầy bao giờ à ? Dân đô thị như bọn bay chán thật. Con vật nầy là giống cú có sừng mà lão thợ săn ở Kurama mới đem biếu ta mấy hôm trước. Có một con thuần tính thế nầy hiếm lắm đấy !

Vừa nói xong, nhằm lúc con cú vừa nuốt sạch mồi, y mới đưa tay lên nhẹ nhàng vuốt ngược tấm lưng nó từ dưới lên trên. Mới thế thôi thì trong nháy mắt, con vật đã vùng bay lên bàn, cất lên một tiếng kêu nhọn sắc, hai chân giương móng vuốt, nhắm đầu tên đệ tử lao tới. Nếu lúc đó tên đệ tử không vội vàng đưa ống tay áo lên che mặt thì đã ăn hai ba vết mổ rồi cũng nên. Nó la ơi ới, vung tay chực đuổi quái điểu thì con cú có sừng lại kêu the thé, chìa mỏ cốc thẳng đầu thằng bé. Thằng bé quên cả việc nó đang đứng trước mặt thầy, hết

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 112

đứng lại ngồi, chống đỡ không ngừng, luống ca luống cuống chạy trong cái phòng vẽ chật chội tìm cách thoát thân. Con cú cũng không chịu rời một tấc, lúc bay lên cao lúc sà xuống thấp, hễ thấy kẽ hở là châu đầu xuống nhắm ngay con ngươi thằng bé. Mỗi lần như vậy, cánh nó đập phần phật, bắn ra hơi ẩm nặng mùi lá mục hay quả nhũn tanh tưởi chịu không thấu. Đối với thằng bé lúc ấy thì thú thật, ngọn đèn dầu leo lét bên cạnh chả khác gì vầng trăng lu lạnh lẽo và căn buồng vẽ của ông thầy nó là hang động đầy yêu khí một nơi thâm sơn cùng cốc nào đâu.

Tuy nhiên cái nó sợ nhất không phải việc bị con cú tấn công. Điều làm nó rợn tóc gáy là thái độ của ông thầy Yoshihide, nãy giờ vẫn lạnh lùng ngắm nghía quang cảnh, từ tốn nhấm ngọn bút và ghi chép lên một cuộn giấy cảnh tượng ghê khiếp khi đứa học trò ẻo lả như con gái đang bị quái điểu tấn công không thương tiếc.Thoáng liếc thấy thế, một nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy thằng bé và đương sự hiểu ngay là ông thầy nầy có khi sẵn sàng thí cả mạng nó nữa.

Mười Một

Tình thực chuyện thầy thí mạng trò không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Xem chuyện kêu đệ tử đến đêm hôm đó rồi lập mưu kích thích con cú để vẽ được cảnh nó chạy cuống cuồng lúc bị cú tấn công thì rõ. Thưa vì lẽ đó mà tên đệ tử khi nhanh mắt thấy bộ dạng ông thầy, bất giác lấy hai ống tay áo che đầu, bỗng sau một tiếng thét hoảng hốt, nó té khuỵu phía cánh cửa kéo ở góc phòng. Vừa lúc ấy, Yohihide cũng cất tiếng la lối rồi dợm đứng lên. Đã thấy tiếng đập cánh của con cú càng lúc càng dữ dội cùng với tiếng đồ vật đổ vỡ loảng xoảng. Tên đệ tử mất cả thần hồn, bỏ cả tay che đầu, ngẩng xem có gì. Căn phòng lúc đó tối mịt, chỉ nghe tiếng gã họa sư đang bực dọc réo gọi bọn đệ tử.

Rốt cục, từ xa một đứa lên tiếng đáp lại, rồi tất tả cầm đuốc đến nơi. Dưới ánh sáng của ngọn lửa khói cay xè, nó thấy cây đèn trong phòng đã ngã lăn kềnh và ở chỗ dầu loang ra cả mặt sàn lẫn mặt chiếu, con cú hồi nãy đang nằm lăn lộn, cố nhấc một bên cánh lên và cất tiếng kêu ra chiều đau đớn. Riêng Yoshihide vẫn ở trong tư thế nửa đứng nửa ngồi, mặt ra dáng kinh ngạc còn mồm lầm bầm những gì không rõ. Thật ra chẳng có gì lạ cả: một con rắn đen thui đã cuộn người quanh con cú, từ đầu đến một bên cánh, và tiếp tục siết chặt. Có lẽ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 113

lúc tên học trò chạy vội và té khuỵu ở góc nầy đã lật đổ cái chum và khi cú kia khinh suất định chụp mổ con rắn đang từ trong chum bò ra là lúc cuộc thư hùng bắt đầu. Hai tên đệ tử đưa mắt nhìn nhau rồi trong khoảnh khắc, chỉ biết trơ mắt nhìn cuộc chiến đấu đang xảy ra, xong lặng lẽ cúi đầu chào thầy và kín đáo bước ra khỏi phòng. Chẳng ai biết số phận của con cú và con rắn ra sao nữa.

Chuyện tương tự những gì vừa kể nhiều vô số. Như tôi đã thưa trước, kể từ đầu thu là lúc có lệnh vẽ bức bình phong địa ngục cho đến mùa đông, lũ đệ tử của Yoshihide luôn luôn bị sư phụ tạo ra mọi chuyện phiền hà vì thái độ quái gở của hắn ta. Thế nhưng đến cuối mùa đông thì có cái gì không ổn trong kế hoạch vẽ bức bình phong của Yoshihide. Mặt mày hắn ngày càng bụ xụ, lời ăn tiếng nói cũng gắt gỏng hơn. Bức họa vẽ thử đã xong đến tám phần mười mà cứ bị bày trơ ra đấy, không tiến thêm được bước nào. Nhìn cảnh tượng đó có thể đoán được là Yoshihide sẵn sàng xoá sạch những gì đã cất công vẽ cho đến lúc ấy.

Dầu vậy, chẳng ai hiểu và chẳng ai dám đặt câu hỏi xem cái gì đã làm họa sư kẹt cứng. Bọn đệ tử trước đây mấy lần đã cạch ông thầy, có cảm tưởng như chúng đang bị nhốt chung một chuồng với hổ lang, đều giữ ý giữ tứ không dám đến gần sư phụ.

Mười Hai

Chính vì thế mà tôi không thấy gì xảy ra vào thời điểm đó để kể chuyện làm quà cho quí vị. Có lạ chăng chỉ là việc cái lão già ngang bướng kia bỗng trở nên mau nước mắt, nhiều lúc ra chỗ khuất ngồi khóc một mình. Đặc biệt có hôm có tên đệ tử không biết nhân việc gì phải đi ngang vườn nhà trên, bắt gặp ông thầy của nó đang đứng bên hành lang ngước mắt nhìn lên khung trời sắp vào xuân mà đôi mắt như mờ lệ. Tên đệ tử thấy thế chợt cả thẹn như thể nó đang dòm trộm ai, lẳng lặng trở gót rút lui, nhưng bao nhiêu đó đã đủ cho ta thấy gã đàn ông ngạo mạn khi muốn vẽ cảnh năm cõi luân hồi của chúng sinh dám lấy cả thây chết bên vệ đường làm mẫu kia lại có thể ức lòng vì không thực hiện được bức bình phong mà đâm ra khóc lóc như trẻ con. Nếu quí vị không cho là quái gở thì tôi xin thua.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 114

Thế nhưng, suốt thời gian vẽ bức bình phong, khi Yoshihide thiếu điều say mê đến mức có thể coi như khùng tới nơi thì cô con gái lão ta càng ngày càng chìm đắm trong u ẩn đến nỗi khi nhìn dung mạo tiều tụy của cô, bọn tôi không ghìm được nước mắt. Huống chi cô ta xưa giờ da dẻ vẫn trắng muốt, dáng điệu u buồn, khép nép, nên từ độ riềm mi trĩu xuống, quầng mắt thâm hơn, dáng cô đã buồn lại não nùng thêm. Ban đầu còn tưởng cô vì lo lắng cho cha già hay hờn duyên tủi phận chi chi. Chúng tôi phỏng đoán hết nguyên nhân nầy tới nguyên nhân nọ, giữa chừng mới nghe người ta đồn cô buồn là tại đức ông đang buộc cô chìu theo ý ngài đấy thôi. Nhưng chỉ ít lâu, bỗng nhiên thấy thiên hạ như quên bẳng những lời đàm tiếu đó.

Có lẽ nhằm khoảng đó thì phải, một đêm, trời vừa rựng sáng, lúc tôi đang một mình đi dọc hành lang trong phủ thì cái con khỉ nhỏ mang tên Yoshihide ở đâu bỗng bất đồ chạy tới, níu cứng vạt hakama trên quần của tôi giật lấy giật để. Tôi còn nhớ đêm đó trời ấm lắm, trong vườn thoảng hương mơ, vầng trăng tỏa ánh sáng bàng bạc. Dưới ánh trăng, tôi để ý thấy con khỉ chìa hàm răng trắng bóc, mũi xếp nếp nhăn nhăn, kêu eng éc toán loạn như đang bực bội vì điều gì. Tôi khó chịu thái độ quái gở của con vật thì ít mà hậm hực vì tấm hakama mới toanh bị giật nát thì nhiều, mới đầu định quơ chân đá nó qua một bên rồi cứ thế đi tiếp. Bỗng tôi chợt nhớ ra chuyện anh chàng vũ sĩ vì muốn trừng phạt con khỉ mà bị công tử quở trách. Lại thêm dáng điệu của con khỉ như có cái gì khác thường làm tôi rốt cục buộc phải chạy theo hướng con khỉ kéo, dọc theo năm sáu gian buồng (15) .

Vòng khỏi khúc quanh của hành lang, dù trong bóng đêm tôi cũng nhận ra được màu nước sáng nhàn nhạt của hồ nước trải rộng đằng sau mấy thân cây tùng xinh xắn. Chính vào lúc đó, tai tôi bỗng bắt được tiếng người đang giằng co gì nhau ở một gian phòng bên cạnh, và tiếng động đó coi bộ kịch liệt nhưng thì thầm thì thụt. Ngoài ra chung quanh hoàn toàn im vắng, ngoài tiếng cá nhảy làm nước động, dưới ánh sáng trắng bạc của màu trăng pha sương, không lấy có một tiếng người. Đến cạnh chỗ xuất phát tiếng động, tôi bất chợt dừng bước, tiến lại gần cánh cửa kéo, nín hơi để chờ xem có kẻ bất lương nào ló đầu ra chăng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 115

Mười Ba

Hình như con khỉ Yoshihide thấy tôi cứ e dè, đâm ra bực bội, chạy líu qua líu quíu hai ba vòng dưới chân, mồm phát ra tiếng kêu lí nhí như bị ai bóp họng, rồi thoắt cái co hai chân phóng lên chộp lấy vai tôi.Tôi chỉ biết phản ứng bằng cách quay cổ về hướng khác để khỏi bị móng nó cào cho. Con khỉ bèn cắn lấy ông tay áo khoácsuikan của tôi để thân mình khỏi bị tuột xuống nhưng lại làm tôi mất đà loạng choạng thụt lùi hai ba bước, cả người va vào cánh cửa kéo. Đến nước nầy thì hết còn chần chờ được nữa nên tôi mới kéo xoạc tấm cửa ra, dợm nhảy vào phía bên trong chỗ ánh trăng không chiếu tới xem sao thì cùng lúc có vật gì bỗng ngáng tầm mắt. Nhưng không, đấy chỉ là một người đàn bà từ căn phòng ấy chạy vụt ra, làm giật bắn cả mình. Người ấy thiếu điều đâm sầm vào tôi và nhân cái trớn đó, tới được bên ngoài thì ngã ra sàn, đầu gối quị xuống và hơi thở đứt đoạn, run rẩy dương mắt nhìn về phía tôi mà như thể còn đang nhìn một vật gì khiếp đảm.

Không cần phải nói quí vị cũng đủ hiểu người đàn bà ấy là cô gái con anh thợ vẽ Yoshihide. Nhưng có cái là đêm hôm đó cô chẳng còn là cô gái của mọi ngày, đôi mắt to của cô chiếu vào mắt tôi một cái nhìn cứ ánh lên lấp la lấp lánh, gò má đỏ bừng bừng như hực sốt. Tấm hakama trên đùi cũng như cái uchigi lụa choàng người đã lệch lạc, không còn đâu nét thơ ngây mọi ngày mà thay vào đó là một vẻ gợi tình. Làm tôi đâm ra tự hỏi con người trước mặt kia có phải cô con gái thường ngày mảnh khảnh khép nép của Yoshihide hay không nữa. Tôi bèn đứng tựa lưng vào tấm cửa ngắm người con gái yêu kiều kia dưới ánh trăng, vừa đưa tay chỉ về hướng có tiếng chân của ai đó đang chạy vội vã xa dần và đưa mắt lặng lẽ nhìn cô thầm hỏi cô xem đó là ai..

Cô gái chỉ cắn môi, im lặng lắc đầu. Cứ xem thế thì thấy cô hãy còn cay đắng vì việc mới xảy ra.

Tôi mới khom người xuống, miệng sát vào tai cô gái, thì thào hỏi "Ai đấy?". Thế nhưng cô ta cứ quầy quậy lắc đầu, chẳng chịu trả lời. Không những thế, lúc đó, những giọt lệ từ riềm mi dài như chực trào ra khoé mắt và cô càng cắn chặt môi hơn. Đáng tiếc là với đứa cha sinh mẹ đẻ tính khí đần độn như tôi thì ngoài những gì được thấy tận mắt, tôi không biết phỏng đoán ngọn ngành

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 116

chi cả. Thấy thế, thưa quí vị, tôi chả dám hỏi cô ấy thêm câu nào mà chỉ biết đứng như trời trồng một lúc lâu như để lắng nghe từng nhịp trái tim nhảy thình thịch trong lồng ngực của cô gái, một phần cũng vì thầm nghĩ mình có thể làm điều dại dột nếu còn muốn tìm hiểu xa hơn.

Không nhớ rõ tôi đã đứng như thế được bao lâu, mãi sau mới từ từ khép cánh cửa kéo và chỉ biết ngoái lại cố nhỏ nhẹ từ tốn nói được một câu:"Cô về phòng đi thôi!" với người con gái hình như lúc ấy đã qua cơn xúc động. Riêng phần tôi lại áy náy vì có cảm tưởng mình đã thấy một điều gì không nên. Hơi mắc cỡ, bèn quay người đi trở lại hướng cũ. Thế nhưng vừa được mươi bước thì chợt có ai từ đằng sau e sợ nắm vạt áo tôi giật giật kéo lại. Tôi giật mình quay lại, xem có chuyện gì.

Chỉ thấy dưới chân mình con khỉ nhỏ Yoshihide hai tay phục xuống như người ta, cái lục lạc bằng vàng kêu lanh canh, đang kính cẩn gục đầu lên gục đầu xuống.

Mười Bốn

Sự việc sau đây xảy ra khoảng chừng nửa tháng sau vụ náo loạn. Một hôm, Họa sư Yoshihide đột nhiên đến phủ và xin đức ông cho phép hắn gặp trực tiếp. Lão họa sư chỉ là hạng bần dân nhưng thường ngày vẫn được đức ông đặc biệt chiếu cố nên mới dám thế. Bình thường dễ gì ngài cho ai gặp nhưng hôm đó ngài nhận lời tiếp hắn một cách dễ dàng và cho gọi hắn đến ngay. Yoshihide mặc cái áo màu nâu nhạt và đội chiếc mủ đen quen thuộc nhưng vẻ mặt lại nhăn nhó, khó ở hơn mọi ngày. Cúi rạp trước mặt đức ông, hắn cất giọng khàn khàn thưa:

- Bẩm bức bình phong cảnh địa ngục mà bề trên hạ lệnh vẽ, thần ra sức cầm bút đêm ngày nên nay mai sắp hoàn thành rồi ạ.

- Thế thì mừng cho mi. Ta cũng đẹp lòng.

Ngoài miệng dạy như thế nhưng giọng của đức ông ỉu xìu, như không lấy gì thiết tha cho lắm.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 117

- Thưa thần chưa làm gì đáng để bề trên khen thưởng như vậy.

Yoshihide có vẽ hơi giận dỗi nhưng vẫn phủ phục nói tiếp :

- Bức tranh hầu như xong rồi nhưng còn có chỗ thần không sao vẽ được.

- Mi nói gì ? Có chỗ mi vẽ không được à ?

- Thưa vâng. Bình sinh cái gì thần chưa thấy tận mắt thì thần không thể vẽ ra. Nếu gượng mà vẽ lại không thỏa mãn. Cho nên thần coi như là vẽ không được vậy.

Nghe đến đây, gương mặt đức ông bỗng phảng phất một nụ cười chế nhạo :

- Mi muốn nói là muốn vẽ bức bình phong địa ngục thì mi phải thấyđược cảnh địa ngục trước đã à ?

- Thưa đúng thế thật. Năm ngoái gặp lúc có trận hỏa tai thật lớn, thần đã chừng kiến tận mắt một biển lửa nóng rực chẳng khác lửa hỏa ngục. Nhờ cái duyên thấy cảnh lửa đỏ cuồn cuộn đó mà sau này thần mới sáng tác được bức " Bất Động Minh Vương Quấn Lửa ". Chắc bề trên cũng biết đến bức họa đó của tiểu thần.

- Vẽ lũ tội nhân được không hả ? Mi chưa chứng kiến công việc bọn ngục tốt dưới địa ngục bao giờ mà!

Đức ông như hoàn toàn không thèm để ý đến lời phân trần Yoshihide, ngài đang hỏi câu nầy lại nhảy qua câu kia.

- Mắt thần đã có dịp nhìn cảnh kẻ bị niềng bằng xiềng sắt, cũng từng vẽ được cảnh người chạy trốn khi bị quái điểu đuổi theo mổ thực sự chứ thần đâu dám thưa là chưa biết cảnh khổ của lũ tội nhân bị tra khảo. Hơn nữa, ngục tốt thì...

Yoshihide miệng nở một nụ cười gượng gạo, nói :

- Còn ngục tốt thì đã hiện ra rõ ràng trong những giấc mộng của thần rồi. Đứa

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 118

đầu trâu, đứa mặt ngựa, có lúc chúng nó mang dạng quỉ ba đầu sáu tay, miệng nói không ra âm, tay đập không thành tiếng, đối xử hết sức tàn bạo với kẻ tiểu thần bất kể ngày đêm....Cái mà thần không tài nào vẽ nổi không phải là cảnh đó đâu ạ.

Nghe thế, đến đức ông cũng không khỏi ngạc nhiên. Ngài nhìn trừng trừng mặt Yoshihide một lúc lâu, có vẽ bồn chồn muốn tìm hiểu. Mãi sau mới nhíu mày và ngạo nghễ buông một câu gọn lỏn :

- Vẽ cái gì mà không được đâu, nói nghe coi !

Mười Lăm

- Cái tiểu thần muốn vẽ cho được ở ngay giữa bức bình phong là cảnh chiếc xe ngự từ trên không rơi xuống đấy ạ .

Yoshihide nói và lần đầu tiên y dám ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt đức ông.Tôi nghe người ta bảo khi đụng đến chuyện hội họa rồi là anh ta hóa ra ngông cuồng luôn nhưng quả là cái nhìn của hắn lúc đó trông đáng sợ thật.

- Thưa, trong chiếc xe đó phải có một vị công nương cực kỳ diễm lệ, mái tóc sổ tung, khô héo khắc khoải giữa ngọn lửa hung bạo. Khuôn mặt nàng phải ngột ngạt vì khói, đôi mày nhíu lại, đầu rướn lên về phía vòm nóc xe. Tay của nàng phải kéo ghịt lấy rèm cửa muốn che không cho những đốm lửa đang bắn tung như mưa bấc từ trên không xuống. Thế rồi chung quanh nàng phải có khoảng mươi, mươi hai con ác điểu châu mỏ kêu inh ỏi và bay liệng loạn xạ. Xin thưa hình ảnh vị công nương diễm lệ trong chiếc xe ngự kia chính là cái mà tiểu thần không tài nào vẽ cho được!

- Thế...mi tính sao đây?

Không hiểu cớ gì đức ông xem ra có vẻ hài lòng một cách kỳ lạ, ngài làm như thúc giục Yoshihide nói thêm. Cặp môi đỏ chót như người lên cơn sốt của lão họa sư run lẩy bẩy. Y nói mà cứ tưởng mình đang ở giữa cơn mộng dữ :

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 119

- Đó là cái mà thần không tài nào vẽ nổi.

Y lập lại câu khi nãy lần nữa rồi cắn chặt hàm răng, mạnh dạn tiếp lời:

- Xin bề trên làm ơn cho thấy được cảnh châm lửa đốt một chiếc xe ngự trước mặt thần. Ngoài ra, nếu có thể thì.....

Đức ông sa sầm nét mặt trong giây lát, xong bỗng ngài bật tiếng cười sằng sặc. Từ từ cố nén cười cho khỏi đứt hơi, ngài mới phán:

- Được rồi, ta sẽ ra lệnh cho chúng làm đúng ý ngươi. Không cần lo có thể hay không thể cho mất công.

Khi tôi nghe đức ông thốt ra câu đó, không hiểu vì có linh tính hay sao mà thấy hơi rờn rợn. Dung nghi ngài lúc đó thật dị thường, miệng thì sùi cả bọt mép, còn cặp mày cứ nhăn đi nhíu lại như sắp phát ra chớp nháng. Có lẽ ngài đã tiêm nhiễm cái khùng điên của Yoshihide nhưng chưa đến nỗi điên như hắn đó thôi. Nói hết câu ngài mới ngừng lại giây lát rồi bỗng dưng tiếng cười ằng ặc trong cổ họng tuôn ra như thác, không cách gì ngăn lại được:

- Ta sẽ cho đốt một chiếc xe ngự như ngươi muốn. Ta lại sẽ ra lệnh đưa lên xe đó một đứa con gái thật diễm lệ ăn bận kiểu nhà đài các. Khói lửa sẽ liếm táp mặt nó, con đàn bà đó sẽ khắc khoải đau khổ chờ chết. Muốn vẽ cho bằng được cái cảnh tượng đó thì mi đáng là đệ nhất họa sư trong thiên hạ. Ta khen cho mi đấy, a ha, ta khen cho mi.

Mới nghe đức ông nói như thế, mặt Yoshihide bỗng tái mét, hơi thở hổn hển, đôi môi hãy lập bập nhưng gân cốt toàn thân thì đã nhũn ra cả. Hai tay dán bệt xuống mặt chiếu, hắn mới lí nhí trong miệng mấy câu cảm ơn:.

- Tiểu thần vô cùng cảm kích. Muôn đội ơn bề trên.

Có lẽ câu nói của đức ông đã làm loé ra trong đầu hắn từng chi tiết sống động quang cảnh ghê rợn của chương trình mà hắn ta dự tưởng. Đây là lần duy nhất trong đời mà dưới mắt tôi, Yoshihide chỉ là một kẻ đáng thương thôi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 120

Mười Sáu

Được hai ba hôm, một đêm sau lần đức ông cho Yoshihide hầu, ngài mới gọi hắn vào cho nhìn tận mắt quang cảnh một chiếc xe ngự bị đốt. Nhưng cảnh đốt xe đó không diễn ra ngay giữa phủ Horikawa mà ở cái dinh tên gọi Yukige, một sơn trang nơi ngày xưa lệnh bà em gái của ngài có lần cư ngụ.

Xin thưa cái dinh Yukige này đã lâu không ai ở, vườn tược mênh mông để tiêu điều hoang phế. Riêng về số phận của em gái đức ông, vẫn theo lời đồn của thiên hạ, có những mẩu chuyện chẳng hạn cứ vào đêm không trăng, bà ta hãy còn kéo lếch gấu cái hakama đỏ tươi, chân không chấm đất, đi dọc suốt hành lang. Những giai thoại đó có thể phát xuất từ trí tưởng tượng của những kẻ có dịp đi ngang qua chỗ không có hơi người này thôi nhưng không hẳn hoàn toàn phi lý vì giữa ban ngày ban mặt mà không khí ở khu dinh cơ này hết sức u tịch. Cứ đến lúc mặt trời khuất núi, tiếng nước lòng khe róc rách trong bờ bụi và cảnh mấy cánh vạc bay dưới ánh trăng như mang điềm gở làm người ta đủ rợn người.

Đêm đó lại đúng hôm không trăng. Trời tối như mực nhưng dưới ánh đèn dầu, đã thấy đức ông mặc cái áo ngắn màu xanh non, cái quần dài tím sẫm thêu hoa văn nổi, đang chễm chệ ngồi xếp bằng trên tấm bồ đoàn tết bằng rơm viền gấm trắng bên hành lang. Chung quanh ngài là năm sáu tả hữu hầu cận, không cần phải nói cũng biết họ sắp thành hàng ngũ rất cung kính. Đặc biệt trong đám có một người cặp mắt trông dị thường, đó là một vũ sĩ mấy năm trước trong khi viễn chinh ở Michinoku, có lần đói phải ăn thịt người qua bữa. Từ dạo đó, hắn trở nên mạnh mẽ đến độ tay không có sức bẻ nổi sừng hươu sống. Mình mang áo giáp, hắn đứng nghiêm trang bên hành lang, lưỡi đại đao đeo vểnh lên như đuôi én lộ ra ngoài thắt lưng. Dưới ánh đèn chập chờn trong gió đêm, lúc lóe lên lúc chực tắt, không hiểu sao nhìn đi nhìn lại những con người đó, tôi thấy ghê ghê, không biết mình đang sống trong mộng hay đứng trước cảnh thực.

Hơn thế nữa, một chiếc xe ngự đã được kéo ra đặt giữa viên đình . Vẻ uy nghi của cỗ xe như át cả bóng đêm, hai càng xe vì không bắt vào bò nên đặt nghiêng nghiêng lên trên một cái bậc. Nhìn.những chỗ dát vàng trên thành xe trông như sao sa, chiếu lấp lánh, ngay giữa đêm xuân mà cảm thấy ớn lạnh, nhất là vì bức

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 121

rèm xanh có viền hàng thêu nổi phong kín không cho thấy bên trong xe có những gì. Chung quanh, một bọn tráng đinh tay cầm đuốc cháy, cẩn thận tránh không để khói dạt về phía hàng hiên nơi đức ông ngự, cung kính đứng chờ lệnh.

Chỗ của Yoshihide hơi cách đó một chút. Hắn quì gối, mặt hướng về hàng hiên, hình như vẫn bộ áo màu nâu non và cái mủ quạ mềm, như bị đè bẹp bởi bầu trời đầy sao, thu mình lại dúm dó nom còn nhỏ bé hơn ngày thường. Sau lưng hắn lại có thêm một người cũng đội mủ áo y như thế, có lẽ là tên đệ tử tùy tùng. Hai người ấy đang quì cách xa trong bóng tối lờ mờ thành thử từ dưới hàng hiên là chỗ tôi mà nhìn thì thật tình cũng không sao chắc chắn về màu áo.

Mười Bảy

Lúc đó trời cũng đã về khuya. Bóng tối phủ đen kịt núi rừng như đang nghe ngóng từng nhịp tim tiếng thở của những người có mặt. Chỉ có tiếng gió đêm thốc qua và mỗi lần như thế, mùi khói và muội đuốc lại bay tới. Đức ông ngồi một đỗi không nói gì, ngài chỉ lặng ngắm khung cảnh khác thường này, rốt cục mới lếch gối tới một chút, cao giọng gọi:

-Yoshihide!

Hình như Yoshihide có trả lời ngài sao đó nhưng lỗ tai tôi chỉ nghe tựa hồ một tiếng rền rĩ .

-Yoshihide! Đêm nay mi được toại nguyện đấy nhé. Ta sẽ cho đốt chiếc xe ngự để mi xem.

Nói xong câu, đức ông mới liếc mắt nhìn lũ hầu cận. Lúc đó, tôi có cảm tưởng đức ông và chúng nó đang mỉm cười với nhau một cách khó hiểu. Có lẽ tại tôi tưởng tượng ra thế không chừng. Nghe đức ông bảo, Yoshihide sợ hãi ngẩng đầu lên nhìn lên về phía hàng hiên nhưng không nói năng gì cả.

-Xem kìa. Đây là chiếc xe ta vẫn đi mỗi ngày. Chắc mi thừa biết. Bây giờ ta sẽ ra lệnh đốt xe để dựng mẫu phong cảnh hỏa ngục cho mi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 122

Đức ông mới dừng nói, đưa mắt ra hiệu cho tên hầu cận rồi mới làm bộ thương cảm:

-Trong chiếc xe này, ta cho trói một con thị tỳ phạm lỗi đặt nguyên vào đấy. Nếu châm lửa đốt xe thì nhất định thịt nát xương tan; con đàn bà đó sẽ chịu muôn vàn đau đớn, khắc khoải chờ chết. Ngươi họa được bức bình phong với cảnh tượng như thế thì tác phẩm của ngươi đúng là có một không hai đấy. Đừng bỏ sót chi tiết lúc thịt trắng da ngà cháy khét trong lửa nhá! Hãy nhìn cho mãn nhản cảnh lọn tóc đen sổ tung bị lửa táp ra tro đi nghe!.

Lần thứ ba.đức ông lại ngưng giọng. Tôi không hiểu ngài đang nghĩ gì, chỉ thấy ngài cười không thành tiếng đến rung cả đôi vai, rồi phán:

-Quang cảnh này muôn đời sau cũng không có đấy. Ta cũng xin làm quan khách. Bay đâu, vén rèm lên cho Yoshihide xem cho biết mặt con đàn bà trong xe đi!

Nghe lệnh, một tên tráng đinh một tay nâng cao ngọn đuốc thông, xông xáo đến gần cổ xe, vươn cánh kia tay ra , kéo bức rèm cửa lên cái một. Ngọn đuốc đang cháy phừng phực kêu răng rắc, ánh sáng đỏ loa lóa của nó thoắt chốc đã rọi sáng rỡ khoảng không gian hẹp. Cảnh tượng thật thảm khốc: trên sàn, một thị nữ bị xiềng chặt, mà trời ơi, làm sao tôi trông nhầm cho được? Sau tấm kimono diễm lệ thêu hoa anh đào là dòng suối tóc đen mượt buông mềm xuống bờ vai, một cành thoa vàng xinh xắn cài lấp lánh. Nhìn cái thân hình mảnh mai, mồm bị bịt chặt để khỏi kêu la, nét u buồn dịu hiền của khuôn mặt, tôi nhận ra ngay người thị nữ ấy không ai khác hơn cô con gái Yoshihide. Suýt nữa tôi đã hét lên vì thảng thốt.

Thưa chính vào lúc đó đấy ạ, tên vũ sĩ mạnh bạo đối diện với tôi bỗng đứng phắt lên, một tay ghìm cán đao, mắt trừng trừng nhìn về hướng Yoshihide. Tôi kinh hãi ngó theo mới thấy lão họa sư vừa chứng kiến cảnh tượng trên đã gần hóa rồ. Tự nãy giờ vẫn quì bên dưới thế mà đã hắn đã bật dậy chực bay ra. Hai tay hắn vươn ra phía trước như sắp sửa chạy ùa về hướng cái xe trong cơn mê dại. Có điều đáng tiếc là, như đã thưa, chỗ tôi đứng lại quá xa nên không rõ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 123

tướng mạo hắn ta lúc ấy. Tuy nhiên mới vừa nghĩ như thế xong thì đã cảm thấy gương mặt trắng bệt của Yoshihide, không, cả hình dáng của lão ta nữa, đang như có một sức lực vô hình gì nào đó thoắt kéo khỏi màn đêm và mang ra treo giữa không gian, bày lồ lộ trước mắt tôi. Cùng lúc ấy có tiếng đức ông ra lệnh"Châm lửa cho ta!" và bọn tráng đinh ném vào xe hết ngọn đuốc thông nầy đến ngọn khác. Chiếc xe ngự bén lửa bùng lên.

Mười Tám

Chỉ trong nháy mắt, ngọn lửa đã bao trùm cả cỗ xe. Mấy tụi giây màu tím kết trên hiên xe bị quạt bay tung lên, từ phía dưới khói trắng cuồn cuộn hiện rõ trong đêm đen. Hết rèm trúc rồi hai bên thành cửa cho đến đến kim loại dát trên mui như thể vỡ tung một loạt và bay ra thành một trận mưa lửa cuồng loạn giữa tầng không, cảnh tượng thảm khốc đến nghẹn lời. Thế rồi những lưỡi lửa giận dữ liếm táp khung xe, bốc lên tận trời cao, đỏ rực như vầng dương đang sa xuống đất, bảo là lửa lò trời trào ra cũng không quá đáng. Lúc nãy tôi còn chực hét lên, còn giờ đây hoàn toàn hồn tiêu phách tán, chỉ biết há hốc nhìn quang cảnh rùng rợn này chứ không biết làm gì khác. Thế nhưng người ruột thịt như Yoshihide thì ...

Đến nay tôi vẫn còn chưa quên vẻ mặt Yoshihide lúc ấy. Gã đàn ông đó những tưởng là sẽ chạy như mê về phía cỗ xe thì lúc lửa vừa bùng lên, bỗng chùn chân lại, hai tay vẫn vươn ra đằng trước, mắt chỉ nhìn chầm chập, cái nhìn như đang cố cuốn hút cho bằng được tất cả lửa khói đang bao trùm cỗ xe. Ánh sáng ngọn lửa chiếu rọi toàn thân, soi từng nếp nhăn nheo trên khuôn mặt già nua xấu xí, soi đến cả từng cọng râu của lão. Thế nhưng chính cái gương mặt với cặp mắt đang mở cực to, với đôi môi vặn vẹo đến biến hình, với bắp thịt trên gò má đang run rẩy lật bật mới làm ta hình dung được tâm trạng của Yoshihide khi sự sợ hãi, nỗi đau khổ và kinh ngạc thay nhau hiện ra trên đó, đợt nầy nối tiếp đợt khác. Cho dầu là tên cường đạo sắp sửa bị bêu đầu hay kẻ tội nhân gian ác nghịch đạo mà thập điện diêm vương lôi ra công đường xét xử cũng không thể nào có khuôn mặt khốn khổ hơn lão ta lúc ấy. Đến nỗi tên vũ sĩ tùy tùng mạnh bạo dường nào mà mặt cũng chợt biến sắc, sợ sệt ngước mắt lên nhìn đức ông.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 124

Đức ông miệng vẫn mím chặt, lâu lâu lại cười ma quái, mắt không rời cỗ xe. Mà trong chiếc xe ấy thì, trời ôi, hình dung cô gái trong xe tôi được thấy lúc đó ra làm sao, đến bây giờ vẫn chưa đủ can đảm để kể hết chi tiết. Cái khuôn mặt trắng trẻo ngửa lên vì ngạt khói, mái tóc dài phất tung như muốn dập tắt ngọn lửa, cả manh áo lụa thêu hoa anh đào thướt tha mỹ lệ, trong một khoảnh khắc đều biến thành lửa. Thật là một cảnh tượng bi thảm. Dần dần ngọn gió đêm có phần dịu xuống để khói dạt về phía bên kia, những đốm sáng bắn tung như kim nhủ lên đầu ngọn lửa đỏ, người con gái, miệng vẫn bị bịt chặt, ngoi lên trong cơn hấp hối làm sợi xiềng sắt cột nàng như thể sắp đứt đến nơi. Tôi nghĩ rằng dưới địa ngục, tội nhân cũng chỉ đau khổ đến thế này là cùng! Từ bọn tôi đến người vũ sĩ mạnh bạo kia đều khiếp sợ đến dựng tóc

Gió đêm thổi trở lại lần nữa, lướt trên những ngọn cây trong khu viên đình. Luồng gió ấy chạy quanh như không biết về đâu. Bỗng lúc đó mọi người nhận thấy có một vật gì đen đen, nhảy nhót như một quả cầu, giữa khoảng mặt đất và thinh không, rồi từ trên nóc dinh phóng thẳng vào cỗ xe đang bốc cháy. Thế rồi giữa khi khung xe sơn son bắt đầu rời rã và đổ xuống, vật ấy quàng lấy bờ vai xiêu vẹo của cô gái lay lấy lay để, thốt ra một tiếng kêu dài, nhọn sắc như lụa xé vọng ra đến ngoài màn khói, ra chiều đau đớn. Nghe như thế được hai ba lần thì bọn chúng tôi cũng không ai bảo ai cũng bật lên tiếng kêu ngạc nhiên. Kẻ vào tận đằng sau bức tường lửa khói để đeo riết vào vai cô con gái bị thiêu không ai khác hơn con khỉ mang cái hổn danh Yoshihide xích ở phủ Horikawa.

Mười Chín

Cái bóng khỉ ấy chỉ hiện ra trong một thoáng thôi ạ. Trong lúc những tia lửa hãy còn bắn tung lên trời như người ta rắc thêm kim nhủ lên mặt bức sơn mài thì cả bóng con khỉ lẫn cô gái đều đã chìm khuất hoàn toàn sau làn khói đen. Giữa khu viên đình chỉ còn cỗ xe lửa cháy bừng bừng, tiếng nổ lốp đốp. Có lẽ không thể gọi là xe mà phải gọi là cột lửa thì mới phù hợp với hình dạng ngọn lửa kinh hoàng đang vút lên không như thiêu đốt cả ngàn sao.

Đứng lặng người nhìn chăm chú trước cái cột lửa kia, Yoshihide đang có một thái độ không ai hiểu nổi. Cái lão Yoshihide mới phút trước hãy còn cực kỳ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 125

đau khổ vì quang cảnh trừng phạt dưới địa ngục kia bây giờ lại mừng vui rạng rỡ ra một cách lạ lùng. Cái rạng rỡ của người ngộ đạo hầu như đang tràn trề trên khuôn mặt nhăn nheo. Có lẽ hắn quên bẵng việc mình đang ở trước mặt đức ông hay sao mà thấy hắn cứ đứng vênh người ra, hai tay khoanh chặt trước ngực. Làm như cảnh mà hắn đang thấy không phải là đứa con gái yêu đang hấp hối trước mặt cha. Hắn chỉ ghi nhận được qua đó những chi tiết đem đến cho hắn một niềm vui thỏa vô bờ bến : màu lửa huy hoàng và hình ảnh người đàn bà trẻ đang chịu cực hình.

Quái gở hơn nữa là Yoshihide không chỉ tỏ ra vui sướng khi đứng ngắm đứa con gái yêu trong cơn thống khổ. Lúc đó con người hắn còn toát ra một vẽ uy nghiêm bạo tợn như Sư Vương đang căm giận, đến độ lũ chim đêm không biết bao nhiêu con đang bay toán loạn và kêu gào vì bất chợt bị ngọn lửa sém phải, không có con nào dám lượn vòng quanh chỏm mũ màu quạ đen của Yoshihide. Có lẽ đối với lũ chim không hiểu cơ sự gì kia, trên đầu lão họa sư phải có một vầng hào quang uy nghiêm tỏa rộng làm chúng kinh sợ.

Chim chóc còn như thế thì nói chi đến bọn chúng tôi, ngay cả lũ tráng đinh, đều im hơi nín tiếng, toàn thân run rẩy, chăm chú theo dõi từng động tĩnh của Yoshihide mà lòng tràn ngập một sự đồng tình lạ lùng với hắn như mới vừa được đức Phật Khai Nhãn mở mắt cho, Hình ảnh ngọn lửa thiêu đốt cỗ xe vần vũ trên không trung và lão họa sư đứng lặng như kẻ bị ai cướp mất hồn đủ tạo ra một bầu không khí uy nghiêm và hoan hỉ dị thường. Giữa cảnh tượng đó, chỉ có mỗi một người đang ngồi bên hàng hiên, đức ông Horikawa là đã biến thành một kẻ khác, mặt ngài tái như chàm đổ, mép sùi bọt , hai bàn tay ghịt chặt lấy manh quần màu tím sẫm, kéo từng hơi thở khò khè như một con thú cổ họng khát ráo.

Hai Mươi

Trước sau rồi cũng đã có người đem chuyện đức ông Horikawa đốt chiếc xe ngự ở dinh Yukige đêm hôm ấy thố lộ người ngoài biết.mà hình như không thiếu những kẻ chê trách hành vi của đức ông. Trước tiên người ta đặt câu hỏi cớ gì đức ông lại đem đốt chết con gái Yoshihide ; riêng việc nầy, câu giải đáp căn cứ vào lời đồn về mối hận tình xem ra nhiều hơn cả. Nhưng đến độ cho đốt

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 126

xe, giết người như vậy chắc chắn đức ông hãy còn có chủ tâm sửa trị tính khí quàng xiên của lão họa sư muốn thí cả mạng người để vẽ bằng được bức bình phong. Lý do trên có lần tôi đã nghe từ chính miệng ngài.

Còn thái độ lão Yoshihide sau khi chứng kiến cảnh con gái bị đốt trước mắt mà con tim gỗ đá của mình vẫn không lay chuyển, còn xin tiếp tục được vẽ bức bình phong, cũng lại bị người đời phê phán.Trong số đó, có kẻ thóa mạ nếu vì hội họa mà quên cả tình cha con, rõ ràng hắn là phường gian ác, mặt người dạ thú. Tăng quan chùa Yokawa chính là một trong những người tán thành luận điệu ấy. Vị nầy thường bảo : " Cho dầu giỏi hơn người được trong một lãnh vực nghề nghiệp hay một nghệ thuật nhưng nếu để được thế mà vứt cả ngũ thường (16) thì không tránh khỏi bị đọa xuống A Tỳ ".

Chỉ trong vòng một tháng sau, Yoshihide đã hoàn thành bức bình phong tả cảnh địa ngục. Hắn liền đem lên phủ kính cẩn dâng cho đức ông. Nhằm lúc ấy tăng quan chùa Yokawa đang ghé qua phủ. Khi ông ta mới vừa xem một lượt bức bình phong, đã kinh hoàng trước cảnh một cõi đất trời đang chìm đắm trong trận bão lửa. Tăng quan trước đó vẫn khinh khỉnh với Yoshihide, cứ nhìn mặt lão họa sư một cách trân tráo, đến lúc được xem bức tranh, bỗng như không nén nổi lời tán thưởng, vổ đùi đánh đét, thốt lên một tiếng : " Thần diệu ! ". Nghe thế, đức ông Horikawa chỉ biết cười gượng gạo và hình ảnh nụ cười ấy, đến nay tôi vẫn chưa quên.

Kể từ ngày đó, không còn một ai, ít nhất trong cửa phủ, nói xấu lão họa sư thêm một lời nào. Những người được xem bức bình phong, cho dù là kẻ ngày thường vẫn mang ác cảm với hắn, đều không khỏi xúc động đến lặng người, làm như họ sống thực được với muôn vàn khổ ải của hỏa ngục thể hiện trên mặt tranh.

Nhưng lúc thiên hạ hiểu ra thì Yoshihide đã vĩnh biệt cõi đời nầy. Ngay đêm hôm sau khi hoàn thành bức bình phong, hắn đã thòng dây thừng lên rường căn buồng ngủ, thắt cổ chết. Có mỗi đứa con gái yêu thì nó đã đi trước cha nên gã đàn ông nầy có lẽ không bao giờ tìm lại được sự yên ổn trong tâm hồn. Nắm xương tàn của lão ta nay vẫn nằm đâu đó dưới nền nhà cũ nhưng ngay cái mốc con bằng đá ghi dấu lại thì vài chục năm sau đó, với mưa to gió lớn đã đổ nát,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 127

rêu phong, khiến không còn ai biết ngôi mộ kia là của ai và xưa kia đã làm gì.

(Tháng 5 năm Taisho thứ 7) (Đăng trên nhật báo Osaka Mainichi) 

Dịch xong ở Tokyo ngày 12 tháng 12 năm 2003 Nguyễn Nam Trân

 Chú thích

(1) - Cách ghép hai nguồn tư liệu làm một của Akutagawa có thể ảnh hưởng đến phong cách sáng tạo của Kurosawa Akira khi ông dựng phim Rashômon (1950, Giải Chính Đại Hội Điện Ảnh Venise) theo hai tác phẩm của Akutagawa, La Sinh Môn (Rashômon,1915) và Khuất Trong Lùm (Yabu no naka, 1921). (2) - Đã dựa trên truyện tình tội lỗi giữa chàng Moritô và nàng Kesa với bối cảnh trung cổ thời Hei-an trong một tác phẩm cùng tên (Moritô to Kesa) cũng do Akutagawa Ryunosuke viết, đã đăng trên tạp chí Chuô Kôron năm Taisho thứ 7 (1918). (3) -  Horikawa, tên một con sông chảy qua Kyoto, kinh đô Nhật Bản thời xưa, nhưng Đức Ông (quan đại thần hay bậc tôn quí) Horikawa có thể chỉ là một nhân vật hư cấu. (4)  - Đại Uy Đức Minh Vương, tên một trong năm vị Minh Vương gìn giữ cõi Tây Phương, có tài hàng long phục hổ để bảo vệ chúng sinh. Tương truyền có ba đầu sáu tay, cưỡi trâu trắng, tướng mạo phẫn nộ dữ tợn. (5) - Tần Thỉ Hoàng Doanh Chính (259BC-210BC), hoàng đế đầu tiên, gồm thu sáu nước, thống nhất Trung Quốc, nổi tiếng tàn ác, đốt sách, chôn sống nho sinh. (6) - Tùy Dạng Đế Dương Quảng (569-618), vua thứ hai nhà Tùy, tương truyền giết cha soán ngôi, chuộng vũ công, sống xa hoa dâm dật. (7) - Kawahara-no-in, dinh thự ở Kyoto có khu vườn nổi tiếng đẹp, sau lấy làm chùa. Quan tả đại thần Minamoto-no-Tôru (822-895), con trai thiên hoàng Saga, là chủ cũ khu dinh thự tráng lệ ấy. (8) - Michinoku là tên cổ của vùng Đông Bắc Nhật Bản, ngày xưa là nơi hoang vu hiểm trở. 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 128

(9) - T. Kojima và A.Mori hiểu đọan văn này theo hai cách khac nhau. Chúng tôi theo lối dịch của T.Kojima. (10) - Kichijôten (Srii-Mahâdevii theo Phạn ngữ) hay Cát Tường Thiên Nữ là một bà tiên dung mạo đoan trang, hay ban phúc lộc. (11) - Fudômyôô (Acalanâtha theo Phạn ngữ) hay Bất Động Minh Vương, một trong năm vị Minh Vương, sứ giả của Như Lai đến giáo hóa chúng sinh. (12) - Kawanari tức Hokusai Kawanari (782-853) hoạ gia đầu đời Hei-an, gốc người Triều Tiên. Giỏi về sơn thủy và nhân vật. (13) - Ryugaiji hay Long Cái T ự (Chùa Đầu Rồng) (14) - Năm cõi trong vòng luân hồi mà tùy theo nghiệp báo con người sẽ thác sinh vào: cõi trời, người, súc sinh, ngạ quỉ và địa ngục. (15) - dịch thoát chữ ken có nghĩa là đơn vị đo chiều dài cỡ 1,81m. (16) - Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 129

NƯỚC DÒNG SÔNG CÁINguyên Tác: Ôkawa no Mizu 

Tác giả : Akutagawa Ryunosuke Người dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 130

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Lời Người Dịch:

 Người dịch dùng nguyên tác Nhật ngữ của nhà Kadogawa, bản bỏ túi in lại năm 1989.

Akutagawa hoàn tất Nước Dòng Sông Cái vào tháng giêng năm 1912 lúc ông hãy còn là cậu sinh viên 20 tuổi. Bài được đăng trên tạp chí thi văn Kokoro no hana (Hoa Tim). Những nhà nghiên cứu thường xem Rônen (Tuổi Già, 1914) mới là tác phẩm đầu tay của ông nên ít người để ý đoản văn này ( vốn có tính cách tùy bút hoặc trường ca nhiều hơn là truyện ngắn). Tuy nhiên, những ai sành Akutagawa đều nhận thấy trong mấy trang sau đây đã ngưng đọng tất cả cái tinh anh và tươi tắn nhất của tâm hồn ông, ở thời điểm mà yếu tố trữ tình và mỹ cảm của tuổi hoa niên chưa bị những hoài nghi và mệt mỏi trong cuộc sống làm cho phai nhạt.

Nước Dòng Sông Cái có nhiều chi tiết khiến người ta nghĩ nó là thiên tự truyện nhưng thật ra cái duyên dáng của đoản văn hàm chứa trong sự mơ hồ bàng bạc của những chi tiết ấy. Cái mơ hồ bàng bạc ở đây ta từng tìm được trong Tôi Đi Học của Thanh Tịnh, Phấn Thông Vàng của Xuân Diệu hay Chơi Giữa Mùa Trăng của Hàn Mặc Tử, đọc thuở thiếu thời.

Ngoài hai thi nhân ngoại quốc Grabriele d’Annunzio (Ý) de Hugo von Hofmansthal (Áo) mà Akutagawa nhắc đến tên, dịch giả Edwige de Chavanes trong lời chú dẫn cho bản dịch tiếng Pháp (L’eau du Fleuve, trong La vie d’un idiot et autres nouvelles, Unesco, Gallimard, Paris, 1987) đã nhận ra ảnh hưởng Kitahara Hakushu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 131

(1885-1942) qua một số chữ dùng, mượn từ tác phẩm Chuổi Ngày Thơ Ấu (Waga Oitachi) của nhà thơ.

Sông Cái ngầm chỉ khúc hạ lưu của Sumidagawa, con sông xiết bao gần gũi đối với người dân Tokyo, đã đưa cậu bé Niihara ( về sau sẽ thành Akutagawa của chúng ta) vào một dòng sông lớn hơn, dòng văn học.

Như tiên tri về số phận mình, trong đoản văn đầu tay nầy, Akutagawa đã nói đến cảm tưởng mơ hồ trực diện Thần Chết đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước, khi dòng sông của đời ông đang rong ruổi về miền Vĩnh Cữu "vô thủy vô chung" . Khi chuyển ngữ, người dịch không khỏi xúc động liên tưởng đến những dòng sông thân yêu trong đời mỗi một chúng ta, tự thời Lý Bạch (Dao liên cố viên thủy, Vạn lý tống hành chu) tác giả hai câu thơ mà một người thầy học cũ, nhà mô phạm Trần Trọng San, đã dịch:

Thương sao dòng nước quê nhà, Tiễn đưa muôn dặm thuyền ra xứ người.

 Tôi sinh ra ở một xóm kề Ôkawabata, Vùng Bãi Sông. Ra khỏi nhà, chỉ cần len lỏi xuyên mấy con hẻm khu Yokoami (Lưới Ngang) san sát phên giậu đen điu nấp dưới những tàng lá dẻ xanh non là đã ra đến ven bờ Happongui (Trăm Cọc) để được nhìn mặt nước mênh mông. Từ hồi thơ dại cho đến khi học hết cấp hai, hầu như mỗi ngày tôi đều có dịp đứng ngắm con sông. Nào nước, nào thuyền, nào cầu, nào cồn cát, nào cuộc đời tất tả ngược xuôi của những người sinh ra và sống trên mặt nước. Cho đến bây giờ, dù bao năm đã trôi qua, tôi vẫn còn nhớ da diết cái mùi nồng chưa ngửi mà đã cảm thấy của nước sông vào những trưa giữa hè nắng gắt, khi chân tôi giẫm lên cát bỏng trong những lần đến lớp học bơi.

Cớ sao tôi yêu con Sông Cái nầy đến thế! Phải chăng vì cảm thấy trong cái hâm hẩm của làn nước ngầu bùn có gì dễ thương vô hạn. Thật tình đến tôi cũng không thể nào giải thích lý do. Chỉ biết, tự ngày xưa, mỗi lần cứ nhìn dòng nước là trong lòng tôi không khỏi dậy một nỗi trống vắng và một nguồn an ủi đến ứa nước mắt. Tôi thấy mình như hoàn toàn tách ra khỏi thế giới đang sống, tâm hồn bay vút vào một cõi đất trời đầy nhớ nhung, luyến tiếc. Nhờ có dòng sông mà mang được cái tâm tình ấy,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 132

thưởng thức được nguồn an ủi và thú cô đơn ấy, nên tôi đâm ra yêu nó hơn mọi thứ trên đời.

Làn sương xám bạc, dòng nước như vệt dầu xanh , âm hưởng còi tầu mơ hồ tựa tiếng thở dài, cánh buồm nâu hình tam giác của con thuyền chở than đá…mỗi chi tiết của phong cảnh trên sông đều khơi dậy trong tôi nỗi buồn khó nén, khiến cho chút lòng thơ dại của tôi cũng không khỏi lao xao như ngàn liễu bên bờ.

Ba năm sau nầy, tôi dành thời giờ chăm chú đọc sách trong phòng văn cất giữa một vùng lùm bụi thanh u ngoại ô khu Yamanote sang trọng nhưng vẫn không quên tìm ngắm giòng sông lớn ấy mỗi tháng hai ba lần . Màu sắc của nước sông di động lại tựa hồ đứng yên, trôi mà như lười chảy, làm tan biến những căng thẳng trong tâm trí tôi, vốn đang chịu áp lực và kích thích của bầu không khí quá tịch mịch của phòng văn và nhịp làm việc dồn dập không đương nổi. Nước dòng Sông Cái mang đến cho tôi niềm tiếc nuối buồn thương và giải thoát của kẻ đi hành hương lâu ngày mới về đến quê nhà, giúp cho cái tâm hồn xao động trong tôi tìm ra thanh thản. Cũng nhờ nó mà lần đầu tiên tôi mới sống được những tình cảm không thoáng gợn và thực sự của mình.

Biết bao lần tôi đã được nhìn những cánh hoa keo trắng toát nghiêng mình xuống dòng nước xanh, bay lả tả trước cơn gió nhẹ một ngày đầu hè. Biết bao lần tôi đã được nghe tiếng chim di se sắt lạnh tầng không ngang tầm mặt nước tối của những đêm tháng mười một trời thường làm sương giá. Những điều nghe thấy như thế đã làm tình yêu trong tôi đối với giòng sông mỗi ngày một mới. Cũng run rẩy như cánh chuồn đen sinh ra từ nước sông mùa hạ, tấm lòng niên thiếu của tôi lúc đó mở thật to để thu biết bao đổi thay mới mẻ cho đầy đôi ngươi kinh ngạc. Nhớ nhất là lúc tựa mạn thuyền thả lưới đêm, trôi theo dòng, ngắm mặt nước đen không gây mảy may tiếng động, để khi nghe tiếng thở phập phồng của Thần Chết đang lềnh bềnh giữa khoảng đêm khuya và mặt nước, mới cảm thấy một nỗi buồn bơ vơ xâm chiếm tâm hồn.

 Mỗi lần nhìn dòng Sông Cái, tôi không thể nào quên được cái kinh thành của sóng nước mãi bên trời Ý vẫn đón buổi chiều về với tiếng hát thiên nga và hồi chuông tu viện, nơi mà giữa hàng lan can rợp bóng hồng bóng huệ được tô vẽ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 133

bằng những tia sáng xanh từ vầng trăng đang chìm dưới nước hắt lên, có những chiếc thuyền gondola đen tựa quan tài lướt đi như trong một giấc chiêm bao từ vòm cầu này sang vòm cầu nọ theo nhịp chèo lơi – tất cả làm tôi bây giờ càng chạnh lòng nhớ tới tâm tình nồng nàn tha thiết mà D’Annunzio (1)  đã để tuôn trào vì cảnh sắc của Venezia.

Những xóm ven bờ được nước dòng Sông Cái yêu dấu vỗ về đối với tôi đều khó quên và rất đỗi thân thương. Từ phía cầu Azuma xuôi về hạ lưu, nào là Komakata, Namiki, Kuramae, Daichi, cầu Yanagi hay Yakushimae ở Tada, Umebori, Yokoami, chốn nào cũng thế. Khách bộ hành qua lại các thôn xóm này đều được nghe từ giữa những bức tường trắng bằng đất nện của các kho hàng nằm hong nắng, từ giữa những ngôi nhà tối nhờ nhờ có khung cửa chấn song, hay từ giữa những lối đi rợp hàng liễu hàng keo mà lá chỉ mới nhú mầm nâu bạc, vọng vào tai âm hưởng quen thuộc của giòng nước xanh loang loáng mà con Sông Cái, sáng như tấm kính mới mài, đã mang đến cho họ cùng một lượt với mùi nước triều lành lạnh trong chuyến xuôi Nam, cuộc hành trình mà dòng sông đã quen làm từ một thuở xa xưa.

Ôi, cái tiếng nước sông thân thuộc kia, như thì thào, như van lơn, như chậc lưỡi, giòng nước màu xanh vắt ra từ ngọn cỏ, hết ngày đến đêm, gột rửa những kè đá hai bên bờ. Còn nhớ bi kịch của nàng Hanjo (2)  hay chàng Narihira (3) chứ nhỉ ? Tôi không ngược lên đến tận thời (khi Tôkyô còn là) giải bình nguyên Musashi, nhưng kể đã từ lâu, đã có những thầy tuồng kịch múa rối Jôruri ở Edo, gần đây là Kawatake Mokuami (4) , bậc đại sư Kabuki, thường đưa tiếng chuông thiền viện Sensô (5) cũng như âm hưởng trầm buồn của nước dòng Sông Cái vào các pho tuồng nói về nhân tình thế thái của họ để làm nổi bật cái die Stimmung (6) , không khí căng thẳng trong một lớp lang xảy ra án mạng. Lúc Izayoi và Seishin (7) gieo mình xuống nước, khi cu cậu Gen.nojô (8) mải mê nhìn người đẹp Okoyo trong bộ áo người săn chim (9)hay ngay cả khi anh chàng bán đồ đồng nát Matsugorô (10) gánh đôi quang thúng đi qua cầu Ryôgoku khi chiều hè sụp tối và bầy dơi liệng đầy, thì dòng Sông Cái, như đến tận giờ, vẫn chây lười thì thầm vỗ sóng vào cầu tàu của hàng quán cho thuê thuyền, bên ngàn lau xanh, dưới lườn những con thuyền mũi nhọn đỗ hai bên bờ.

Muốn nghe cho được âm thanh ngùi nhớ của nước sông, phải leo đò làm một

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 134

chuyến sang ngang. Nếu tôi không lầm, từ phía cầu Azuma đổ xuống cầu mới Ôhashi, có tất cả năm cái bến. Trong số đó thì bến Komakata, bến Fujimi và bến Ataka, cả ba đã lần hồi biến mất, bây giờ chỉ có bến ở cầu Ichi để qua xóm Hamachô và cái nữa từ cầu Mikura sang xóm Sugachô là hãy còn lưa. So với hồi tôi còn bé tẹo, con sông cũng đã đổi dòng, những cồn cát điểm xuyết lùm lau bãi sậy như bị lấp vùi không còn hình tích. Thế nhưng hai bến cũ còn nguyên bóng dáng con đò đáy nông, vẫn ông lái đò già mỗi ngày chèo chống bao nhiêu bận đưa khách qua dòng nước xanh rờn tiệp màu cùng rặng liễu ven sông.

Lắm lúc chẳng có việc gì, tôi cũng ra bến theo đò qua sông, sung sướng để mặc sóng nước bồng bềnh đu đưa thân thể mình như trong một chiếc nôi. Đi mấy chuyến đò càng trễ bao nhiêu thì mới thưởng thức những niềm vui và nỗi buồn thấm thía bấy nhiêu. Kề bên ngoài mạn thuyền thấp chỉ có làn nước xanh lục trải dài. Ném một cái nhìn đã thấy trọn mặt sông mượt mà, đang ánh lên chút màu đồng nhạt nếu tầm mắt không vướng mỗi cái cầu mới Ôhashi mãi đằng xa. Nhà cửa hai bên bờ sông giờ ấy đã tuyền một màu tro, đèn đóm cư dân hắt vàng vọt lên những khung cửa phết giấy, thấp thoáng đôi nơi trong sương. Theo ngọn triều lên, thỉnh thoảng lại có một hai chiếc bè lớn chở hàng, buồm xám buông nửa vời, bơi ngược dòng nhưng chiếc nào chiếc nấy yên ắng lạ lùng, chả biết có người cầm lái hay không nữa. Không hiểu sao cảnh mấy lá buồm trôi trong lặng lẽ và cái mùi của ngọn triều xanh rộng đã gợi trong tôi một nỗi buồn không nói được nên lời, tương tự khi đang đọc những vần Erlebnis cuả Hofmannsthal (11) và cùng lúc, trong lòng tôi, một tình cảm dịu ngọt như thể đang khẽ muốn cất lên lời hát để hòa nhịp cho bằng được với tiếng nước của dòng Sông Cái đang chìm giữa đáy trời sương.

Không chỉ riêng cái âm hưởng của dòng nước mới lôi cuốn tôi đâu. Mầu sắc của nó nữa, vừa mềm mại vừa ấm áp, cái màu mà tôi nghĩ khó tìm được ở nơi nào khác.

Nước ngoài biển giống như ngọc bích, vì sâu nên đọng thành khối nặng trong khi nước trên thượng nguồn không bị ảnh hưởng triều lên triều xuống, giữ một màu xanh cánh trả nhàn nhạt, lại quá nhẹ, quá mỏng và quá sáng. Duy có nước của khúc Sông Cái, chảy giữa bình nguyên, nơi nước ngọt và nước mặn giao hòa, mới dung hợp được màu xanh lạnh lẽo và màu vàng đục ấm áp, để có vẻ thế nhân hơn, khơi được

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 135

trong ta cái hoài cảm lifelike (12) một tình cảm hết sức đời thường. Nhất là khi con sông đã rong ruổi hết vùng bình nguyên Kantô nhiều đất sét nâu đỏ, bình lặng chảy về Tôkyô đô hội, cái màu nước vốn đục ngầu và nhăn nhó như một lão Do Thái già khó tính, mồm thích cằn nhằn lầu bầu, giờ đây đã có cái gì thong thả, nuột nà, dễ thương. Và tuy cùng chảy ngang một thành phố, nhưng có lẽ nhờ trao đổi thường xuyên với đại dương thần bí, nước con Sông Cái không hề đen ngòm như các kênh lạch nối những dòng sông lại với nhau. Sông Cái không hề ngủ. Tôi có cảm tưởng nó luôn luôn di động nhưng chỉ để chấm dứt cuộc hành trình ở đích đến nhất định: một miền Vĩnh Cữu "vô thủy vô chung". Dĩ nhiên vui là khi thấy dòng nước xanh như vệt dầu thơm trôi dưới những cây cầu Azuma, Umaya, Ryôgoku, ôm ấp mấy chân cầu lớn xây bằng gạch hay đá hoa cương. Có khi nó nép vào bờ, in bóng những ngọn đèn giấy màu trắng các của cửa hiệu cho mướn thuyền cũng như những chòm lá liễu nghiêng ngả khoe mặt trái bạc phấn. Có khi, tắc nghẽn vì cái đập chắn nước, nó lặng lờ lấp lánh bên dưới những chái bếp không bóng người, than thở hộ cánh phù dung đỏ một trưa quá ngọ có tiếng đàn samisen (13) rời rạc uể oải, để rồi giật mình bối rối vì tiếng đập cánh bất chợt của một chú vịt trời. Cái màu phải gọi là nằng nặng của dòng nước như thế cũng chan chứa ấm áp, hồn hậu. Cho dù khi dòng sông về đến gần cầu Ryôgoku, cầu mới Ôhashi, cầu Eitai và vùng cửa sông lúc nước của nó được hòa với cái màu xanh đậm của ngọn triều ấm hay phản chiếu ánh nắng lấp lóa của mặt trời trắng bạch tựa như tấm kim loại trải rộng dưới một tầng không ồn ào đầy bụi khói, nó vẫn tiếp tục lười biếng đong đưa đoàn thuyền khẳm lừ than đá và những con tàu kiểu cũ chạy bằng hơi nước mà lớp sơn trắng đã bong đi. Thiên nhiên với con người như chung nhịp thở, cái màu ấm áp mà dòng sông không biết thâu nhận được lúc nào khi chảy qua thành phố đâu dễ gì mất đi cho được.

Đặc biệt lúc chiều xuống, con sông bỗng đổi sắc theo lớp mù do hơi nước vựng lên và màu nắng càng ngày càng phai nhạt trên nền trời, để thành một thứ màu huyền hoặc khó tả. Mình tôi, gối hai tay lên thành đò, lơ đãng lướt nhìn mặt sông chiều nắng xế mù dâng, và khi thấy từ bên kia bờ giòng nước lục đậm, trên không trung chỗ mấy nóc nhà sẫm tối, một vầng trăng to và đỏ ló ra, thì tôi không tài gì cầm được nước mắt, điều mà có lẽ suốt đời, tôi chẳng thể nào quên.

Theo Meljukovski (14), "Mỗi thành phố đều có cái mùi cố hữu của nó. Mùi của Florence là hương huệ trắng, mùi bụi bặm, sương mù và mùi véc-ni những khung

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 136

tranh cổ quyện vào nhau". Nếu ai hỏi tôi về cái mùi của Tôkyô, tôi sẽ xin phép trả lời ngay đó là cái mùi của dòng Sông Cái. Không riêng gì cái mùi! Màu sắc của dòng sông, âm hưởng của dòng sông chính là mầu sắc và tiếng động của Tôkyô mà tôi yêu dấu. Nhờ có dòng sông, tôi mới biết yêu Tôkyô, và nhờ có Tôkyô, tôi mới biết yêu đời.

(tháng giêng năm 1912)Tái bút: Dạo sau này, tôi nghe nói bến đò ngang cầu Ichi đã mất đi rồi, bến đò cầu Mikura cũng sắp sửa bị dẹp.

 Chú thích

(1) - G. D’Annunzio (1863-1938) thi nhân ngưới Ý thuộc trường phái duy mỹ (aestheticism).

(2) - Hanjo, tên một ca kỹ, nhân vật trong tuồng Nô của tác giả nổi tiếng Zeami (1363?-1443?), bị người yêu phụ bạc mà phát cuồng.

(3) - Ariwara No Narihira (825-880), vương tử và thi nhân có tiếng đẹp trai, bị đŕy về miền Đông (Tôkyô ) vì dan díu với Hoàng Hậu. Sự tích được đem vào các vở tuồng Nô, Kabuki và Jôruri.

(4)  - Kawatake Mokuami (1816-1898), nhà soạn tuồng Kabuki có tiếng.

(5) - Sensôji (Thiển Thảo Tự) , chùa thuộc phái Tendai (Thiên Thai Tông) ở xóm bình dân Asakusa, gần sông Sumida.

(6) - Không khí ( tiếng Đức trong nguyên văn)

(7) - Nhân vật tuồng Kabuki của Kawatake Mokuami, ca kỹ Izayoi tự trầm trên giòng Sumida với người yêu, nhà sư Seishin.

(8) - Gen.nojô là vũ sĩ hầu cận Shôgun yêu nàng con gái hát dạo Okoyo nhưng duyên không thành vì vấn đề giai cấp.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 137

(9) - Torioisugata, quần áo giả trang của người hát dạo.

(10) - Matsugorô cũng là nhân vật tuồng Kabuki của Kawatake Mokuami, hận đời vì sống nghèo túng, vứt đồ nghề xuống sông Sumida, đi làm giặc cướp, sau tự tử.

(11) - Hugo von Hofmannsthal (1874-1920) thi sĩ trữ tình người Áo, đã viết Erbelnis năm 1892, lúc 18 tuổi.

(12) - Lifelike, sống động (tiếng Anh trong nguyên văn)

(13) - Đŕn ba giây truyền từ Okinawa, dụng cụ âm nhạc bình dân.

(14) - Có thể là phiên âm Nhật ngữ của Dimitrii Merezhkoskii (1865-1941), tiểu thuyết gia Nga trường phái ấn tượng, sau lưu vong ở Pháp.

Dịch xong ngày 17/06/2003 Nguyễn Nam Trân

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 138

NIỀM TIN (Bisei no shin)

Akutagawa Ryunosuke

Nguyễn Nam Trân dịch

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 139

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Lời người dịch:

Năm 1919, khi viết Bisei no Shin (Chữ tín của Vĩ sinh) mà ở đây chúng tôi dịch là Niềm Tin, lần đầu tiên, người ta chợt nhận ra Akutagawa không giật giây nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của mình như vẫn thường làm mà để cho chính nhân vật giật giây ông.

Nhân vật Vĩ sinh đã thấy trong tác phẩm của Trang Tử cũng như trong Sử Ký Tư Mã Thiên.Vĩ sinh không ai khác hơn là anh chàng hẹn gái dưới chân cầu, gái không tới, thủy triều lên, anh ta vì giữ chữ tín không bỏ đi nên chết đuối. Ông Tư Mã theo thầy Khổng nên khen "Phải giữ cho được chữ tín như thế!", ông Trang mắng "Chết vì chữ tín kiểu đó là ngu!".

Chữ tín là qui phạm đạo đức do xã hội đặt để nhưng niềm tin là tình cảm tự phát của cá nhân. Hơn hai nghìn năm sau, Akutagawa mở lại "hồ sơ" của Vĩ sinh và trình bày cách nhìn mới của ông về anh chàng "ngu ngốc và dại gái" nầy, nhưng không đưa ra chút phán đoán có tính đạo đức nào.Hãy xem "thuật luyện kim" của Akutagawa trong hai trang giấy ngắn ngủi sau đây.

Xuất xứ của nguyên tác là tập 29 nói về Akutagawa trong Văn Học Nhật Bản Toàn Tập (A Treasury of Japanese Literature) của nhà Chuô-Koron

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 140

(ấn bản 1964). Ngoài ra, người dịch cũng học tập phong cách dịch của bà Edwige de Chavanes qua bản Pháp văn La Foi de Wei Cheng, in trong Les Noix, La Mouche, Le Citron, tập truyện dịch các tác giả Nhật Bản đời Taishô (1912-26) do nhà Le Calligraphe (Paris) xuất bản năm 1986.

*

Đã một đỗi lâu, Vĩ sinh đứng lặng dưới chân cầu, đợi người con gái đến.

Ngẩng lên nhìn hàng lan can cao của chiếc cầu đá có những sợi giây leo buông chùng, chàng thấy giữa khe hở chốc chốc có bóng người qua lại, tay áo trắng của họ lay động theo làn gió dưới ánh nắng lấp loá của buổi chiều tà. Thế nhưng người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh vừa huýt sáo nhè nhẹ, thong dong đưa mắt nhìn quanh bãi sông dưới chân cầu.

Bãi bùn vàng nhạt dưới gầm cầu chỉ rộng có mươi thước dư là đã tiếp giáp với mặt nước. Có lẽ vùng lau sậy trên bờ nước là nơi cư ngụ của lũ cua lớn hay sao mà có vài cái lỗ tròn thật to. Mỗi lần sóng vỗ vào chỗ đó là nghe thoảng như có tiếng óc ách. Thế nhưng người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh bắt đầu cảm thấy sốt ruột, mới tản bộ xuống phía bờ nước và đưa mắt ngắm suốt dải sông chiều không có lấy một bóng thuyền.

Lau sậy trên dòng mọc xen khít. Chẳng những thế, đôi chỗ trong rặng lau lại có vài chòm liễu nước với tán lá hình tròn xanh tốt. Vì một phần dòng sông luồn vào cả đám cây cối nên mặt sông tưởng như hẹp lại chỉ còn là dải nước trong leo lẻo in mỗi một áng mây trời như vân mi ca, lượn lờ len giữa ngàn lau.Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh không men theo bờ nước nữa. Lần nầy. dưới vạt nắng chiều, chàng dạo đôi chỗ trên cái bãi bùn không mấy rộng, lắng tai nghe động tĩnh chung quanh.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 141

Trên cầu, chẳng biết tự lúc nào, đã ngớt người qua lại. Không còn nghe tiếng chân đi, tiếng vó ngựa hay tiếng bánh xe nữa. Có chăng là tiếng gió, tiếng lau lách, tiếng nước chảy, thế rồi không biết từ đâu vọng ra vài tiếng cò xám gáy the thé. Vĩ sinh vừa dừng chân chưa kịp nghĩ ngợi thì đã thấy thủy triều dâng lên không biết tự lúc nào. Màu nước liếm lên bãi bùn vàng đã ánh lên gần hơn khi nãy. Thế nhưng người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh chau mày lấy làm lạ. Dưới chân cầu tối mờ mờ, chàng bắt đầu nhanh chân bước lên bãi. Trong lúc đó thì thủy triều bò dần từng phân một, tấc một. Cùng một lúc, mùi rong và mùi nước dậy lên, gây lạnh trên da thịt.Nhìn phía trên thì nắng chiều đã tắt lịm, chỉ còn bóng hàng lan can của chiếc cầu đá cắt thành những vệt đen kịt trên nền trời hoàng hôn xanh mờ. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh đứng thừ người một chỗ.

Nước sông đã bắt dầu thấm gót giày.

Nước lóng lánh một thứ ánh sáng lạnh lẽo thư ánh thép, bắt đầu tràn lan dưới chân cầu.Thế rồi, chắc chắn chỉ trong khoảnh khắc thôi, mực nước của ngọn triều đầy sẽ ngập hết đầu gối, đến bụng rồi cả ngực. Mới nghĩ vậy mà mực nước đã dâng thêm lên làm hai ống chân chàng cũng bị nước bủa vây. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.

Vĩ sinh cứ đứng dưới nước, chỉ còn nương vào một tia hy vọng mong manh, bao nhiêu lần ngước nhìn lên không trung phía chiếc cầu.

Phía trên làn nước đang bao phủ thân chàng, là màu chiều từ lâu đã trải rộng ngang vòm trời. Từ những hàng liễu, hàng lau xa gần, chỉ nghe vọng lại tiếng lá xào xạc xuyên qua làn sương đục. Một con cá, có lẽ cá vượt, vụt phóng người khoe cái bụng trắng ngay trước mũi Vĩ sinh. Trong khoảng không trung mà con cá vừa nhảy lên, lúc đó đã thấy tản mác dăm vì sao lấp lánh. Hình ảnh của mấy sợi giây leo buông trên thành cầu đá rồi cũng chìm lẫn vào bóng tối. Thế nhưng, người con gái vẫn chưa thấy tới.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 142

Đến nửa đêm, khi ánh trăng đã ngập tràn một bờ đầy lau liễu suốt cả dải sông, làn nước và làn gió nhẹ cùng thì thào với nhau, dịu dàng dìu thi thể của Vĩ sinh từ dưới chân cầu đi về phía biển. Không chừng vì hồn của Vĩ Sinh ao ước nhìn lại ánh sáng của vầng trăng đang treo giữa không gian tịch mịch nên nó đã thoát ra khỏi thể xác để bay lên bầu trời mờ ảo. Như thể, cả mùi nước và mùi rong cũng lặng lẽ rời khỏi mặt sông một lượt cùng về với vầng sáng trên cao.

Rồi cách đó một vài nghìn năm, hồn của Vĩ sinh sau khi lưu lạc qua không biết bao nhiêu đời kiếp, lại phải chịu số phận làm người thêm lần nữa. Linh hồn đó đã đến ngụ trong thân xác của tôi. Cho nên tuy tôi sống giữa thời hiện đại nầy mà chưa làm được dẫu một việc gì có ý nghĩa. Hết sáng lại chiều, tôi như anh chàng đắm chìm trong mơ mộng mông lung, chỉ sống để trông mong một điều kỳ diệu chắc chắn sẽ xảy ra. Tôi là Vĩ sinh, dưới chân cầu trong ánh sáng nhạt buổi hoàng hôn, mãi mãi đợi chờ bóng một người yêu vĩnh viễn không bao giờ tới.

(Năm Taishô thứ 8 (1919), tháng 12)

 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 143

MỐI TÌNH CỦA VỊ CAO TĂNG CHÙA SHIGAShigadera shônin no koi

Nguyên tác: Mishima Yukio

Nguyễn Nam Trân biên dịch và chú thích

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 144

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Mishima Yukio, 1967 (ảnh Shinchô Bunko)

Lời người dịch

Năm 1946, Jean Cocteau (1889-1963) dựng phim Giai Nhân và Ác Thú (La Belle et La Bête). Năm 1954, Mishima Yukio cho đăng lần đầu tiên Mối Tình Của Vị Cao Tăng Chùa Shiga (Shigadera Shônin no Koi). Cả hai đều khai triển đề tài tình yêu tuyệt đối qua sự hòa điệu giữa những đối tượng mà bản chất vốn không thể hòa điệu nếu không nói là tương phản. Dựa trên một chi tiết nhỏ từ pho sách cũ, Mishima đã khéo dàn dựng rồi miêu tả biến chuyển bên trong tâm lý hai nhân vật chính, đúng ra hai tượng trưng. Điều đó làm cho bối cảnh của đoản thiên này giống như thế giới quan niệm có tính phổ quát thấy trong lớp lang một vở tuồng Nô hiện đại mà ông thường viết.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 145

Trong cuộc đời, có những mối tình ngắn ngủi thoáng đến thoáng đi, hoặc kéo dài "trong một tháng trong một năm" như cách nói của nhà văn nữ F. Sagan. Cũng có những mối tình lâu dài " tưởng trong giây phút mà thành thiên thu" hay "đem xuống tuyền đài chưa tan". Nhưng tất cả không biết đáng kể hay không nếu đem đặt bên cạnh mối tình lạ lùng của vị cao tăng chùa Shiga.

Ảnh Editions Gallimard

Một

Chưa chịu bỏ công khảo chứng gì cả mà đã bắt đầu vào chuyện, tôi xin chịu mang tiếng là người không chuẩn bị kỹ càng. Căn cứ duy nhất tôi có hiện nay chỉ là truyền thuyết chép lại trong Thái Bình Ký [1] quyển 37. Và như quí vị đều biết, nếu đem so sánh với câu truyện đời xưa liên quan đến ông tiên Nhất Giác [2] bên Thiên Trúc thì chi tiết về mối tình của vị cao tăng chùa Shiga [3] trong quyển sách vừa nhắc đến chỉ có thể xem như là quá sơ sài.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 146

Trong thâm tâm, tôi thực tình không định tìm hiểu sự thể mối tình lạ lùng đó mà chỉ đơn thuần muốn biết biến chuyển tâm lý của các nhân vật thế nào thôi. Trong lòng họ, lúc ấy chắc có sự rối ren do xung khắc giữa tình yêu và tín ngưỡng. Bên trời Tây, không thiếu gì trường hợp như vậy nhưng ở Nhật Bản, chuyện đó kể ra rất hiếm. Trong yếu tố tình yêu của kiếp này rõ ràng đã thấy chen vào vấn đề những kiếp về sau. Cuộc sống hiện tại và những kiếp tương lai tranh giành chỗ đứng không những trong tâm trí của vị lão tăng mà của cả người đàn bà được ông yêu. Phóng đại một chút thì câu chuyện tình của họ được thành hình đúng vào thời điểm cấu trúc của cái thế giới hai người tưởng tượng đang ở trong một trạng thái chênh vênh, chưa biết sẽ sụp đổ hay không. Nếu nói cho chính xác thì vào thời của hai người nghĩa là khoảng giữa triều Heian [4]  về sau, tư tưởng Tịnh Độ [5] rất phổ biến trong dân chúng nhưng chưa hẳn là một tín ngưỡng mà chỉ là sự khám phá một thế giới vô cùng rộng lớn bằng tâm trí.

Theo sách Vãng Sinh Yếu Tập [6] của đức tăng thống Huệ Tâm [7] thì cho dù có nói đến thập lạc tức mười điều vui thỏa để ca ngợi cõi Tịnh Độ thì chỉ mới làm cái việc kể sơ sơ về một sợi lông trên chín bộ lông bò [8] . Mười điều vui thỏa ấy là cái vui "thánh chúng lai nghênh", cái vui "liên hoa sơ khai", cái vui "thân tướng thần thông", cái vui "ngũ diệu cảnh giới", cái vui "khoái lạc vô thoái", cái vui "dẫn tiếp kết duyên", cái vui "thánh chúng câu hội", cái vui "kiến Phật văn pháp", cái vui "tùy tâm cúng Phật" và cái vui "tăng tiến Phật đạo". Đất trên cõi Tịnh Độ là lưu ly, đường trên Tịnh Độ do những sợi dây vàng dệt lại mà thành. Mặt đất tiếp liền nhau, không thấy bến bờ. Mỗi một khu vực trên đó đều có năm trăm ức cung điện lâu đài làm bằng bảy thứ quí giá : kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, san hô, mã não [9] và mỗi giường nằm cẩn đầy châu báu đều có những lớp vải vóc tuyệt đẹp trải lên. Trong điện trên lầu có không biết cơ man nào các vị thần tiên đang cùng nhau tấu nhạc, cất tiếng ca hát tán tụng công đức của Như Lai. Trong sân những giảng đường, tinh xá, cung điện, lầu gác đều có hồ tắm mát. Hồ bằng hoàng kim thì dưới đáy trải một lớp cát bằng bạch ngân còn hồ lưu ly thì có cát thủy tinh. Mặt trước hồ bao phủ bằng một vùng sen lấp lánh ánh sáng, khi gặp làn gió nhẹ lại lay động và sinh ra muôn màu muôn vẻ. Thêm

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 147

vào đó, những loài chim như vịt trời, ngỗng, uyên ương, hạc, khổng tước, anh vũ, già-lăng-tần-gia [10]( loài chim có khuôn mặt mỹ nhân và giọng ca thánh thót) cũng như những giống chim có trăm sắc quí, ngày đêm không ngừng cất tiếng lảnh lót để ngợi ca Đức Phật. Thế nhưng cho dù tiếng hát có ngọt ngào đến đâu, nếu trên đó tập họp đông đảo chim chóc như thế này thì quả là có hơi ồn ào.

Những khoảnh rừng bên hồ hay cạnh bờ sông toàn loại cây quí giá. Lùm cây bằng vàng tía, cành bạch ngân, hoa san hô, tất cả soi bóng trên mặt nước trong như gương. Trên tầng trời rộng, không có gì ngoài những sợi dây báu đong đưa không biết bao nhiêu là quả chuông cũng là báu vật, vang vọng thanh âm của Phật pháp nhiệm mầu. Ngoài ra còn biết bao nhiêu nhạc khí lạ lùng, không cần người đánh cũng phát ra tiếng và lan mãi về xa trên bầu trời trong vắt, hư không.

Nếu khi bụng đói muốn ăn gì tự nhiên sẽ thấy hiện ra trước mắt mình không biết bao nhiêu thứ kỳ trân mỹ vị trên mặt bàn thất bảo và trong những mâm bát cũng bằng thất bảo. Nhìn màu sắc, ngửi thấy mùi hương thôi bỗng cảm thấy trở nên thanh khiết, no lòng và thân thể như được nuôi dưỡng đầy đủ. Sau khi không cần phải ăn gì mà đã xong bữa cơm thì cả mâm bát lẫn bàn ăn thoắt cái đã biến mất.

Quần áo cứ thế phủ lên người mình một cách tự nhiên, chẳng cần may khâu, giặt giũ, nhuộm màu hay tu sửa gì cả. Chẳng có đèn đuốc mà lúc nào ánh sáng cũng theo đến bên người. Không cần chi phòng ấm phòng lạnh, nhiệt độ trong năm luôn luôn thích ứng với thân thể. Trên cõi cực lạc đó lúc nào cũng tràn ngập trăm ngàn loại hương thơm dịu dàng và có những cánh sen không ngừng bay lả tả.

Vẫn theo chương nhan đề Quan Sát Môn trong Vãng Sinh Yếu Tập, những kẻ đến chiêm bái lần đầu sẽ không được phép vào sâu tận bên trong, họ chỉ được phép đứng ở bên ngoài và phải tập trung tất cả tinh thần cũng như trí tưởng tượng để hình dung ra cái bao la vô hạn của cõi Tịnh Độ. Dựa vào sự tưởng tượng để thoát ra khỏi giới hạn của tục giới là con đường ngắn nhất để lên đến nơi đó. Nếu ta có trí tưởng tượng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 148

phong phú, trước hết chỉ cần tập trung tinh thần vào một cọng sen. Từ đó, cọng sen sẽ mở cho ta những chân trời bát ngát.

Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ. Đầu tiên, trên mỗi một cánh hoa đã có sẵn tám vạn bốn nghìn đường gân, mỗi đường gân lại tỏa ra tám vạn bốn nghìn tia sáng. Hơn thế nữa, cho dầu đóa sen kia nhỏ bé thế nào, đường kính của nó không thể dưới hai trăm năm mươi du-tuần [11] . Nếu ta đồng ý với thuyết xem mỗi du-tuần là ba mươi dặm thì một đóa sen với đường kính bảy nghìn năm trăm dặm chỉ là một cái hoa thuộc loại nhỏ mà thôi.

Một đóa sen có tám vạn bốn nghìn cánh, giữa mỗi cánh lại có một trăm ức hạt trân châu phát ra mỗi viên cả ngàn tia sáng. Trên mỗi cái đài trưng bày những đóa hoa mỹ lệ như thế đều có bốn cột báu được dựng lên cao vút, từng trụ một giống như một ngàn vạn ức núi Tu Di [12] . Bức màn che trên mỗi trụ có dát năm trăm ức hạt ngọc quí, mà mỗi hạt đó lại chiếu rọi tám vạn bốn nghìn tia sáng, mỗi tia lại sinh ra tám vạn bốn nghìn màu vàng khác nhau, và mỗi màu vàng lại còn biến ảo khôn lường.

Sự tập trung tâm trí để khám phá được hình ảnh đó gọi là Hoa Tọa Tưởng (Trầm tư về tòa sen nơi Phật ngự) và thế giới quan niệm, bối cảnh cho câu chuyện tình sau đây, cũng có qui mô ngang với thế giới tưởng tượng đó.    

Hai

Sư cụ chùa Shiga là một vị lão tăng đạo đức cao dày.

Mày cụ trắng như tuyết, thân hình già nua mảnh khảnh đến nỗi phải dựa vào thiền trượng mới lê chân đi được.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 149

Trong ánh mắt của con người đã dày công tu hành như cụ, cái gọi là cuộc sống trong kiếp hiện tại không có gì khác hơn là bụi bặm rác rưởi. Cây tùng con cụ tự tay trồng từ ngày mới về sống ở cái am này nay đã cao vút tận trời xanh, cành trên ngọn vi vu đón gió. Nhà tu hành xa lánh cõi đời ô trọc này đã lâu như thế thì có lẽ trong lòng cũng tưởng đã an nhiên, và thầm nghĩ không còn điều gì đủ làm mình lo lắng nữa.

Cho nên khi nhìn những kẻ giàu sang, vị lão tăng không khỏi nở một nụ cười thương cảm và thầm hỏi tại sao họ không ý thức được rằng những khoái lạc mình đang tìm đến chỉ là mộng ảo. Khi giáp mặt một người đàn bà dung nhan xinh đẹp, ngài chỉ thấy tội nghiệp cho mấy gã đàn ông còn vướng vào vòng phiền não, nổi trôi trong chốn mê lầm.

Nếu như con người không còn có một sự đồng cảm nào với động cơ đang xoay vần sự sống của kiếp hiện tại thì kể từ giây phút đó, cuộc đời trở thành bất động. Trong con mắt của vị lão tăng, ông chỉ thấy cái tướng bất động của cuộc đời. Nó vỏn vẹn là bức tranh vẽ trên mặt giấy hay bức địa đồ của miền đất xa lạ nào đó. Khi con người đạt đến chỗ dứt bỏ được mọi đam mê phiền não, sẽ không còn biết cả sợ hãi. Do đó, vị lão tăng không hiểu vì cớ gì lại phải có địa ngục nữa. Cụ biết rõ là, trong mọi tình huống, cái kiếp hiện tại không còn có uy quyền gì đối với mình cả nhưng vốn là người khiêm tốn, không bao giờ cụ nghĩ rằng ấy là kết quả công đức tu hành.

Nói về thân thể thì cụ hầu như gầy rạc. Khi có dịp nhìn lại mình, những lúc như khi tắm rửa, cụ lấy làm vui sướng khi thấy chỉ còn lớp da khô đét bọc lấy bộ xương mảnh mai. Thân thể đến mức này thì có thể coi như đã thuộc về người nào khác và cụ có thể sống một cách hòa hợp bình yên với nó. Để nuôi thân, có lẽ thức ăn ở cõi Tịnh Độ thích hợp cho cụ hơn hơn là đồ ăn thức uống ở chốn trần gian.

Đêm đêm nằm ngủ, cụ chỉ mơ mình đang ở trong cõi Tịnh Độ. Thế rồi khi choàng mình tỉnh giấc, cụ cảm thấy buồn vì hiểu rằng sống trong kiếp hiện tại chỉ là vướng mắc vào một giấc mộng đầy những biến đổi đau thương.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 150

Vào xuân, gặp tiết thưởng hoa, người kinh đô đổ xô đến thôn Shiga. Điều đó không phiền hà gì cho vị lão tăng bởi vì từ lâu, cái tâm cụ đã an nhiên không còn bị dao động trước người đời. Một buổi chiều nọ, cụ lê thiền trượng, từ thảo am lần bước xuống ven hồ. Lúc đó bóng tối đã len vào những tia nắng yếu, mặt hồ không thoáng gợn. Một mình bên bờ nước, vị lão tăng thực hành phép Thủy Quán Tưởng (Trầm Tư Về Nước) [13] . Cũng vào lúc ấy, có chiếc xe bò kéo của một nhà quyền quí đang đi vòng hồ, tiến gần và ngừng lại bên cạnh chỗ vị lão tăng đang đứng. Đó là chiếc xe ngự của hoàng phi Kyôgoku (14) . Nàng đến Shiga để thưởng thức tiết xuân và trên đường về, như muốn chào từ biệt cảnh hồ, đã cho xe ngừng lại, vén bức rèm tò vò bên song lên ngắm cảnh.

Vị lão tăng bất giác nhìn về hướng đó. Và vẻ yêu kiều của bà phi bỗng đập vào mắt cụ! Trong một giây, ánh mắt của vị lão tăng và hoàng phi gặp nhau. Vì đôi mắt của vị cao tăng vẫn đăm đăm không rời nên bà phi cũng không tránh né. Tuy không thể khoan dung trước những cái nhìn vô lễ nhưng người đứng trước mặt mình là một nhà sư già khổ hạnh nên nàng không thấy trong ánh mắt kia có một động cơ trần tục của thường nhân.

Bà phi vội rủ rèm cửa xuống và chiếc xe bò lại bắt đầu chuyển bánh. Xe qua khỏi ngọn đèo Shiga rồi mất hút trên con đường về hướng kinh đô. Có lẽ khi trời chập tối, xe sẽ nương theo con đường qua Ngân Các Tự để vào thành. Vị lão tăng vẫn đứng lặng nhìn theo cho đến khi cỗ xe nhỏ dần và khuất bóng sau những lùm cây.

Cái kiếp hiện tại bị cụ khinh rẻ chỉ cần một nháy mắt đã đủ sức để trả thù vị cao tăng bằng cái sức mạnh khủng khiếp của nó. Kẻ tưởng mình đã bình yên chân vại nay sắp sửa thành trúc chẻ ngói tan.

Khi trở về am, vị lão tăng ra trước Phật đường, cố niệm danh hiệu Đức Thế Tôn nhưng chỉ thấy hình ảnh của những vọng tưởng ngoi lên khuấy phá. Cụ tự nhủ hình dáng đẹp đẽ kia chỉ là một ảo ảnh, xác thịt đó hiện ra trong chốc lát nhưng rồi sẽ bị hủy diệt. Tuy đã hết sức chống chế nhưng vẻ đẹp không diễn tả nỗi của bà phi vừa đánh gục cụ trong một khoảnh khắc bên hồ đã ràng buộc tâm hồn cụ bằng một sức mạnh chưa

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 151

từng thấy và đến từ một chốn xa vời. Mặt khác, dù trên phương diện nào, cụ cũng không còn trẻ nữa để có thể đinh ninh rằng cảm xúc đang có là một trò đùa ranh mãnh của xác thịt đối với mình. Xác thịt là cái không thể thay hình đổi dạng một sớm một chiều như thế. Chỉ có thể hiểu là tinh thần của cụ đã biến chất như vừa ngâm trong một thứ độc dược mạnh như thần và hiệu lực tức khắc.

Vị lão tăng biết giữ giới, cụ chưa từng đụng đến thân xác phụ nữ. Nhờ sự chiến đấu với bản thân để tránh điều đó tự thời trẻ, cụ đã hiểu rằng xác thịt đàn bà không có gì khác hơn là đối tượng của nhục dục. Xác thịt thuần túy duy nhất chỉ có trong trí tưởng tượng. Bởi vì xem xác thịt là một cái gì trừu tượng chứ không hiện thực cho nên cụ đã dựa vào sức mạnh của tinh thần để chiến thắng được nó. Cụ đã thành công, và cho đến nay, trong số những người quen biết với cụ, không có một ai bợn chút nghi ngờ về sự thành công đó.

Thế nhưng khuôn mặt của người đàn bà đã vén rèm cánh cửa tò vò để nhìn quanh hồ, tuy là xác thịt đấy nhưng có một vẻ hồn nhiên sáng ngời mà cụ không biết đặt cho nó cái tên nào. Để một thoáng hi hữu này hiện ra trước mắt, chỉ có lối suy nghĩ duy nhất là trong chốn sâu thẳm của tâm hồn cụ, phải có cái gì ngầm ngầm ẩn núp và đánh lừa được cụ từ lâu lắm rồi nhưng nay mới xuất đầu lộ diện. Chính nó, cái kiếp hiện tại này, vốn yên tĩnh từ bấy nhiêu lâu, đã đột ngột bước ra từ một tấm tranh và bắt đầu khuấy động.

Cụ thấy mình như người hai tay bịt tai và đứng giữa đường lớn trong kinh đô, nơi ngựa xe qua lại đông đúc. Thế rồi người đó bất chợt buông tay. Lúc ấy, tiếng động ồn ào trên đường phố sẽ đùng đùng nhất loạt bao vây. Cảm thấy cuộc sống chuyển động, nghe được âm thanh của nó bên tai tức là đã nhập sâu vào vòng trong của kiếp hiện tại vậy. Đối với một người đã đoạn tuyệt với cuộc đời như vị lão tăng, đây là giây phút cụ tìm về mối liên hệ cũ.

Giờ đây, giữa khi đang đọc kinh, nhiều khi cụ bắt gặp mình đang buông tiếng thở dài não nuột. Tưởng rằng phong cảnh thiên nhiên làm mình chia trí, cụ bèn đưa mắt ra ngoài cửa am nhìn mây bay trên rặng núi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 152

chiều nhưng cụ không còn thưởng thức được vẻ đẹp mà chỉ thấy tâm hồn mình cũng đang bồng bềnh và rối bời như đám mây bay. Lúc ngắm vầng trăng, tâm trí cụ cũng thường lạc qua hướng khác, còn khi đứng trước Phật đài những mong lòng được thanh tĩnh thì khuôn mặt của Đức Phật bỗng biến dạng và mang toàn đường nét của bà phi. Thế giới của vị lão tăng trở thành một vòng tròn chật hẹp: trong đó, vị lão tăng ở phía này và đối mặt với cụ là người đẹp cung đình.  

Ba

Hoàng phi Kyôgoku quên bẵng chuyện vị lão tăng chăm chú ngắm mình bên bờ hồ Shiga. Chỉ được ít lâu, tiếng đồn rồi cũng lọt vào tai, lúc ấy nàng mới chợt nhớ. Thì ra có người trông thôn bắt gặp cảnh nhà sư già đưa mắt nhìn theo chiếc xe ngự của hoàng phi và biết rằng kể từ ngày đó cụ không còn bình thường nữa, mới đem báo lên một vị quan trong triều đang đến Shiga xem hoa.

Đối với tin đồn này, dĩ nhiên hoàng phi phản ứng bằng cách giả tảng như không. Nhưng vì lão tăng nổi tiếng là người đức độ trong triều, nếu tin đồn này là sự thực, kể ra nó cũng vuốt ve chút lòng tự ái của nàng. Nhất là khi mà nàng đã chán ngấy sự đeo đuổi của đám đàn ông phàm tục.

Hoàng phi thừa biết là mình đẹp nhưng xưa nay nàng vẫn bị thu hút bởi những sức mạnh mạnh hơn nhan sắc ví dụ tôn giáo, vốn xem địa vị cao sang và nhan sắc của nàng là đồ bỏ đi. Vì lý do đó, nàng hết sức mộ đạo. Đã chán cõi đời tục lụy nên nàng đặt lòng tin vào giáo lý Tịnh Độ bởi vì nó dạy rằng tất cả những cái hoa mỹ của kiếp hiện tại đều là nhơ bẩn đáng tránh. Tôn giáo đã đem được nguồn an ủi đến cho một người mỏi mệt vì cuộc đời hào nhoáng cực điểm của thời mạt pháp.

Bọn vương tôn công tử chạy theo phụ nữ thường tôn sùng hoàng phi như hiện thân của tất cả cái tao nhã của thế giới cung đình. Nhân vì người đàn bà quí phái này chưa từng ban bố tình yêu cho một ai cho nên họ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 153

nhận xét như thế cũng đáng. Dưới mắt mọi người, hoàng phi tuy làm tròn phận sự người vợ nhưng không tỏ vẻ yêu hoàng đế tự đáy lòng. Hình như nàng chỉ mơ tưởng đến một thứ tình yêu không thể có trong cõi đời này.

Nhà sư chùa Shiga được tiếng là con người đức độ. Tuổi tác lại cao. Việc cụ hoàn toàn xa rời thế tục thì khắp nơi trong kinh thành, không ai không biết. Nếu như tin đồn cho rằng cụ đắm đuối nhan sắc của bà phi là sự thật, có nghĩa là cụ sẽ hy sinh tất cả những kiếp về sau trên cõi tây thiên cực lạc đã đến trong vòng tay mình. Không thể có sự mất mát nào to tát hơn nhưng cũng không có món quà tặng nào vĩ đại hơn.

Hoàng phi không hề bị quyến rũ bởi những khách phong lưu trong cung đình, ngay cả trước những chàng trai trẻ đẹp, nàng cũng dửng dưng. Diện mạo của bọn đàn ông đó không có gì đáng kể. Phải là một người nào đó đem được cho nàng một tình yêu mạnh mẽ nhất, sâu sắc nhất. Nàng chỉ quan tâm đến con người như thế. Chỉ người đó may ra mới làm rung động trái tim nàng.

Đàn bà khi đã nuôi trong lòng một mục đích gì rồi thì quả là con vật đáng gờm. Nếu là một khách buôn hương bán phấn, nàng ta sẽ thỏa mãn nếu có ai đem của cải vật chất đời này đến cung phụng. Thế nhưng hoàng phi là người đã có đủ mọi thứ của cải, nàng chỉ đợi mỗi người đàn ông dám dâng hiến cho nàng của cải những cuộc đời sau.

Trong triều, tiếng đồn về sự si mê của vị cao tăng ngày càng lan rộng, đến nỗi hoàng đế cũng nhắc tới với giọng nửa đùa nửa thật. Hoàng phi không tỏ ra vui vẻ gì trước những lời bóng gió ấy, nàng chỉ giữ một thái độ lạnh lùng. Nàng biết rằng có hai lý do cho phép người trong triều có thể an tâm đùa cợt về một điều chính ra họ không được phép. Một là khi nói về sự si mê của vị lão tăng, họ muốn ca tụng cái nhan sắc đã đưa một nhà tu hành đạo đức cao vời đến chỗ lầm lạc, hai là họ tin rằng, trên thực tế, người đàn bà quí phái như nàng làm gì lại đi đáp lại mối tình của một cụ già.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 154

Hoàng phi mường tượng ra khuôn mặt của vị lão tăng mà nàng đã nhìn qua khung cửa chiếc xe nhưng khuôn mặt ấy không giống bất cứ khuôn mặt người đàn ông nào đã tỏ lòng yêu thương nàng từ trước đến nay. Sao tình yêu có thể nẩy mầm từ trái tim của một người không có chút hy vọng gì để được ai yêu, đó là điều nàng không hiểu nổi! Nàng nhớ lại lối diễn tả kiểu "tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu" mà các thi nhân cung đình đã viết ra hòng gợi được chút yêu thương trong lòng người đẹp đang thờ ơ với họ. Nếu đem so sánh với hoàn cảnh của vị lão tăng đang yêu, thì số phận của những anh chàng này còn khá hơn, dầu nàng không khỏi cảm thấy thơ phú họ viết chỉ là khuôn mòn sáo rỗng.

Chắc quí vị khi đọc đến đoạn này đều ý thức rằng hoàng phi không phải là hiện thân cho sự tao nhã cung đình mà chỉ là người mong chờ một mối tình lớn để đời mình có phần nào ý nghĩa. Cho dù ở địa vị cao sang, nàng chỉ là một người đàn bà, nếu không được yêu thì tất cả quyền lực trên đời chỉ là trống rỗng. Trong khi đàn ông chung quanh nàng dùng chiến tranh để tranh đoạt thì nàng cũng có cách của mình, cách thức rất đàn bà, để chinh phục thế giới. Nàng cười những người đàn bà quen biết đã xuống tóc đi tu bởi vì một người đàn bà tiếng là từ bỏ cuộc đời, làm sao có thể quay mặt lại với những gì mình đang có. Nàng nghĩ may ra đàn ông mới có thể vứt bỏ những gì họ có mà thôi.

Vị lão tăng đã một lần vứt bỏ cuộc đời. Cụ ta còn đáng mặt đàn ông hơn tất cả bọn công khanh. Và cũng như đã từng vứt bỏ cái kiếp hiện tại, lần này vì hoàng phi, cụ sẵn sàng vứt bỏ những kiếp tương lai.

Người đàn bà quyền quí và mộ đạo này nhớ đến Liên Hoa Tưởng, phép tu cho nàng hình dung ra đóa hoa sen có bề rộng đến hai trăm năm mươi du-tuần. Thay vì một đóa sen nhỏ nhìn thấy trước mắt, chỉ có đóa sen vĩ đại như thế mới cân xứng với nguyện vọng của nàng. Cũng giống như khi nghe tiếng cây ngoài vườn thì thào trong gió, nàng thấy nó không có nghĩa lý gì đối với âm nhạc trên cõi Tịnh Độ lúc những hàng cây báu reo lên trước trận gió lành. Khi nàng nghĩ về những nhạc khí treo trên thượng giới, không người đánh cũng vang lên, mới thấy những loại đàn cầm hay sáo trong cung chỉ vây quanh mình toàn thứ âm thanh buồn bã,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 155

tẻ nhạt.  

Bốn

Vị lão tăng chùa Shiga đang chiến đấu.

Suốt thời trẻ, trong khi còn phải chế ngự xác thịt, cụ có mục đích làm sao đạt đến cõi cực lạc trong một kiếp sau. Thế nhưng nay tuổi đã cao, trong cuộc chiến tuyệt vọng này, cái tình cảm cho rằng mình đã có những mất mát không thể nào tìm lại được không hề rời khỏi cụ.

Mối tình của cụ đối với bà phi không thể nào thành, sự thể đã rõ như ban ngày. Có còn gì để nghi ngờ! Mặt khác, cụ cũng hoàn toàn ý thức nếu còn vương vấn nàng, cụ chẳng thể nào siêu sinh Tịnh Độ. Vị lão tăng trong bao nhiêu năm sống cuộc đời an nhiên tự tại, nay chỉ vì một hành động xảy ra trong chớp mắt, đã bị bóng tối bủa vây, không thấy được tương lai.

Có thể lòng can đảm là cái từng giúp cụ trong quá khứ chiến thắng hồi trai trẻ đã bắt nguồn từ sự tự tin và lòng tự hào. Nó giúp cụ từ khước tất cả những khoái lạc mà nếu muốn, chỉ cần đi tìm là có ngay. Nhưng vị lão tăng giờ đây đã đánh mất lòng can đảm. Trước khi chiếc xe ngự của bà phi tiến đến bên hồ Shiga, cụ những tưởng Niết Bàn của kiếp lai sinh đã đến trong vòng tay. Nay chợt tỉnh ra, cụ chỉ thấy chung quanh màn đen của kiếp hiện tại và không biết cái gì sẽ chờ đợi mình nếu còn muốn tiến thêm bước nữa.

Rồi những phép tu Hoa Tọa Tưởng, Tổng Tưởng Quán, Tạp Lược Quán đều trở thành vô dụng. Mỗi lần cụ bắt đầu tập trung tâm trí thì khuôn mặt mỹ miều của bà phi lại hiện ra. Đứng trước hồ, cụ đã thử lại phép Thủy Quán Tưởng nhưng cũng bằng thừa. Từ phía dưới làn sóng lăn tăn, khuôn mặt đẹp như ngọc của bà phi chập chờn nổi lên.

Có thể suy ra đây là hậu quả tự nhiên của trạng thái yêu đương. Nó đã làm sự tập trung tư tưởng của vị lão tăng không những chẳng có lợi mà

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 156

còn có hại. Cụ bèn thử làm cho lòng mình lắng lại bằng cách để tản mạn sự suy nghĩ. Nếu cụ ngạc nhiên vì sự tập trung tư tưởng đã làm cho lòng mình mê lầm hơn, thì khi cố gắng chia trí để thoát ra khỏi nó, vô hình chung cụ đã chấp nhận sự mê lầm là có thật. Cụ cảm thấy bị đè bẹp dưới một sức ép, và thay vì chiến đấu chống lại nó trong tuyệt vọng, thì cứ từ bỏ chuyện chạy trốn nó mà tập trung tư tưởng để nghĩ về hình bóng của bà phi thì có khi còn khỏe đầu hơn.

Vị lão tăng tìm ra được niềm vui khi tô điểm chung quanh cái khuôn mặt huyền ảo của bà phi những hình ảnh tôn nghiêm như thể đang trang trí một pho tượng Phật. Làm như thế, đối tượng tình yêu của cụ mỗi lúc càng huy hoàng rực rỡ, mỗi lúc càng xa vời, càng khó có thể đụng đến. Thế nhưng điều đó làm lòng cụ tràn ngập niềm vui. Sao lại như thế? Đáng lý ra phải tạo ra hình ảnh bà phi trong thân xác một người đàn bà phàm tục, gần gũi với đời phàm tục mới là chuyện tự nhiên. Như thế thì cho dù chỉ là ảnh ảo, ít nhất nó cũng đem lại cho người đang yêu một đôi điều hữu ích.

Suy nghĩ về điều đó, vị lão tăng chợt nhận rằng hình ảnh bà phi mà cụ đã tô vẽ không chỉ hoàn toàn là vật chất và cũng không phải hoàn toàn là một hình ảnh chỉ có trong đầu. Cụ chỉ vẽ lại cái yếu tính của nàng đấy thôi. Tìm được cái yếu tính ấy trong hình ảnh người đàn bà là một điều hết sức lạ lùng nhưng không phải là chuyện bất khả. Cho dù vướng vào lưới tình, vị lão tăng đạo đức kia vẫn còn có khả năng đi tìm cái yếu tính bằng cách trừu tượng hóa sự vật, vì trong quá khứ cụ đã dày công tu hành. Hình dáng bà phi giờ đây đã nhập lại làm một với hình ảnh đóa hoa sen vĩ đại rộng đến hai trăm năm mươi du-tuần. Ngả lưng trên mặt nước và được vô vàn đóa sen nâng lên, thân hình của bà trải ra bao la, rộng hơn cả ngọn núi Tu Di, rộng hơn diện tích một vương quốc.

Vị lão tăng càng tạo ra hình ảnh một bà phi khó đạt đến chừng nào thì cụ càng phản bội giáo lý Đức Phật một cách lộ liễu chừng nấy. Lý do là nếu mối tình là một vật không thể đạt tới thì sự giải thoát linh hồn cũng không thể nào đạt tới, bởi vì hai điều này đã buộc chặt với nhau. Vị lão tăng càng tuyệt vọng trong tình yêu bao nhiêu thì tâm trí cụ còn đâm rễ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 157

sâu vào trong những vọng tưởng và tà niệm. Chỉ có khi cụ còn coi tình yêu, cho dù xa vời, là một vật có thể đạt được thì cụ mới còn khả năng từ bỏ nó. Mối tình vô vọng đối với một đối tượng không đạt đến được như bà phi sẽ bất động, muốn bỏ cũng không được, khác gì một hồ nước đọng bao trùm cả mặt đất, không thể đổ đi đâu.

Không hiểu vì sao vị lão tăng mong mỏi được nhìn khuôn mặt của bà phi một lần nữa nhưng cụ chỉ sợ rằng khi nhìn khuôn mặt nay đã nhập lại làm một với đóa hoa sen vĩ đại, nó sẽ sụp đổ, tan biến mất đi chăng! Nếu chuyện đó xảy ra thì cụ nhất định sẽ ngộ đạo và lần này được giải thoát. Nhưng chính viễn tượng này cũng làm cho cụ sợ hãi.

Tình yêu vô vọng của vị lão tăng bắt đầu tìm đủ mọi mưu mẹo kỳ lạ giúp cụ tự đánh lừa. Cuối cùng, khi lấy quyết định lên đường đến gặp bà phi, cụ những tưởng đã chữa trị được phần nào chứng bệnh xâm nhập và hành hạ mình bấy lâu. Cái niềm vui khó tả đã đến khi lấy được quyết định chỉ là kết quả sự ngộ nhận là mình đã có thể thoát ra khỏi nanh vuốt của tình yêu.  

Năm

Không một ai trong đám hầu cận của hoàng phi tỏ ý hoài nghi về hành vi của nhà sư già mệt nhọc dựa vào thiền trượng có đầu hình chim câu [15] đứng trầm ngâm ở một góc vườn trong ngự sở. Bóng dáng những nhà tu hành hay bọn khất thực đến bên vườn để cầu xin bố thí không phải là chuyện lạ lùng.

Một thị nữ vào bẩm với hoàng phi. Nàng hững hờ nhìn qua bức mành về hướng đó. Dưới bóng những chùm lá non, nhà sư già tiều tụy trong lớp áo tu đen sờn với dáng ủ rủ. Nhìn một đỗi, hoàng phi nhận ra người đang đứng đó đúng là vị lão tăng có lần bắt gặp bên bờ hồ Shiga, nàng mới biến sắc.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 158

Sau một lúc chần chờ không biết phải xử trí thế nào, nàng ra lệnh cho mọi người không cần phải để ý làm gì tới người đang đứng trong vườn. Bọn thị nữ vâng lời, để mặc nhà sư.

Lòng hoàng phi dậy lên một nỗi lo lắng. Lần đầu tiên nàng cảm thấy như vậy.

Trong cuộc đời mình, nàng đã từng gặp biết bao người chối từ cuộc sống hiện tại nhưng chưa bao giờ giáp mặt một người dám vứt bỏ những kiếp tương lai. Gặp người đó cũng như thấy một điềm gở. Điều này khiến nàng đâm ra sợ hãi. Tất cả những khoái cảm nàng tưởng tượng ra khi nghĩ về mối tình của vị lão tăng bỗng tan biến đâu mất. Nếu mối tình ấy trọn vẹn đến nỗi cụ dám từ chối và dâng cho nàng tất cả những kiếp về sau thì những kiếp lai sinh đó cũng không thể lọt vào tay nàng mà không tì vết.

Bà phi ngắm nghía y trang hoa lệ và hai bàn tay đẹp đẽ của mình rồi nhìn nhà sư già nua xấu xí trong manh áo sờn rách đang đứng bên một góc vườn. Kết hợp được hai thứ hoàn toàn đối nghịch như thế thì chỉ có thể là nhờ hấp lực của địa ngục. Hình ảnh đó không giống chút nào với những gì đã xảy ra trong một giấc mộng huy hoàng từng đến với nàng. Giờ đây vị lão tăng là một người ngoi lên từ đáy âm ty chứ không có dung nghi đức độ cao dày và quầng ánh sáng của cõi Tịnh Độ tỏa sáng sau lưng như nàng từng mơ. Cái ánh sáng tượng trưng cho cõi Tịnh Độ toát ra từ con người ấy nay hoàn toàn mất dạng. Không thể nhầm lẫn được, đó vẫn là vị lão tăng nàng đã thấy bên bờ hồ Shiga, nhưng cớ sao, nay lại giống một người hoàn toàn khác.

Cũng như tất cả những người sống trong cung cấm, hoàng phi Kyôgoku có khuynh hướng dè dặt đối với cả tình cảm của mình. Khi có cái gì lý ra làm cho mình cảm động hiện ra trước mắt, nàng vẫn giữ thái độ e dè đó. Cho dầu nhìn rõ bằng chứng mối tình của vị lão tăng, một mối tình không gì cao cả hơn mà nàng đã ước mơ tự thuở nào, hoàng phi chỉ cảm thấy thất vọng vì không dè nó chỉ biểu hiện dưới dáng dấp quá đỗi tầm thường.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 159

Dựa vào thiền trượng lê bước tới được kinh đô, vị cao tăng chùa Shiga hầu như quên hết mệt mỏi. Khi lén đến khu vườn gần nơi ngự sở của hoàng phi Kyôgoku và nghĩ rằng người đàn bà yêu dấu có lẽ đang ở phía sau rèm, cụ như người vừa bước ra từ những cơn mộng ảo.

Bây giờ, khi tình yêu của cụ trở thành thanh khiết vô trần, hình ảnh kiếp lai sinh bắt đầu lôi cuốn cụ trở lại. Vị lão tăng có cảm tưởng cụ chưa bao giờ tưởng tượng cõi Tịnh Độ có thể mang một hình thái cụ thể đơn thuần như thế này. Sự mong ngóng được về cõi Tịnh Độ ai ngờ cũng giống như tình yêu nhục cảm. Giờ đây, cụ chỉ còn cần làm một thủ tục sau cùng là đến gặp bà phi để thổ lộ tình yêu của mình thì đủ xóa sạch được những vọng tưởng mê lầm của kiếp hiện tại bấy lâu gây chướng ngại không cho cụ đạt đến những kiếp lai sinh. Chỉ cần có bấy nhiêu thôi!

Khom tấm thân già trên thiền trượng để đứng cho vững, đối với cụ bây giờ cũng là chuyện nặng nhọc. Ánh nắng chói chang của một ngày tháng năm xen qua kẽ lá đổ xuống đỉnh đầu. Cụ thấy choáng váng, bao nhiêu lần phải bám chặt lấy cây gậy. Nếu bà phi sớm nhận ra điều đó và mời cụ vào thì có thể thủ tục sẽ hoàn thành chóng vánh. Và lúc đó, cánh cửa của cõi Tịnh Độ cực lạc sẽ mở ra chờ đón cụ. Vị lão tăng trông đợi mỗi điều ấy. Cụ mệt đến gần lả nhưng vẫn ráng tựa vào cây gậy mà chờ. Mãi đến khi trời đã về chiều. Thế rồi bóng tối dâng lên. Dù vậy vẫn chưa có tín hiệu gì từ phía bà phi.

Dĩ nhiên hoàng phi làm thế nào biết được vị lão tăng đã nhìn thấy cõi Tịnh Độ đằng sau hình ảnh của nàng và thông qua nàng. Nàng nhìn về mảnh sân đằng trước xuyên qua bức rèm. Nhà sư già vẫn đó. Ánh nắng chiều xế xuống sân. Cụ hãy trơ trơ.

Hoàng phi bỗng cảm thấy sợ hãi. Bà ngỡ người đứng trước mặt mình chính là hồn oan của những vọng tưởng mê lầm mà kinh kệ nhiều lần nhắc tới. Bà cảm thấy nỗi lo âu bị đọa địa ngục dâng lên trong người. Làm cho vị cao tăng đạo đức như thế vướng vào mối mê lầm thì nhất quyết cõi Tịnh Độ sẽ không bao giờ tiếp nhận nàng. Chỉ có địa ngục với những cảnh tượng khủng khiếp của nó thường ngày vẫn nghe nói sẽ đến với nàng thôi. Lúc này thì hình ảnh của tình yêu tuyệt đỉnh mà nàng ao

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 160

ước đã bị phá vỡ. Được người khác yêu như trường hợp của nàng chỉ là chịu sự đọa đày trong địa ngục. Khác hẳn viễn tượng đẹp đẽ về nàng mà vị lão tăng nhìn thấy, cái mà nàng thấy chỉ là sự khủng khiếp của địa ngục xuyên qua nhà sư già.

Thế nhưng là con người kiêu hãnh, bà phi không dễ dàng gì để cho nỗi sợ hãi đó khuất phục. Mặc kệ, nhà sư già có đợi chờ đến lúc ngã quị thì đã sao! Khi đưa mắt nhìn ra ngoài qua tấm rèm và thấy hình dáng nhà sư đáng lẽ đã ngã gục vẫn còn lặng lẽ trơ ra đó, bà không khỏi cảm thấy bực bội.

Màn đêm rơi xuống. Thêm có ánh trăng dọi vào, dáng gầy guộc của nhà sư đang chầu chực trông chẳng khác nào một bộ hài cốt.

Hoàng phi Kyôgoku lo âu đến nỗi không tài nào nhắm mắt. Chẳng thèm nhìn ra ngoài rèm nữa, nàng quay lưng lại hướng ấy. Tuy nhiên nàng vẫn cảm thấy tia nhìn của vị sư già. Ôi thôi, mối tình này không phải là một mối tình tầm thường. Thế nhưng sự sợ hãi được yêu và sự sợ hãi phải bị đọa địa ngục, ngược lại đã làm cho bà tập trung được tâm trí khấn nguyện để được thác sinh vào cõi Tịnh Độ. Đó là cõi Tịnh Độ mà bà ấp ủ trong lòng và quyết tâm giữ gìn cho nó không bị tổn hại. Cõi Tịnh Độ của bà không giống cái cõi Tịnh Độ của vị cao tăng vì nó không can dự gì đến mối tình của cụ đối với nàng. Nàng nghĩ rằng nếu như mình cất tiếng gọi nhà sư, cái cõi Tinh Độ nàng đang khấn nguyện tìm về sẽ bị sụp đổ tan tành.

Nàng tự nhủ tình yêu một chiều của vị cao tăng đâu có liên hệ gì đến mình. Cụ ta tự ý yêu như thế mặc cụ. Đâu có chút lý do nào ngăn cản được con đường đi về cõi Tịnh Độ của mình!

Dù suy nghĩ như vậy, khi đêm càng khuya và trời càng thấm lạnh thì bà phi cũng mất dần tự tin. Mới đây thôi, bà còn nghĩ nếu nhà sư già có kiệt lực, ngã lăn ra chết, bà cũng chẳng đoái hoài.

Vị cao tăng vẫn đứng như thế trong vườn. Khi ánh trăng lẩn khuất, bóng của cụ hiện ra kỳ quái như một ngọn cây khô quắt.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 161

" Không, không, ta với cái bóng kia không liên can gì với nhau hết!". Bà phi gào lên trong lòng. Cơ sự xảy ra vượt ra ngoài tầm suy nghĩ của nàng. Có thể là điều hiếm có nhưng trong một thoáng như thế này, bà phi quên quấy mình là một mỹ nhân. Bảo rằng lúc đó bà cố ý quên đi thì có vẻ đúng hơn.

Cuối cùng, bầu trời xen một vài vệt trắng. Trong cái lờ mờ của buổi hừng đông, vị lão tăng vẫn còn đứng nguyên đấy.

Hoàng phi thua cuộc. Bà đành lên tiếng gọi thị nữ ra ngoài vườn mời nhà sư đến trước rèm.

Vị lão tăng đã đạt đến mức độ vong ngã, không biết xác thịt mình hãy còn hay đã bị hủy diệt. Cụ hết phân biệt nổi kẻ đang chờ đợi mình là bà hoàng phi hay là kiếp lai sinh. Khi nhận ra bóng người thị nữ bước xuống khu vườn nửa sáng nửa tối để đến kề bên, cụ cũng không hình dung ra được những gì sẽ xảy ra tiếp đó.

Thị nữ truyền lại lời mời của hoàng phi. Lão tăng đáp lại bằng một âm thanh giống như tiếng kêu kinh hãi, không phải tiếng người.

Phía trong bức rèm chỗ bà phi ngồi tối đen, người từ bên ngoài không thể nhìn được hình dáng của bà.Vị lão tăng quì xuống trước bà, hai tay bưng mặt khóc.

Cụ khóc một hồi lâu, không có lấy một lời. Khóc và chỉ biết khóc, tưởng như tiếng khóc sẽ không bao giờ dứt.

Trong lúc đó, bên dưới bức rèm và từ trong chỗ bóng tối lờ mờ, một bàn tay trắng muốt như tuyết đang chìa ra phía ngoài.

Vị cao tăng chùa Shiga đưa hai tay ra đón nhận và ấp ủ bàn tay của người mình yêu thương. Cụ áp bàn tay đó lên trán mình, rồi lên má.

Hoàng phi Kyôgoku cảm được cái lạnh từ bàn tay thô kệch đang chạm đến tay mình. Sau một lúc, bàn tay đó bỗng nóng lên rồi dần dần ướt

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 162

đẫm. Bà cảm thấy không chút thoải mái khi bàn tay của mình đang thấm ướt nước mắt của ai đó.

Thế nhưng bầu trời đã trắng bạch và khi hoàng phi nhận ra ánh sáng bắt đầu len vào sau rèm, trong lòng người đàn bà có con tim đạo hạnh này bỗng nhiên một linh cảm lạ lùng từ đâu đến xâm chiếm: không còn nghi ngờ gì nữa, cái bàn tay không quen biết đã ấp ủ tay ta bên kia tấm rèm chỉ có thể là bàn tay của chính Đức Thế Tôn.

Một cảnh tượng huyền ảo như sống dậy trong lòng hoàng phi. Đó là khung cảnh cõi Tịnh Độ với nền bằng lưu ly, với vô số lâu đài cung điện bằng thất bảo, với bóng dáng những vị thần tiên đang tấu nhạc, với những khu hồ hoàng kim trải cát thủy tinh có muôn nghìn đóa hoa sen lấp lánh ánh sáng, với lũ chim gia-lăng-tần-la ríu ra ríu rít... tất cả đều như vừa được tái sinh. Nếu trên thực tế đó là quang cảnh của cõi Tịnh Độ mà hoàng phi tin rằng mình sẽ thừa hưởng thì kể từ nay, nàng có thể sẳn sàng chấp nhận tình yêu của vị lão tăng. Hoàng phi chỉ còn đợi người đàn ông có bàn tay của Đức Phật lên tiếng gọi: "Hãy vén rèm lên!" mà thôi. Vị lão tăng có thể cầu xin nàng điều đó. Có thể nàng sẽ vén rèm cho cụ. Cũng như trong buổi gặp gỡ bên bờ hồ Shiga, có thể hoàng phi Kyôgoku sẽ cho phép nhà sư già được nhìn thấy khuôn mặt tuyệt mỹ của nàng. Và nàng cũng có thể mời cụ bước vào bên trong nữa...

Hoàng phi Kyôgoku chờ đợi.

Thế nhưng vị lão tăng chùa Shiga không thốt lên lấy một lời. Cụ không cầu xin điều gì cả. Bàn tay già nua đang nắm chặt lấy bàn tay của người đẹp cuối cùng rồi cũng buông ra. Cụ để bàn tay trắng muốt như tuyết đó trơ trọi trong ánh sáng của buổi bình minh.

Vị cao tăng đi khuất. Hoàng phi cảm thấy tim mình buốt giá.

Vài ngày sau, có tin đưa đến là vị cao tăng đã viên tịch trong thảo am của người. Từ đó, hoàng phi Kyôgoku bắt đầu ngồi nắn nót chép những

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 163

trang kinh để tiến cúng nhà chùa. Đó là Vô Lượng Thọ Kinh, Pháp Hoa Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, toàn những bản kinh quí hiếm.

(Dịch xong tại Tôkyô, ngày 17/09/2007.)

 

Tham khảo

1) Aury, Dominique, 1983, Le prêtre du temple de Shiga et son amour (dịch Mishima theo The Priest and His Love), trong Yukio, Mishima, La Mort en Eté, Gallimard, Paris.

2) Mishima, Yukio, 1978, Shigadera shônin no koi, trong Mishima Yukio, Misaki nite no Monogatari, Shinchô Bunko, Tôkyô.

2) Morris, Ivan, 1962, The Priest and His Love (dịch Shigadera shônin no koi), trong Morris, Ivan chủ biên, Modern Japanese Stories, An Anthology, Charles Tuttle Co, Tokyo, bản in lần thứ 23, 1997.  

Chú Thích

[1] - Taiheiki, tiểu thuyết lịch sử Nhật Bản ghi lại giai đoạn biến loạn tranh giành vào thời trung cổ Nhật Bản. Gồm 40 quyển, tương truyền do một nhà sư, Kojima Hôshi viết. Sáng tác khoảng 1368-75 hay 1375-79.

[2] - Ikkaku Sennin (Nhất Giác Tiên Nhân), còn gọi là Ikkasen (Nhất Giác Tiên) hay Dokkakusen (Độc Giác Tiên), người được xem như là một tiền thân của Đức Phật. Người nước Bà La Nại bên Ấn Độ, vốn do nai sinh ra trong rừng, đầu có một sừng. Tu thiền định lâu năm nên có pháp thuật. Vì oán hận nhà vua nên vị này làm cho trời hạn hán. Sau bị một dâm nữ do nhà vua gữi đến quyến rũ làm mất phép thần thông. Từ đấy mưa lại chan hòa. Sự tích này đã thành đề tài của tuồng Nô của Konparu Zenchiku (1405- khoảng 1470).

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 164

[3] - Còn gọi là Suufukuji (Sùng Phúc Tự) một ngôi chùa cổ xây từ năm 668 bên cạnh kinh đô khi đó còn là Nara. Một trong mười ngôi chùa lớn đương thời nhưng nay không còn dấu tích.

[4] - Triều đại trung cổ Nhật Bản dài khoảng 400 năm.

[5] - Tư tưởng cho rằng có một thế giới thanh tĩnh cực lạc thiên biến vạn hóa ở Tây Phương, nơi có Phật A Di Đà và chư Phật. Con người nếu tu hành có thể thác sanh về đấy. Bắt đầu ở Trung Quốc, sau trở thành một phái tôn giáo ở Nhật với giáo tổ là tăng Hônen (Pháp Nhiên, 1133-1212).

[6] - Ôjô Yôshuu, sách nhà Phật, 3 quyển do tăng Genshin (Nguyên Tín, 942-1017) trứ tác, hoàn thành năm 986, khuyên người niệm Phật để được vãng sinh cực lạc.

[7] - Hay Eshin Sôzu, tên thường dùng để gọi tăng Genshin, cao tăng phái Tendai (Thiên Thai), từng du học bên Trung Quốc.

[8] - Cữu ngưu nhất mao, chữ của Tư Mã Thiên trong bức thư gữi cho bạn là Nhiệm Thiếu Khanh."Phản lệnh bộc phục pháp thụ hình, nhược cữu ngưu vong nhất mao". Ý nói là "một chuyện nhỏ không thấm vào đâu".

[9] - Thất bảo. Còn gọi là thất trân.

[10]- Theo âm Phạn ngữ Kalavinka, thú đầu người mình chim, có giọng hát ngọt ngào, ở trên đỉnh Tuyết Sơn hay cõi cực lạc.

[11] - Theo âm Phạn ngữ Yojana, đơn vị đo lường thời cổ Ấn Độ. Một Yojana rộng đến 7 đến 9 dặm Anh.  

[12] - Tức Tu Di Sơn (Shumisen) do chữ Phạn Sumeru là đỉnh núi ở trung tâm thế giới của nhà Phật, có Đế Thích và Tứ Thiên Vương cai trị, vây xung quanh bởi bát sơn bát hải.Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 165

lại quay vòng bên ngoài.  

[13] - Thủy Quán Tưởng, chữ nhà Phật để chỉ sự tập trung tinh thần để suy nghĩ về dòng nước trong trên cõi Tịnh Độ. Đây là quán tưởng thứ 2 trong số 16 phép (thập lục quán) được giảng trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh.  

[14] - Kinh Cực, tên một khu vực và cung điện trong thành Kyôto. Thường ám chỉ gia đình quyền thần và ngoại thích Fujiwara no Michinaga, đời đời có nhiều con gái gả cho các thiên hoàng.  

[15] - Trượng có hình đầu chim bồ câu (câu trượng) để mừng người trên 80 tuổi vì bồ câu là giống chim ăn không bị hóc.  

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 166

HỒN BƯỚM(Chôchô, 1948) [1]

Nguyên tác: Mishima Yukio (1925-70) Dịch: Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 167

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

 Mishima, 23 tuổi, 

thời điểm viết Chôchô (1948)

Dẫn Nhập Của Người Dịch

Năm 1898, nhà văn Mỹ John Luther Long, người chưa từng dặt chân lên đất Nhật, đã dựa vào thư tín và tài liệu của chị mình, vợ hiệu trưởng một trường đạo ở Nagasaki, để viết tiểu thuyết nhan đề Madam Butterfly (Hồ Điệp phu nhân). Truyện kể lại mối tình bi đát giữa một sĩ quan hải quân Mỹ tên Pinkerton và nàng con hát mới 15 tuổi có nghệ danh là Chôchô (Bươm Bướm) mà người chị nghe dân sở tại truyền tụng. Hình tượng nàng Chôchô ôm con đứng trên mỏm đất nhìn ra vịnh Nagasaki trông ngóng người chồng bạc tình ra đi không bao giờ trở lại, buồn tuyệt vọng rồi tự sát trước Phật đài năm 18 tuổi...đã là nguồn cảm hứng cho nhà soạn nhạc người Ý Puccini viết vở nhạc kịch ôpêra cùng tên, công diễn

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 168

lần đầu tiên ở nhà hát Scala thành phố Milano năm 1904. Vở nhạc kịch cảm động này vẫn tiếp tục được trình diễn từ trên một trăm năm nay. Dù có thực hay không, truyện nàng Chôchô chỉ là một thảm cảnh điển hình của bao người con gái Nhật Bản, phải bán thân làm "vợ trên bến" (genchizuma) những chàng thủy thủ lang bạt thời Nhật Bản vừa mở cửa.

Nhân vật thứ hai cũng quan trọng không kém, được nhắc đến trong truyện này, là danh ca giọng nữ cao (soprano) Miura Tamaki (1884-1946). Bà là người Nhật Bản giữ trọng trách đào chính (prima donna) trên sân khấu Opera House ở London năm 1915 trong vai Madama Butterfly, cho đến lúc đó, chỉ có người ngoại quốc chủ diễn. Đã đi khắp thế giới và diễn vai này trên 2000 lần. Puccini gặp bà năm 1920 và cho rằng tài diễn xuất và tiếng hát của bà đã hoàn thiện nhân vật sân khấu mà ông trông đợi. Ở Nhật, Miura Tamaki đồng nghĩa với Madama Butterfly. Lúc đã ngoài 50 tuổi, tiếng hát của bà vẫn trong thanh như thưở 20. Bà mất năm 1946 sau khi diễn lần cuối cùng mới có hai tuần, và như ý nguyện, được chôn ở bên hồ Yamanaka, cạnh núi Fuji, nơi bà có thời đi sơ tán trong chiến tranh..

Tuy nhiên, ta thấy ở đây hình như Mishima chỉ mượn hai nhân vật trên để nêu một câu hỏi khác có tính cách triết học. Nó liên quan đến sự đối lập giữa ngăn cách / đợi chờ, hy vọng / tuyệt vọng của con người mọi thời đại. Khác với chàng Pinkerton vĩnh viễn bỏ đi và là đầu mối của bi kịch đời nàng Chôchô, người đàn ông trong truyện này, Kiyohara, đã từ chiến trường trở về tìm lại người xưa nhưng chính điều đó lại là nguyên nhân của một bi kịch khác.    

Vào Truyện

Nàng Chôchô sẽ ra thế nào nếu tuổi già lại đến viếng nàng trước, sớm hơn cả ngày trở về của chàng Pinkerton mà nàng mòn mỏi trông chờ? Nhưng ít nhất tuổi già sẽ rước nàng đi cùng chứ không tàn nhẫn bỏ rơi nàng như anh chàng Pinkerton kia. Đó là ý tưởng hiện ra trong trí

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 169

Kiyohara vào đêm đầu tiên đi nghe hòa nhạc sau khi anh giải ngũ trở về. Kiyohara là sĩ quan trừ bị chuyên môn về kế toán lương bổng, bị trưng binh khi vừa bốn mươi tuổi, mới hai năm trước đó, đã lâm vào cảnh góa bụa. Sinh trong một gia đình ngành xuất nhập cảng mà anh là con trai nối dõi, Kiyohara đã được rèn luyện từ thời trẻ cách thức giữ được một thế quân bình hiếm có giữa tính nghiêm khắc và sự dễ dãi. Cũng nhờ tài xã giao thiên phú của mình, sau khi nhập ngũ, anh đã được lòng tất cả những nhà kinh doanh các vùng anh đến đóng quân, đặc biệt thời ở Đài Loan, cơ sở giao hảo tốt đẹp anh tạo được nhiều khi làm bùng lên lòng ganh tỵ của người trong đơn vị. Thế nhưng Kiyohara chỉ yêu thích mỗi cuộc sống cô đơn. Thường thường lớp trẻ không có duyên với chuyện ăn chơi giao thiệp mới hay ca tụng sự cô đơn chứ tự buổi thiếu thời, Kiyohara thì đã thừa hiểu đó là một điều đáng ghét, và chính vì không muốn yêu sự cô đơn một cách giả dối như họ, anh đã xử sự ngược lại, tạo cho mình cái dáng một thanh niên ăn chơi ra trò. Ở giai đoạn từ hai mươi tuổi trở đi, trong lòng anh có một niềm tự hào không chút ngại ngùng là chắc chắn mình chưa từng để bất cứ cô gái nào phải khổ. Rồi đến khi bước qua cái tuổi ba mươi, anh lại chỉ thấy có vợ là người bên cạnh phải chịu đựng vì mình. Lúc đó anh mới biết rằng những trò vui trong quá khứ mà anh cứ nghỉ chẳng làm chết ai chính là một chuỗi hành động sai lầm hay thất sách. Bởi vì trong khoảng thời gian từ hai đến ba mươi tuổi, anh cứ đinh ninh nếu mình làm một việc ác mà ý thức được là ác thì tất cả sẽ trở thành điều thiện. Nhưng anh ngờ đâu sự xác quyết lầm lẫn thời trai trẻ này, chứ không phải lý tính, đã làm say sưa hết cô gái này đến cô gái khác!

Sau khi vợ qua đời, anh được gửi đi xuống các nước phương nam và có cuộc sống nhàn tản nhiều năm trong đời quân ngũ. Hoàn cảnh lúc đó thật lý tưởng để nhen nhúm lại trong óc anh sự thỏa mãn là mình chưa để cô gái nào phải khổ sở bao giờ. Thế nhưng có một điều Kiyohara không ngờ tới. Đó là trong tâm hồn anh, sự thỏa mãn ấy đã được thay thế bằng một sự trạng thái nghĩ ngơi thoải mái khiến anh dù có muốn, cũng không có thể làm khổ thêm cô gái nào nữa.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 170

Như thế, một mình lẻ loi, anh đã băng qua công viên H. chiều hôm ấy lúc trời vừa sập tối, để đi nghe hòa nhạc (xem hát một mình cũng chỉ là một thói quen tự ngày còn trẻ). Đó là tối ngày 20 tháng 3 năm 1946, lúc cơn mưa giá lạnh vừa mới tạnh xong.

Anh thấy lại trên sân khấu người nữ danh ca luống tuổi, mà cứ theo lời người ta đồn đại, hồi chiến tranh, trong thời kỳ đi sơ tán ở vùng hồ Yamanaka, mỗi sáng khi bà đứng hát bên bờ hồ thì chỉ trong chốc lát đã thấy chim chóc tụ lại thành đàn trên những chòm cây như muốn cất tiếng hòa ca với bà. Còn lúc bà đóng vai O-Chô Fujin (Hồ Điệp phu nhân). người ta có cảm tưởng như nhìn lại được hình ảnh huyền ảo của nhân vật phụ nữ đã nổi tiếng thế giới một thời đó. Thế nhưng tối hôm ấy, trong buổi hòa nhạc, bà không hát làn điệu Un bel dì vedremo (Vào một ngày nắng đẹp) [2] tuyệt vời mà thay vào đó bằng những khúc leider thanh thoát tươi tắn trong La Belle Meunière (Nàng thiếu nữ bên cối xay gió) của Schubert, mà ai cũng biết là khá khó diễn đạt.

Hai tấm bình phong màu vàng kim, mỗi tấm sáu miếng kết lại, vây quanh sau lưng, còn bà thì đứng bên cạnh chiếc dương cầm và cái ghế màu xanh lục. Tuy từng cho khán giả biết "có thể sắp sửa phải chịu giải phẩu vì đang mắc một chứng bệnh trầm trọng, nghệ sĩ cũng gắng gượng ra mắt", thế nhưng bà chẳng chịu ngồi xuống ghế mà chỉ tựa mình một cách khó khăn vào thành dương cầm. Bà mặc một chiếc kimono tay thụng, nền trắng óng ánh có mô-típ quạt Nhật, thắt bằng dải thắt lưng màu son tươi. Những ngón tay đeo đầy nhẫn sáng lấp lánh. Tất cả tạo cho bà cái dung mạo đoan trang đầy đặn như nữ thần Kichijô [3] nhưng thân thể bà đã bị bệnh tật làm cho yếu ớt giống như một cánh hoa bìm héo hon vì bị ngắt khỏi cành từ ngày hôm trước. Dù vậy quang cảnh bà bước ra sân khấu thật lộng lẫylàm cho mọi người không ai dám nghĩ rằng đó là một nhan sắc đang đến hồi tàn tạ. Chỉ có thể nói một sự tàn tạ tuyệt mỹ. Có nhà phê bình âm nhạc thời Taishô (trong thập niên 1910) đã ghép chung bà với T.S., một nữ danh ca khác bằng cái tên thân ái "cặp đào chính tốc-kê", có lẽ vì kiếp sống của bà đầy những cảnh dở dại dở điên, mà cuộc đời Hồ Điệp phu nhân xưa kia cũng hao hao không khác.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 171

Để cho từ bên trong cái thân thể bệnh tật già nua chưng diện lộng lẫy như một bàn tiệc cưới phát ra được âm hưởng tiếng chim non đang hót, chắc phải dùng đến tài ảo thuật. Tiếng hát trong thanh có một không hai của bà giống như của người bị đồng nhập, nên dù không muốn, bà cũng phải mở miệng để nó thoát ra. Thân thể bà có thể già nua cằn cỗi đi nhưng tiếng hát không hề đánh mất cái nhựa sống đã gắn liền với da thịt trên khuôn mặt. Và khi tiếng hát đó vọng vào tai mình, thính giả chỉ có thể thấy rằng họ đang đứng trước một chiếc mặt nạ đẹp tuyệt vời.

Bao cánh hoa buông lơi, Bên bờ giòng nước trôi....

Người nữ danh ca vừa hát vừa hơi cúi đầu ra phía trước, hai tay vươn ra làm dấu vẽ cảnh giòng nước đang trôi. Tức thời trên sân khấu nổi lên tiếng rì rào của con suối lấp lánh, hiền hòa trôi. Ngón tay có đeo nhẫn kim cương của bà như cắt vào không khí để làm vọt ra từ không gian trong vắt đó hình ảnh một giòng nước. Bao cánh hoa buông lơi, run en trong làn gió nhẹ bên bờ suối. Thế rồi bằng những cử động ve vuốt của bàn tay nhỏ nhắn như tay một cô bé, bà đã làm sống được những cành hoa tưởng tượng đó, để chúng phô bày những sắc cầu vồng tựa hồ vệt dầu loang tươi tắn trên mặt nước.

 Miura Tamaki (1884-1946) 

(Ảnh Wikipedia)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 172

Bất chợt Kiyohara có ảo giác mình đang nghe lại âm điệu của bản Un bel dì vedremo (Vào một ngày nắng đẹp) yêu thích thuở nào. Có phải người nữ danh ca có tiếng hát huyền hoặc của tay phù thủy với quyền năng thần bí, đã làm sống lại ảo ảnh đó dễ dàng theo ý muốn? Khi bà cất tiếng hát "Vào một ngày nắng đẹp", người ta thấy được cả màu xanh của biển cả cuồn cuộn dâng lên trong đôi mắt. Trên cái phông vụng về vẽ cảnh mặt biển, như thể những thần linh hải dương đang rủ nhau về. Đôi mắt của Chôchô lúc ấy không còn đen láy của đôi mắt người con gái Nhật Bản nữa. Có lẽ vì ngày lại ngày cứ phải đăm đăm nhìn mặt biển trong mòn mỏi nhớ mong, cuối cùng cặp mắt nàng đã nhuộm màu biển cả. Thế nhưng, ngay giữa lúc ấy, như thể nàng đã tiên liệu những gì sẽ xảy ra, trước khi bi kịch trong màn cuối của tấn tuồng bắt đầu và cũng là lúc khuôn mặt nàng hoàn toàn nhuộm trong màu xanh của biển, đôi mắt nàng đã bị ánh nắng mặt trời chói lòa giữa trưa thu hút tự bao giờ. Con thuyền đang chở đến cho nàng tấn bi kịch. Chính là đôi mắt xanh ngăn ngắt đại dương của Chôchô đã mời mọc nó ghé bến. Cái mà nàng chờ đợi, không phải anh chàng Pinkerton. Thực ra, nàng chờ đợi tấn bi kịch. Nghĩa là cái chết. Điều nàng trông mong dường như chỉ có thế.

Ngay khi đó, người nữ danh ca cũng vừa hát xong những nốt cuối cùng của "Bài hát ru của dòng suối". Bà ôm trong tay một bó hồng - tuy bó hoa quá khiêm tốn để có thể bảo là "ôm trong tay" - ngỏ lời cùng khán giả với một giọng ngọt ngào. Sau khi nhắc đến Paderwski [4], Caruso [5], Chaliapine [6], Gigli [7], những tên tuổi huy hoàng, quí giá như châu ngọc, đã cùng xuất hiện với bà trên sân khấu một thời, bà mới bảo "Trong khi đạt được những thành tựu trên thế giới, tôi đã bị tổ quốc Nhật Bản bỏ quên. Tên tuổi tôi ở đây quá nhỏ bé (bà đưa bàn tay đeo nhẫn lên lấp lánh, giả vờ như đang nhìn vật gì dưới kính hiển vi), nếu quí vị không chịu khó cúi xuống đọc thì sẽ không thấy đâu!". Trong tất cả những tình nhân trong đời bà, chưa ai nhận được tình yêu mà bà đã dành cho sự nghiệp. Bà yêu danh vọng với cái tình cảm tinh tế chỉ có thể thấy nơi người phụ nữ. Chỉ khi nghe tiếng vỗ tay rung cả hội trường, bà mới thấy niềm vui của mình dâng lên tột đỉnh. Bao lần bà đã nghe nghe người trên thế giới thì thào với nhau cái tên của mình như một câu thần chú linh thiêng. Tên của bà cũng đã được chạm khắc để trang điểm cho

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 173

những tấm phù điêu thanh lịch của các thành phố cổ kính ở mãi Ý Đại Lợi. Mặt bà có lần tái xanh gần muốn ngất đi trong làn hương tiễn biệt của hàng nghìn đóa hoa hồng thành La Mã. Đến khi con tàu chở bà bỏ bến Gibraltar lại đằng sau, đêm Địa Trung Hải đã mở ra một khung trời tráng lệ chưa từng có, tô điểm bằng muôn ngàn vì sao sáng, để tiễn bước chân bà. Thế rồi khi đứng trên boong tàu ẩm ướt trong màn sương mai, người nữ danh ca đã nhận ra những nét đầu tiên hình dạng của Hợp Chúng Quốc Mỹ Châu qua vài vệt cắt mơ hồ phía chân trời, và lúc ấy bà đã ngỡ rằng những lớp sóng kia là vô số bàn tay của đám đông nồng nhiệt hò reo, vẫy gọi.

-Quí vị có biết rằng khi đến ra mắt ở các buổi hòa nhạc, lần trước tôi còn lấy xe điện được, thế nhưng kỳ này rốt cuộc (nàng phát âm tiếng này mới một giọng nói nhỏ và thanh nhã đến độ không ngờ) tôi phải nhờ người ta địu tôi trên lưng đó ạ. Tôi đã mắc chứng sưng ruột thừa hồi mấy năm về trước sau khi đi ủy lạo các chiến sĩ về, rồi bệnh trở nặng làm thành một khối u trong bụng. Chỉ nội tuần này, tôi sẽ biết mình phải mổ hay không. Nếu tai qua nạn khỏi, tôi sẽ có dịp trở lại hát Hồ Điệp phu nhân hầu quí vị vào tháng sáu tới. Ví bằng bệnh không lành và ngộ nhỡ có chuyện gì xảy ra, xin quí vị cứ xem hôm nay là buổi trình diễn cuối cùng của tôi.

Nói xong, bà lau một giọt nước mắt với cánh tay áo lót vải kếp màu đỏ rực bên trong chiếc kimono, hình ảnh gợi nhớ những đam mê nồng nhiệt đến độ bệnh hoạn trong quá khứ của bà, một phụ nữ thế hệ Meiji [8]. Đặt bó hoa lên ghế, bà dựa lưng vào chiếc dương cầm trong khi ánh đèn rầm sân khấu chiếu lên trên ngấn cổ nhăn nheo của bà những tia sáng tàn nhẫn.

Bà hát bài ca từ giã "Home, sweet home" bằng một giọng thật trầm và không cần nhạc đệm. Tiếng hát ấy khiến cho nhiều người trong đám nữ khán giả tham dự hôm đó cảm động đến độ phải lật đật rút khăn tay. Tiếng hát của bà làm liên tưởng đến khung trời thành Nhã Điển trãi rộng ra, bao trùm lên quang cảnh sân khấu đang lặng lẽ trình diễn một vở bi kịch Hy Lạp mà chính bài hát cũng chứa đựng những ca từ thê thiết và

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 174

tang tóc. Người ta tự hỏi có phải chăng đó là tiếng hát của Sappho, sau khi bị phản bội trong tình yêu, đã đốt một đống lửa hồng trước mặt đền nữ thần Aphrodite, còn mình đầu đội vòng nguyệt quế, mặc tấm áo đỏ rực, trong tay là cây đàn cầm bảy dây giát vàng, cất tiếng hát những bài thánh ca trước giờ lâm tử. Nhưng đây chỉ là một Sappho già nua và suy sụp vì bệnh hoạn, không còn đủ sức đội vòng nguyệt quế hay mặc áo khoác màu đỏ rực nữa rồi.

Buổi hòa nhạc kết thúc, người nữ danh ca ra về. Đám học trò nắm tay dìu bà, còn bà thì trong tay ôm lấy bó hoa hồng nghèo nàn, chậm chạp bước ra khoảng không gian rộng lớn của hội trường nhiều lần để đáp lại tiếng vỗ tay không muốn dứt của khán giả. Đôi mắt nhắm lại, mặt hơi ngẩng lên trời, hai tai vươn ra ngóng đợi, bà như đang say sưa, không chú ý gì đến sự hiện diện của một ai. Trong giây phút, cả thế giới hầu như đọng lại thành những tràng pháo tay. Cũng chính lúc ấy, khuôn mặt của bà đẹp lộng lẫy và khêu gợi không gì cưỡng nỗi, đến độ Kiyohara cũng phải rùng mình......  

II

..........Và như thế, hình ảnh rực rỡ của nữ danh ca Miura Tamaki trong đêm từ giã ánh đèn sân khấu, dưới mắt tôi, không hiểu sao giống cảnh con bươm bướm đang hấp hối đến thế. Con bướm đó tung ra lớp phấn lân tinh trên đôi cánh hoa lệ khắp chung quanh, lạc loài lượn trên sân khấu và không biết cách nào để che dấu vết thương rách nát tủi hổ của mình. Trong đôi mắt to màu xanh chết của nó, một mặt biển đang thản nhiên lấp lánh. Sau khi đã cố gắng vươn lên một cách vô vọng, những sợi râu mệt lả từ từ hạ xuống, cuối cùng bướm đã gục ngã lúc những cơn run rẩy ập về như từng đợt sóng nhỏ, báo hiệu phút lâm chung đẹp đẽ của nó.

Nếu như tôi mới viết thư trở lại cho bà sau từng ấy năm hay sau cả hàng chục năm, có lẽ vì một nỗi lo âu đã ám ảnh, làm tôi ray rứt từ hôm được chứng kiến cái chết của con bướm ấy. Tình cảm này giống như nỗi lo âu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 175

trong niềm vui thấy mình đang sống mà chúng ta thường trải qua thời thơ ấu, nó làm ta khóc hết nước mắt mỗi buổi sáng. Nó cũng giống như nỗi lo âu có tính bi kịch nhưng ngọt ngào đẹp đẽ, nhất định sẽ đến với ta lúc nhớ lại một kỷ niệm trong sáng nào đó. Nỗi bất an có điểm chung với tình cảm hiện ra trong hai trường hợp nói trên, phải chăng chính là cái tình cảm đã đột ngột tìm về với tôi khi hồi tưởng đêm công diễn vở Hồ Điệp phu nhân mà tôi có dự hai mươi năm về trước? Mấy tấm bình phong xếp nếp kẻ ô vuông vức trông vui mắt làm tôi liên tưởng đến những hình mắt cáo của hoa văn Ichimatsu [9] gợi nhớ mùa hoa cúc Nhật Bản, tấm áo kimono cài về bên trái, anh chàng Gorô [10] với đôi mắt xếch như mắt chồn và cả nàng Hồ Điệp phu nhân do bà Miura Tamaki, lúc đó hẳn trẻ, thủ vai. Bà ta lúc đó trông thật thơ ngây, đúng cái tuổi mười lăm của Chôchô, "cái tuổi còn thích hái hoa, đuổi bướm" [11]. Những chi tiết đó làm cho tôi, cũng như đám khán giả đến xem hát, cùng cảm thấy nước Nhật là một xứ sở thật kỳ dị và phù ảo, nơi đây những sinh hoạt thường tình trong cuộc sống đều có thể trở thành rộn ràng linh động như một câu chuyện thần tiên. Tuy vậy, phải nói thêm rằng khi thu dọn đồ đạc để lên đường ra chiến trường, tôi đã lục ra tấm chương trình buổi trình diễn ở nhà hát Scala dưới đáy một ngăn kéo và đã khám phá ra lời giới thiệu kỳ cục như thế này: " Madam Butterfly của Puccini. Địa điểm: Thành phố Nagasaki, Nhật Bản. Thời điểm: Hiện tại" (mà lúc đó, hình như tôi cũng không mấy chú tâm đọc nó).

Thủa ấy, tôi mới khoảng hai mươi và còn đang học dự bị đại học nhưng đã xin tạm nghỉ sáu tháng để làm một chuyến chu du vòng quanh thế giới với bố tôi. Năm ngoái, ông vừa góa vợ, bà chính là mẹ tôi. Tâm tình của bố lúc đó - bắt một đứa con phải bỏ một năm học quan trọng để tháp tùng mình đi một vòng quanh thế giới - chỉ sau này khi đã góa vợ rồi, tôi mới hiểu ra.

Giờ đây nghĩ lại, tôi chắc bố muốn trốn thoát khỏi thực tại và say sưa vùi đầu vào cái không xác thực của cuộc đời. "Thế giới" đầy tuồng ảo hóa đó không chỉ có trong ý niệm nhưng còn trải rộng ra đến cả cảm giác. Bao nhiêu địa danh nổi tiếng, vừa khi ta mới cất bước rời khỏi, đối với cuộc đời của ta, chúng chỉ còn là những kỷ niệm không hơn không kém.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 176

Dù những địa danh ấy tượng trưng cho lịch sử và truyền thuyết về cuộc sống tràn đầy những hỉ nộ ai lạc của dân chúng từng sống ở đó hằng bao thế kỷ, nhưng đối với bố, nó còn mong manh, bèo bọt gấp mấy sự có mặt của người vợ ông yêu trên mặt đất này. Điều đó đem đến cho ông hai sự hài lòng: một là cái chết của vợ mình chỉ là một sự kiện chỉ có tầm quan trọng ngang với một lần tạm dừng chân ở một hải cảng vô danh nào đó và người lữ khách không có cớ gì để phải bất mãn. Hai nữa là, ngược lại, ông cảm thấy một niềm vui nghịch lý khi nhận ra rằng cho dù cái chết của vợ mình là một điều không xác thực, nó vẫn không to lớn hơn cái không xác thực của sự sống trên đời. Nói là ông được cả hai sự hài lòng như thế, song những ngày lưu trú tại các hải cảng hay những thành phố lớn, bố tôi không hề tỏ ra là một người cha dễ thương và biết chăm sóc chu đáo con mình.

-Con chỉ mất có một người chứ nên nhớ là bố mất cả hai đấy nhé!

Bố tôi có lần hạ tờ báo buổi sáng đang đọc, nhìn thẳng tôi và nói. Đó là hồi ông đã biết nói đùa trở lại.

-Con mất một người mẹ. Còn bố, bố mất người vợ lẫn người mẹ của con.

Đi hết chỗ này đến chỗ nọ như thế, ở mỗi nơi, ngoài những cuộc chơi vô tội vạ, cha con tôi ai sống đời nấy. Bố cho một người đàn ông nghiêm khắc đóng vai thư ký tháp tùng để kiểm soát tôi. Tôi đi đâu, ông thư ký này cũng bám theo sau (không hiểu sao bố tôi lại thích sử dụng những tay chân bộ hạ thiếu năng lực như cái ông này!).

Đổ bộ lên Napoli, một đoàn chúng tôi thẳng đường đi La Mã và dừng chân ở đó một vài hôm. Khi tôi ngỏ ý muốn viếng thăm Milano, bố bảo tôi hãy cùng viên thư ký lên đường trước và nhờ Tòa Đại Sứ viết cho một phong thư giới thiệu đến người lãnh sự Nhật ở địa phương. Theo lời của Sứ Quán, hiện nay vị lãnh sự bận công du ở Thụy Sĩ, nếu cậu nhà có cần ai hướng dẫn, chắc sự giúp đỡ của phu nhân viên công sứ này cũng đã quá đủ. Theo lời khuyên của bố, đến Milano, chúng tôi trọ ở Grand Hotel, một khách sạn nằm trên đường Manzoni. Tuy nhiên, có hơi ngấy

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 177

du lịch, tôi định bụng không đi đâu cả, cứ nằm dài trong khách sạn nghỉ ngơi, đợi cha tôi đến. Tôi cảm thấy có một khoái cảm thật huy hoắc khi được sống những ngày chây lười không phải làm gì cả giữa trung tâm cái thành phố đầy di tích nổi tiếng như thế này, chẳng khác nào một nhà thám hiểm vừa bước ra khỏi một kho tàng mà trên tay không đem theo một món đồ nào, ngược lại, sắp bước vào một giấc ngủ say nồng. Tôi giữ lá thư giới thiệu kỹ lưỡng trong ví nhưng định bụng sẳn sàng vứt nó vào sọt rác bất cứ lúc nào.

Tuy vậy, một buổi xế trưa, khi người canh gác tôi vắng nhà vì đi mua hàng họ gì đấy, ở một mình mãi cũng chán, tôi bỗng thèm đi ra ngoài để thư giản gân cốt. Tôi tản bộ đến Poldi-Pezzoli, một bảo tàng viện mỹ thuật không xa Grand Hotel bao nhiêu, nơi đấy có trưng bày bức "Madonna đọc sách" nổi tiếng của Botticelli [12]. Những Madonna [13] của nhà họa sĩ đều có hình ảnh ngoại đạo của một Venus [14], và nhân đó, Walter Pater đã có lần viết: "Botticelli vẽ rất nhiều tranh Madonna, nhưng trong bức nào, Đức Mẹ cũng như có vẻ e sợ vì đang phải bế con của Chúa Trời trên tay. Bà có dáng như người đang cầu nguyện với một tư thế rõ ràng là thấp kém nhưng do đó, lại khiêm tốn và ấm áp tình người hơn".

Dù bức tranh này cho ta xem hình ảnh một Đức Mẹ nở nang sung mãn như một quả chín đượm một mùi hương hoan lạc, thế nhưng đã lảng vảng đâu đó hình bóng của tử thần với màu thịt xám ngoét và màu hoa úa nhạt. Trong bầu không khí nhàn nhã của buổi xế trưa và giữa mùi bụi bặm tịch mịch của bảo tàng viện, tôi đứng trước bức tranh, thả hồn vào trong những cơn mộng huyễn như thế. Chợt tôi cảm thấy có người nào đang lẳng lặng đứng sau lưng mình rồi có một giọng tiếng Nhật chớt nhả, nhưng ngay cả trong sự chớt nhả đó cũng có một cái gì cao kỳ hiếm có:

-Dễ ghét quá đi!

Ngạc nhiên, tôi quay phắt lại và sự xuất hiện của một người Nhật thứ hai là tôi trước mặt mình đã làm cho người đàn bà ấy biến sắc mặt.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 178

Lúc đó, bà mặc một bộ đồ nhung đen khoảng khoát, phù hợp với tiết trời trọng thu vùng Nam Âu, đeo trên cổ một chuỗi hạt lóng lánh, và khi nhận ra bà đang đứng trước mặt, tôi bỗng tưởng tượng được phong ảnh những cái hồ nước YÙ mà tôi chưa một lần nhìn thấy. Nào là hồ Cômo, hồ Majore, hồ Lugano, hồ Garda...Đôi găng thêu rua của bà gợi cho tôi cảnh những ngọn cây nhỏ nhắn trong khu rừng bao quanh hồ đang thì thầm chuyện trò với bầu trời chiều. Chuỗi hạt trên cổ bà là những vì sao le lói trong màn đêm. Đồi ngực căng căng của bà phập phồng nhè nhẹ dưới làn vải nhung giống như mực nước hồ nóng bỏng, bị thúc đẩy, đang lặng lẽ dâng lên giữa đêm khuya về hướng ngàn sao...

Đồng hành với bà là một người đàn ông Nhật Bản tuổi trạc ngũ tuần, có vẻ nhanh nhẹn và vui tính. Ông ta chợt phá vỡ giấc mộng đẹp của tôi khi chợt đặt câu hỏi:

-Xin lỗi, ông là người Nhật đấy chứ ạ?

Ông ta hỏi mà như ban bố cho tôi một lời khen.

Nhờ có thế, tôi được quen biết với bà. Trên tấm danh thiếp bà cho, tôi đọc được hàng chữ "Kuroda Hanako" nên biết ngay bà là vợ ông lãnh sự Kuroda (người chồng cũ) và tôi lật đật lấy từ trong túi áo bức thư giới thiệu tôi mà kể từ giờ phút đó bắt đầu có giá hơn. Tôi nhớ bà bảo:

-Vừa vặn quá! Chúng tôi hiện có dư một vé để xem vở Madama Butterfly ở rạp Scala tối hôm nay. Như thế, ông sẽ có đủ thì giờ để kể cho tôi nghe những dự định của cụ nhà đấy nhé! Ông bạn đây cũng đi xem hát với chúng mình, thế nhưng, về phía ông, có ai đi cùng không?

Tưởng tượng ra cái khuôn mặt lúc nào cũng như đưa đám của ông thư ký khó tính, tôi đã trả lời bà không chút do dự:

-Không ạ, tôi chỉ có một mình!

Rạp Scala cũng nằm trên đường Manzoni và từ khách sạn, chỉ cần đi bộ là đến nơi. Nhà hát bảy tầng trông thật đồ sộ lộng lẫy nhưng không để lại ấn tượng gì có thể khuấy động con tim bằng ấn tượng mà một sự bốc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 179

đồng bắt buộc mình phải nghe theo nó, đã đem đến cho tôi. "Sự vinh hoa của vua Salomon không sánh nổi một cành hoa huệ". Tôi thường tự nhủ, để có thể so sánh với một cành hoa huệ, sự vinh quang này hẳn phải rộng lớn không có bến bờ. Đối với tôi, lúc đó cái rạp Scala hầu như đã đem đến cho tôi một ý nghĩa như thế...Ngay khi ông Nhật tháp tùng bà vừa ngồi xem chưa được bao lâu, có người đã mang đến cho ông ta một mẩu thư nhắn tin khẩn cấp bắt buộc ông ta phải rời cuộc trình diễn ngay giữa màn đầu tiên. Khi màn thứ hai bắt đầu thì trong lô ghế riêng tối tù mù, chỉ còn tôi với bà đang bối rối ngồi cạnh bên nhau.

Như bà đã biết, bài Un bel dì vedremo (Vào một ngày nắng đẹp) lúc nào cũng được hát ở đầu màn hai. Trên sân khấu, nàng Chôchô đang cất tiếng hát, sau lưng nhân vật ấy là cái phông lớn với màu xanh thẩm của biển mà khán giả có thể nhìn thấy qua những tấm bình phong kẻ ô mắt cáo đan sát vào nhau. Người thủ vai Chôchô là bà Miura Tamaki, dạo ấy còn trẻ, trong bộ chiếc áo dài đúng với hình ảnh của truyện Nghìn Lẻ Một Đêm, nghĩa là pha đôi nét luyến tiếc não nùng hơi cải lương trong một nhiệt tình thành thực... Liền khi đó, những thần linh hải dương sẽ giáng xuống cái phông màu xanh. Trên mặt biển, một niềm hy vọng mãnh liệt như bùng cháy lên, ánh sáng của buổi trưa như thiêu đốt con thuyền có lẽ vừa xuất hiện từ phía chân trời, đè bẹp lên toàn bộ khung cảnh bằng một bạo lực ngây thơ vô tội. Và bây giờ cái ngọn gió biển trì trệ giống như một điềm gở, đang sôi nổi săn đuổi nhau, chực phủ lên trên bộ ngực trắng ngần của nàng Chôchô cái màu đất sẩm bẩn thỉu, nhớp nháp.

Tôi không cần dùng ống nhòm chuyên môn cho sân khấu ôpêra cũng đủ nhận ra ngấn lệ long lanh trong đôi mắt của người nữ danh ca. Nhân vật Chôchô chắc đang nhìn thấy một cảnh biển huyễn ảo, xanh thẳm màu tuyệt vọng, như trãi rộng ra để ngăn cách mảnh đất xa xôi nơi nàng đứng hát và những bến bờ xa trên phần đất quê hương. Nếu ở cái tuổi hai mươi thời ấy, tôi hiểu rằng trước bức tường xanh ngăn cách ấy, không có gì có thể vượt qua cho dù đó là tình yêu, ý chí hay niềm hy vọng cao cả nhất của con ngươi, thì, chuyến du lịch vòng quanh thế giới mà bố tôi dự trù để giúp ông xóa được kỷ niệm về người mẹ của tôi, đã dạy cho tôi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 180

nghệ thuật biết quên (trong khi tôi đã có gì để quên) cái thế giới ngay cả trước khi biết về thế giới ấy.

Đôi mắt tôi đã rời khỏi sân khấu để nhìn ngang khuôn mặt của bà, lúc đó đẹp đoan trang như một đóa hoa huệ. Màu đỏ sẩm của những chiếc màn nhung phản chiếu lên xâu chuỗi bà đeo và đôi má bà như nhuộm nó bằng ánh nắng hồng của buổi bình minh...Thế nhưng cái nhìn của tôi đã bị biến chất sau một cuộc hành trình đường biển mệt nhọc. Tôi không bị mù quáng vì sự ngẫu nhiên đã đưa đẩy tôi đến ngồi cạnh bà cùng một lô ghế trong cái rạp hát ở vùng đất xa lạ này và cũng không cảm thấy say sưa trong niềm hạnh phúc đó. Bởi vì tôi hiểu rõ rằng cái cơ duyên đã tạo cho tôi cơ hội đến ngồi đây lúc ấy có một mối liên hệ với khoảng cách tạo ra bởi một đại dương xanh màu tuyệt vọng. Nếu cuộc hội ngộ của chúng ta trên hàng ghế nhà hát này có được là nhờ ở khoảng cách bằng đại dương muôn trùng với quê hương Nhật Bản, có thể giữa hai ta hãy còn một đại dương khác nữa ngăn cách. Bây giờ, một khi đại dương đã đồng nghĩa với định mệnh, chúng ta đang bị du vào cái thế giống như nàng Chôchô, nghĩa là chờ đợi hoài công một cái gì đó cho đến khi chết, hoặc làm như chàng Pinkerton, bỏ ra đi và quên hết. Hai điều đó, bắt buộc phải chọn một. Cẩn thận lắm! Hai chúng ta đã chìm đắm trong sự im lặng, bởi vì cả hai đã định bụng phải quên nhau ngay cả trước khi yêu. Can trường lắm! Trong khi cánh màn nhung hạ xuống chấm dứt hồi hai, giữa những tràng pháo tay vang rền, bà đã quay người lại đằng này và tôi đã nhận ra những tình cảm đó trong nụ cười và trong ánh mắt long lanh ngấn lệ của bà.

Lúc đó, trong người tôi nhẹ nhỏm đến độ thốt ra được một câu nói đùa:

-Nếu có ngày nào đó Pinkerton một mình trở lại đón nàng và khám phá ra Chôchô đã có chồng khác rồi thì vở opêra này sẽ kết thúc theo kiểu nào nhỉ?

-Vâng, thật đấy!...nhưng trong tiểu thuyết tây phương, tác giả thường tạo ra những tình huống như thế.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 181

Cái kiểu trốn tránh trả lời thẳng có hơi vụng về nhưng nó chứng tỏ bà chỉ là một con người bản chất vô tư lự, biết tìm ngay được sự thoải mái sau khi làn sóng vừa xô đến đã rút xuống xa bờ. Về phần tôi, lòng vẫn chưa nguôi tình cảm trách cứ sự hời hợt của bà - mà cũng là sự hời hợt của tôi mới có một phút trước - , vì không biết phải nhìn đi đâu, rốt cuộc tôi đưa mắt nhìn xuống một trong hai bàn tay của bà. Bàn tay ấy trắng và thanh, nhưng sao tôi lại nghĩ nó thật no tròn, đang đặt nhẹ nhàng trên mặt bàn. Tôi nhận ra bà đeo một chiếc nhẫn cẩn một hạt ngọc bích hình bầu dục.

Hạt ngọc xanh...hạt ngọc lam biếc..màu của đại dương...Giòng liên tưởng của tôi như bị tắc nghẽn vì một trực giác mê tín. Nếu thế thì chiếc nhẫn đúng là cái biển xanh đã ngăn cách tôi với bà. Chắc chắn sức mạnh phù thủy của món nữ trang huyền bí này đã làm chúng ta phải xa nhau...

Bà chắc nào có biết đến những truyền thuyết thần bí mà chiếc nhẫn đã gợi lên trong tôi bởi vì lúc đó bà đang dán mắt vào cái ống nhòm cực rõ mà bà đang cầm với những ngón tay trắng muốt, nó che mất bà khỏi cái nhìn của tôi.  

III

Kiyohara không hẳn có ý chờ đợi nhưng lá thư trên của anh không được bà Kawaramachi hồi âm. Thế rồi, khoảng cuối tháng năm, Miura Tamaki, người nữ danh ca luống tuổi thủ vai Hồ Điệp phu nhân đã từ giã cõi đời.

Kiyohara lại bắt đầu mê mãi nghĩ về cái chết của bà, còn vì sao có cái nhiệt tình ấy thì chính anh cũng không thể giải thích. Bà đã ra đi trong đêm tối trước khi trời hừng sáng. Có lẽ sau khi chờ đợi suốt cả đêm, bà đã thấy lóe ra những tia sáng đầu tiên trên mặt biển, lúc ấy được chiếu rọi bằng một nguồn vui đau thương, trong đó vừa có một nỗi tuyệt vọng xác thực và một niềm hy vọng cùng giao hòa với nhau. Niềm hy vọng đó còn xác thực hơn cả sự tuyệt vọng, nó là một hy vọng trong trắng như

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 182

châu ngọc đã được kết tinh dần dần một cách tuyệt vời và có lẽ bà đã nhìn ra nó trong những tia nắng đầu tiên hiện trên mặt biển. Cho dù cuối chặn đường, bà phải đối đầu với cái chết nhưng cái chết này chỉ đem đến cho bà sự nhẹ nhàng của người được giải thoát sau khi thành công nhiệm vụ. Không biết thế giới bên kia ra thế nào chứ ở thế giới bên này, bà không có gì khác hơn là những thành công.

Những ý tưởng đẹp đẽ nhưng phù phiếm đó đã đến với Kiyohara vào một buổi mai trời nắng đẹp. Anh đã cho hãng mình thuê căn nhà chính của gia đình để sửa lại thành khu cư xá, còn anh thì ra ở một căn phòng con trong dãy nhà phụ. Ở đó, anh đã đọc đi đọc lại những trang báo có ký sự về cái chết của Miura Tamaki. Chỉ sau khi đó anh mới ngó ngàng đến những bức thư mà chị giúp việc mang tới đặt trên bàn. Từ nãy giờ, anh đã để ý trên ngọn cây anh đào trong vườn, một con chim nhỏ đang hót véo von. Loại chim này anh không nhớ đã thấy lần nào những tiếng của nó có âm hưởng rất khỏe như thể tiếng một ca sĩ độc tấu. Một trong những lá thư trên bàn được lồng trong phong thư kiểu tây phương màu trắng tinh, một chuyện lạ vào thời buổi ấy. Màu trắng kia cũng là màu của ban mai, nó lạnh lùng và chói lòa như một chòm mây buổi sáng, cắt thành một hình chữ nhật vào khoảng không gian của căn phòng. Kiyohara lơ đểnh đặt nó trong lòng bàn tay. Cùng một lúc, con chim kỳ dị kia bỗng chiêm chiếp hai tiếng làm cho anh có cảm tưởng như thể tiếng kêu đó phát ra từ lá thư nên vội thảy nó lên bàn. Rồi ngạc nhiên về cái ngớ ngẩn trẻ con của mình, anh lại cầm lấy bức thư. Con chim lạ cất tiếng hót trở lại.

Kiyohara phá lên cười. Anh không biết làm cách nào để cưỡng lại được cơn buồn cười đang từ đâu tới xâm chiếm mình. Anh cảm thấy như nhận được một ân huệ từ tiếng cười đó (dù nó chỉ là một tiếng cười thảm thiết khơi lại một vết thương đau nhói trong anh) và anh định bụng sẽ chấp nhận tất cả những lời yêu cầu trong bức thư này cho dù nó có gây cho anh điều gì bất lợi, anh sẽ thỏa mãn mọi đòi hỏi của nó dù kỳ cục đến đâu chăng nữa. Thế nhưng trong cái phong bì trắng ấy chỉ có một bức thư mời, viết tay, với nội dung như sau:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 183

Ngày 25 tháng 5

Kính gửi ông bà Kiyohara Yutaka

Chúng tôi tổ chức trở lại những buổi họp mặt khiêu vũ như hồi trước chiến tranh. Xin hẹn gặp hôm chủ nhật 2 tháng 6 từ một giờ trưa trở đi.

Chishima Yasutake

Vì vợ anh mất trong giai đoạn chiến tranh, đám tang chỉ tổ chức trong vòng thân quyến, gia đình Chishima đã lâu lại không lui tới cho nên họ không biết tin này. Khoảng thời gian trước sau năm 1940, nhà họ vẫn tổ chức một tháng hai lần những buổi họp mặt khiêu vũ thân mật và Kiyohara có thói quen đưa vợ mình tới dự.

Hôm đó cũng lại là một ngày thật đẹp trời, mùa xuân như còn luyến tiếc trước khi nhường chỗ cho những cơn mưa tsuyu [16]đầu hạ. Ngôi nhà kiểu tây phương của hầu tước Chishima tọa lạc trên một ngọn đồi, may mắn tránh được những trận mưa bom. Những khung cửa sổ kiểu xưa thường ngày vẫn ngủ im lìm dưới lớp bụi đằng sau mấy tấm cửa nặng nề , hôm nay khoe qua lớp kính lau chùi kỹ càng những bức màn màu vàng quí phái. Và trên lớp kính bóng loáng ấy, phản chiếu hình ảnh đôi chòm mây.

Khi Kiyohara một mình leo lên bậc thang, tiếng âm nhạc đang ngưng bắt đầu được chơi trở lại. Tiếng huyên náo của nhạc khiêu vũ âm vang trong ngôi nhà cổ làm rung cả những mảnh giấy dán tường ngã màu hoa úa. Cánh cửa ra vào trước phòng khiêu vũ để mở toang. Một tia sáng rọi vào căn phòng lổ hổng cánh cửa bên trên cầu thang, soi rõ một cặp nam nữ đang nhảy ngay gần cửa ra vào. Kiyohara nhận ra rõ ràng ánh sáng lấp lánh màu xanh biếc của một chiếc nhẫn ngọc bích trên ngón của bàn tay trắng nhợt nhạt lạ thường, đang đặt trên vai người đàn ông.

Ngồi thu hình trên chiếc ghế dài, Kiyohara tần ngần tự hỏi không biết khuôn mặt của những người đôi khi đang nhảy, nhận ra sự có mặt của anh và làm dấu chào, có phải bị tối sầm vì chói nắng hay không bởi dù

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 184

sao trời cũng đã về chiều. Anh không còn đủ sức lực dù để nâng cánh tay lên xem đồng hồ. Kiyohara đảo mắt chung quanh nhìn hết chỗ này qua chỗ nọ với một cái nhìn vội vã và căng thẳng, nửa như háo hức, nửa như lo lắng vì biết điều mình đang chờ đợi sắp sửa đến gần kề. Đôi mắt anh ta hoàn toàn không phải của một người xấp xỉ bốn mươi mà là đôi mắt của một gã thiếu niên hiền lành, thần kinh quá nhạy cảm, cho nên lúc sáng rỡ lúc lại sa sầm.

Rốt cuộc Kawaramachi cũng nhận ra Kiyohara và cúi đầu chào. Được chồng báo tin, Hanako quay lại, chào anh ta bằng mắt, và dưới đôi mày đen nhánh của những nàng thiếu nữ thuộc về thời đại Meiji xa xưa, ánh lên một nụ cười tươi sáng, không thua gì ánh nắng của cái ngày đẹp trời này.

Vừa khi điệu nhạc chấm dứt, hai vợ chồng Kawaramachi đưa nhau về phía chiếc ghế dài của Kiyohara và ngồi xuống cạnh anh. Hai người bạn đồng ngũ, gặp lại nhau lần đầu tiên từ ngày hết chiến tranh, nói chuyện như không biết chán. Hanako im lặng ngồi quan sát hai người đàn ông đang kéo dài câu chuyện không đúng lúc và không đúng chỗ. Nàng đưa đôi mắt lơ đãng nhìn quanh đám khách đang bắt đầu nhảy theo một bản nhạc mới. Thế rồi nàng đưa hai tay lên ép nhẹ vào mái tóc mình. Như thể cái làm cho nàng không vui là mép tóc bạc hai bên thái dương Kiyohara, dấu hiệu chớm già của người đàn ông.

Vì Kiyohara mời bà Kawaramachi ra sàn nhảy nên người chồng châm lửa vào ống điếu rồi đi ra ngoài bao lơn. Vừa nhảy, Kiyohara im lặng không nói gì. Hanako lên tiếng trước:

-Bà Miura Tamaki mất rồi hở ông?

Kiyohara đáp:

-Phải, bà ấy đã chết.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 185

-.............Về lá thư của ông, em thành thực xin lỗi. Em không thể nào viết trả lời ông được. Em nghĩ chắc ông đã nhầm người. Không phải vậy sao....?

Rồi như không nhịn được lâu hơn nữa, nàng phá lên cười. Có thể thái độ khó chịu của nàng lúc nãy là vì phải nén tiếng cười này. Vì nàng quay lưng lại để dấu khuôn mặt nên Kiyohara không thể biết nàng đang cười như thế nào nhưng tiếng cười ấy đã truyền từ thân thể nàng đến phía anh một sinh vật nóng ấm, run rẩy vì sợ sệt.

-Không phải sao? Cứ như lá thư ông viết thì bây giờ tuổi em cũng phải đến bốn mươi, năm mươi rồi đấy chứ? Như vậy có tội nghiệp cho em không?

-Con số của cô bây giờ là hai con hai phải không?

-Em hăm hai!

Hanako ngây thơ tiếp tục trả lời:

-Em nhớ trước khi bị bắt lính, ông có thói quen cứ hỏi tuổi của em hoài. Ông nói: :Em mười tám, tôi bốn mươi:...Rồi ông tính toán. Bốn mươi cộng với mười tám rồi chia đôi thì thành hai mươi chín...

-Thôi mình đừng nói chuyện tuổi tác nữa. Cô chắc không sao nhưng mỗi khi nghĩ đến chuyện tuổi tác của mình là tôi chán ngán lắm!

-Chính ra lá thư ông viết hay quá. Em đọc đi đọc lại ba lần đó. Thế nhưng ông lại đem tên của em mà gán cho nhân vật trong kỷ niệm thật đẹp của ông thì uổng quá. Chứ ông qua bên Milano gì gì đó chơi được bao lâu?

-Nếu ra ngoại quốc vì công việc buôn bán thì tôi chỉ mới qua Mỹ thôi. Có dịp đến Milano bao giờ đâu?

-Ôi chao, cái "chú" này dễ ghét! ....Cô gái thật đáng yêu, nàng đã buột miệng thốt ra cách xưng hô của nàng với Kiyohara hồi còn chưa lấy

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 186

chồng.... Sao mà giàu tưởng tượng vậy ông? Thế thì cô gái trong lá thư chỉ là nhân vật ông bịa ra hay sao? Nhưng tuyệt hay. Ông có thể viết tiểu thuyết được rồi đó.

Giọng nói ngây thơ, cách diễn đạt trẻ con như thế, ai bảo nàng đã hăm hai? Thân hình mảnh mai, mềm mại của nàng trông thật khả ái và nhẹ nhàng, tưởng chừng chỉ cần buông tay nắm là nàng sẽ bay mất. Đôi mày rậm, khá đen, không biết phục tùng. Dưới mắt Kiyohara, nàng mới có mười tám - những ai không biết chắc đoán nàng chỉ độ mười lăm, đúng vào cái tuổi bi kịch của nàng Chôchô, "cái tuổi còn thích hái hoa, đuổi bướm" - lúc anh gặp nàng lần đầu tiên hồi mới vừa góa vợ. Kiyohara yêu cái tuổi mười tám, mười chín này của Hanako. Anh đã yêu nàng không chút dè dặt, yêu mãnh liệt, với tất cả đam mê không ai sánh được nơi một người đàn ông bốn mười đầy kinh nghiệm. Như thể hồn ma của người vợ đã ám ảnh và hướng dẫn anh, có một sức mạnh hầu như siêu nhiên đã động viên được - để thực hiện mục đích của mối tình này - tất cả những gì anh có từ đức tính, thiện chí, khả năng chịu đựng sự đau khổ, niềm vui, nỗi buồn, cũng như tất cả tật xấu và cả lòng hư danh của anh nữa. Đám cưới đã bị hoãn lại vì câu trả lời thiếu cương quyết của cha Hanako rồi chiến tranh còn làm cho họ cách chia nhiều hơn thế nữa. Kiyohara phải đi đóng quân ở Đài Loan. Đến khi chiến tranh chấm dứt, sau một cuộc hành trình đường biển dài và cực khổ để tìm về tổ quốc, Kiyohara được tin Hanako đã lấy chồng. Đó là một kết luận tầm thường mà ai cũng có thể gặp phải. Kiyohara đã không chống trả nổi cái "tuổi già" đang hấp tấp trông ngóng ngày về của anh còn hơn cả Hanako nữa. Chính những dằn vặt đến trong lúc này cũng là niềm vui thỏa. Một sự hối tiếc thấm thía xâm chiếm lòng anh, người ngày xưa dù từng mong mỏi nhưng chưa hề một lần được nếm niềm vui của sự cô đơn. Tuy nhiên, có phải một người đàn ông tuổi đã về chiều, không còn chút khả năng yêu đương gì nữa, là người duy nhất biết hối tiếc? Và sự hối tiếc phải chăng cũng là một hình thức yêu đương?

-Âm nhạc thật tuyệt vời. Âm nhạc có sức mạnh lạ lùng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 187

Giọng nói của Hanako trầm lắng trở lại. Kiyohara lòng se sắt nhớ về kỷ niệm niệm khi ôm nàng trong vòng tay và thấy như cảm nhận được những ý tưởng trẻ con của nàng truyền qua anh.

-Hồi bà Miura Tamaki trình diễn lần cuối, em cũng có đi nghe với chồng em. Âm nhạc có thể khiến mình tạo ra được một ký ức mới không, ông? Thật thế, như những gì giữa ông với em, hai mươi năm về trước...

-Chuyện lá thư à, tôi có bằng chứng cả đấy chứ! Chẳng hạn như chiếc nhẫn của cô. Cô không thấy là chiếc nhẫn cô đang đeo trên tay giống in chiếc nhẫn tôi có nhắc đến trong thư sao?

Kiyohara đưa mắt trỏ vào chiếc nhẫn mặt hình bầu dục thật thanh nhã với viên ngọc bích màu xanh dương, cái màu của biển cả, trên bàn tay cô gái đang đặt trên vai mình.

-Ủa, cái nhẫn này hở, vật kỷ niệm mẹ để lại cho em đó. Từ xưa, lúc nào em chẳng đeo trên tay, chắc ông thừa biết! Vở ca kịch Madama Butterfly...cách đây hai mươi năm...Milano...ƯØ nhỉ, tất cả như đã thành ra chuyện thật không biết từ lúc nào! Em tin là thật. Nếu vậy thì đó là chuyện có thật cũng nên!

Hanako, như một con chim bất chợt cất cánh, bắt đầu nói như nói một mình bằng một giọng hứng phấn, say sưa, có chút gì thất thường và bi kịch, không đầu không đuôi.

-Trong thời gian chiến tranh, em sống ở vùng biển Ôiso [17], ông ạ! Suốt ngày em cứ mãi mê nhìn mặt biển. Nhìn nhiều quá đến phát mệt, trong người khó ở, muốn buồn nôn. Em chỉ biết nhìn chứ không biết làm gì khác. Em không chờ đợi như nàng Chôchô. Không, em không chờ đợi gì hết.

Chắc ông viết bức thư nói trên cho em để dọ hỏi về chuyện đó? Em hoàn toàn hiểu ý ông. Ông thấy tại sao em không trả lời bức thư của ông chứ? Có thực ông đã hiểu được chuyện đó hay không? Nhưng riêng em...thì

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 188

em....- Lúc ấy bản nhạc sắp chấm dứt - ....Em chờ đợi một điều còn hơn thế nữa!

Như đã chực phát biểu từ lâu, bá tước trẻ tuổi Kawaramachi kêu lên, khi đón Kiyohara và Hanako đang tiến gần về phía bao lơn, trong lúc bàn tay cầm ống điếu chỉ trỏ một cách thích thú về phía xa:

-Này ông Kiyohara, ở đây mình thấy được biển đấy. Xem kia kìa. Trước đây không làm sao thấy nó đâu. Buồn cười chưa, cảnh đẹp như thế này mà có được cũng là nhờ chiến tranh.

Đúng như vậy thực, nhìn về hướng ngón tay anh ta trỏ, không có gì làm chắn tầm mắt ngoại trừ ngôi biệt thự của dòng họ Chishima còn trụ lại sau cơn bom đạn và đám lá non vừa mới mọc lên xanh um tùm. Đằng sau những dấu tích màu hồng nhạt và xám tro của đống nhà cửa bị thiêu rụi bày ra dưới ánh sáng lấp lóa một ngày sơ hạ, là vùng biển tuy bẩn thỉu nhưng bình lặng trải dài màu tái nhợt bên kia các dãy nhà kho và cơ xưởng. Có bóng một chiếc tàu, hình như là loại tàu chở hàng, cắm neo ở đó.

-Đấy là một con tàu Mỹ phải không ạ? ... Anh chàng bá tước trẻ tuổi lên tiếng như muốn chứng tỏ cho mọi người mình có đôi mắt tốt.

Kiyohara trả lời:

-Đúng thật, tàu Mỹ đấy!

Thế rồi, Kiyohara lại chăm chú nhìn quang cảnh mặt biển buồn bã xám tro thêm một lần nữa như muốn ghi khắc nó vào tâm khảm mình. Trên tầng không, một dãi mây dài, màu sắc không rõ, đang vắt ngang trời. Nó giống dấu hiệu đầu tiên hứa hẹn sẽ đem đến những cụm mây dày đặc và tráng lệ như đỉnh núi, dấu tích của một mùa hè dữ dội. Hình như gió đang thổi hung bạo trên mặt biển. Có lẽ vì cớ ấy mà từ hình thể những đám mây, dường như thấy toát ra một nỗi sợ hãi, và tình cảm tiếc thương một ngày nắng đẹp như thế này hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết, so với tất cả những buổi chiều trong quá khứ.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 189

Chỉ được hơn tháng, vào một buổi sáng giữa mùa hạ, Kiyohara nghe tin cấp báo cái chết đột ngột của Kawaramachi Hanako (con người đang độ tràn trề sức sống và linh hoạt không ai bằng). Sau khi trầm ngâm suy nghĩ, Kiyohara mới thấm thía một điều là cái ham muốn giữ cho bằng được trong ký ức hình ảnh của mặt biển vắng ngắt kia chỉ là cách anh dối lòng khi đã có linh cảm về một chuyện bi đát mà mình không thể biết lý do.

(Dịch xong tại Tôkyô ngày 10 tháng 7 năm 2008)

[1] - Văn bản:

-Mishima Yukio, Chôchô, trong Megami (Nữ Thần), 1978, Shinchô Bunko, Tôkyô, xuất bản. Nguyên tác Nhật Ngữ.

-Nakamura, Ryôji và de Ceccatty, René, Papillon, dịch Chôchô của Mishima, trong Une matinée d�amour pur, 2005, Gallimard, Folio xuất bản, Paris. Bản tham chiếu.

[2] - Ca từ đại ý: Vào một ngày nắng đẹp. Bên kia chân trời, có vệt khói hiện ra. Có phải con thuyền của người ấy đã về? Chiếc thuyền với cánh buồm thật trắng. Tiếng súng chào mừng vọng lại từ xa. Có thấy chăng người ấy đã về?

[3] - Tức bà Cát Tường Thiên Nữ hay Sri-Mahadevi, nữ thần trong thần thoại Ấn Độ, vợ của Vishnu, dung nghi diễm lệ, đoan trang. Cũng được xem như một nữ thần trong Phật Giáo.

[4] - Ignacy Jan Paderwski (1860-1941), nguyên thủ tướng, nhà soạn nhạc và nhạc sĩ dương cầm người Ba Lan. Làm thủ tướng được 10 tháng thì từ chức từ để theo đuổi nghệ thuật.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 190

[5] - Enrico Caruso (1873-1921), ca sĩ giọng nam cao (tenor) người Ý trên sân khấu ôpêra.

[6] - Fyodor Ivanovich Chaliapin (1873-1938), ca sĩ giọng nam trầm (bass) người Nga trên sân khấu ôpêra.

[7] - Beniamino Gigli (1890-1957), ca sĩ giọng nam cao (tenor) người Ý trên sân khấu ôpêra.

[8] - Lối nói "thế hệ Meiji" để chỉ những người còn giữ đạo đức truyền thống, so với lớp người theo mới của thời Taishô đến sau.

[9] - Hoa văn vuông vắn hai màu xanh và trắng như ô bàn cờ. Tương truyền đó là hoa văn trên quần áo mà kép hát nổi tiếng là Sanokawa Ichimatsu (1722-1762) mặc trên sân khấu kabuki vào khoảng năm 1741.

[10] - Có thể tác giả muốn nói đến nhân vật trong một lớp tuồng.

[11] - Nguyên văn "o-mamagoto no toshi", cái tuổi thơ ngây còn nấu cơm với lò bếp, chén bát bằng đồ chơi.

[12] - Sandro Botticelli (1445-1510) Danh họa YÙ thời Phục Hưng sống ở Firenze, được gia đình Medicis bảo trợ. Nổi tiếng vì các bức tranh có chủ đề thần thoại.

[13] - Ban đầu dùng để chỉ riêng Thánh Mẫu Maria, sau chỉ chung những người đàn bà đẹp (nguyên văn tiếng YÙ).

[14] - Nữ thần tượng trưng cho tình yêu và nhan sắc của La Mã, tương đương với nữ thần ái tình Aphrodite của Hy Lạp. "Dáng dấp ngoại đạo" khi đem so sánh với thánh mẫu Maria.

[15] - Walter Horatio Pater (1839-94), nhà phê bình và viết tiểu luận người Anh, người có thẩm quyền về mỹ thuật sử thời Phục Hưng.

[16] - Tsuyu (mai vũ) mùa mưa dầm ở Nhật vào tháng 5 âm lịch.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 191

[17] - Thành phố biển và trung tâm du lịch nằm gần Yokohama, phía nam Tôkyô.   

__________________________________________________________________________

GÀO TRĂNG TRONG NÚINguyên tác : Sangetsuki 

Tác Giả: Nakajima Atsushi (1909-1943) Người dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 192

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

 Lời Người Dịch:

Nakajima Atsushi sinh năm 1909 ở Tokyo và qua đời năm 1943 cũng tại đây do suy tim, hậu quả của chứng suyển kinh niên. Vỏn vẹn trên ba mươi năm làm người, ông đã chứng kiến toàn chuyện bất hạnh trong đó có cảnh tổ quốc Nhật Bản nhảy vào chiến tranh Thái Bình Dương một năm trước khi ông tạ thế. Lúc nhỏ đau yếu mãi, rốt cục tốt nghiệp đại học, ông lao đao viø sinh kế. Sau khi dạy văn ở trường Nữ Trung Học Yokohama một thời gian, ông đành để vợ con ở Tokyo đi nhận chân thư ký ngoài đảo Saipan đổi gió chữa bệnh. Được ít lâu, ông lại từ chức trở về Tokyo, lao đầu viết và viết nhưng chẳng mấy lúc lên cơn suyển nặng rồi mất.

Văn chương ông phần lớn bắt nguồn từ cổ điển Trung Quốc, có lẽ vì xuất thân từ một gia điønh cựu nho. Thời trẻ, theo cha qua Triều Tiên, Mãn Châu, sau có dịp đó sinh sống và du lịch Trung Quốc, quần đảo Ogasawara, Saipan� nên hơi văn phảng phất hương vị trời xa xứ lạ. Ông thường lồng khung tác phẩm trong bối cảnh cổ xưa như thời Xuân Thu (với các nhân vật như Khổng Khâu, Tử Lộ, Vệ Trang Công, Thúc Tôn Báo). Hán (Lý Lăng, Tô Vũ, Tư Mã Thiên), Đường (Sa Ngộ Tịnh)... Ngoài Hàn Phi Tử, Vương Duy, Cao Thanh Khâu, Sử Ký, Tả Truyện�ông còn ham đọc các tác giả Âu Mỹ như Anatole France, Aldous Huxley, Robert Stevenson, O�Henry và

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 193

Goethe nên lối hành văn của ông chính ra chịu nhiều ảnh hưởng Tây Phương.

Từ những đề tài cũ, ông chỉ giử lại những chi tiết làm mình xúc cảm rồi dàn dựng tài tình một thế giới hư cấu huyền ảo và qua đó, bày tỏ quan điểm về con người và cuộc sống.

Gào Trăng Trong Núi (Sangetsuki, Sơn Nguyệt Ký) mượn tích Nhân Hổ Truyện, một thiên truyền kỳ đời Đường do Lý Cảnh Lượng soạn, trích từ tác phẩm Cựu Tiểu Thuyết Ngô Tăng Kỳ biên. Tuy nhiên, chắc chắn thể nghiệm thân xác bị suyển hành hạ của Nakajima Atsushi cũng góp phần không nhỏ vào việc xây dựng tác phẩm. Qua nó, chúng ta thấy bóng dáng Hoá Thân   (Metamorphose) (người biến thành sâu) của văn hào Tiệp gốc Do Thái Frank Kafka và những truyền thuyết về người hóa sói ở Âu Châu nhưng diễn ra trên một bình diện và mang một ý nghĩa khác.

Nguyên tác ra mắt độc giả năm 1941 trên tờ Bungakkai (Văn Học Giới) đã được nhà xuất bản Kadogawa in khổ bỏ túi từ 1968 và tái bản đến lần thứ 55 năm 2003.Văn ông thường được dùng làm tài liệu giáo khoa cho thanh thiếu niên Nhật.

Lý Trưng (1) người Lũng Tây (2) học rộng tài cao, cuối năm Thiên Bảo (3) , tuy hãy trẻ mà đã tên đề bảng hổ, được bổ ngay chức Úy ở Giang Nam.Tính tình ngang bướng, chẳng coi ai hơn mình, không chịu nổi phận hèn kém nên chỉ ít lâu đã treo ấn về vườn. Nằm khểnh ở núi cũ, đóng cửa tuyệt giao người đời, mê mải làm thơ quên hết ngày giờ. Lý nghĩ thay vì ôm chức lại quèn suốt ngày quì gối trước bọn thượng quan nhơ bẩn, chi bằng theo đuổi nghiệp thơ để trăm năm sau danh thơm vẫn lưu truyền hậu thế. Tuy nhiên, tên tuổi nào có thấy đâu mà cái nghèo cứ bám miết làm Lý không khỏi bực bội. Từ đấy, mặt mày tiều tụy, gầy guộc xác ve. Ngoài cặp mắt với cái nhìn sắc cạnh riểu cợt, chẳng còn tìm đâu ra dấu vết phong thái trẻ trung, đôi má tròn căng của ông tân tiến sĩ ngày đăng khoa. Chỉ được vài năm, không kham nỗi cảnh

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 194

túng quẫn, vì miếng cơm manh áo vợ con, đành khuất tiết, khăn gói về Đông nhận một chức quan nhỏ địa phương. Làm như thế một phần cũng vì đã tuyệt vọng về đường thi phú. Bè bạn đồng lứa ngày xưa ai nấy đều đã đường mây nhẹ cánh nhưng không nói cũng thừa biết, việc phải nhận mệnh lệnh từ lũ xưa kia Lý vẫn cho là lục tục tầm thường và không thèm để mắt tới là cực hình cho lòng tự ái của kẻ một thuở tài danh. Lý đâm ra tức tối nóng nảy, bắt đầu cảm thấy không kìm được triệu chứng cuồng khí đang bốc trong người. Cách đó một năm, khi có việc quan phải đi xa, đến chỗ trọ bên bờ sông Nhữ Thủy thì bệnh bỗng phát ra. Nửa đêm, mặt mày chợt biến dạng, Lý đứng trên giường gào hú những âm thanh lạ lùng không ai hiểu nổi rồi cứ nguyên như thế nhảy xổ xuống, chạy như ma đuổi vào trong đêm tối. Lý không bao giờ trở về nữa. Cho người kiếm khắp núi non rừng rú quanh vùng cũng chẳng đâu ra vết tích. Từ dạo ấy, không còn ai rõ hành tung.

Năm sau, có quan Giám Sát Ngự Sử người quận Trần tên gọi Viên Tham phụng mệnh xuống miền Lĩnh Nam, dọc đường ngủ đỗ đất Thương Ô. Sáng hôm sau, mới tờ mờ đất, quan đang sửa soạn lên đường thì kẻ lại coi nhà trạm cho biết đoạn đường sắp tới thường có hổ ra vồ người nên bộ hành phải đợi trời sáng rõ mới dám đi. Bây giờ hãy còn quá sớm, quan nên đợi thêm chốc nữa. Thế nhưng Viên Tham có lẽ cậy tùy tùng đông đảo, gạt phắt lời khuyên của dịch lại. Khi đoàn người đang nương theo bóng trăng tà đi ngang truông cỏ giửa rừng thì đúng như dự đoán, một con mãnh hổ chợt từ lùm cây phóng vọt ra. Hổ mới dợm chồm về phía Viên Tham thì thoắt cái đã quay ngoắt vào bụi rậm. Giữa lùm cây bỗng nghe có tiếng người thì thào lập đi lập lại " Suýt chút nữa xúc phạm đến cố nhân!". Giọng nói ấy Viên Tham có dịp nghe ở đâu rồi. Tuy đang kinh hãi nhưng trong đầu Viên Tham bỗng như có ánh chớp loé ra, sực nhớ mới kêu lên: "Tiếng nói kia có phải của bạn ta là chàng Lý Trưng không?" Viên Tham vốn đỗ Tiến Sĩ đồng khoa, là một người bạn thân trong số người hiếm hoi Lý xem là bạn. Có lẽ chỉ vì Viên tính khí ôn hoà, không xung khắc với cái kiêu căng ngạo mạn của Lý.

Bẵng một lúc, trong lùm cây không thấy ai đáp. Thế rồi nghe tiếng khóc thút thít nghẹn ngào vọng ra từng hồi. Một đỗi sau, mới có giọng trầm trầm trả

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 195

lời: " Vẫn còn gọi tôi là Lý Trưng đất Lũng Tây được đấy!".

Viên Tham quên cả sợ, xuống ngựa tiến lại gần lùm cây, bồi hồi kể lể nổi nhớ nhung lâu ngày vắng bạn. Lại hỏi tại sao không chịu ra khỏi lùm để gặp nhau. Lúc ấy mới nghe giọng Lý Trưng trả lời cho biết ngày nay mình đã mang hình quái vật gớm ghiếc thì đâu dám bước ra chào cố nhân mà không khỏi thẹn. Hơn nữa, có chường mặt chỉ làm bạn cũ sinh lòng khiếp sợ và ghét bỏ thôi. Tuy nhiên hôm nay không hẹn mà gặp cố nhân giữa đường thì lòng mình vô cùng cảm khái quên mất tị hiềm. Thế thì cho dù một khoảnh khắc, chỉ xin đừng ghê tởm cái vỏ ngoài xấu xí kinh khiếp mà cho gã Lý Trưng ngày xưa được trò chuyện đôi lời .

Về sau Viên Tham nghĩ lại mới thấy lạ lùng nhưng thực tình lúc đó quan đã đối phó với tình huống dị thường này hết sức tự nhiên, không hề kinh động. Quan bèn truyền lệnh cho đội ngũ tùy tùng dừng chân lại và một mình đứng trước bụi rậm trò chuyện với cái tiếng người kia. Họ hết trao đổi về những lời đồn đãi ở kinh đô, tin tức bạn bè cũ, địa vị của Viên bây giờ rồi đến lượt Lý Trưng chúc mừng Viên Tham. Sau bao câu chuyện ân cần với giọng thân mật như thuở còn trai trẻ, Viên Tham mới hỏi Lý Trưng vì cớ gì để thân phải đến nước nầy. Trong bụi cỏ, tiếng người mới thuật hết ngọn ngành:

Cách đây độ một năm, trên đường đi xa, ban đêm lúc tôi ngủ ở quán trọ bên bờ Nhữ Thủy thì chợt thức giấc và nghe như ngoài cửa có ai gọi tên mình. Tôi mới nghe theo bước ra ngoài thì tiếng kêu từ trong bóng tối đôi lúc cứ tiếp tục vẫy gọi. Bất giác, tôi đuổi theo tiếng gọi ấy và sau một hồi chạy bất kể trời đất như trong cơn mơ, tôi đến tận bìa rừng. Thế rồi không biết tự lúc nào, hai bàn tay tôi đã cào lấy mặt đất và nương theo đó phóng đi. Tôi cảm thấy trong người dào dạt một nguồn sinh lực sung mãn giúp tôi trèo vượt đá ghềnh thoăn thoắt. Nhìn lại mới thấy chỗ từ ngón đến khuỷu tay, hình như lông lá đã bắt đầu mọc. Lúc trời sáng thêm một chút, đến chỗ dòng sông dưới thung lũng nhìn hình thù in trên mặt nước thì thấy mình đã hóa hổ rồi. Lúc đầu còn tưởng vì hoa mắt, sau lại ngỡ đang ở trong giấc chiêm bao. Bởi tôi từng có kinh nghiệm lúc đang ở trong giấc mộng lại thấy mình nằm mộng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 196

nữa kia. Đến khi cần phải hiểu đây không là mộng mị gì cả, tôi mới đâm ra thẩn thờ. Rồi khiếp sợ. Một sự sợ hãi sâu xa vì biết rằng bất cứ chuyện quái lạ đến đâu cũng có thể xãy ra. Thế nhưng cớ gì tai nạn lại nhằm đầu tôi đổ xuống. Không hiểu được. Hoàn toàn không hiểu nổi. Chắc số trời bắt tôi sống cái kiếp nầy mà không cần cho biết lý do, chỉ nên lẳng lặng chấp nhận định mệnh đã an bài. Tôi đã định hủy mình. Có điều lúc tôi chực chết đi cho yên bỗng có con thỏ chạy qua trước mặt. Nhân tính liền biến đâu mất. Khi cái thằng người trong tôi bừng mắt dậy thì mồm tôi đã dây đầy máu thỏ, bên cạnh lông thỏ rơi rụng vương vãi rồi. Đấy là kinh nghiệm làm hổ đầu tiên trong đời tôi. Còn nói chi biết bao điều tôi tiếp tục làm kể từ ngày ấy.

Duy có một đôi giờ trong ngày, tình cảm con người trở lại trong tôi. Khi ấy, tôi vẫn còn sử dụng được tiếng người và có khả năng suy nghĩ những điều khá phức tạp như xưa. Hãy còn nhớ làu làu nội dung sách vở kinh sử. Lúc đó tôi có dịp đem cái lòng con người để đánh giá hậu quả những hành vi tàn ngược tôi đã làm trong lốt hổ, rồi lúc nhìn lại số phận mình, tôi thấy không có gì đáng thẹn, đáng sợ và đáng tức hơn. Tuy nhiên theo thời gian, những giây phút trở về với bản tính con người càng ngày càng ngắn lại.

Tôi hãy còn lấy làm quái lạ tìm hiểu sao mình lại hóa hổ nhưng mấy lúc gần đây, có khi bất đồ tự hỏi cớ gì trước kia mình là người cơ nhỉ. Đó mới là điều đáng sợ. Mai mốt, cái phần tình cảm con người chắc sẽ bị tập quán thú vật chôn biến đi chăng? Khác nào nền móng cung điện cổ xưa bị vùi trong đất cát. Cứ như thế, một ngày khi quên hết cái quá khứ làm người rồi thì chỉ còn là một con hổ hung hăng, gặp cố nhân ở giữa đường nhận không ra, có vồ ăn thịt cũng chả cảm thấy hối hận. Thế thì người lẫn thú, cả hai trước kia là loài gì thế? Trước đó hãy còn nhớ gốc gác sau dần dần quên bẵng đi và cứ ngỡ hình thù hiện tại mang trên thân xác mới là cái ta xưa nay? Nhưng thôi, chuyện đó ra sao cũng được! Để mặc tình cảm con người sót lại trong lòng biến mất đi có khi giúp miønh sống hạnh phúc hơn. Dầu vậy cái phần con người trong ta nó lại không sợ gì hơn là rơi vào cảnh đó. Ôi, buồn làm sao, lo làm sao mà cũng xót xa làm sao mỗi lần cứ nghĩ đến khi mình sẽ quên đi có lúc đã làm người. Tình cảm này ai thấu cho ta. Chắc ai mà biết

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 197

được ! Nếu có, phải là người sống cùng hoàn cảnh. À nầy, phải rồi! Trước khi tôi hoàn toàn hết còn là người, chỉ xin cố nhân giúp cho một chuyện.

Nãy giờ, cả Viên Tham lẫn đám tùy tùng đều nín thở, lắng tai nghe tiếng nói lạ lùng từ trong lùm cây vọng ra. Giọng ấy lại tiếp tục :

Không dám yêu cầu gì quá quắt. Lý tôi bình sinh làm thơ và những mong nhờ đó để chút danh lại trên đời. Nay sự nghiệp chưa thành mà số phận đã ra nông nỗi nầy. Xưa kia sáng tác được vài trăm bài vẫn chưa có dịp cho lưu hành ở đời. Bản thảo bây giờ cũng không nhớ để đâu. May là trong số đó vẫn còn thuộc lòng vài chục. Chỉ mong bác giúp ghi chép gìn giử hộ. Không phải muốn dựa vào đó để dương danh thi sĩ. Thơ tôi hay dở mặc lòng nhưng nó tượng trưng cho những gì một đời đeo đẵng đến nổi cửa nhà khánh tận, tính khí cuồng điên. Nếu không gửi gắm một chút lại đời sau thì chết đi khó lòng nhắm mắt.

Viên Tham bảo bộ hạ đem giấy bút rồi theo tiếng nói trong bụi mà ghi chép. Giọng Lý Trưng từ lùm cây vang ra sang sảng. Dài ngắn cả thảy trên ba mươi bài, văn thể cao nhã, ý nghĩa phiêu dật, chỉ đọc qua một lượt đã thấy bài nào cũng bộc lộ tài năng phi phàm của tác giả. Trong bụng không khỏi khen thầm nhưng Viên Tham mơ hồ cảm thấy tuy không có gì để nghi ngờ năng khiếu trời cho của Lý mà quái lạ, các tác phẩm coi như vượt hẳn người đời thế nầy xem ra hãy thiêu thiếu cái gì.

Sau khi đã để tuôn trào những vần thơ cũ, giọng của Lý Trưng đột nhiên đổi khác, như thể tự trào :

Đáng thẹn cho tôi, ngày nay đã mang cái lốt gớm ghiếc nầy rồi mà vẫn cứ muốn nhìn thi tập của mình bày trên án thư của khách phong lưu tài tử đất Trường An. Nằm dài trong hang đá mà còn mơ mộng chuyện đâu đâu. Cứ chế riễu tôi đi ! Thằng đàn ông đáng thương, nhà thơ thì không thành mà lại thành hổ (Viên Tham nghe và chợt nhớ cái tật thích tự trào của Lý Trưng ngày còn trẻ mà đau lòng cho bạn) . Được rồi, để bác có thêm dịp cười cợt, tôi xin ứng khẩu đọc mấy vần thơ nói lên cái tâm sự bây giờ của tôi. Nó là

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 198

bằng cớ cho thấy trong xác hổ nầy vẫn còn có chút Lý Trưng :

Ngẫu nhân cuồng tật thành thù loại, Tai hoạn tương nhưng bất khả đào. Kim nhật trảo nha thùy cảm địch, Đương thì danh tích cộng tương cao. Ngã vi dị vật bồng mao hạ, Quân dĩ thừa diêu khí thế hào. Thử tịch khê sơn đối minh nguyệt, Bất thành trường khiếu đãn thành hao.

(Nhỡ mắc bệnh cuồng mang xác lạ. Tai họa bao vây, trốn thế nào? Nanh vuốt ngày nay ai chẳng sợ, Nhớ xưa danh tiếng một thời cao. Tôi thân quái vật vùi truông cỏ, Bác ngựa xe quan thế mạnh sao! Đêm nay khe núi nhìn trăng sáng, Muốn rống thê lương, thoắt nghẹn ngào)

Lúc đó, trăng tàn, ánh sáng tỏa bàng bạc, móc trắng thấm ướt mặt đất, gió lạnh len qua hàng cây báo hiệu ngày sắp rạng. Mọi người hầu như đã quen với không khí quái dị, chỉ than thầm cho cái thái độ khinh bạc của nhà thơ. Lý Trưng lại tiếp lời :

Tôi vừa thưa không biết cớ gì mình ra nông nỗi nầy nhưng suy đi nghĩ lại thì sự thể xãy ra không phải hoàn toàn vô cớ. Khi tôi còn là người, tôi lại cố kiếm cách lánh đời. Họ bảo tôi ngạo mạn, tự cao tự đại. Nhưng ai nào biết cho thái độ đó chỉ bắt nguồn từ tính nhút nhát của tôi. Dĩ nhiên, ngày xưa trong xóm ngoài làng, được xem như kẻ tài năng xuất chúng, tôi làm gì không khỏi tự kiêu. Nhưng phải nói cái tự kiêu đó xuất phát từ tính nhát nhúa mà thôi. Một đằng tôi muốn mượn văn chương để lưu danh với đời, một đằng lại ngại tìm thầy, kết bạn hòng trao đổi dùi mài thêm. Nói cách

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 199

khác đi, cứ như là cao ngạo không muốn chung đụng với những kẻ lục tục thường tài. Nhưng điều đó cũng là do lòng tự tôn phát xuất từ nhát nhúa và e thẹn. Sợ làm hao phẩm chất châu ngọc của mình đi nên không gắng công khắc khổ rèn cập. Tin rằng mình đã có được phân nửa chất ngọc, không chịu xuống ngang hàng với hàng ngói vỡ gạch vụn. Rồi dần dần lìa bỏ cuộc đời, xa lánh loài người. Uất ức tủi hờn đã nuôi dưỡng cái lòng ngạo mạn và tính nhát nhúa ngày thêm to lớn.

Người ta ai cũng phải dạy cho thuần một con mãnh thú trong người. Bản sắc con thú như rập khuôn với tính tình của ta. Trong trường hợp tôi, con thú đó là lòng ngạo mạn do e thẹn sinh ra. Nó là tính hổ. Con hổ đó đã làm tôi đánh mất thân danh, làm khổ vợ con, làm tổn thương bè bạn. Tóm lại, bên ngoài thân xác biến dạng thế nào thì lòng tôi cũng biến chất theo thế ấy. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy chính mình đã làm uổng phí cả chút tài mọn mình có. Cái câu răn đời thường thấy ở cửa miệng người ta là " cuộc đời nếu không làm gì cả thì thấy nó dài nhưng có chuyện làm lại rất ngắn " thường được đem ra mà đùa nhưng sự thực, cái mối lo lắng hèn nhát ngại mình " phô cho người ta thấy cái tài hãy còn non nớt " để rồi đâm ra bê trễ không chịu khắt khe với bản thân mới là tất cả cái dở của tôi. Có biết bao nhiêu người tài nghệ thua sút tôi xa nhưng họ một lòng một dạ trau giồi nên đã đường đường thành những nhà thơ. Giờ mang xác hổ rồi, tôi mới thấm thía điều đó. Mỗi lần nghĩ đến, tôi cảm thấy tâm can dày vò vì hối hận. Nhưng tôi hết còn sinh hoạt như người thường nữa rồi. Giả dụ giờ đây trong đầu tôi có nghĩ ra một bài thơ hay. Liệu có cách nào truyền đạt cho người khác biết không?

Hơn nữa đầu óc tôi mỗi ngày càng giống hổ thêm. Biết sao đây, hở trời! Bao tháng ngày bỏ phí hỏi tìm đâu ? Lần hồi tôi không chịu nổi nữa. Mỗi lúc như thế, tôi trèo lên mỏm đá trên đỉnh núi đằng kia, hướng về thung lũng hoang vu mà gầm. Tôi muốn đem nỗi buồn đang đốt cháy ruột gan thổ lộ cho ai kia được biết. Tối hôm qua, tôi lại lên chổ ấy ngước nhìn vầng trăng gào thét. Để một ai đó hiểu dùm nỗi thống khổ trong tôi. Tuy nhiên, muông thú nghe tiếng tôi gầm thì sợ hết vía, chỉ biết nằm bẹp dí. Cả núi rừng sương móc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 200

chung quanh chắc chỉ xem đó là tiếng rống của con hổ trong cơn giận dữ cuồng điên. Chồm lên không, phục xuống đất mà gào đi nữa, chẳng có lấy một người thấu được lòng. Cái thuở làm người cũng thế, có ma nào hiểu cho con tim nhạy cảm, dễ bị tổn thương của tôi đâu! Cái bộ lông đẫm ướt nầy, đâu chỉ vì thấm mỗi sương khuya.

Dần dà, màn đêm bốn bề rồi cũng vén lên. giữa mấy hàng cây vọng từ đâu đến âm hưởng tù và báo hiệu bình minh rúc nghe buồn bã.

Phải từ biệt mà thôi. Giọng Lý Trưng cho biết cái giờ bước vào vòng mê muội ( giờ phải trở về kiếp hổ) sắp điểm rồi. Thế nhưng trước khi chia tay xin nhờ cậy thêm điều nữa. Đó là chuyện vợ con. Gia điønh tôi còn ngụ ở quê cũ đất Khách Lược, đến nay họ vẫn không rõ những gì đã xãy đến cho tôi. Khi cố nhân từ miền Nam trở về, có thể nào nhắn hộ với họ là tôi đã chết rồi không ? Chuyện xãy ra hôm nay xin kín tiếng cho. Nói ra thì quá trơ trẽn nhưng xin thương xót lũ cô nhi mà lo toan để mai sau chúng nó không phải chết đói chết rét vệ đường thì ơn ấy không gì sâu dày hơn.

Nói vừa dứt lời, trong bụi rậm lại vang ra tiếng khóc thãm thiết. Viên Tham cũng mắt lệ lưng tròng xin nhận lời bạn phú thác. Nhưng giọng của Lý Trưng thoắt trở lại cái khẩu điệu tự trào khi nãy :

Đáng lẽ ra phải nói chuyện nhờ vả nầy trước tiên nhưng thuở làm người tôi chỉ nghĩ đến cái thi nghiệp chẳng ra gì của tôi thôi chứ có lo vợ con phải đói lạnh đâu. Viø chừng đó mà bị đọa xuống hàng cầm thú cũng nên !

Ngoài ra Lý còn nhắn thêm với Viên Tham khi từ phương Nam trở về xin chớ mượn con đường nầy nữa. Bởi vì lúc đó mình đã mê muội, không nhìn ra người cũ mà nhảy ra vồ cũng nên. Rồi sau khi giã biệt, đi đến chỗ gò cao cách đó chừng một trăm bước, nhớ quay mặt nhìn lại một lần cho. Để biết rõ hình dạng của tôi bây giờ. Không phải muốn khoe tư thế hùng dũng mà chỉ cho bác thấy hình thù xấu xa gớm ghiếc để mai sau qua chốn nầy, bạn dù có thương cũng ghê tởm không muốn tìm gặp nữa.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 201

Họ Viên hướng về bụi rậm nói mấy câu thân ái để từ biệt rồi lên yên. Bên trong bụi lại văng vẳng tiếng khóc thê thiết không gì cầm lại được. Viên Tham bao lần ngoái về hướng bụi rậm rồi ra roi đi trong nước mắt.

Như lời Lý dặn, đoàn người ngựa lên tới gò cao mới quay lại, đảo mắt nhìn cái truông giữa rừng cây ban nãy. Tức thì một con hổ từ trong cỏ rậm phóng ra, leo lên đường cái và nhòm về hướng họ. Hổ ngẫng đầu lên nhìn vầng trăng giờ đây đã nhạt nhòa, gầm lên độ hai ba lần, xong quay mình lao vào bụi rậm rồi không thấy hình dáng đâu nữa.

Dịch xong ngày 20/10/2003Nguyễn Nam Trân

 Chú thích

(1) - Trong truyền kỳ của Lý Cảnh Lượng, Lý Trưng vốn dòng dõi hoàng tộc. (2) - Thuộc tính Cam Túc bây giờ. (3)- Niên hiệu thời Đường Huyền Tông (742-756)

 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 202

NGƯỜI CẮT LAUAshikari

Tác giả: Tanizaki Jun. ichirô (1886-1965) Dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 203

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Lời Người Dịch:

Theo niên biểu đời sáng tác của Tanizaki Jun. ichirô, tác phẩm Người Cắt Lau (Ashikari) được đăng trên tạp chí Kaizô vào tháng 11 năm Shôwa thứ 7 (1932) lúc nhà văn 46 tuổi. Ta biết lúc này Tanizaki đã thành danh. Những tác phẩm ra đời trước thời điểm đó đều được đánh giá như có tầm vóc lớn.

Từ năm 1923, sau trận động đất lớn ở Tôkyô và miền Đông, Tanizaki về sống ở miền Tây nên phần sau của văn nghiệp ông có nhiều tác phẩm liên quan đến vùng Kyôto - Ôsaka,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 204

trong đó phải kể đến Tuyết mịn (Sasameyuki, 1942-1947), Góp nhặt truyện cô Cầm (Shunkinshô, 1933) và dĩ nhiên, Người cắt lau (Ashikari, 1932).

Trong một buổi mạn đàm văn học khoảng thời gian nhà xuất bản Chuô Kôron cho ra đời tuyển tập của Tanizaki, Mishima Yukio đã đồng ý với ý kiến của Donald Keene khi nhà nghiên cứu và dịch giả người Mỹ lập luận rằng trong Người Cắt Lau không phải chỉ có một truyện mà là hai truyện lồng làm một khi Tanizaki với chủ đích viếng thăm đền Minase nơi thờ thái thượng hoàng Gotoba (1180-1239), đã tình cờ biết được sự tích của người con gái hiện đại đẹp như một nữ thần tên là O-Yuu. Theo Keene, lối hành văn trong truyện này cũng giống cách Prosper Mérimée (1803-1870) viết Carmen. Nhân đi tìm những phế tích La Mã còn sót lại ở Tây Ban Nha mà nhà văn và nhà khảo cổ Pháp mới nghe nói đến bi kịch ái tình giữa Don Jose và Carmen. Có điều tuy cũng uyên bác như Mérimée nhưng thủ pháp của Tanizaki tinh xảo hơn. Trước khung cảnh hoang vu của ly cung Minase, với một giọng văn hoa lệ pha đôi chút khinh bạc, ông đã sử dụng điển cố thi văn Trung Quốc và Nhật Bản để làm sống lại được cái thế giới phong lưu của một thời đã qua.

Nhân vật người cắt lau không phải là vai chính. Ông ta chỉ dòm trộm quá khứ qua lỗ khoá và khoác lác với đời sau. Nhưng tại sao ông ta lại đội lốt người cắt lau ? Phải chăng ông là hậu thân của người đàn ông lưu lạc trong truyện dân gian, cắt lau bán độ nhật, sau được đoàn tụ với vợ mình trong tác phẩm cổ điển Yamato Monogatari (do tác giả vô danh thu góp, ra đời khoảng thế kỷ thứ 10) ? Hay là một hình tượng dân dã cùng một loại với ông tiều, nhà sư tu trên núi, người múc nước triều làm muối ... thấy trong waka giúp

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 205

cho bài thơ có một bối cảnh nhiều phong vị ? Hoặc chỉ là hồn ma trong tuồng Nô kể cho thầy tăng vân du sự tích trong vùng thầy ta đang đi qua? Người cắt lau đó cũng có thể là Tanizaki-lữ-khách, tưởng gặp một hồn ma nhưng rốt cuộc gặp chính bóng của mình.

O-Yuu (cô Du) trong phần thứ hai của câu truyện, một người có nhan sắc lộng lẫy kiêu kỳ mà nhân vật nam không với tới được, nhân vật nữ cũng phải tôn thờ, có phải là hình bóng nối tiếp trong chiều sâu lịch sử những cô gái làng chơi (du nữ) được thần thánh hóa như bồ tát trong phần đầu hay không ? Hoặc nàng là hóa thân của Kaguya-hime, cô tiên trên cung trăng bị đọa xuống trần làm con lão tiều đốn trúc trong cổ tích Taketori Monogatari (1)  của Nhật Bản? Đó cũng là một câu hỏi thú vị vì nó liên quan đến khuynh hướng sùng bái nhan sắc phụ nữ thấy qua văn chương Tanizaki.

Nguyên tác Ashikari rút từ Tuyển tập Văn Học Nhật Bản (Nihon no Bungaku), quyển thứ ba trong ba quyển dành cho Tanizaki Jun. ichirô (các quyển 23,24 và 25) mà nhà Chuuô Kôron phát hành năm 1967. Người dịch đã tham khảo Le Coupeur de Roseaux, bản dịch Ashikari sang Pháp văn của Daniel Struve, Gallimard, 1997 để học hỏi lối dịch. Văn Tanizaki trong truyện nầy cũng như bao truyện khác, lê thê, lập đi lập lại, lè nhè một cách cố tình, không câu nệ lối chấm câu ngắt đoạn và lược hết chữ Hán nên rất khó hiểu (nhưng phải chăng đó cũng là cái duyên dáng của thuật kể truyện như " ông già bà cả " theo phong cách Tanizaki ?).

***

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 206

Nghĩ thầm em đã vắng Để mình tôi cắt lau Trên bãi Naniwa Làm sao vơi cay đắng

Đó là chuyện xảy ra vào tháng chín một năm hồi tôi còn sống ở vùng Okamoto (2). Thấy trời quá đẹp, khoảng chiều chiều, nói là chiều chứ lúc ấy vừa mới hơn ba giờ thôi, tôi bất đồ thèm đi dạo mát một vòng

trong vùng. Đi xa đã không đủ thời giờ mà đi gần lại toàn những chỗ tôi viếng hết rồi. Sau khi đắn đo suy nghĩ không biết có chỗ nào thả bộ được hai ba tiếng đồng hồ, lại phải là một nơi thiên hạ quên lãng mà cả tôi lẫn người khác nếu không chịu nghĩ một chút sẽ tìm không ra thì mới được, tôi chợt nhớ ít lâu nay mình đã nuôi ý định viếng đền Minase mà chưa bao giờ có dịp. Đền Minase được cất lại trên nền cũ ly cung của thái thượng hoàng Gotoba (3) nơi được nhắc tới trong chương "Vùi trong cỏ gai" của bộ sử truyện Masu-kagami (4) như thế này:

"Thái thượng hoàng thường ngự ở các cung Toba hay Shirakawa ngài đã cho sửa chữa nhưng còn xây thêm một ly cung còn trang nhã hơn ở một nơi tên gọi Minase (5) mà xa giá đến thường xuyên. Người đời ai cũng biết rằng ngài đến đây để di dưỡng tính tình, ngắm hoa đào mùa xuân, lá hồng mùa thu, tiêu dao ngày tháng. Đặc biệt từ ngự sở có thể ngắm cảnh dòng sông đang chảy ngoài xa. Một ngày trong năm Genkyuu (1204-1206), nhân họp mặt bình thơ, thái thượng hoàng đã gieo những vần như sau: Minase nước đôi bờ, Dâng sương chân núi xa mờ âm u. Cớ sao sông chuộng chiều thu? Những hành lang, lối đi, điện đài đều có mái lợp tranh, chỗ nào trông cũng hết sức đẹp đẽ. Trước mặt cung có bày lớp đá xếp thành hình thác nước đang đổ từ núi xuống, còn trong sân, những nhánh tùng lùn chen

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 207

cành cùng với đám cây rừng phủ dày rêu xanh, quả thật là phong cảnh u tịch của nơi có thể dung thân nghìn đời. Trong thời gian ngài hạ lệnh tạo dựng khu vườn, thái thượng hoàng có vời một số người đến chung vui. Vào cuối buổi, quan tham nghị bậc trung là Teika (6), lúc ấy địa vị hãy thấp kém, dâng bài thơ sau này: Trải nghìn năm vẫn không già, Tùng con báo trước triều ta lâu bền. Sóng nước len đá trong vườn, Nhiều như năm tháng quân vương trị vì. Như thế, thái thượng hoàng ngự ở cung Minase giữa tiếng tơ tiếng trúc, xem cảnh vật thay đổi theo hoa nở lá hồng. Ngài tận hưởng cuộc nhàn du và chỉ sống theo lòng mình muốn".

Trên đây là sự tích mà sách sử ghi chép về dấu vết cung điện của thái thượng hoàng Gotoba. Ngày xưa, khi tôi vừa biết đọc Masu-kagamithì câu chuyện về cung Minase luôn luôn ám ảnh tâm trí. Từ xa ngắm dòng sông Minase dâng sương trùm chân núi và hỏi dòng sông sao lại chuộng buổi chiều thu! Tôi thích cái tâm tình thái thượng hoàng đã thổ lộ qua thơ.

Thơ ngài làm, biết bao nhiêu bài tôi vẫn khắc ghi trong tâm khảm, ví dụ khi ngài vịnh về bến Akashi có câu "Thuyền câu chèo vào sươngmù" hay trong thời gian ngài bị đày ngoài đảo Oki "Ta bỗng thành ra người gác đảo". Tuy nhiên, riêng lúc đọc bài thơ này, tôi thấy phong cảnh vừa bùi ngùi vừa ấm áp của một dài sông phía thượng nguồn Minase trở về trước mắt như một vật xa cách lâu ngày. Thuở ấy tôi chưa rành địa lý vùng Kansai nên chỉ phỏng đoán cung Minase tọa lạc ở một chỗ nào đó gần Kyoto. Thật tình lúc đó tôi cũng chẳng để tâm xem thực sự nó ở đâu nữa. Gần đây thôi, mới nghe nói nó nằm bên bờ sông Yodo, cách nhà ga Yamazaki có vài trăm mét, không xa chỗ giáp ranh giữa hai xứ Settsu và Yamashiro, và ngày nay, trên dấu vết cung xưa, người ta đã xây thêm ngôi đền thần đạo để cúng tế thái thượng hoàng Gotoba. Như thế, một cuộc viếng thăm đền Minase là chương trình vừa vặn cho cuộc dạo mát cuối ngày như thế nầy. Đoạn đường đến Yamazaki, ngay đi xe lửa cũng không mất bao nhiêu thời giờ nhưng tốt hơn nên đáp xe điện

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 208

Hankyu rồi đổi qua đường mới Shin-Keihan. Thế rồi, nhân hôm ấy đúng rằm tháng tám, trên đường về tôi nghĩ thế nào mình cũng phải ghé ngắm trăng bên bờ dòng Yodo. Ý đã quyết và bởi vì nơi đó không phải là chỗ đem theo đàn bà còn nít, tôi bèn lên đường mà không báo ai hay.

Yamazaki thuộc quận Otokuni trong xứ Yamashiro, nền cố cung Minase lại thuộc quận Mishima xứ Settsu. Nếu đi từ Osaka, tốt hơn nên lấy đường mới Shin-Keihan xuống ga Ô-Yamazaki, rồi đi ngược lại và vượt qua lằn ranh hai vùng trước khi đến được cố cung. Tôi chỉ biết về Yamazaki nhờ có một dịp nào đó đã ghé khu chung quanh nhà ga xe lửa liên tỉnh và hôm nay mới là lần đầu tiên tôi thử đi dạo dọc theo đường quốc lộ về phía tây. Đi được một đỗi, con đường chẻ làm hai nhánh. Lối bên tay mặt có một tấm cột đá chỉ đường nom đã xưa cũ . Đó là con đường đi từ sông Akuta đến Itami băng qua Ikeda. Nếu ta còn nhớ sự tích ghi chép lại trong tập ký sự chiến tranh Shinchôki (7), vùng này và ven tuyến đường nối Itami, Akutagawa và Yamazaki chính là nơi các danh tướng thời Chiến Quốc như Araki Murashige và Ikeda Shô. nyuusai đã để lại những chiến công hiển hách. Có lẽ ngày xưa nó là tuyến đường chính cũng nên. Con đường nương theo dòng sông Yodo này có thể tiện lợi cho những người dùng thuyền nhưng vì nó xuyên qua nhiều vàm sông hoặc đầm lầy lau sậy mọc tràn, có thể gây bất tiện cho khách bộ hành. Nhân đó tôi cũng biết thêm một số chuyện như bến đò Eguchi (8) ngày xưa, nay nằm ngay chỗ bên cạnh đường xe lửa vừa đưa tôi đến đây. Bây giờ, Eguchi đã ở trong khuôn vi của Ôsaka mở rộng; còn Yamazaki thì kể từ năm ngoái, khi diện tích Kyôto nới ra, nó đã được sáp nhập vào thành phố nầy. Tuy nhiên vì khí hậu và phong thổ của hai vùng Kyôto và Ôsaka không được đồng nhất như vùng Hanshin (Ôsaka và Kobe), và có lẽ những khu biệt thự cây xanh và khu gia cư hiện đại khó lòng lan rộng mãi nên Yamazaki may ra giữ được khung cảnh đồng quê thêm ít lâu nữa. Đọc truyện Chuujingura(9) còn thấy thời ấy tả cảnh lợn rừng và cướp núi vẫn lảng vảng gần đường cái làm người ta có thể nghĩ rằng ngày xưa nơi đó còn rùng rợn hơn nhiều. Ngay bây giờ, đối với hành khách sử dụng đường xe điện Hankyuu vốn đã quen mắt với phố phường thôn xóm hiện đại, hình ảnh những ngôi nhà mái rạ xếp thành hàng hai bên đường là khung cảnh thuộc về một đời nào đâu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 209

Theo sách Ô-kagami(10) ghi lại, cũng ở nơi này, ngài Kitano Tenjin tức đại thần Sugawara no Michizane trên bước đường lưu đày, đã qui y cửa Phật và viết bài thơ bất hủ: "Ngọn cây nhà em ở đâu?. Bước đi mỗi bước ngoái đầu ta trông". Theo cuốn sử truyện, Michizane buồn phiền cay đắng vì người ta kết cho ông cái tội mà ông không hề phạm, nên trở thành tăng ở Yamazaki. Nếu thế thì trên mảnh đất này xửa xưa đã có đường giao thông dịch trạm và nơi đây phải chăng là một trạm xá cái hồi kinh đô Heian vừa mới xây xong. Tôi vừa suy nghĩ như thế vừa quan sát từng căn nhà một mà những mái hiên tối âm thầm như còn phảng phất không khí của những thời đại đã đi qua.

Muốn đi đến nền cũ cố cung, phải băng qua một cây cầu bắc ngang dòng sông có lẽ là con sông Minase, xong lội bộ thêm chút nữa ra đến đường lớn rồi quẹo trái. Ngày nay ở đó nhà nước đã bỏ tiền xây một đền thần bậc trung để tế lễ các thiên hoàng Gotoba, Tsuchimikado và Juntoku, ba vị nầy đã chịu chung vận mệnh hẩm hiu (11) sau cuộc loạn năm Jokyuu (1221). Đối với một vùng như ở đây vốn có nhiều đền thần và chùa chiền nguy nga đẹp đẽ thì cái đền bậc trung kia lẫn cảnh vườn của nó không có gì đáng kể. Chỉ vì nhớ lời thuật lại trong sách Masu-kagami vừa mới nói tới mà lòng tôi bồi hồi khi tưởng như nhìn được qua từng phiến đá cành cây cảnh tượng những cuộc yến ẩm vui chơi theo bốn mùa của giới quyền quí Kamakura thuở đó. Sau khi ngồi xuống vệ đường để hút một điếu thuốc, tôi bắt đầu lững thững đi qua đi lại trong khu vườn không mấy rộng của ngôi đền. Mảnh vườn chỉ cách con đường một khoảng ngắn và nấp đằng sau mấy túp nhà dân thưa thớt có những hàng dậu điểm đủ loại hoa mùa thu bao bọc. Nó thụt vào giống như cái túi con, yên tĩnh và khuất mắt người qua lại. Thế nhưng xưa kia cung điện của thái thượng hoàng Gotoba hẳn không chỉ giới hạn trong mảnh đất chật hẹp nầy mà phải trải ra đến tận bờ sông Minase đằng kia, nơi tôi vừa băng qua. Có lẽ khi nhìn mặt sông từ trên lầu cao xây bên bờ nước hay lúc đi dạo thẩn thơ trong khu vườn, thái thượng hoàng đã tìm ra nguồn thi hứng mà ngài đã đưa vào trong câu: "Dâng sương chân núi xa mờ âm u". Masu-kagami cũng ghi lại: "Một ngày mùa hè, thái thượng hoàng ngự ở đình câu cá trong điện Minase. Lúc ấy ngài giải khát bằng nước mát và hạ lệnh đem một loại như cơm ướp lạnh ban cho bọn công

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 210

khanh trẻ tuổi đi theo. Sau đó, khi uống rượu, ngài mới phán: "Ôi chao, cái bà Murasaki Shikibu (12) xưa kia, đáng nể thật. Còn gì thú vị hơn khi biết được rằng trong Truyện Genji, bà ghi lại là bữa cơm của ông hoàng Genji có món cá hương ayu đánh được từ con sông bên cạnh hay những con cá trê loại ishibushi từ Nishiyama đem đến tiến. Phải chi ngày nay ta có thể thưởng thức những món ấy". Lúc ấy có một kẻ tên gọi Hata trong bọn tùy tùng đang đứng dưới bao lơn, không xa ngài bao nhiêu, nghe những lời đó mới hái mấy lá tre mọc bên bờ đầm, đặt lên đó ít cơm trắng đã dầm trong nước sông dâng lên ngài. Thái thượng hoàng bảo : " Trong Truyện Genji có chỗ chép "Như hạt mưa đá trên tấm lá tre. Vội tan biến khi tay ta chạm đến". Làm như ngươi cũng là một cung cách vượt người thường " Rồi ngài cởi ngự bào trao cho kẻ tùy tùng ấy và uống thêm mấy chung rượu nữa ".

Khi nhớ đến đoạn văn nầy, người ta tưởng tượng là ngày trước, cái đầm có đình câu cá có thể ăn thông với dòng sông bằng lối nào đó. Hơn thế, dòng sông Yodo phải chăng chảy đằng sau điện thờ và về hướng Nam, ở chỗ chỉ cách xa chốn nầy khoảng vài trăm mét. Từ nơi tôi đứng bây giờ, không thể nào nhìn thấy dòng nước. Bên kia bờ, ngôi đền Hachiman và ngọn Otokoyama tròn trịa thấy như treo ngang tầm mắt và tưởng chừng muốn đổ trùm lên người nhưng tôi cảm thấy không có dòng sông lớn nào chắn ngang giữa nó và mình. Tôi ngẩng đầu lên nhìn kè đá Iwashimizu của ngọn núi nầy xong quay qua đỉnh ngọn Tenno, mọc đối diện với nó phía bờ bên nầy, ở phía bắc điện thờ. Khi đang đi trên đường cái, tôi không để ý gì cả nhưng từ khi đặt chân đến đây và nhìn khắp bốn phương, tôi mới thấy mình đang đứng dưới đáy một thung lũng hình lòng chảo, hai phía nam bắc có núi chắn bầu trời như những bức bình phong. Nhìn thấy hình sông thế núi, ta hiểu được ngay vì sao tự thời Heian, vương triều đã lập một cửa quan trên đất Yamazaki và vùng nầy trở thành một cứ điểm chiến lược cho những thế lực muốn tấn công kinh đô từ ngõ phía tây. Nơi này, đồng bằng Yamashiro mà trung tâm điểm của nó là Kyoto ở phía đông, và đồng bằng Setsukasen (13) ở phía tây chung quanh Ôsaka, như bị thu lại cực hẹp và dòng sông Yodo chảy lọt chính giữa. Hai thành phố Kyôto và Ôsaka tuy được nối với nhau bằng dòng sông này nhưng điều đó không ngăn việc khí hậu và phong thổ của

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 211

hai vùng có một biên giới rõ ràng phân biệt. Dân Osaka hay bảo khi trời mưa ở Kyoto thì bên tây Yamazaki lại nắng; mùa đông khi xe lửa vừa qua khỏi Yamazaki thì khí hậu bỗng trở lạnh đột ngột. Do đó, cứ nhìn cảnh các lùm tre bao bọc lấy thôn làng, nhìn cách xây cất những ngôi nhà dân dã, vẻ thanh u của cây cỏ, màu đất cát, người ta thấy nó không khác chút nào cảnh chung quanh vùng Saga và có cảm tưởng miền quê Kyoto như kéo dài lên mãi tận đây.

Đi ra khỏi khu đền, tôi men theo con đường nhỏ phía sau quan lộ và trở lại bên bờ sông Minase rồi quẹo ngoặt lên đê. Có lẽ hình dáng những ngọn núi phía thượng nguồn và cả dòng nước chắc đã chịu nhiều biến đổi trong khoảng thời gian bảy trăm năm qua nhưng cái phong cảnh như được âm thầm vẽ ra lòng tôi mỗi khi tôi ngâm nga những bài thơ của thái thượng hoàng thì không khác những gì đang trải rộng dưới mắt tôi bây giờ. Tôi vẫn thường nghĩ phong cảnh ở nơi đây phải có dáng dấp gần giống như thế này thôi. Không phải là sơn thủy hùng vĩ kỳ tuyệt với những vách núi cao vòi vọi, những thác nước bào mòn bờ đá và đổ xuống ào ạt nhưng chỉ có những ngọn đồi thoai thoải với dòng nước lặng lờ. Nhờ những đợt sương chiều bao quanh, phong cảnh ở đây thêm êm ả và thanh bình giống như một bức tranh Yamato-e (14). Thật ra, cách thưởng thức cảnh vật thiên nhiên nơi mỗi người mỗi khác và có thể có người nghĩ nơi đây không có gì đáng xem cả. Tuy nhiên đối với tôi, những ngọn núi tầm thường và dòng nước cũng tầm thường, không có gì là vĩ đại hoặc đem đến sự bất ngờ như sông núi nơi đây, lại có thể mời mọc tôi vào trong giấc mộng ngọt ngào và khiến tôi quyến luyến không nỡ rời chúng. Nếu phong cảnh chốn nầy không làm đã mắt hay đoạt hồn người ta, bù lại nó biết đón nhận du khách bằng cái mỉm cười dễ thương tươi tắn. Với những ai chỉ nhìn thoáng qua, nó không thổ lộ gì nhưng đối với những kẻ nán lại lâu hơn một chút, họ sẽ thấy mình được bao bọc bằng một tình cảm dịu dàng như trong vòng tay ấm áp của người mẹ hiền. Đặc biệt trong cái cô đơn lúc chiều về, ta muốn được cuốn hút vào trong lớp sương nhạt đang chơi vơi trên mặt nước và đưa tay ra vẫy gọi ta từ xa. Dầu vậy, thái thượng hoàng Gotoba đã đặt câu hỏi: "Cớ sao sông chuộng chiều thu ? " Bởi vì, như trong câu thơ gợi ý, nếu phong cảnh con sông này được đặt vào giữa buổi chiều xuân, nếu có làn sương

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 212

hồng đang giăng mắc ngang chân núi êm ả, điểm thêm mấy chòm hoa anh đào nở rải rác hai bên bờ sông, giữa những đỉnh núi và thung lũng nữa thì sẽ ấm cúng dường nào. Ta có thể nghĩ là phong cảnh như thế đã từng bày ra trước mắt của ngài. Thế nhưng phải là một người tâm đắc với nghệ thuật như thái thượng hoàng thì mới biết thưởng thức cái đẹp sâu sắc nấp dưới cái vỏ bình dị của phong cảnh chốn nầy. Cái đẹp ấy nếu là người không có tấm lòng hoài cảm sự ưu nhã của vương triều (15) xưa thì có lẽ chỉ coi là tầm thường thôi. Mình tôi vẫn đứng lặng trên đê khi chiều dần dần buông xuống, đưa mắt về phía thượng nguồn. Nhìn qua bờ sông bên phải để tìm dấu tích ngôi đình câu cá nơi ngày xưa thái thượng hoàng đã dùng món cơm dầm nước sông với đám tùy tùng và các công khanh, tôi chỉ thấy vùng đó nay đã thành rừng cây cối um tùm chạy mãi tận đến đằng sau phía điện thờ. Điều này chứng tỏ rằng cánh rừng rộng kia có lẽ tương ứng với diện tích của nền cũ ly cung ngày trước. Không những thế, từ chỗ này có thể nhìn thấy lòng sông Yodo rộng ra, biết đó là địa điểm mà khúc cuối dòng Minase hòa nhập vào. Giờ thì tôi đã hiểu rõ ra vị trí tuyệt diệu của ly cung : phía nam có sông Yodo, phía đông có dòng Minase và nhờ nước ở chỗ mũi đất nơi hai con sông hợp lưu có thể kiến tạo một khu vườn hoành tráng rộng cả mấy vạntsubo (16). Nếu đúng như thế thì xuống thuyền đi từ Fushimi, thái thượng hoàng có thể cập bến dưới mái hiên đình câu cá và gặp ngay được quần thần. Việc ngài đi lại được dễ dàng giữa kinh đô và ly cung phù hợp với những gì ghi lại trong Masu-kagami " Thái thượng hoàng ngự giá thường xuyên tới cung Minase ". Tôi không khỏi nhớ đến những biệt thự của các tay phú hào soi bóng trên dòng nước mà thời trẻ tôi đã thấy xây san sát ở Hashiba, Imado, Komatsujima, Kototoi , đối mặt nhau dọc theo hai bờ sông Sumida (ở Tokyo) . Có lẽ sự so sánh của tôi không được cân xứng nhưng tôi hình dung thái thượng hoàng đã đến ly cung này để tổ chức những cuộc yến ẩm và đôi lúc thốt lên: " Chao ôi, cái bà Murasaki Shikibu xưa kia, đáng nể thật ! Có điều làm sao bây giờ thưởng thức được những món ấy nữa " " hay khen ngợi một kẻ tùy tùng : " Trong Truyện Genji có chỗ chép:  Như hạt mưa đá trên tấm lá tre. Vội tan biến khi tay ta chạm đến. Làm như ngươi cũng là một cung cách vượt người thường " thì quang cảnh ấy phải chăng đã có vài điểm tương đồng với cái lề thói phong lưu của người dân sành chơi đất Edo

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 213

bây giờ ? Tuy nhiên, cảnh sắc con sông Yodo, mỗi sáng mỗi chiều in bóng cái đỉnh màu xanh thẫm của ngọn Otokoyama, và trên dòng thuyền bè như mắc cửi nối liền sự giao thông với kinh đô, đã đem đến cho thái thượng hoàng một niềm an ủi và khiến những cuộc yến ẩm hội họp của ngài có thêm nguồn hứng. Đó là điều mà con sông Sumida nhạt nhẽo kia đâu thể so bì. Về sau, khi ngài thất bại trong việc lật đổ Mạc Phủ và chịu đựng 19 năm lưu đày ngoài đảo Oki, trong tiếng sóng vỗ gió gào (17), tìm lại kỷ niệm của quá khứ huy hoàng, phải chăng cảnh sơn thanh thủy tú của vùng này và những cuộc ngự du hào hoa một thời là những cái thường xuyên ám ảnh tâm trí thái thượng hoàng hơn cả ? Tiếp tục chìm đắm trong mộng ảo, trí tưởng tượng của tôi lần lượt vẽ nên cảnh tượng sinh hoạt thời đó với từng chi tiết một trong khi bên tai tôi tưởng chừng như còn vọng lại dư âm của đàn sáo cũng như tiếng suối chảy róc rách và tiếng cười nói hoan lạc của các bậc đình thần sang trọng.

Giữa khi ấy, tôi nhận ra trời đã hoàng hôn và khi lấy đồng hồ xem mới biết sáu giờ rồi. Ban ngày quá sức nóng, tôi không thể đi mà không vã mồ hôi nhưng khi mặt trời vừa lặn, đã cảm thấy gió chiều thu nổi lên làm se lạnh thịt da. Bụng đoi đói, tôi nghĩ phải đi kiếm bữa cơm chiều trong khi chờ trăng mọc. Và như thế, tôi bước xuống con đê, quay trở lại đường cái.

Không hy vọng có một cửa hàng ăn nào vừa ý ở cái thị trấn nầy, và chỉ muốn có miếng gì ấm bụng đỡ lòng, tôi bắt gặp ngọn đèn hiệu của một quán mì miến. Tôi bèn gọi hai lượngsake và hai bát kitsune-udon, thứ bánh canh bột mì có kèm bìa đậu phụ rán. Ăn xong, tôi nhờ nhà hàng hâm nóng một nậm rượu hiệu Masamune, cắp kè kè theo và bắt đầu đi xuống bãi bằng bên sông bằng con đường chủ quán chỉ dẫn để đến bến đò. Khi chủ quán biết tôi có ý định lấy thuyền ngắm trăng trên dòng sông Yodo, đã cho biết : " Tốt quá, vừa vặn xa chỗ nầy một đỗi, có bến đò cho người muốn qua thị trấn Hashimoto phía bờ bên kia. Thưa gọi là đò chứ sông ở đây rất rộng nên giữa sông có một cồn cát, trước tiên phải đi qua phân nửa sông đến bên cồn rồi từ đó lấy một con đò khác qua bờ đối diện. Dạ thầy có thể lợi dụng khoảng thời gian đó mà ngoạn cảnh ". Ông quán còn tốt bụng chỉ thêm : " Bên Hashimoto đó lại có

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 214

xóm chơi bời, con đò nầy cập bến lên bờ ngay dưới xóm đó, mười giờ mười một giờ đêm hãy còn có chuyến nên nếu muốn, thầy có thể lấy thuyền đi qua đi lại nhiều lần nhìn cho mãn nhãn ". Biết chuyện hợp tình hợp cảnh như vậy tôi vui mừng quá và bắt đầu cất bước, mặc cho làn gió đêm thổi lên khuôn mặt đã ửng hồng hơi men. Con đường ra đến bến đò xem ra dài hơn khoảng cách ông chủ quán cho biết nhưng khi đi đến nơi, tôi nhận ra ở giữa sông quả có một cồn cát. Phần cuối bãi về phía hạ lưu nghĩa là trước mắt tôi đây, có thể trông thấy rõ ràng nhưng về phía thượng lưu thì đường nét chu vi của nó càng xa càng chìm theo ánh sáng mờ nhạt đang bao bọc một quãng sông nên tưởng như kéo dài mãi đến vô cùng. Nếu thế thì cồn cát nầy không phải là một cái đảo nhỏ nằm giữa con sông lớn đâu, hẳn nó là mũi đất nơi hai dòng Yodo và Katsura gặp gỡ ! Dù sao, đây là vùng đất làm điểm hẹn của các dòng sông Kizu, Uji, Kamo và Katsura và là nơi tụ hội của nước từ năm tỉnh Yamashiro, Ômi, Kawachi, Iga và Tanba. Một quyển địa dư cổ bằng tranh vẽ nhan đề " Đại cương hình thể hai bờ sông Yodo " có chép về một bến đò ở phía thượng nguồn tên là " Bến Chồn Qua " mà khoảng cách giữa hai bờ là 110 ken (18), lòng sông ở cái bến tôi đang đứng đây chắc phải rộng hơn ở bến trên đó một chút. Hơn thế nữa, cồn cát nầy không chia con sông thành hai phần bằng nhau. Cồn có vẻ sát với phía bờ tôi đang đứng hơn nhiều. Trong khi ngồi trên bãi sỏi bên bờ sông để chờ, tôi thấy con đò tách khỏi thị trấn Hashimoto tít đằng xa nơi lấp lánh mấy ánh đèn và chèo về phía cồn cát ; thế rồi khách đi đò bước xuống và cuốc bộ băng ngang cồn cát đến cái bến của con đò thứ hai để đến nơi tôi. Thật ra đã lâu tôi chưa đi đò; nhưng nếu so sánh với những lần ở các bến San-ya, Takeya, Futako và Yaguchi mà tôi còn giữ lại trong ký ức về thời thơ ấu thì cái bến đò nầy, phải chăng vì có cồn cát chia đôi dòng nước, nên có không khí thong thả chây lười hơn một bậc. Lạ cái nữa là giữa Kyôto và Ôsaka ngày nay sao vẫn còn một phương tiện giao thông cũ kỹ như thế nầy. Tôi có cảm tưởng như vừa nhặt được một vật gì quí báu không ngờ.

Trong tập sách về sông Yodo mà tôi vừa nói tới, bức tranh khắc gỗ phong cảnh Hashimoto cho thấy một vầng trăng treo giữa bầu trời đằng sau đỉnh núi Otoko, có kèm thêm một bài thơ waka của Kageki (19) :

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 215

Nhờ trăng lên Otoko, Bao nhiều thuyền trẩy Yodo hiện ra.

Và một bài haiku khác của Kikaku (20) :

Trên Otokoyama, Xưa trăng vẫn mới, núi là con trai ?

Trong khi chiếc đò đưa tôi chèo đến gần cồn cát, vầng trăng tròn vằng vặc đã treo sau núi Otoko (Con Trai), giống hệt như thấy trong bức họa. Cây cối xanh um bóng như nhung, ngọn núi giống một tảng mực thẫm màu vươn lên giữa không trung hãy còn vương chút ánh sáng hoàng hôn. Người lái đò ở phía bờ bên kia cồn cát mời tôi : "  Nầy ông, mau mau leo lên thuyền, còn phải đi tiếp đó " nhưng tôi nói với lại: "Dạ không, tôi nán lại trên cồn hóng gió một chút, thôi để chuyến sau!", rồi đạp vẹt đám cỏ hoang ướt sương, một mình tiến về phía đầu mũi cồn cát và ngồi xổm xuống trên bãi mọc đầy lau. Ngồi như thế chẳng khác nào giữa một con thuyền đang trôi trên dòng nước và có thể ngắm tùy thích hai bên bờ sông đang trải dài dưới ánh trăng. Đầu tôi nhìn về phía hạ lưu, con trăng nằm ở bên trái, nhưng có một vầng ánh sáng xanh lơ êm dịu ôm trọn cả vùng sông làm tôi có cảm tưởng con sông lúc nầy như tỏa rộng ra so với khi thấy nó dưới ánh sáng ban ngày hồi chiều. Bài thơ Đỗ Phủ vịnh hồ Động Đình cũng như những câu trong Tỳ Bà Hành hay một đoạn của Xích Bích Phú, những áng văn thơ chữ Hán êm tai nầy lâu ngày tôi đã quên khuấy tự dưng lại trở về âm vang trên môi tôi. Nếu nói thế thì đoàn  "thuyền trẩy trên dòng sông Yodo" mà nhà thơ Kageki đã vịnh, vào một buổi chiều ngày xưa giống như chiều nay, với cả những chiếc thuyền lớn, " thuyền ba mươi thạch ", đã xuôi ngược như mắc cửi trên mặt sông nầy. Ngày nay trên sông không còn có thuyền nào đáng gọi là thuyền mà chỉ còn những chiếc đò chở được năm sáu người là cùng. Tôi đưa nguyên nậm rượu Masamune đem theo lên miệng tu, vừa uống vừa chếnh choáng cao giọng : Tầm Dương giang đầu dạ tống khách, Phong diệp địch hoa thu sắt sắt (21). Trong khi đang ngâm mấy vần thơ ấy tôi bất chợt nhớ ra ngày xưa những nơi lau lách đìu hiu thế nầy đã xảy ra những tình huống tương tự từng thấy trong Tỳ Bà Hành

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 216

của Bạch Lạc Thiên. Nếu những thôn làng như Eguchi và Kanzaki thực sự nằm ở phía hạ lưu một chút thì hẳn có không ít những nàng kỹ nữ đã lai vãng quanh vùng trên những con thuyền nhỏ len lỏi giữa mấy khóm lau. Hồi thời vương triều, có văn nhân Ôe no Masahira (22) đã viết thiên thuật sự " Quang Cảnh Gái Làng Chơi " (Yuujo wo miru no Jo) để nói đến hoạt động nhộn nhịp của các chị em và không khí trăng hoa suốt một dãi sông này :

" Vùng Kayô (Yamazaki) (23) nằm giữa địa giới ba xứ Yamashiro, Kawachi và Settsu, là một cửa biển trọng yếu trong thiên hạ, khách bốn phương đông tây nam bắc khi đi lại đều phải ghé qua. Những kẻ buôn hương bán phấn ở dưới vòm trời này, không kể già trẻ đều dắt nhau đến đây. Xóm ăn chơi đối mặt hai bên bờ, họ cột thuyền trước cửa nhà, chèo kéo khách giữa dòng sông. Những cô trẻ làm xao xuyến lòng các ông bằng son phấn và tiếng cười giọng hát, các cô luống tuổi thì nấp dưới bóng dù, ra hiệu cho hay mình đang trống bằng cách chống ngọn sào. Ôi thôi, màn thúy buồng hồng, cho dù không theo lễ giáo con nhà nhưng một cuộc vui vầy trong thuyền trên sóng không đáng để đời hay sao ! Mỗi lần đi ngang qua đây và nhìn quang cảnh nầy, ta không sao nén được tiếng thở dài ".

Qua nhiều thế hệ, con cháu Masahira có người tên Ôe no Masafusa (24) lại viết "  Bút ký về gái làng chơi " (Yuujoki), trong đó ông tả kể lại cuộc sinh hoạt diễm tình và sống động ven bờ sông này :

" Bờ nam bờ bắc không biết bao nhiêu là xóm làng. Một phân nhánh con sông chảy vào xứ Kawachi. Trong vùng gọi là Eguchi có hai trang trại, một cái tên là Miharagi thuộc về Sở Dược Thảo, một cái tên là Oniwa thuộc về Sở Bảo Trì. Khi sông vào xứ Settsu, lại qua các vùng Kanzaki và Kanishima. Nhà cửa nơi đây cứ mọc san sát, không còn chỗ lọt. Gái làng chơi tụ lại thành nhóm, chèo những chiếc thuyền con cập vào thuyền buôn lớn và rủ rê khách chung chăn gối. Tiếng hát của họ vọng đến mây trời, âm nhạc hòa theo gió nước trên dòng. Thấy nói người qua lại không ai còn nhớ về nhà và thuyền câu, thuyền buôn cứ liên tiếp mắc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 217

vào nhau lấp cả dòng sông, hết còn thấy được mặt nước. Chốn này quả là địa điểm hành lạc số một trong thiên hạ ".

Bấy giờ tôi vừa thử đi tìm trong đáy ký ức mơ hồ của mình một số đoạn văn mà tôi góp nhặt và đem ra được, vừa ngắm mặt sông vắng vẻ, chỉ có làn nước trôi buồn bã dưới vầng trăng vằng vặc. Ai trong chúng ta không có chút lòng hoài cổ. Nhưng sắp đến cái tuổi năm mươi dễ xúc cảm thì nỗi buồn bâng khuâng lúc thu về mà hồi son trẻ tôi chẳng đoái hoài gì, lại đè nặng không sao tưởng tượng. Một ngọn lá sắn lay động trước ngọn gió thôi cũng đủ làm lòng tôi dậy lên niềm cảm xúc khôn nguôi. Huống chi trong buổi chiều như hôm nay, lại ngồi bó gối ở nơi như chốn nầy, làm sao tôi không cảm thấy cái mong manh bèo bọt của những mưu đồ do con người mà nay không còn vết tích, cũng như làm sao không luyến tiếc về thời đại hoa lệ đã tan biến vào quá khứ. Trong tập " Bút ký về gái làng chơi " có ghi lại tên tuổi nổi như cồn của các nàng kỹ nữ thưở ấy : Kannon (Quan Âm), Nyo. i (Như Ý), Kôro (Hương Lô), Kuujaku (Khổng Tước). Ngoài ra còn truyền lại danh tiếng những Kokannnon (Tiểu Quan Âm), Yakushi (Dược Sư), Yuya (Hùng Dã), Naruto (Minh Độ). Những nàng con gái chọn cuộc đời sóng nước ấy bây giờ đã về đâu ? Nếu các nàng chọn biệt hiệu có hơi hướm Phật giáo như thế bởi vì, cứ theo lời người ta, các nàng đinh ninh chuyện bán dâm là một sở hành của bồ tát. Hình dáng những người con gái tự cho mình là hoá thân của đức Phổ Hiền (25) và có lúc đã được các vị cao tăng cúi lạy kia có còn bao giờ xuất hiện trở lại trên dòng nước để rồi tan biến đi như những bọt sóng hợp tan ?

Tăng Saigyô (26) viết : "Khi dạo quanh những vùng kỹ nữ sống như Eguchi hay Katsuramoto, ta thấy nhà cửa của họ chen chúc nhau hai bên bờ nam bắc của dòng sông. Tội nghiệp thay, họ phải kiếm ăn bằng cái nghề chiều theo ý khách ! Rồi họ sẽ ra sao khi rời bỏ cuộc sống vô nghĩa này để sinh về kiếp sau ? Hay cái nghiệp chướng từ những đời trước lại bắt họ phải tiếp tục đời buôn hương bán phấn ? Để sống cho được một kiếp người chỉ thoáng như giọt sương, họ đã làm cái nghề mà Đức Phật nghiêm cấm. Nào chỉ có mang tội vào thân một mình, họ còn đáng trách vì đã làm cho tan nát bao nhiêu cuộc đời khác. Thế nhưng đã

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 218

có bao nhiêu kỹ nữ được siêu sinh về cõi tịnh độ vì tuy làm hại cuộc đời của khách trên bến, cũng có những kẻ thực sự có lòng tốt ".

Có lẽ như thế thì các nàng kỹ nữ, như Saikyô nghĩ, đã thác sinh về đất Phật và giờ đây, với một nụ cười thương cảm, đang ngắm nhìn sự sa đọa của thế nhân, cái điều duy nhất không hề thay đổi trên cõi dương trần.

Giữa khi một mình đang tiếp tục đắm chìm trong dòng suy tưởng, một đôi tứ thơ lại chợt đến trong đầu, sợ nhỡ quên, tôi mới lấy sổ tay ra chép lại bằng bút chì dưới ánh trăng. Dè sẻn chút rượu còn sót lại, tôi tợp một ngụm, cầm bút chép, rồi lại tợp thêm ngụm nữa để chép tiếp, lập đi lập lại như thế cho đến giọt cuối cùng, xong ném cái nậm không thật xa ra ngoài dòng. Chính lúc đó tôi nghe tiếng lá lau lay động xào xạc cách chỗ tôi không xa và vừa khi tôi ngoảnh về phía phát ra tiếng động, tôi thấy một người đàn ông đang ngồi xổm trong đám lau, kiểu giống như tôi tựa bóng với hình. Ngạc nhiên, trong một chốc tôi lặng người nhìn bộ dạng ông ta không chút e dè nhưng người đàn ông ấy vẫn tỉnh queo, lên tiếng chào tôi với một giọng thoải mái :

" Trăng đẹp quá, ông hén ! Tôi thấy ông chịu chơi hết chỗ nói. Thiệt ra tôi ngồi đây nãy giờ lâu rồi nhưng không dám quấy rộn sự thanh thản của ông. Hồi nãy có trộm nghe ông ngâm Tỳ Bà Hành làm tôi cũng ngứa ngáy muốn đọc mấy câu thơ. Vậy thì ông có cho phép tôi làm nhàm tai ông một chút không ? "

Ở Tokyo đâu thấy ai bắt chuyện trơ trẽn với người không quen như cái ông nầy nhưng từ lâu tôi đã hết lấy làm lạ với tính bộp chộp của người dân miền Kansai nếu không nói đã trở thành giống họ nên trả lời không chút khách sáo:

" Thế thì quí hóa quá. Ông cho nghe đi chứ ! "

Người đàn ông đó liền đứng dậy, rẽ lau tiến đến bên cạnh tôi:

"Xin vô phép hỏi ông nhưng ông có dùng chút rượu không?"

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 219

Ông ta vừa mời vừa đưa tay gỡ một vật gì buộc bằng một sợi dây trên đầu cây gậy bằng gỗ thô. Nhìn lại thì đã thấy tay trái ông ta đang nắm một quả bầu còn trên tay mặt chìa về phía tôi một cái chén sơn .

"Tôi vừa thấy ông vứt nậm rượu mà tôi lại còn chút đỉnh đây nè. " Ông ta lắc lắc quả bầu. "Xin ông dùng chút rượu nhạt để tôi được cảm ơn ông chịu nghe mấy câu thơ tào lao tôi sắp ngâm đây. Nếu đang mềm môi mà phải ngừng thì còn gì hứng. Ở đây gió sông lại mát, có quá chén một chút chắc cũng không sao".

Chưa biết tôi có chịu hay không thì ông đã bắt tôi cầm lấy cái chén. Rượu rót vào gây âm thanh ục ục vui tai. "Cám ơn, tôi không làm khách đâu!", vừa nói tôi uống một hơi sạch bách. Không hiểu rượu này là loại gì nhưng sau khi đã uống một nậm Masamune nóng rồi, tôi mới nghiệm ra đây là một loại sake lạnh, dìu dịu, thơm mùi hương gỗ, để lại một cảm giác mát mát trong miệng. "Nầy, ông làm thêm chén nữa đi...Nầy, chén nữa nào!" Ông ta bắt tôi uống hết ba chén và khi tôi vừa uống xong chén thứ ba thì ông ta bắt đầu hát một điệu trong tuồng Nô nói về nàng Kogô (27). Có lẽ vì ông ta đã uống nhiều rượu nên làn hơi không được dài, phải gân cổ. Giọng ông lại không ngọt lắm mà cũng chẳng to nhưng được cái sâu lắng và lão luyện. Dầu sao cách hát của ông có vẽ trầm tĩnh chứng tỏ là người đã khổ công tập luyện lâu năm. Hơn nữa, lúc ngồi hát không ngượng ngùng trước một người khách lạ là tôi, ông đã để mình chìm đắm vào thế giới của vở tuồng, không cho bất cứ điều lo lắng nào có thể xáo trộn. Nghe ông hát, tôi thấy tâm hồn bay bổng của ông giao cảm được với hồn tôi, làm tôi nghĩ cho dầu tài nghệ chưa đạt đến mức cao diệu nhưng trong nghề chơi mà nuôi dưỡng được cái tâm hồn nghệ sĩ như ông ta thì đã không phải là chuyện đùa.

"Thật hay hết chỗ nói. Cảm ơn ông đã cho tôi được hưởng những giây phút thú vị như thế nầy!". Ông bạn cũng đã hết hơi, mới uống một ngụm rượu giải khát, xong lại chìa cái chén về phía tôi: "Ông làm chén nữa coi!". Cái nón lưỡi trai của ông ta chụp tới mí mắt để lại một cái bóng đen che cả nửa trên khuôn mặt nên dưới ánh trăng, khó lòng quan sát từng chi tiết, chỉ đoán ông có vẻ trạc tuổi tôi, tuy hơi gầy và nhỏ con

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 220

hơn. Ông mặc trơn mỗi cái áo dài kiểu Nhật ngoài choàng thêm áo khoác đi đường (28): "Xin lỗi hơi đường đột nhưng ông có phải người Osaka không?", tôi hỏi ông ta vì sau vài câu trao đổi, tôi thấy giọng ông ta người miền Tây chứ không phải dân vùng Kyôto.

-"Dạ đúng đó. Tôi có mở một tiệm nho nhỏ bán đồ cổ ngoạn ở phía nam Osaka".

-"Thế ông trên đường đi hóng mát về chắc?"

-"Không, không. Tôi mới tới đây hồi chiều để thưởng trăng thôi. Thường mọi năm tôi lấy đường Keihan nhưng năm nay tôi lại đánh vòng theo đường mới Shin Keihan trước khi lấy đò vượt sông. Đến được đây, tôi thích quá!". Ông ta vừa nói vừa rút ra một bọc thuốc lá rời và nhồi thuốc vào tẩu.

-"Chớ năm nào ông cũng chọn một địa điểm để đi thưởng trăng hay sao?"

-"Dạ phải" Người đàn ông ngừng giây lát để có thời giờ châm tẩu thuốc, xong, tiếp lời: "Thường tôi đi ngắm trăng ở bên đầm Ogura. Tình cờ chiều này đến đây tôi mới được xem cảnh trăng sông tuyệt diệu như thế nầy. Tôi phải thưa thật là may có ông đang ngồi nghỉ ở đây mà tôi nhận ra chỗ nầy mới đáng xem. Xin cảm ơn ông đã gợi ý cho tôi. Nhìn con trăng từ đám lau giữa hai nhánh chẻ đôi của con sông Yodo này đúng là đẹp gấp mấy nơi khác". Ông ta gạt tàn vào cái hộp thuốc mang theo người rồi lại nhồi thuốc mới vào tẩu châm lửa cho hồng, vừa nói:

- "Nãy giờ nếu ông có viết được câu thơ nào vừa ý, xin cho tôi nghe với!"

-"Không, không!" Tôi trả lời và vội vàng cất quyển sổ tay vào trong ngực áo. " Được có mấy câu vụng lắm, đâu đáng để trình ông".

-"Ôi, ông đừng dạy thế!" Ông ta tuy nói như vậy nhưng không có ý ép mà cũng chẳng nài nỉ gì thêm. Rồi như đã quên khuấy chuyện đó, ông ta chầm chậm ngâm nga một mình:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 221

Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy, Vĩnh dạ thanh tiêu, hà sở vi (29)

Được một lúc, đến lượt tôi cất tiếng hỏi thăm: "Ông ở Ôsaka chắc biết lịch sử và địa lý vùng nầy. Tôi có chuyện muốn hỏi ông: có phải khắp khu vực này ngay cả bãi cát mà chúng mình đang ngồi đây ngày xưa là bến đậu thuyền của gái làng chơi, chẳng hạn cái bà Eguchi no kimi (30) mà người ta hay kể? Khi tôi ngắm con trăng nầy, tôi có cảm tưởng như hồn ma bóng quế của những nàng con gái ấy đang phảng phất trước mắt. Từ nãy giờ, tôi đã khổ tâm ra sức mà không tìm ra câu thơ nào kha khá để diễn đạt được cái ảo tưởng đó của tôi".

-"Thật là đồng thanh tương ứng" người đàn ông kia không dấu được vẻ ngạc nhiên, như reo lên: "Tôi cũng mới có cái cảm giác y hệt điều ông hỏi". Không dấu được xúc động, ông ta tiếp lời: " Nhìn ánh trăng nầy, trong đầu tôi cũng hiện ra hình ảnh một bóng ma trong quá khứ".

-"Theo như tôi phỏng đoán. tuổi ông và tuổi tôi chắc cũng sàn sàn" Tôi vừa nói vừa nhìn cho thật rõ khuôn mặt người đàn ông. "Có lẽ vì ảnh hưởng của thời gian đối với bọn mình hay sao chớ như trong trường hợp của tôi thì, mỗi khi thu về là niềm cô quạnh và sự buồn chán cứ tăng lên, năm ngoái đã hơn năm kia, năm nay còn hơn năm ngoái. Nói tóm lại, mỗi mùa thu, tôi thấm thía thấy một nỗi buồn vô cớ trở về trong lòng. Phải ở tuổi chúng mình thì mới thưởng thức được với những vần thơ cổ như "Nghe tiếng gió thổi mà đâm giật mình" (31) "Gió thu lay động bức rèm buồng ta" (32) Nói như vậy đâu phải vì mùa thu buồn mà mình ghét nó. Ngược lại đằng khác. Hồi còn trẻ, trong bốn mùa, tôi thích mùa xuân nhưng có tuổi rồi thì tôi nôn nao đợi mùa thu đến còn hơn cả đợi xuân về. Cùng với thời gian, con người ta như trở nên cam chịu và mở rộng lòng mình để vui mà chấp nhận qui luật có sinh có diệt của thiên nhiên, muốn sống một cách bình lặng và thăng bằng hơn, có phải không ông?Do đó thay vì ngắm phong quang đẹp đẽ thì tìm nguồn an ủi trong cảnh vật bi thương, cũng có khác gì thay vì tham luyến cái lạc thú hiện thực thì đắm đuối nhớ về những niềm vui thỏa trong quá khứ. Nói cách khác, tâm tình hướng về quá khứ, đối với những người trẻ, chỉ là điều

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 222

không tưởng, chả mảy may dính líu với hiện thực nhưng đối với người già thì nó là cách duy nhất để có thể tiếp tục sống với hiện tại".

-"Ông hoàn toàn có lý!" Người đàn ông gật gù ra vẻ đồng cảm. "Nếu ai ai cũng phải trải qua sự thay đổi tự nhiên như thế khi mình có tuổi thì điều đó cũng phải xảy đến cho tôi. Tôi còn nhớ lúc tôi hãy còn nhỏ xíu, cứ đến đêm rằm tháng tám, ông già tôi bắt tôi phải lội bộ theo ông hai, ba dặm (33) đường trong đêm trăng. Ngay bây giờ, tới ngày nầy tháng nầy tôi vẫn còn nhớ lại những kỷ niệm của thời xưa ấy".

Ông già tôi hồi đó cũng như ông bây giờ, ổng thường bảo tôi: "Tuổi con chưa hiểu hết được cái buồn của đêm thu đâu, nhưng đến lúc nào đó rồi mầy sẽ hiểu, con ạ!".

-"Rốt cục, ông cụ hành động như thế với mục đích gì vậy? Bộ ông cụ thích ngắm trăng rằm lắm hay sao? Lại còn bắt ông lúc còn non nớt như vậy mà phải lội bộ hai ba dặm đường như thế thì ..."

-"Lần đầu tiên ông già ổng kéo tôi đi theo thì tôi mới có bảy, tám tuổi nên không hiểu gì hết. Cha con sống ở một căn nhà sâu trong ngõ hẻm, mà lúc đó bà già tôi mất đã được hai, ba năm rồi. Nhà chỉ có hai cha con, liệu chừng vì vậy, đi đâu, ổng bắt buộc phải dắt tôi theo. Dù sao, tôi nhớ ổng hay rủ: "Này, thằng nhóc! Bố đưa con đi xem ông trăng nhá !". Tôi còn nhớ, hai cha con ra khỏi nhà lúc trời hãy còn nắng rồi xuống bến Hachiken-ya lấy tàu thủy chạy bằng hơi nước - hồi đó chưa có xe điện - để đi ngược dòng sông. Hai cha con rời thuyền ở Fushimi, sau này tôi mới biết, và tôi lặng lẽ bước theo cha mải miết suốt một quãng đê dài. Cuối cùng chúng tôi đến cạnh bờ đầm lớn. Bấy giờ thì tôi hiểu đó là bờ đê Ogura và cái đầm cùng tên. Con đường tôi vừa đi qua khoảng một dặm rưỡi đến hai dặm mỗi một chiều".

Tôi mới xía miệng hỏi: " Thế nhưng, ông cụ bắt ông đi xa như thế để làm gì hở? Chẳng lẽ cụ đưa ông đi lòng vòng chỉ để xem ánh trăng chiếu trên mặt đầm thôi à?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 223

-"Tôi chỉ biết cha tôi lâu lâu lại dừng chân trên đê, nhìn đăm đăm mặt đầm rồi hỏi tôi "Con thấy cảnh đẹp không nào!" . Vẫn tiếp tục bước theo ông, nghe cha nói trong tâm hồn nhỏ dại của tôi cũng cảm thấy ừ nó đẹp thật. Khi chúng tôi đi ngang qua một trang viện có lẽ là phủ đệ của một gia đình quyền quí, tôi nghe có tiếng đàn koto, shamisen và kokyuu (34) vọng ra ngoài chòm cây lá rậm rạp. Cha tôi dừng chân một đỗi lâu trước cửa ngôi nhà, lắng tai nghe, xong không biết bất chợt suy nghĩ thế nào mà lại bắt đầu đi lòng vòng dọc theo bức tường vây quanh phủ đệ rộng lớn ấy trong khi tôi rảo bước đi theo. Tiếng đàn koto và shamisen mỗi lúc nghe càng rõ hơn, và có cả tiếng người vẳng nhẹ ra, chứng tỏ chúng tôi đi đến gần ngôi vườn phía sau nhà. Ở đây, ngôi tường đã nhường chỗ cho một hàng rào cây xanh. Cha tôi bèn kiếm một chỗ thưa cây để có thể nhìn xuyên qua. Tôi không hiểu sao ông ta lại cứ bất động như thế và không bỏ đi đâu nữa. Tôi cũng bắt chước ông, thò mặt vào đằng sau một khoảng thưa giữa chòm lá dòm vào bên trong. Đó là một bãi cỏ rộng với nhiều ngọn đồi nhân tạo, có một con lạch nước tràn trề, trên đó là một cái sàn cao với hàng hiên lát chiếu có bao lơn bao chung quanh. Năm sáu người vừa đàn ông vừa đàn bà đang dự tiệc. Bên cạnh lan can có trưng bày một số cỗ bàn, rượu và đèn đuốc, mấy cái vò lớn cắm các loại hoa lau susuki và hagi (35) tươi ...cho ta biết mục đích của buổi gặp gỡ là để thưởng trăng. Một bà, ngồi ở vị trí chủ tọa, đang gảy đàn koto, trong khi một người đàn bà khác, búi tóc theo kiểu Shimada (36) , có vẻ là một người hầu gái, đang chơi shamisen. Ngoài ra còn có một ông già mù, chắc là nhạc sư hay lão nghệ nhân môn nào đó, đang kéo kokyuu. Từ chỗ tôi đứng, không thể nào quan sát tường tận các nhân vật nhưng đối diện với chúng tôi là một bức bình phong vàng ánh, đằng trước có một người hầu gái trẻ khác đầu cũng búi tóc kiểu Shimada, đang nâng quạt múa một điệu vũ. Cho dù không nhìn rõ nét mặt của người đó, chúng tôi cũng có thể theo dõi từng động tác một. Một phần vì thời đó làm gì điện đã bắt đến nơi, một phần có lẽ muốn tăng thêm không khí tao nhã, họ có thắp mấy chùm đèn nến bên hàng hiên mà ánh sáng chập chờn in lên trên những cột gỗ bóng và bức bình phong dát kim nhũ. Ánh trăng chiếu sáng mặt nước của con lạch, bên bờ có cột một chiếc thuyền con: nước của con lạch có lẽ lấy từ đầm Ogura vào và chiếc thuyền con có thể đưa người ta ra thẳng ngoài đầm.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 224

Một chốc sau, điệu vũ chấm dứt và mấy người hầu gái đem mấy gáo rượu sake đến rót cho thực khách. Từ chỗ chúng tôi đứng, nhìn cung cách lễ phép của những người hầu, có thể phỏng đoán bà đánh đàn koto là nữ chủ nhân và những nhân vật khác trong tiệc là khách đến chơi cho có bạn. Quang cảnh nầy xảy ra cách đây đã trên bốn mươi năm; vào thời đó, người giúp việc của những nhà cố cựu ở vùng Kyôto và Ôsaka vẫn con ăn mặc như thị nữ trong phủ đệ. Ngoài lời ăn tiếng nói, lối cư xử lễ độ, nhà chủ nếu có sở thích đặc biệt, có thể cho dạy họ cả những nghệ thuật tiêu khiển. Cái ngôi nhà mà chúng tôi đến phải là biệt thự của một nhà giàu có và người đàn bà đánh đang koto hẳn là người trong gia đình nhà chủ. Tuy nhiên bà ta ngồi mãi trong xa và gương mặt của bà bị bóng mấy cây hoa lau hagi và susuki chưng bày làm tối đi nên chúng tôi không thể quan sát rõ ràng từ chỗ mình đứng. Cha tôi như thể kiếm cho bằng được cách nhìn thật gần, đi đi lại lại không ngừng dọc hàng rào để thay đổi vị trí nhưng tầm mắt ông cứ vướng mấy cành hoa lau kia. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào nét trang điểm đậm nhạt và màu áo kimono bà chủ ấy mặc, ta không có thể bảo đó là một người lớn tuổi. Giọng bà ta còn son trẻ lắm. Cho dù vì cách nhau khá xa, chúng tôi không hiểu được họ đang nói chuyện gì, chỉ riêng cái giọng nói ấy nó tách ra khỏi những giọng khác với dấu nhấn cao cuối câu, đặc điểm của tiếng nói vùng Ôsaka như "Vậy hở?", "Chắc thế đấy!"... vang lên trong khu vườn làm ta cảm thấy ngay cái tươi tắn, giàu âm hưởng, đầy sinh khí của nó, rất trong trẻo và ngân mãi ra. Người đàn bà ấy hình như đã ngà ngà say nên lâu lâu phát ra một tiếng cười khanh khách làm cho toàn thể khuôn mặt một nét vui tươi rạng rỡ đồng thời vẫn giữ được vẽ thanh lịch và đượm chút ngây thơ.

Tôi thử lên tiếng hỏi : "Bố ơi, thế mấy người nầy đang làm cỗ trông trăng, hở bố?"

thì nghe cha tôi trả lời "Chắc vậy đó con!"nhưng ông vẫn không ngừng nhìn xuyên qua hàng dậu. Tôi lại gặng thêm: "Bố có biết đây là nhà ai không?" nhưng lần nầy cha tôi chỉ ậm ừ gật đầu và có vẻ như đang bị thu hút hoàn toàn bởi cảnh tượng trước mắt. Bây giờ nghĩ lại mới thấy khoảng thời gian cha tôi cứ đứng như vậy dài tưởng như không bao giờ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 225

chấm dứt, vì trong lúc đó, mấy cô hầu đã đứng lên cắt bấc nến cũ ít nhất hai ba lần. Sau khi xem trình diễn một điệu múa nữa, nữ chủ nhân cất giọng trong thanh ca một bài, vừa đánh đàn koto đệm theo. Chúng tôi nhìn họ mãi đến cuối tiệc, lúc các thực khách đã rời hàng hiên. Tôi không nhớ rõ đường về như thế nào, chỉ biết là một quãng đi bộ rất dài và chán ngấy dọc theo mặt đê. Ông có thể hiểu tại sao tôi còn giữ được ký ức rõ ràng về một chuyện xảy ra đã quá lâu, khi hãy còn quá trẻ không? Trên thực tế, như tôi vừa có dịp thưa với ông xong ,từ hôm đó trở đi cho đến nhiều năm sau, mỗi khi đến rằm tháng tám, cha tôi lại đưa tôi đi trên con đê ấy; thế rồi, chúng tôi lại ngừng trước cánh cổng của ngôi biệt thự bên mặt đầm, lại nghe tiếng đàn koto và shamisen; để rồi cha tôi lại đi vòng bức tường thăm dò qua bờ dậu những gì xảy ra trong vườn. Quang cảnh ngôi biệt thự hầu như không có gì thay đổi theo năm tháng, mỗi lần đều thấy lại người đàn bà có lẽ là nữ chủ nhân ngôi nhà ấy với mấy người bạn nghệ sĩ và hầu gái như thường lệ tiêu khiển quanh một bữa cỗ trông trăng. Tuy rằng kỷ niệm về những điều quan sát được vào cái năm đầu tiên sẽ được bổ túc bằng chi tiết mới thu lượm trong mấy năm sau nầy nhưng phải nói là cảnh tượng mà tôi vừa mô tả cho ông nghe cứ lập đi lập lại như vậy hằng năm.

-" Ra là thế! ". Tôi như bị lôi cuốn vào thế giới kỷ niệm của người đàn ông. "Nhưng ngôi biệt thự ấy nó là cái gì thế , hở ông? Chắc cụ nhà phải có lý do gì đặc biệt mới cứ trở lại chốn đó mỗi năm chứ?

-" Lý do ấy à?". Người đàn ông trả lời sau khi chần chừ một chút : "Nói cho ông nghe thật ra không hề gì. Nhưng dù sao ông là người không quen không biết nên tôi chỉ ngại câu chuyện tôi kể nó nhàm tai và làm mất thì giờ ông thôi ".

-" Nghe đến đây rồi mà ông không cho nghe tiếp thì ức quá. Thật đấy ! "

-" Cảm ơn ông đã không quan ngại. Nếu ông có lòng quí hóa như vậy thì tôi xin được kể tiếp câu chuyện của tôi ". Ông ta vừa nói vừa kéo cái bầu rượu khi nãy ra. " Nhân nói đến ức, trong bầu nay hãy còn một ít rượu, chúng mình thanh toán nó cho xong để khỏi tiếc nuối gì nữa ". Ông ta trao cái chén cho tôi rồi lại nghiêng bầu đổ rượu vào ục ục.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 226

Sau khi cẩn thận dốc bầu rượu, chắt cho thật kiệt, người đàn ông kể tiếp :

-" Trong những dịp cuốc bộ hàng năm đêm rằm trên đê với cha tôi như thế, mỗi khi cha tôi đề cập đến câu chuyện, mặt ông lúc nào cũng nghiêm trang và nói với tôi bằng một giọng như thể với một người cùng lứa tuổi : "Con còn trẻ nên chưa hiểu được bố nói gì đâu nhưng khi nào con lớn lên, bố mong con nhớ lại những chuyện hôm nay. Do đó, bố không coi con là con nít, bố muốn nói chuyện với con như một người lớn. " Trong trường hợp nầy , để chỉ nữ chủ nhân của trang viên mà ông dắt tôi đến mỗi năm, ông gọi " người ấy" hay " Yuu phu nhân " " Con đừng quên " Yuu phu nhân ", con nhé ! Nếu bố đưa con đến đây thường xuyên mỗi năm, là để sau nầy con có thể nhớ lại xưa " phu nhân " đã sống như thế nào!". Ông nói bằng một giọng nghẹn ngào, và tuy tôi không hiểu hết lời ông nói nhưng vì tính tò mò thường thấy ở trẻ con, lại thêm nhờ sự nhiệt thành toát ra từ cha tôi, tôi đã có thể chăm chú nghe những điều ông nói. Rốt cục, tôi có phần nào hiểu được và thông cảm với những điều ông muốn bày tỏ.

Người mà cha tôi gọi là " Yuu phu nhân " sinh trong gia đình Kosobe ở Ôsaka. Theo lời cha tôi, năm mười bảy tuổi, nàng về làm dâu họ Kayukawa và nổi tiếng là một người tuyệt đẹp. Tuy nhiên chỉ được bốn năm năm thì chồng qua đời nên mới hăm hai hăm ba, nàng đã góa bụa. Nếu là thời bây giờ, không ai ép một người đàn bà ở vậy suốt đời và những người chung quanh sẽ sẳn sàng can thiệp nếu chuyện đó xảy ra nhưng hồi đó mới đầu thời Meiji và tập tục cổ lỗ cuối Mạc Phủ hãy còn ảnh hưởng mạnh lắm. Ngoài ra, dường như trong gia đình ruột thịt cũng như phía nhà chồng có những người thân thích già cả lắm mồm, lại thêm, như lời cha tôi kể, giữa nàng và ông chồng quá cố chừng có một mụn con trai, làm cho những dự tính bước đi bước nữa của nàng không sao thực hiện được. Không những thế, O-Yuu còn được mẹ chồng lẫn chồng hết sức quí trọng vì họ cất công cưới nàng về nên chi từ khi làm dâu cô ta càng được nuông chìu, chẳng phải làm lụng, sướng hơn hồi còn con gái. Ngay sau khi đã lâm vào cảnh góa bụa, nàng vẫn còn dắt theo một đám kẻ hầu người hạ thăm núi nầy, viếng cảnh nọ, tự do sống

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 227

xa hoa như thế. Người ngoài nhìn vào thì thật là một cuộc đời không chút lo âu, còn người trong cuộc ngày ngày cứ thỏa mãn sung sướng nên không cảm thấy có gì đáng nói. Đó là cuộc sống của O-Yuu ngày cha tôi mới gặp nàng lần đầu. Lúc đó cha tôi mới hăm tám, tôi thì chưa ra đời và ông hãy còn độc thân. O-Yuu hăm ba tuổi. Theo lời cha tôi kể, chuyện xảy ra vào đầu mùa hè một hôm ông đi xem hát ở khu Dôtombori cùng với vợ chồng người em gái, tức là cô dượng tôi ; O-Yuu ngồi ở một lô ngay phía sau họ, đi cùng một người con gái tuổi độ mười sáu, mười bảy và một bà già, hình như là nhũ mẩu hay quản gia cùng với hai cô tớ gái. Ba người hầu cận này ngồi đằng sau cô và thay nhau lấy quạt để quạt mát cho cô. Cô tôi cúi đầu chào O-Yuu và khi cha tôi hỏi ai đó thì được cho biết là cô dâu góa nhà Kayukawa. Thiếu nữ đi theo chính là em ruột nàng, cũng là con gái họ Kosobe. " Ba mới gặp đã mê liền ! " , cha tôi sau đó thường lập đi lập lại với tôi như vậy. Hồi thời đó, người ta lấy vợ lấy chồng rất sớm và trường hợp cha tôi, trưởng nam và kẻ thừa kế trong nhà, đã hai mươi tám tuổi mà hãy còn độc thân, chứng tỏ ông ta rất kén và đã từ chối tới tấp bao nhiêu đám người ta làm mai cho. Thiên hạ đồn và chuyện này thật ra cũng có là ông hay lui tới các phòng trà và cho dầu ông cũng có một số liên hệ tình cảm với các cô ở đó nhưng ông không chịu lấy cô nào trong đám ấy làm vợ cả. Nói cách khác, cha tôi lại - nói sao cho đúng nhỉ - khá công tử hay quan cách, nên chỉ thích đàn bà có dáng dấp quí phái, kiểu các cô như tiểu thơ trong phủ đệ, lượt là áo choàng uchikake và bắt người ta đọc Truyện Ông Hoàng Genji cho nghe giữa trướng phủ màn che cơ ! Một cô geisha không thể nào được thế. Tại sao sở thích của ông lại có vẻ không dính líu gì với bối cảnh gia đình thuộc tầng lớp buôn bán của ông ? Thật ra ngay ở Ôsaka, các gia đình thuộc loại dân có cửa hàng trong khu Senba cũng bắt kẻ ăn người làm xử sự có lề lối, phép tắc. Họ hết sức chú trọng đến kiểu cách bề ngoài và ở nhiều điểm còn tỏ ra quí phái hơn gia đình của một tiểu lãnh chúa (daimyô). Điều này giải thích được tính nết của cha tôi, một người sinh ra trong môi trường như vậy. Dù sao di nữa, khi gặp O-Yuu lần đầu, cha tôi đã cảm thấy ngay nàng là mẫu người đàn bà mà ông mơ tưởng từ lâu. Tôi không biết cái gì đã làm cho tình cảm ấy đã nẩy ra trong ông, có thể là giọng nói của nàng khi nàng chuyện trò cùng với mấy người tùy tùng mà cha tôi đã nghe được vì nàng ngồi ngay

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 228

sau ông. Cũng có thể là trong cử chỉ và thái độ khác của nàng mà cha tôi đã bắt gặp được vẻ khoan thai của các mệnh phụ phu nhân. Trong các bức ảnh của nàng, ta thấy O-Yuu có đôi má tròn căng, khuôn mặt bầu bĩnh như trẻ con, thế nhưng theo lời cha tôi kể, tuy nét mắt nét mũi của nàng thanh tú như mắt mũi của tất cả những người đàn bà đẹp nhưng mặt nàng lúc nào cũng như chìm trong sương khói, đôi mắt, cánh mũi, khoé miệng đều có cái gì không rõ ràng như bao phủ bởi một tấm màn mỏng, xóa đi được những nét quá cứng và nhọn. Nếu người nào chăm chú nhìn vào đôi mắt nàng sẽ có cảm tưởng nó bị che mờ và một vầng sương mù như bao phủ lấy con người của nàng. Theo lời bố tôi, chữ " quí phái thanh lịch " mà ta thường thấy trong sách xưa đúng là để chỉ một khuôn mặt như vậy, đặc biệt nó nâng giá trị của " Yuu phu nhân " lên. Ông hẳn phải có lý do gì để suy luận như vậy. Những người đàn bà nào có khuôn mặt bầu bĩnh thường lâu già nhất là khi không bị những khổ cực của cuộc đời làm cho tàn héo, và nếu tin lời của cô tôi kể lại thì nét mặt O-Yuu, trong khoảng thời gian nàng mười sáu mười bảy cho đến bốn sáu bốn bảy, không có một tí thay đổi, bao giờ cũng giữ nguyên vẻ tươi mát thanh xuân. Riêng cha tôi thì ông bị thu hút trong lần gặp gỡ đầu tiên vì những đường nét mơ hồ của khuôn mặt, vì cái gọi là " thanh lịch đài các " ấy. Chỉ cần quan sát một tấm ảnh chụp O-Yuu và nhớ lại những sở thích của cha tôi thì đã hiểu tại sao ông bị nàng thu hút như thế. Nói tóm lại, con người O-Yuu toát ra cái hương thầm của những con nộm Izukura (37) trong cung đình xưa, vừa sặc sỡ lại vừa cổ kính, gợi cho ta nhớ đến hình ảnh của những phụ nữ đài các hay tiên nữ cung trăng mà ta không với tới được. Mùi hương đó đã thấm đượm vào từng nét mặt của O-Yuu. Cô tôi, em gái út trong nhà, bạn ngày còn bé của O-Yuu, nay lớn lên lại đi học cùng một lớp đàn koto, đã thuật cho cha tôi nhiều chi tiết mà cô được biết về gia thế, về thời thơ ấu, cuộc hôn nhân của O-Yuu. . . Nàng có nhiều anh chị em, ngoài cô em út mà nàng đưa đi xem hát cùng, hãy còn có các chị các em khác, thế nhưng chỉ có nàng được cha mẹ cưng yêu hơn cả, họ dành cho nàng mọi sự chiều chuộng và chấp nhận tất cả mọi sự khó tính của nàng. Có lẽ họ đối xử như vậy một phần là do sắc đẹp lộng lẫy của nàng so với mấy anh chị em ; những người này cũng coi O-Yuu như một sự tồn tại đặc biệt bên cạnh họ và xem chuyện nàng được cha mẹ ưu đãi như một việc tự nhiên.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 229

Hay nói như cô tôi " Số O-Yuu nó có phước ! ". O-Yuu không đòi hỏi thiên hạ cung phụng mình, nàng cũng không kênh kiệu kiêu kỳ chút nào ; thế mà những người chung quanh lúc nào cũng tìm cách đỡ đần để nàng khỏi phải cực khổ. Họ chăm chút và lo lắng cho nàng như đối với một cô công chúa. Ai cũng muốn hy sinh bản thân để cho nàng khỏi phải chịu những sóng gió cuộc đời. Tính tình O-Yuu làm cho cả thảy - từ cha mẹ, anh chị em cho đến bạn bè và những người tiếp xúc với nàng - ai ai cũng đối xử với nàng cùng một cách. Khi cô tôi còn là một thiếu nữ, bà có đến nhà họ chơi và cũng chứng kiến việc O-Y Yuu được nâng niu như hòn ngọc quí của gia đình Kosobe. Họ không để cho nàng phải đụng tay vào việc nhà, các chị em khác thiếu điều hầu hạ nàng như thể họ là những con sen và xem chuyện đó không có gì đáng kể. Trong khi ấy, O-Yuu, đối tượng của sự nuông chìu, cũng tiếp nhận sự chú ý về mình một cách ngây thơ. Khi được nghe từ cô em gái những tin tức về O-Yuu, cha tôi càng yêu nàng thêm lên, nhưng sau đó, thời gian tuy trôi qua mà cha tôi chẳng tạo ra được cơ hội thuận tiện nào cả. Cho đến một ngày nọ, cô tôi biết được O-Yuu đang chuẩn bị tham dự một buổi trình tấu đàn koto, mới đến báo tin cho cha tôi. Cô tôi lại đề nghị nếu ông muốn gặp, cô sẽ tháp tùng. Hôm ấy O-Yuu tóc láng mượt, mặc áo khoác uchikake dành cho ngày hội, và sau khi đốt trầm, mới đánh bản Yuya (38). Cho cả đến ngày nay, khi muốn trình tấu một số tác phẩm cần có sự cho phép đặc biệt (39) trước của bậc thầy, người ta thường tổ chức một buổi ra mắt cực kỳ tốn kém và đòi hỏi một chi phí kết xù, cho nên những người thầy hay đề nghị những đệ tử giàu có nhất trong đám học trò của mình chơi những tác phẩm chọn lọc ấy. Để tiêu khiển, O-Yuu đã theo học một khóa đàn koto và có lẽ đã được thầy mình đề nghị trình diễn bản đó. Tôi là người từng nghe nàng hát cho nên tôi có thể, như đã thưa trước, đánh giá được phẩm chất của tiếng hát đến độ, sau khi đã biết về con người của nàng, tôi chỉ cần ngồi nhớ lại về tiếng hát đó để cảm thấy thêm một lần nữa tất cả chiều sâu của nó . Cha tôi lần đầu trong đời được nghe nàng hát và đệm koto, tỏ ra rất xúc động, Ông cũng ngạc nhiên thích thú khi thấy nàng mặc cái áo khoác kiểu cung đình dành cho ngày hội ; như thế giấc mơ mà ông ấp ủ từ bấy nay đã được thực hiện đến nổi ông vừa sung sướng, vừa nghi ngờ cả cặp mắt mình. Buổi trình diễn chấm dứt, cô tôi đi kiếm O-Yuu lúc ấy còn ở trong buồng trò, nàng vẫn mặc chiếc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 230

áo ngày hội đó. Nàng giải thích cho cô tôi là nàng không quan tâm cho lắm về năng lực trình diễn của mình nhưng luôn luôn thèm có dịp khoác chiếc áo kia, cho dù chỉ một lần thôi. Nàng còn muốn người ta chụp cho mình một bức ảnh trong chiếc áo uchikake trước khi thay đổi trang phục. Khi cha tôi nghe nói về những ước muốn của O-Yuu, ông rất vui vì thấy mình và nàng ta có chung một sở thích. Tự nhủ nếu không lấy được O-Yuu ông sẽ không lấy ai khác và nàng chính là người trong mộng từ bấy lâu nay, ông mới thổ lộ một cách kín đáo điều đó với cô tôi. Thông cảm với ước nguyện của ông anh nhưng lại biết rõ hoàn cảnh O-Yuu, cô tôi đành khuyên ông từ bỏ cái giấc mơ không bao giờ có thể thực hiện được. Cô tôi cho biết nếu không có chuyện con cái dính vào thời không sao nhưng O-Yuu lại có một mụn con trai còn non nớt và đang có trách nhiệm nuôi dạy nó. Hơn nữa, cậu bé đó là người nối dõi tông đường và gia đình đang đặt tất cả kỳ vọng trên vai cậu ấy. Không thể nào họ cho phép nàng xa con và từ bỏ gia đình Kayukawa ra đi. Không những nàng còn bà mẹ chồng, tuy mẹ ruột của nàng đã qua đời nhưng ông bố hãy mạnh khoẻ. Nếu những người trưởng thượng nầy để nàng được tự do thoải mái cho đến nay bởi vì họ tội nghiệp số phận góa bụa của nàng và muốn giúp nàng khuây khỏa trong kiếp sống cô đơn ; bù lại, đó cũng là một hình thức họ đòi hỏi nàng phải suốt đời ở vậy nuôi con. O-Yuu hiểu rõ điều đó nên cho dù nàng tận hưởng những thú vui lộng lẫy xa hoa nhưng không bao giờ làm gì để thiên hạ có thể đàm tiếu về hành vi của mình. Vì lẽ đó, cô tôi mới đi đến chỗ phỏng đoán là nàng sẽ không bao giờ bước đi bước nữa. Thế nhưng cha tôi không chịu lùi, ông cứ nài nỉ cô tôi làm thế nào cũng phải dàn xếp để ông đôi lúc gặp được O-Yuu. Ông còn cho cô tôi biết chỉ cần gặp mặt nàng một đôi khi thôi là đã thỏa lòng. Trước sự ỉ ôi của cha tôi, cô tôi không nỡ nào từ khước cái giải pháp thứ hai nầy nhưng vì cô tôi và O-Yuu tuy quen thân tự ngày còn bé, lớn lên lại trở thành xa cách nên chuyện cha tôi nhờ cũng không phải dễ thực hiện. Do đó, sau khi nghĩ đi nghĩ lại, cô tôi bàn với anh là chi bằng ông chịu khó đi hỏi cô em gái út của O-Yuu làm vợ. Nếu việc cầu hôn O-Yuu gặp nhiều cản trở thì việc tiến tới với cô em xem ra không có vấn đề gì. Cô em này tên O-Shizu, người con gái mà O-Yuu đã dẫn theo khi đi xem hát. Một cô em khác, lớn hơn O-Shizu thì đã có nơi có chốn trong khi O-Shizu mới vừa đến tuổi lấy chồng . Cha tôi đã được thấy mặt nàng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 231

trong buổi xem hát nên lời khuyên của cô tôi đã làm ông suy nghĩ. Không thể bảo O-Shizu không đẹp, nét mặt của cô ta có khác O-Yuu nhưng dù sao họ cũng là chị em, nhìn mặt cô cũng hao hao giống bà chị. Có cái hơi buồn một chút là, so với chị, cô ấy thiếu dáng dấp " đài các thanh lịch ", một đặc điểm chỉ có nơi O-Yuu. Nếu cô ấy đứng một mình thì không ai nhận ra điều gì cả nhưng khi cô ở cạnh chị thì người ta cảm thấy như một người thị nữ đứng bên cô công chúa. Nếu O-Yuu và O-Shizu không phải là hai chị em thì có thể kế hoạch hôn nhân này không có lý do gì để được đặt ra ; nhân vì O-Shizu là em gái út của O-Yuu, họ có chung dòng máu cho nên cha tôi mới có cảm tình luôn cả với cô. Tuy nhiên vì yêu cô chị mà nhẫn nhục đến mức đi cưới cô em không phải là một quyết định dễ dàng đối với cha tôi. Trước hết, nếu đã rắp tâm cô chị như thế mà đi cưới cô em thì ông thành ra không tốt với O-Shizu, hai là ông muốn cảm tình dành cho O-Yuu được trọn vẹn và không gợn lấy một điều gì để được mãi mãi trung thành với người vợ mà ông đã âm thầm cưới trong tâm tưởng. Việc kết hôn với một người đàn bà khác, cho dẫu là em gái nàng, sẽ làm đầu óc ông mất đi sự thanh thản. Nhưng mặt khác, khi nghĩ lại, ông thấy nếu mình cưới cô em thì sẽ có nhiều dịp gặp gỡ và trò chuyện với nàng. Trong trường hợp ngược lại, suốt đời ông chỉ có thể bằng lòng với đôi lần gặp gỡ tình cờ. Nghĩ thế, đầu óc cha tôi rối bời. Trong khi cha tôi tiếp tục khổ tâm như vậy thì rốt cục, một buổi lễ coi mắt đã được tổ chức cho ông để gặp O-Shizu. Thật ra, lúc đó cha tôi hãy dùng dằng chưa quyết mình có nên hỏi O-Shizu làm vợ hay không, và buổi lễ coi mắt này, đối với ông chỉ là một dịp may, dầu chỉ là một, để gặp lại O-Yuu mà thôi. Cái đòn của cha tôi như thế mà lại thành công vì O-Yuu lúc nào cũng đến dự những buổi lễ coi mắt hay hội họp trong gia đình. Phía nhà Kosobe vì bà mẹ đã qua đời và O-Yuu trong cảnh hiện tại là người có nhiều thời giờ rảnh nên O-Shizu một tháng có thể sang ở chơi bên nhà Kayukawa hai tuần, đến độ người đằng đó coi cô như con cái trong nhà. Tự nhiên là O-Yuu xuất hiện thường xuyên trong mọi dịp liên quan đến cuộc đời cô em gái, điều đó đối với cha tôi là một dịp may ngoài sức tưởng tượng. Vì tự buổi đầu mục đích của cha tôi chỉ có thế nên ông tìm cách kéo dài sự việc, xin gặp một lần thứ hai, rồi lần thứ ba, dây dưa khoảng sáu tháng trời rồi mà câu chuyện cưới xin vẫn chưa ngả ngũ. Trong khi ấy, O-Yuu bắt đầu lui tới thường xuyên

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 232

nhà cô tôi để bàn bạc. Khoảng thời gian nầy, nàng có dịp chuyện trò với cha tôi và dần dần hiểu thêm về con người ông. Thế rồi một hôm, nàng mới hỏi cha tôi :

-Chớ anh không thương O- Shizu à ?

- Dạ, đâu có chuyện đó ! Cha tôi mới trả lời.

-Thế thì anh cưới em tôi đi !

Như thế, O-Yuu khuyến khích cha tôi cưới em nàng làm vợ và quay qua cô tôi, nàng còn nói một cách rõ ràng hơn là trong đám anh chị em, con nhỏ O-Shizu là người em hợp tính hợp tình nhất với nàng và vì vậy nàng mong muốn gả cô cho một người như anh Serihashi, và có được một cậu em rể như anh là nàng rất sung sướng. Chính những lời nói của O-Yuu khiến cha tôi quyết tâm và sau đó, O-Shizu đã lên xe hoa. Việc xảy ra dù có rắc rối một chút nhưng rốt cuộc, O-Shizu trở thành mẹ của tôi còn O-Yuu thành bà bác. Tôi không biết cha tôi đã hiểu thế nào về câu nói của O-Yuu, chỉ biết đêm tân hôn, O-Shizu vừa khóc vừa cho cha tôi hay là nếu cô chấp nhận kết hôn với cha tôi cũng vì cô đã hiểu được tâm trạng của người chị. " Nếu bây giờ em có trao thân cho anh ", cô nói, " thì em thành ra không phải với chị của em. Xin cho phép em suốt đời làm một người vợ hờ, người vợ dưới con mắt thiên hạ thôi cũng được, miễn sao cho chị của em được hạnh phúc".

Cha tôi nghe O-Shizu nói những lời không ngờ tới đó mà cứ ngỡ mình đang nằm mơ. Tuy cha tôi trộm yêu O-Yuu nhưng ông không bao giờ dám nghĩ nàng biết tới mối tình thầm kín đó và nhất là không tưởng tượng được mình lại được nàng yêu.

-Tại sao em lại hiểu lòng chị em như vậy ? Cha tôi hỏi dồn trong khi O-Shizu vẫn đầm đìa nước mắt. " Em nói như vậy hẳn phải có bằng cớ. Hay là chị O-Yuu có tâm sự gì về điều ấy với em ? "

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 233

-Những chuyện như vậy không ai có thể đem ra thổ lộ mà cũng chẳng có người nào đi đặt câu hỏi. Thế nhưng em chắc chắn hiểu được lòng chị ấy.

O-Shizu trả lời như vậy. Không ngờ O-Shizu, bà mẹ của tôi, một người con gái còn chưa hiểu chuyện đời mà có thể khám phá ra một sự bí mật như thế. Sau nầy cha tôi mới biết gia đình Kosobe ban đầu đã định từ chối lời cầu hôn của ông lấy cớ có sự chênh lệch tuổi tác quá đáng. Lúc đó O-Yuu cũng hơi ngả theo ý kiến họ hàng. Thế nhưng có một hôm khi O-Shizu đến chơi thì nàng mới bảo với em :

-Chị thấy không có đám nào tốt như đám này. Đây không phải chuyện chồng con gì của chị nhưng không phải vì trong nhà ai cũng chống đối mà mình thấy là không nên. Nếu O-Shizu chịu lấy anh ấy thì tự em nên cho họ biết điều đó ; chị đã có cách đứng giữa dàn xếp cho mọi sự diễn tiến tốt đẹp.

-Nếu chị đã bằng lòng thì em nghĩ đó là chuyện đáng mừng. Vốn lòng chưa định, O-Shizu trả lời như thế. Nếu chị nghĩ em nên nhận lời người ta thì em sẽ làm đúng theo ý chị.

-Chị rất vui khi nghe em trả lời như vậy. Ngoài đời, chênh lệch nhau mười một mười hai tuổi đâu phải là chuyện hiếm. Mà chị có cảm tưởng anh ta ăn nói hợp ý chị. Chị em trong nhà này hễ lập gia đình là thành người dưng hết, mỗi O-Shizu là chị không muốn để ai bắt mất. Đối với anh nầy thì chị có cảm tưởng không bị mất O-Shizu mà lại có thêm một cậu em mới. Nghe chị nói, em có thể nghĩ chị ép uổng em lấy người này vì những lý do ích kỷ của riêng chị nhưng thật ra người nào hợp với chị sẽ hợp với em. Em thương chị thì nghe lời chị đi ! Nếu em về với người mà chị không ưa, chị sẽ mất một người bạn chơi độc nhất và chị sẽ hết sức cô đơn.

Như tôi đã thưa trước với ông, O-Yuu bao giờ cũng là đứa con nuông trong gia đình và đã hấp thụ một nền giáo dục làm cho nàng không ý thức được về sự ích kỷ và những cái hứng bốc đồng của mình. Nếu O-Shizu không thấy được qua mấy câu nói nàng vừa thốt ra chứng cứ của

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 234

sự lợi dụng hẳn hoi của bà chị đối với cô em gái, người vốn gần gũi với nàng hơn ai hết, chỉ vì cô không nhận ra trong thái độ của O-Yuu dấu hiệu kẻ được nuông chiều mà nàng thường tỏ ra khi đòi hỏi điều gì. Bình thường, lúc nàng ích kỷ hay muốn làm tới bao nhiêu, nàng lại tỏ ra dễ thương bấy nhiêu, tuy vậy, lần nầy, dưới cái dáng dấp khả ái ngây thơ, người ta cảm thấy có một sự nhiệt thành. Thế nhưng nếu O-Yuu không ý thức điều đó, lẽ nào O-Shizu lại cảm thấy được ! Thật ra, người phụ nữ nào kín đáo ngay lúc không nói ra vẫn thường suy tư nhiều, và O-Shizu, một người con gái tính khí như thế, có thể đoán đúng nhiều chuyện hơn thế nữa. Từ khi nàng biết được ý nguyện muốn kết thân của cha tôi, O-Yuu tỏ ra linh hoạt hơn, và nàng không ngừng bàn về tin tức liên quan đến ông ta trong những buổi chuyện trò với O-Shizu và có thể nói rằng ngoài chuyện này, nàng không thấy điều gì đáng quan tâm hơn.

" Em chỉ tưởng tượng ! " Cha tôi thường nói với O-Shizu như thế với một giọng bề ngoài như thể dửng dưng trong khi cố tình nén tiếng đập của trái tim mình ". Anh có cảm tưởng em có đôi điều không thỏa mãn về cuộc hôn nhân của chúng mình nhưng một khi anh đã hứa thì anh giữ lời ! Anh rất khâm phục em về tình cảm kính mến của em đối với chị hai nhưng nếu em tìm mọi cách nhằm thực hiện một bổn phận mà em tự đặt cho chính mình thì việc làm của em vượt ra ngoài mọi khả năng luận lý. Chẳng những nó làm cho anh đau xót vô ngần mà nó còn đi ngược lại lời ước nguyện của chị ấy. Không có bằng cớ nào chứng tỏ chị ấy muốn em cư xử như vậy, và chị ấy sẽ hết sức bối rối khi biết được mọi việc.

-Ủa chứ không phải muốn kết tình thân gia đình với chị hai mà anh cưới em hay sao ? Chị hai em có nghe em gái anh nói chuyện đó rõ ràng như vậy và em cũng đã chấp nhận thế. Giới thiệu bao nhiêu đám xứng đáng cho anh mà tới nay anh có chịu đám nào đâu ! Nếu khó tính như anh lại chịu đi lấy một người con gái tầm thường như em thì chỉ vì lý do là em có được bà chị như thế thôi.

Cha tôi cúi đầu không tìm ra câu trả lời. O-Shizu nói tiếp :

- Nếu em nói một tiếng để xác nhận tình cảm chân thành của anh đối với chị hai em thì chắc chỉ sẽ sung sướng biết bao. Thế nhưng điều đó sẽ tạo

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 235

ra giữa hai người một sự ngại ngùng nên thà em không nói gì cả trong lúc này. Nhưng anh không được dấu diếm với em bất cứ điều gì, nếu không em giận cho mà coi.

-Anh không ngờ em hết lòng hết dạ như vậy ! Cha tôi nói mà đến lượt ông nước mắt tuôn trào. Anh sẽ không bao giờ quên tấm lòng quảng đại của em. Nhưng chị hai của em đối với anh sẽ chỉ là một người chị không hơn không kém và dù em có làm chi cho anh, em cũng không lay chuyển được điều đó. Cho nên nếu em nằng nặc trung thành với cái nguyên tắc mà em coi là bổn phận của mình thì em chỉ làm cho anh và chị ấy, cả hai phải đau khổ. Dầu điều làm cho em cảm thấy bất hạnh trong cuộc hôn nhân này là gì đi nữa, nếu em không đến nỗi ghét bỏ anh thậm tệ, anh van em hãy tỏ lòng kính thương chị em bằng cách ngừng khách sáo với anh, mà hãy thẳng thắn như giữa vợ chồng. Như thế chẳng phải là một cách để quí trọng tôn thờ người chị chung của chúng ta hay sao ?

-Em nào có ghét bỏ gì anh và có điều gì để than thở hay bất mãn đâu. Em thuở giờ luôn luôn làm theo ý chị hai và chỉ cần anh làm đẹp lòng chị ấy là em đã yêu anh rồi. Thông thường mà nói thì đáng lý ra, em không thể đồng ý kết hôn với một ông chồng lại là người được chị mình yêu. Nhưng em tự nhủ nếu em từ chối thì em đã để cho những qui ước xã hội ngăn cản mối liên hệ giữa anh và chị em. Vì vậy chính bản thân em, để được việc cho chị, em đã bằng lòng lấy anh.

-Thế có nghĩa là em để mai một đời mình cho chị sao ?Em có chắc chị ấy chấp nhận việc em hy sinh không ?Không phải khi quyết định như thế, em đã làm tổn thương một con người trong trắng như bà chị của em ?

-Nếu anh lập luận như vậy thì tội nghiệp cho em. Em cũng kính trọng chị hai của em đã biết giữ gìn lòng mình trong trắng đấy chứ ! Nếu chị ấy trung trinh một dạ với người chồng đã khuất thì em cũng xin giữ tiết của em để tỏ lòng kính trọng đối với chị ấy. Đâu phải mình em để mai một cuộc đời mình. Chị hai không như thế hay sao ?  Có lẽ anh không biết nhưng bà chị của em từ ngày còn bé đã được trời phú cho một tấm nhan sắc và tính tình khiến cho người chung quanh ai cũng thương cũng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 236

mến ; tất cả gia đình dành cho chị một sự đãi ngộ, bao che đặc biệt, chẳng khác nào con trời con phật (40) gửi gắm mình nuôi. Khi em biết được tình cảm chị ấy dành cho anh , đồng thời cả những nguyên tắc xã hội ràng buộc chị ấy, em không có lòng dạ nào phạm cái tội ác là cướp mất người chị ấy yêu. Nếu chị ấy nghe em nói, chị ấy có thể bảo là em đặt điều, nhưng em tin ít nhất anh là người thấu hiểu lòng em ! Riêng em thì thây kệ thiên hạ nghĩ thế nào, em phải hành động sao cho tâm hồn mình được yên ổn. Nếu trong cuộc đời này, một người hội đủ mọi điều kiện để có được hạnh phúc như chị của em lại phải sống trong đau khổ thì em sẽ cố gắng tìm mọi cách để chị có được hạnh phúc dầu chỉ là một hạnh phúc nhỏ nhoi. Từ lúc đầu, vì nghĩ như vậy nên em đã chấp nhận trở thành vợ anh đó. Xin anh hãy có được một thái độ tương tự, hãy xử sự trước mắt mọi người như thể anh với em là một cặp vợ chồng, tuy mình vẫn không ăn ở thực sự với nhau. Nếu anh không cố gắng để thực hiện nổi điều nầy, có nghĩa là anh không có lấy được phân nửa tình cảm của em dành cho chị ấy ".

Cha tôi đâu chịu kém đàn bà. Trong đầu óc, ông chỉ muốn sao mình cũng có thể vượt lên ngang hàng với một sự hy sinh như thế.

-Không ! Ông nói. Em có lý, anh xin cảm ơn em. Bởi vì chị hai chịu đựng cảnh góa bụa, anh cũng sẽ xem mình như ở giá cho đến ngày cuối cùng của đời. Từ lúc đầu anh đã định bụng như vậy. Sở dĩ nãy giờ anh ăn nói như thế chỉ vì anh không đành lòng bắt em phải sống như một ni cô. Nhưng nay anh đã nghe được tâm tình hết sức cao thượng của em, anh không biết lấy lời nào để cảm tạ em cho đủ. Nếu em đã lấy quyết định như vậy, anh không cản em chi nữa. Nếu anh thú thật là anh sung sướng khi chuyện được quyết định như vậy, em có nghĩ rằng anh là người tàn nhẫn không hở em ? Anh biết rằng mình không có quyền gì chờ đợi từ nơi em một thái độ như thế mà chỉ trông đợi ở mỗi lòng thương yêu của em thôi.

Cha tôi cầm lấy bàn tay của O-Shizu với tất cả lòng kính cẩn và hai người đã thức nguyên tối tân hôn bên nhau không ngủ, chuyện trò đến sáng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 237

xx

Như thế, dưới mắt mọi người, cha tôi và O-Shizu là một cặp vợ chồng đầm ấm thuận hòa trong khi trên thực tế họ không ăn nằm với nhau. Chính O-Yuu cũng không hề biết chuyện hai người đã ước nguyện hy sinh như thế. Nhìn vợ chồng cô em sống đầm ấm, nàng vẫn hãnh diện nói với người trong gia đình, họ hàng, rằng mình dã có lý khi tác thành cho cuộc hôn nhân. Từ dạo đó, không có hôm nào mà ba người không đến thăm nhau, và mỗi khi có dịp coi hát hay dạo chơi phong cảnh, vợ chồng Seribashi lúc nào cũng có mặt. Người ta còn thấy nhiều khi hai bên mời nhau đi du lịch chung, những chuyến đi kéo dài hai ba hôm. Vào những dịp đó, ba người có dịp trải gối ngủ cạnh nhau chung một gian phòng và thành thói quen. Đến nỗi ngoài những cuộc đi chơi chung như vậy, nhiều khi O-Yuu giữ hai vợ chồng Seribashi qua đêm đằng nhà mình và có lúc đến ngủ lại bên nhà họ. Về sau, cha tôi thường nhắc lại kỷ niệm thời đó với vẻ luyến tiếc như việc O-Yuu, trước khi đi ngủ, thường bảo cô em gái : " Nầy, O-Shizu, đến ấp chân cho chị ấm, đi em ! " và kéo nàng qua giường mình. Nàng hay lạnh chân nên khó dỗ giấc ngủ trong khi thân thể O-Shizu ấm áp một cách đặc biệt nên cô lúc nào cũng giữ nhiệm vụ sưởi ấm chân bà chị.

-Từ khi em đi lấy chồng, O-Yuu nói như xin lỗi, chị có nhờ mấy con hầu sưởi cho chị nhưng không đứa nào làm chị được ưng ý như em. Không biết có phải đã thành cố tật hay không chứ lồng ấp chân hay túi chườm nước nóng không sao làm cho chị đỡ lạnh.

-Chị đừng ngại ngùng chi. Em có mặt ở đây cũng là để giúp chị tìm lại những thói quen cũ. Vừa trả lời như thế vừa vội chui vào giường O-Yuu và ở cho đến lúc O-Yuu cho biết nàng đã đến cơn buồn ngủ và O-Shizu có thể để nàng một mình.

Nhân nói về những sở thích đài các của O-Yuu, tôi còn được nghe nhiều chi tiết khác nữa . Nàng bao giờ cũng có bên cạnh ba bốn kẻ hầu hạ, mỗi khi nàng rửa tay thì một cô hầu phải xách gáo xối nước cho nàng, một cô khác cầm khăn. O-Yuu chỉ cần chìa hai tay ra là cô hầu đã chờ sẳn để lấy khăn lau cho nàng kỹ lưỡng. Nàng không bao giờ phải động

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 238

chân động tay, cả trong việc xỏ chân vào giày hay khi đi vào phòng tắm để tắm gội. Ngay thời đó, tất cả những chuyện nầy được xem như là một trò xa xỉ quá quắt đối với một người đàn bà gốc gác con nhà buôn. Thế nhưng lúc đem nàng gả cho cậu ấm nhà Kayukawa, cha nàng đã cẩn thận giải thích với bên thông gia: con gái của ông vốn được nuôi dạy như thế và bây giờ bắt nàng thay đổi tập quán thì đã quá trễ và nhân vì gia đình bên chồng muốn cưới nàng về cho bằng được, ông nài nỉ họ nên đối đãi với nàng theo cách thức áp dụng cho đến bây giờ. Như thế, lấy chồng, thành mẹ một đứa con rồi mà O-Yuu vẫn giữ cái tính ngang nhiên của một người con gái mới dậy thì. Cha tôi thường nói khi đến chơi nhà O-Yuu, ông có cảm tưởng như bước vào phòng ốc một cung điện. Có lẽ vì cách trang trí nơi đó hoàn toàn phù hợp với sở thích của chính mình nên làm ông có ấn tượng như vậy. Hơn nữa, những vật dụng trong phòng của O-Yuu đều là những đồ dùng chế tạo rất trang nhã, chạm trổ hoa văn cổ truyền như thể của triều đình; từ cái máng khăn cho đến bồn nước, cha tôi cho biết, tất cả đều là gỗ đánh bóng bằng sáp hay thếp vàng. Thay vì dùng cánh cửa kéo, để ngăn phòng này với một phòng khác bên cạnh, đã có một cái giá lớn trên đó có giăng các tấm áo khoác kosode và còn thay đổi chúng mỗi ngày. O-Yuu chiếm chỗ đó, nàng không nằm trên sàn xây cao lên như vẫn thấy trong các căn nhà xưa, nhưng chỉ dựa trên một cái bệ để tì tay. Lúc rảnh rỗi, nàng hay sắp đồ lề ra xông hương quần áo hay đốt trầm để mùi thơm thấm vào áo xống; có khi, cùng với các cô hầu cận, nàng tổ chức những buối thi phân biệt các mùi hương, chơi trò ném quạt (41) hay xem đánh cờ vây để giết thời giờ. Một người như O-Yuu thì chỉ có thể có những thú vui tao nhã. Tuy nàng không giỏi cờ vây nhưng nàng rất yêu cái bàn cờ bằng gỗ thếp vàng của nàng, trên đó có những hoa văn hình mấy thứ cỏ mùa thu, và nàng đùa với mấy trò đơn giản như sắp năm con tốt thành hàng, gọi là để có dịp dùng đến bàn cờ. Ngày ba bữa cơm, nàng dùng những chén bát bé xíu như đồ dùng của búp-bê và đơm cơm trong một cái bát sơn. Khi nàng khát, người giúp việc mang lại cho nàng chung trà đặt trên một chiếc khay chuyên dùng vào việc đó; nếu nàng muốn hút thuốc thì đã có một gã đàn ông phục vụ đến bên cạnh, nhồi thuốc và châm lửa vào cái ống điếu dài mỗi bận nàng bập một hơi. Đêm đến, họ dựng bên giường nàng một tấm bình phong trang trí kiểu Kôrin (42) ;

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 239

buổi sáng khi nàng thức giấc, nếu trời lạnh, người ta trải trong buồng nàng một tấm đệm bằng giấy dầu và thay nước nóng trong chậu gỗ hay thau nhiều lần để nàng lau mặt. Vì mọi sự phải được tổ chức sao cho nàng được thoải mái, mỗi lần nàng xê dịch, người nhà phải chuẩn bị bao nhiêu là đồ lề và trong những chuyến đi chơi, luôn luôn có ít nhất một cô người làm theo hầu, còn O-Shizu thì thường xuyên để ý tất cả mọi chi tiết trong khi cha tôi cũng phụ giúp. Mỗi người phụ trách một công việc: xách hành lý, mặc áo quần, đấm bóp cho nàng, để nàng không phải thiếu thốn điều gì. Cậu bé con của nàng lúc ấy đã cai sữa, hơn nữa đã có một vú em trông coi cho nên nàng không bao giờ phải giữ con bên cạnh mình. Duy có một lần, khi ba người đi thưởng hoa anh đào ở Yoshino, buổi tối về khách sạn, O-Yuu than mình bị lên sữa và đòi O-Shizu bú cho đỡ căng. Lúc đó cha tôi chứng kiến cảnh đó, mới cười và khen O-Shizu làm phận sự được giao cho một cách khéo léo.

-Tại em quen việc rồi. O-Shizu trả lời cha tôi. Sau khi sanh xong, cháu Hajime đã được gửi cho vú nuôi nên chị hai em hay nhờ bú hộ để đỡ bị tức sữa.

Khi cha tôi hỏi mùi vị sữa người như thế nào:

-Em không nhớ rõ hồi em còn bú mẹ thì vị như thế nào nhưng bây giờ, khi bú thì em thấy nó hết sức ngọt. Anh thử nếm xem!

O-Shizu trả lời cha tôi như thế rồi lấy sữa rịn ra từ bầu vú vào một cái tách và trao cho cha tôi. Cha tôi nhấm một chút ở đầu lưỡi và làm bộ dửng dưng bảo rằng sữa có hơi ngọt thật. Nhưng vì cha tôi không tin rằng O-Shizu đã làm cử chỉ ấy một cách vô tình, đôi má ông bỗng ửng đỏ lên, không nán lại được trong phòng mà phải trốn ra ngoài hiên và lập đi lập lại: Vị gì lạ quá! Lạ quá! Trong khi đó O-Yuu có vẻ khoái chí, cười lanh lảnh. Từ sau sự cố nầy, O-Shizu bày ra đủ chuyện trớ trêu làm như thể cô cảm thấy thú vị mỗi khi cha tôi gặp cảnh bối rối ngượng ngùng. Ban ngày vì có nhiều người vây quanh cho nên họ không có dịp đối mặt tay ba nhưng nếu may mắn được một cơ hội như thế, O-Shizu bèn bỏ ngay đi chỗ khác để mặc cha tôi ở một mình thật lâu với O-Yuu, rồi trở về bất chợt khi cha tôi bắt đầu bồn chồn. Những lúc họ ngồi bên

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 240

nhau, bao giờ cô cũng xếp cha tôi ngay cạnh O-Yuu. Ngược lại, khi họ chơi bài hay một trò nào đó phải tranh thắng bại, cô ta lại đặt cha tôi đối mặt O-Yuu để cho hai người phải là địch thủ của nhau. Khi O-Yuu nhờ em gái giúp mình buộc lại cái giải lưng, O-Shizu bảo rằng việc đó cần đến sức đàn ông và bắt cha tôi phải thắt hộ; lúc khác, cần thử đôi tất mới, cô ta lại bảo ghim quá cứng khó tháo và gọi cha tôi đến giúp, nghĩa là bày đặt mọi thứ để có dịp ngắm cha tôi thẹn thùng hay bối rối. Dĩ nhiên đó chỉ là những trò tinh nghịch ngây thơ mà cha tôi biết là không có ác ý và không chủ tâm bày ra để chế nhạo ông nhưng mặt khác, O-Shizu không phải là không có dụng ý giải tỏa sự e dè giữa O-Yuu và cha tôi, để một ngày nào đó, đưa đẩy bởi hoàn cảnh, cuối cùng hai bên sẽ thổ lộ tình cảm của họ và hai con tim sẽ tìm đến nhau. Dù sao, thấy như thể O-Shizu trông mong tạo được một kích thích hay một sơ sẩy nào đó giúp hai bên có cơ hội khắng khít hơn.

Mối liên hệ giữa O-Yuu và cha tôi không có gì thay đổi cho đến ngày có chuyện xảy ra giữa hai chị em O-Yuu và O-Shizu. Hôm ấy, cha tôi đến thăm O-Yuu, bỗng thấy nàng quay đầu dấu khuôn mặt đầm đìa nước mắt mà không hiểu tại sao. Ngạc nhiên trước cảnh tượng hiếm có nầy, ông mới hỏi O-Shizu xem chuyện gì đã xảy ra thì được cô trả lời rằng chị cô đã biết tất cả rồi. Cô chỉ nói thêm rằng mình ở trong cảnh bắt buộc phải thổ lộ tất cả cho chị nhưng không giải thích tại sao cuộc đàm thoại giữa hai chị em lại dẫn đến chỗ đó, làm cho cha tôi không hiểu cặn kẽ lý do hành động của cô ta. Có lẽ O-Shizu đã lợi dụng một cơ hội nào đó để ướm hỏi O-Yuu và dẫn nàng đến đề tài này, và cho rằng đã đến lúc có thể nói rõ sự thật được rồi để O-Yuu, khi biết rằng em gái mình và cậu em rể không phải là một cặp vợ chồng thật, có thể có đôi lời trách móc nhưng rồi rốt cục sẽ phải chấp nhận điều đó như sự đã rồi và xúc động bởi sự tận tụy của hai người đối với mình. Thật ra, O-Shizu vẫn có thói quen tính toán trước mọi chuyện và có lẽ do cái tính hay lo toan của nàng, từ khi còn trẻ , cô đã có cái mưu trí của một geisha lão thành. Dường như cô đã lại có thói quen hy sinh cả tâm hồn và thể xác của mình miễn là người chị được hạnh phúc và chính cô từng thú nhận đối với mình không có niềm hạnh phúc to lớn nào hơn là lo lắng được cho chị. Chỉ cần ngắm khuôn mặt của O-Yuu là cô hầu như quên được tất

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 241

cả, ngay bản thân. Nhiều khi cô lo lắng cho chị đến độ quấy rầy nàng nhưng điều đó chỉ bắt nguồn từ sự tận tâm vô vụ lợi, khi cha tôi thấy, ông chỉ biết nhỏ nước mắt mà cảm ơn. Lúc đầu, O-Yuu giật nẩy:

-Tôi có biết đâu vì tôi mà ra nông nỗi như thế nầy. Mấy người mà đối với tôi như vậy thì thế nào kiếp sau tôi cũng bị trời phạt.

Nàng lo âu nói như thế và van xin hai người, nếu chuyện còn có thể thay đổi được, thì từ nay về sau phải sống như vợ chồng thật.

Tuy nhiên, O-Shizu vẫn không lùi bước:

-Dù sao, đâu phải vì chị đòi hỏi mà tụi em quyết định như vậy. Anh Shinnosuke và em, hai đứa đã hành động theo ý mình. Chị không có gì phải lo lắng vì bất cứ điều chi. Đáng lẽ em không nên đem chuyện này tâm sự với chị làm gì. Tha lỗi cho em nhé. Tốt hơn hết chị hãy làm như không biết gì cả.

Tuy từ đó O-Yuu thưa thớt việc đi lại nhưng vì cả gia đình đều biết đến tình thân giữa ba người nên họ không thể nào ra mặt từ nhau, không những thế cuối cùng họ dần dần trở lại thân mật như xưa và rốt cuộc, kế hoạch mà O-Shizu đặt ra đã thành công mỹ mãn. Thật vậy, những ai có khả năng dò xét tận đáy lòng của O-Yuu sẽ thấy tâm hồn nàng có một sự thư giản như thể những sợi giây chăng ra để phòng ngự mà nàng tạo ra cho mình tự bấy lâu nay đã được phá bỏ: tuy nàng có chống đối và không chấp nhận bằng chứng về sự tận tụy của cô em nhưng cùng lúc, nàng không thể không cảm thấy có một sự đồng tình ngoài ý muốn. Trong khoảng thời gian tiếp theo biến cố vừa kể, O-Yuu có một thái độ dửng dưng đến kiêu kỳ. Trạng thái tinh thần này thể hiện qua sự chấp nhận tất cả mọi sự ưu ái mà cha tôi và em gái nàng đã dành cho, nàng để họ nuông chiều nình mà không có lấy một lời, khiến cho họ chẳng hiểu nàng có nhận ra những sự cực nhọc họ gánh chịu vì nàng hay không. Cũng chính trong thời gian nầy cha tôi bắt đầu dùng cách gọi "Yuu phu nhân". Một hôm, khi hai người bàn đến chuyện của nàng, O-Shizu mới bảo cha tôi: "Anh không phải gọi "Chị Hai" mỗi khi anh nhắc đến người ấy trước mặt em nữa; và cha tôi nhận ra rằng cách gọi tôn

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 242

xưng như trên mới thích hợp với cái tính nết của nàng. Sau đó, hai người cứ quen miệng gọi như thế mãi, cho đến một ngày cha tôi buột miệng gọi "Yuu phu nhân" trong khi nói chuyện với chính nàng. Nghe như thế nàng có vẻ thích chí và cho phép hai người khi nói chuyện với nhau về nàng thì cứ dùng cách gọi như vậy. Đó là cách thức nàng biểu lộ tấm lòng biết ơn của mình đối với những sự ưu ái họ đã bày tỏ, đồng thời muốn mọi người hiểu cho là tự ngày bé, nàng đã quen xem đó là những điều tự nhiên. Tóm lại, nàng muốn nói với họ là nếu họ đối xử với nàng một cách kính cẩn thì nàng không có cớ gì để bất mãn. Xin kể ra một ví dụ khác về tính trẻ con và đồng bóng của nàng. Một hôm nàng bảo với cha tôi: "Anh nín thở đi, khi nào tôi cho phép mới được thở!" và lấy ngón tay bịt lấy mũi cha tôi. Tuy nhiên, vì cha tôi nhịn thở không nổi mới để thoát ra một làn hơi nhẹ thì nàng quở ngay:

-Ai cho phép anh thở đâu nào! Để phạt anh, . . . .

Thế rồi nàng lấy ngón tay khép chặt hai cái môi của cha tôi rồi kiếm cái khăn lụa đỏ xếp làm đôi , giữ hai đầu và bịt kín miệng ông ta. Lúc ấy, khuôn mặt ngày thường thấy có vẻ trẻ con, thấy hoàn toàn như một học trò mẫu giáo và không ai nghĩ rằng đó là khuôn mặt của người đàn bà đã ngoài hai mươi cả. Hoặc:

-Anh không được nhìn tôi, nàng ra lệnh, đặt hai tay sát đất, cúi đầu cung kính cái coi. Và bây giờ trở đi, cấm anh cười. Nàng vừa nói vừa cù dưới cằm và hai bên mang tai cha tôi. Lại có lúc nàng bảo "Đừng có la lên đó nghe!" thế rồi hết bấu véo chỗ này đến chỗ kia. Những trò nghịch ngợm này xem ra làm nàng hết sức khoái chí.

-Tôi muốn anh phải thức cả trong lúc tôi ngủ. Nếu có buồn ngủ, anh cũng cứ phải dòm thẳng mặt tôi lúc tôi ngủ và rán cưỡng lại không được nhắm mắt!

Thế rồi trong lúc nàng ngủ ngon lành và đến lượt cha tôi đờ đẫn vì cơn buồn ngủ xâm chiếm, rồi khi cha tôi định chợp mắt một chốc thì nàng đã thức dậy đột ngột và làm ông ta phải bừng tỉnh bằng cách thổi vào lỗ tai hay cuốn giấy làm giây ngoay ngoáy trên da mặt. Theo lời cha tôi kể,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 243

tính O-Yuu có cái gì như thích đóng trò, nó in đậm nét trong ý nghĩ và cử chỉ của nàng một cách tự nhiên đến nổi chính nàng cũng không nhận biết. Những trò nghịch đó không có gì giả tạo hay làm cho bực mình, ngược lại, nó bộc lộ cái tinh anh và duyên dáng của nàng. Chính ở điểm này, người ta nhận ra sự khác nhau giữa hai chị em bởi vì làm trò, đóng kịch không phải là sở thích của O-Shizu. Chỉ có O-Yuu mới làm ra vẻ kiểu cách mà không bị ai cho là kỳ khôi những khi cô mặc chiếc áo choàng kiểu cung đình để trình diễn đàn koto, ngồi dưới bóng một bức rèm làm bằng tấm áo mát kosode hay nhấp sake trong cái chén sơn mà những cô hầu rót cho nàng.

"Dù sao, mối liên hệ giữa cha tôi không đi đến chỗ thân mật như vậy nếu O-Shizu không làm trung gian đưa đẩy. Nhân vì ở đằng cặp Seribashi, họ tránh được những cặp mắt dị nghị hơn là khi ở nhà Kayukawa cho nên phần nhiều O-Yuu hay đến chơi với hai vợ chồng. O-Shizu lại ranh mãnh viện cớ du lịch với kẻ hầu người hạ sẽ gây ra nhiều tốn kém và chỉ cần mỗi mình cô cũng lo cho O-Yuu đầy đủ, nên thường tổ chức những cuộc đi chơi tay ba, hết đền Ise tới đền Kotohira. Cô ăn mặc đơn sơ như là một cô tớ gái và cho đặt giường ngủ của mình trong một căn phòng nhỏ kế cận căn phòng chính. Mỗi người trong bọn đóng vai trò của mình , tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi lời ăn tiếng nói và cử chỉ sao cho thích hợp. Nếu cách đơn giản nhất vẫn là làm cho nhân viên lữ quán tin rằng cha tôi và O-Yuu là một cặp vợ chồng, thì O-Yuu lại thích đóng vai cô chủ, xem cha tôi một người quản gia hay thư ký, hoặc đối xử với ông như một người nghệ sĩ mà cô có nhiệm vụ bảo bọc, che chở. Trong những chuyến đi , cha tôi và O-Shizu chỉ gọi O-Yuu là " phu nhân". O-Yuu xem đó như là một trò chơi làm nàng tiêu khiển và hầu như không mấy khi quan tâm đến nó, chỉ có lúc dùng cơm chiều, sau khi uống tí rượu thành ra dạn dĩ hơn thì khi được gọi như vậy nàng mới vui hẳn lên và cất tiếng cười nắc nẻ. Tuy nhiên tôi phải nói điều này để bênh vực cho O-Yuu và cha tôi, nghĩa là cho dù khi mối liên lạc giữa hai người đạt đến độ thân mật như thế , cả hai đều biết ngừng lại ở cái mức độ cuối cùng. Ta có thể xem như đến trình độ này thì điều đó chỉ còn là một chi tiết nhỏ, có cũng được không chẳng sao, để mà đánh giá sự khác nhau. Thật ra cũng khó mà dung thứ cho họ với lý do là họ chưa vượt

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 244

qua cái giới tuyến nhỏ nhặt nầy nhưng tôi cảm thấy lời trình bày của cha tôi về chuyện đó là đáng tin. Một hôm ông nói với O-Shizu: " Có thể là đến cái mức độ như bây giờ giữa anh và chị O-Yuu thì không cần phải bào chữa kia nọ để làm gì. Tuy nhiên, có trời phật chứng giám, anh phải thề với em rằng cho dù khi anh và O-Yuu nằm ngủ bên cạnh nhau, bọn anh lúc nào cũng giữ đúng phép tắc. Chắc em không thể nào tin như thế nhưng "Yuu phu nhân" và anh không thể nào khinh lờn em được, nếu không thì kiếp sau phải bị quả báo. Có thể anh và O-Yuu gìn giữ như thế để được sự yên ổn trong tâm hồn.

Nếu có một phần thành thực trong lời nói của ông thì cũng có thể là hai người sợ có con. Tuy nhiên quan niệm về trinh tiết có thể được giải thích năm bảy đường, rộng rãi hay khe khắt, cho nên không ai có thể khẳng định một trăm phần trăm là O-Yuu giữ cho mình không vướng chút tội lỗi nào. Nhân nói về chuyện này, tôi nhớ cha tôi hãy còn một tấm áo kosode dùng vào mùa đông của nàng để trong một cái hộp bằng gỗ ngô đồng tẩm hương thơm có khắc chữ do chính tay O-Yuu viết, mà ông trân trọng giữ gìn. Một hôm cha tôi cho tôi xem các vật đựng trong hộp. Khi ông ta lấy từ đó ra tấm áo dài bằng nhiễu chirimen nhuộm kiểu Yuzen (43) được xếp lại và dấu dưới tấm kosode cho tôi xem và bảo:

- Đây là một chiếc áo mà "Yuu phu nhân" mặc lót mình . Con xem, loại nhiễu nầy có nặng không nào?

Đặt lên hai tay để xem thử nặng nhẹ, tôi nhận ra đó là một chất liệu khác với các thứ hàng người ta dùng thời nay. Đây là loại nhiễu ngày xưa, có độ lồi lõm sâu mà sợi thì dày, buông xuống nặng như một tấm lưới kim loại.

-Nặng đấy chứ, có phải không con? Cha tôi hỏi và khi thấy tôi trả lời đúng như ý, ông gật gù ra dáng sành sõi:

-Một loại nhiễu có giá không chỉ cần mềm mà còn phải có độ lồi lõm sâu. Sau khi bàn tay đã chạm vào mặt nham nhám của tấm áo để lần vào thân thể của người đàn bà thì mới cảm thấy rõ hơn cái mềm mại của làn da. Ngược lại, người đàn bà mặc một tấm áo bằng nhiễu như thế nầy

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 245

phải có một làn da thật mượt mà để những hạt hiện ra rõ nét và như thế, khi sờ vào mới thú. Chân tay O-Yuu hết sức nõn nà và khi nàng mặc áo này, lớp nhiễu càng làm tăng thêm vẻ đẹp đó.

Nói xong, ông ta đến lượt ông ta nâng lấy tấm áo trên hai tay xem nặng nhẹ rồi và cất tiếng than:

-Ôi chao, cái thân hình như thế mà phải mang tấm áo nặng cỡ này!

Thế rồi, ông áp chặt tấm áo lên má như thể đang ôm ấp O-Yuu trong vòng tay mình.

-Khi cụ nhà ta cho ông xem tấm áo của bà O-Yuu, chắc lúc ấy ông đã là đàn ông con trai rồi chứ nhỉ? Lúc đó là lần đầu tiên tôi mới cất tiếng hỏi, cắt ngang lời kể chuyện của người lạ mặt mà tôi đã yên lặng nghe đến khi ấy. Nếu cụ nhà tâm sự kiểu đó thì trẻ con làm sao hiểu cụ muốn nói gì!

-Thưa không! Năm đó cùng lắm tôi mới có mười tuổi thôi nhưng cha tôi, khi kể truyện, không hề coi tôi như con nít. Lúc mới nghe chuyện, tình thật tôi không hiểu bao lăm, nhưng cha tôi ổng nói sao tôi cứ nhớ in như vậy, rồi khi tới tuổi biết suy nghĩ, tôi mới rõ ra ổng muốn nói gì.

-Thế thì, nếu được, ông cho phép tôi hỏi thêm một câu nhé! Nếu mối liên lạc giữa O-Yuu và cụ nhà chỉ có thế thì ai sinh ra ông vậy?

-Tôi hoàn toàn thông cảm với điều ông thắc mắc và câu chuyện tôi thưa với ông sẽ dở dở dang dang nếu tôi không trả lời được câu ông hỏi. Ông chịu khó nghe tôi kể thêm vài phút nữa đi. Mối liên hệ lạ lùng giữa cha tôi và O-Yuu không kéo dài được lâu la, ba bốn năm là cùng tính từ lúc O-Yuu hăm bốn hăm lăm tuổi. Năm nàng hăm sáu thì cậu Hajime, đứa con nàng có với người chồng quá cố, bị ban sau mắc thêm chứng viêm phổi rồi qua đời. Cái chết của cậu bé này đem tới cuộc đời O-Yuu những hậu quả nghiêm trọng và cùng lúc, đảo lộn tất cả cuộc sống của cha tôi. Trước đó một thời gian, mối liên hệ mật thiết giữa O-Yuu và gia đình vợ chồng Seribashi, nếu không bị bên Kosobe tức nhà cha mẹ, có

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 246

điều tiếng gì, đã trở thành đầu đề câu chuyện bàn cãi bên Kayukwa, phía nhà chồng, giữa bà mẹ chồng của O-Yuu và những người trong thân tộc, mà một vài nhân vật trong đám họ tuyên bố không hiểu nổi thái độ của O-Shizu. Cho dù cô này có khéo léo lấp liếm, với thời gian sự nghi ngờ cũng lần hồi lộ ra ánh sáng và đã có những lời trách móc kiểu như "Con vợ thằng Seribashi khờ khạo quá!" hoặc là "Chăm lo cho chị thì cũng vừa vừa thôi chớ!", chỉ có bà cô ruột tôi, người đã đoán biết liên hệ giữa bộ ba nầy, hết sức lo lắng cho họ. Tuy nhiên, nếu bên nhà Kayukawa lúc đầu còn để ngoài tai những lời đồn đại, nhưng nhân cái chết của cậu Hajime thì O-Yuu bị họ chỉ trích là đã bỏ bê con cái, một điều chính ra không mấy oan ức cho nàng. Tuy không phải là người không thương con nhưng từ lâu nàng đã quen giao cho vú em lo từ đầu đến cuối. Người ta còn kể rằng, nhằm lúc nàng tạm rời giường bệnh đứa bé để nghỉ ngơi một buổi cho lại sức là chính lúc bệnh nó trở nặng và biến ra chứng viêm phổi. Khi còn đứa con trai, O-Yuu là một nhân vật quan trọng trong gia đình, nhưng từ khi nó chết rồi thì bắt đầu có những lời đàm tiếu chung quanh nàng, một bà góa hãy còn quá trẻ. Họ lại bàn nhau tốt hơn nên trả nàng về nhà cha mẹ trước khi mọi chuyện rắc rối có thể xảy ra. Thế rồi sau khi đã kỳ kèo và bàn cãi lung lắm về số phận của nàng, hai bên gia đình đi đến một kết luận thoả đáng là gạch tên nàng khỏi hộ tịch nhà Kayukawa. O-Yuu trở về sống bên nhà mình nhưng lúc đó, người anh trai nàng đã trở thành gia trưởng họ Kosobe và tuy ông này tìm đủ mọi phương tiện để đón rước nàng một cách trọng thể, xứng đáng với địa vị cô em ngày xưa cha mẹ cưng yêu mà sự việc nhà chồng thải về bị coi như là một điều sỉ nhục, nàng không còn được tự do như thời song thân còn sinh tiền và luôn luôn cảm thấy bị ràng buộc. O-Shizu bao lần đề nghị với O-Yuu nếu ở đằng Kosobe sống không thoải mái thì cứ dọn về ở với vợ chồng mình nhưng ông anh trai đã cắt đứt ngay cuộc đối thoại dẫn đến quyết định nầy bằng cách đưa ra ý kiến khuyên nên thận trọng. Theo lời O-Shizu, có lẽ ông ta đã biết hết sự thực và việc ông ta đã lo việc tái giá cho O-Yuu chỉ trong vòng một năm sau, đã xác nhận giả thuyết nầy. Người cầu hôn là một ông chủ lò rượu sake ở Fushimi, tuổi khá lớn, vốn đi lại với gia đình Kayukawa và thừa biết cái tính thích tiêu pha của O-Yuu. Ông ta mới góa vợ gần đây, sốt sắng muốn cưới cho được O-Yuu. Nếu O-Yuu chịu lấy, ông sẽ không

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 247

bắt nàng về ở đằng lò rượu ở Fushimi mà sẽ nới rộng biệt thự của ông bên bờ đầm Ogura, xây cất nó lại theo kiến trúc trà thất cổ truyền, thành một chỗ ở mà nhất định nàng sẽ hài lòng. Đó là một đề nghị hết sức đàng hoàng, chỉ đưa ra toàn những chuyện ưng ý và hứa hẹn với O-Yuu là nàng sẽ có những điều kiện sinh hoạt xa hoa lộng lẫy hơn cả những gì nàng đã hưởng như con nhà lãnh chúa hồi làm dâu gia đình Kayukawa. Người anh của nàng xiêu lòng ngay và muốn nhận lời. Ông ta thuyết phục nàng:" Đây là dịp may đến với cô. Kết hôn với người này, cô sẽ làm bẽ mặt những kẻ bêu riếu cô, không phải là điều hay à?". Không chỉ thế thôi, ông còn gọi cha tôi và O-Shizu đến, thúc bách họ nói khéo làm sao cho O-Yuu nhận lời, để dập tắt những lời đồn đại. Đến lúc đó thì cha tôi, trung thành với mối tình tuyệt đối của mình, chỉ thấy mỗi giải pháp duy nhất là cùng nhau tự tử vì tình. Trên thực tế, ông đã toan tính nhiều lần nhưng không biến nó thành hành động được vì bên ông còn có O-Shizu. Tình cảm của ông có thể tóm gọn trong một câu: ông không thể nào chết đi để O-Shizu ở lại trơ trọi một mình và cũng không muốn tự tử tay ba. Đó cũng là nỗi ám ảnh của O-Shizu: "Bề gì, cũng phải cho em theo anh chị. Em không tưởng tượng được có sự khổ tâm nào lớn hơn là bị bỏ qua một bên sau khi cùng nhau sống tới phút nầy!" Khi O-Shizu nói như thế, lần đầu tiên trong lời của nàng lộ ra một chút tình cảm ghen tuông, tình cảm mà trước đó nàng chưa bao giờ hé lộ, và sau này cũng không hề tỏ ra nữa. Thế nhưng hãy còn có một sự suy tính khác làm chùn bước không cho cha tôi thực hiện giải pháp của mình: ông muốn nương tay với O-Yuu. Một người như nàng phải sinh ra để mà được sống một cuộc đời luôn luôn tươi trẻ ngây thơ, một cuộc đời diêm dúa xa hoa, lúc nào cũng có kẻ hầu người hạ; bắt nàng phải chết giữa khi có một người đàn ông đề nghị cho nàng được hưởng cuộc sống như thế là điều quá tàn nhẫn. Chính ý tưởng đó quyết định thái độ của cha tôi. Ông bày tỏ với O-Yuu tâm sự của ông như sau. Ông bảo : "Em không có tội tình gì để chia sẻ số phận hẩm hiu của anh; một người đàn bà tầm thường có thể chết vì tình, nhưng riêng em là một vưu vật đã nhận được phước đức của trời đất, nếu mà đem từ khước những ơn huệ này, em sẽ đánh mất tất cả những gì đã tạo nên giá trị của em. Do đó, tốt hơn là em phải ra ngôi biệt thự bên bờ đầm Ogura, sống ẩn náu sau những cánh cửa kéo và bình phong trang trí tuyệt vời ấy. Khi nghĩ rằng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 248

em hưởng một cuộc đời như vậy thì anh sẽ cảm thấy mình hạnh phúc hơn là cái hạnh phúc được chết bên em.

Qua những điều anh vừa kể em nghe, em sẽ không nghĩ rằng anh từ bỏ kế hoạch của mình vì anh sợ chết đâu, em nhỉ. Bởi vì anh biết em có một tâm hồn quảng đại nên anh mới yên trí nói chuyện thẳng thắn với em. Trời sinh ra em là người cao thượng và tự hào, đáng lý ra em có thể bỏ ra đi và cười một cái thằng người như anh.

O-Yuu im lặng nghe cha tôi tỏ bày, một giọt nước mắt ứa ra và lăn trên gò má, nhưng thoắt cái, nàng đã ngước lên nhìn cha tôi với gương mặt bình thản:

-Nếu đó là ý muốn của anh thì em xin chiều theo thôi.

Nàng chỉ nói chừng đó, không lộ chút bối rối hay muốn biện minh cho mình gì cả. Cha tôi bảo tôi chưa bao giờ ông thấy nàng có một phẩm cách đáng ngưỡng mộ hơn lúc nầy.

xx

Sau đó ít lâu, O-Yuu lấy chồng và về sống ở Fushimi. Ông Miyazu, chồng nàng, hình như là một tay ăn chơi. Ông ta chọn nàng làm vợ chỉ vì sắc đẹp của nàng, chẳng mấy lúc đã chán chê, đến nỗi không mấy khi bỏ công đến thăm nàng ở ngôi biệt thự. Đối với ông, nàng không khác gì hơn một vật trần thiết như đồ người ta chưng trong hốc một gian phòng khách, khác chăng là ông ta cung phụng nàng đầy đủ và nhờ đó, O-Yuu tiếp tục sống trong một thế giới như sao chép ra từ những bức tranh minh họa tập truyện Inaka Genji (44). Trong lúc ấy, ở Osaka, dòng họ Kosobe, gia đình nàng cũng như gia đình cha tôi bắt đầu suy sụp một cách nhanh chóng. Như tôi đã kể ông nghe, lúc mẹ tôi qua đời, gia đình tôi phải trú ngụ tạm bợ ở căn hộ thuộc một dãy phố nằm lút trong hẻm. Khi tôi nói đến mẹ tôi tức là muốn nói tới O-Shizu, người đàn bà đã sinh ra tôi. Sau khi chia tay với O-Yuu trong hoàn cảnh tôi vừa kể ông nghe, cha tôi mới biết thương O-Shizu vì những sự cực nhọc mà bà chịu đựng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 249

trong bấy nhiêu năm và vì tình thương vô bờ bến của bà đối với O-Yuu. Ông đã xem mẹ tôi như người vợ thực sự. "

Sau những lời cuối cùng nầy với một giọng đôi khi như đứt đoạn vì câu chuyện dài đã làm mình hết hơi, người đàn ông mới ngừng lại và móc thuốc lá từ trong túi ra .

-Tôi cảm ơn ông đã kể cho nghe một truyện thật lôi cuốn. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao ngày còn bé, cụ nhà đã dẫn ông đi với cụ và dắt ông vòng chung quanh ngôi biệt thự bên bờ đầm Ogura. Ông bảo với tôi, có phải không ạ, mỗi năm ông tiếp tục đến đó để ngắm trăng. Nếu tôi không lầm thì hôm nay, một lần nữa, ông cũng đang trên đường trở lại thăm chốn ấy?

-Vâng, tôi sắp đi đến đấy, ông ạ. Một lần nữa, đêm nay rằm tháng tám, trong khi đi vòng chung quanh ngôi biệt thự đó và nhìn qua khe hở của bờ dậu, tôi lại sẽ trông thấy O-Yuu đang đánh đàn koto đệm cho mấy cô hầu múa.

-Thế chứ O-Yuu ngày nay không phải đã là một bà cụ tròm trèm tám mươi rồi sao, thưa ông?

Tôi lấy làm kỳ , sửng sốt hỏi lại sau khi nghe ông ta nói thế. Nhưng tôi chỉ nghe mỗi tiếng gió vi vu lướt qua lá cỏ, một vùng lau lách suốt trên bãi sông đã mất dạng không biết lúc nào và hình bóng của người đàn ông cũng tan loãng vào ánh sáng của đêm trăng.

Bắt đầu dịch ngày 7/01, xong ngày 25/04/2005. Nguyễn Nam Trân

Chú Thích Của Người Dịch

(1) - Taketori Monogatari (Truyện lão tiều đốn trúc) cổ tích được xem như là nguồn gốc của tiểu thuyết Nhật Bản, ra đời vào thời Heian (794-1185), kể truyện lão tiều đốn trúc tìm thấy cô công chúa cung trăng Kaguya-hime trong lóng trúc, đem về nuôi, sau cô từ chối lời cầu hôn của hoàng đế và của các công tử mà bỏ về trời.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 250

(2) - Okamoto là thành phố nhỏ vùng Kansai, gần Kobe. Tác giả sống ở đây khoảng từ 1926 đến 1936 tức lúc 40 đến 50 tuổi.

(3) - Thiên hoàng sau trở thành thái thượng hoàng Gotoba (1180-1239) một ông vua tài hoa, có chí hướng diệt mạc phủ để trung hưng hoàng thất nhưng thất bại trong chính biến năm Jokyuu thứ 9 (1198), bị đày ra đảo Oki 19 năm. Ở đó ông tiếp tục chỉnh đốn lại thi tập Kokin Waka-shuu mà ông đề xướng việc biên tập. Trên một thế kỷ sau, một thiên hoàng khác, Go Daigo cũng âm mưu trung hưng bất thành và lại bị đày ra đây (1331).

(4) - Bộ sử truyện cuối cùng trong 4 bộ sử truyện (gọi là kagami hay "kính soi") của Nhật. Masu-kagami ghi chép lịch sử Nhật Bản với hình thức biên niên về 15 triều đại trong gần 2 thế kỷ (1183-1333), bắt đầu từ đời thiên hoàng Gotoba (trị vì từ 1183-1239).

(5) - Minase nổi tiếng trong văn học sử Nhật Bản với bài liên ngâm một trăm vần Minase Sangin Hyakuin do ba nhà thơ lớn Sôgi, Shôhaku và Sôchô cùng soạn năm 1488, đọc trong buổi lễ tế thái thượng hoàng Go-toba.

(6) - Fujiwara no Teika (1162-1241), nhà thơ waka có tiếng đầu thời Kamakura. Vâng mệnh thái thượng hoàng Gotoba soạn tuyển tập Kokin Waka-shuu. Tuy bài thơ ghi trên đây chỉ có tính cách thù tạc nhưng Teika thực ra là một nhà thơ tiêu biểu, nhà văn học lớn. Chức quan tham nghị bậc trung (Chuunagon) là chức quan được tham dự triều chính, bàn việc cơ mật nhưng đứng ngoài tổ chức hành chánh.

(7) - Shinchôki, 15 quyển, ra đời khoảng năm 1600, ghi chép về hành trạng của danh tướng thời Sengoku (Chiến Quốc Nhật Bản, 1467-1568) Oda Nobunaga ( Chức Điền, Tín Trường, 1534-1582, người hay được gọi là Shinchôkô hay Tín Trường Công). Araki Murashige (?-1586), tướng cầm quân cho Nobunaga, sau bị nghi là mưu phản và bị giết (có thuyết cho là đi tu), còn Ikeda Shônyuusai hay Terumasa (1564-1613) cũng là tướng giỏi thờ liên tiếp 3 đời chúa Nobunaga, Hideyoshi và Ieyasu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 251

(8) - Bến buôn bán sầm uất trên dòng sông Yodo, nay thuộc Ôsaka. Ngày xưa, có xóm chơi bời nổi tiếng.

(9) - Truyện liên quan đến 47 người vũ sĩ phiên trấn Akô trả thù cho chủ cũ, sau thành tuồng múa rối rất ăn khách. Hồi thứ năm trong vỡ tuồng có nói về lợn lòi và về bọn cướp núi giết người đoạt của ở Yamazaki.

(10) - Bộ sử truyện đầu tiên trong bốn bộ sử truyện thời trung cổ đã nói ở trên . Liên quan đến giai đoạn 14 triều đại từ năm 850 đến 1025, trong đó có đề cập đến cảnh đại thần và văn học gia Sugawara no Michizane trên đường đi đày, có ghé vùng Yamazaki.

(11) - Sau khi cuộc binh biến thất bại, 3 cựu thiên hoàng liên can bị mạc phủ Kamakura đày. Gotoba ra đảo Oki, Tsuchimikado ra đất Tosa và Juntoku, đảo Sado.

(12) - Nhà văn nữ cung đình, không rõ năm sinh năm mất, đã sáng tác Truyện Genji (khoảng năm 1001), với bút pháp hào hoa và lối phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, được xem như tác phẩm lớn nhất của văn học Nhật.

(13) - Setsukasen (Nhiếp-Hà-Tuyền) là tên tắt để gọi ba vùng Setsu, Kawachi và Izumi.

(14) - Tranh vẽ kiểu Nhật thời xưa, phần nhiều là tranh cuốn hay trên bình phong. Chữ dùng để phân biệt với tranh tàu.

(15) - Tác giả muốn nói đến triều Heian (794-1185) , lúc các thiên hoàng nắm quyền và lực lượng quân nhân (samurai) chưa có sức mạnh chính trị.

(16) - Đơn vị đo diện tích đất đai, nhà cửa, tương đương 3,306m2.

(17) - Lúc ở đảo Oki, thái thượng hoàng có câu thơ: "Gió kinh đô đến được đâu! Đảo hoang, muôn sóng đến chầu ta thôi."

(18) - Ken là đơn vị đo chiều dài , khoảng 1,818m.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 252

(19) - Kageki tức nhà thơ waka Kagawa Kageki (1768-1843). Giọng thơ tự nhiên, bình dị.

(20) - Kikaku tức Takarai Kikaku (1661-1707), một trong 10 đại đệ tử của thi hào haiku Matsuo Bashô. Thơ hoa lệ, kiểu cách.

(21) - Nguyên văn viết bằng chữ Hán. Phan Huy Vịnh dịch: " Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách, Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu".

(22) - Ôe no Masahira (952-1012), học giả Hán văn và thi nhân tiêu biểu thời Heian.

(23) - Kayô tức là Hà Dương, tên một vùng đất bên Trung Quốc (nơi Phan Nhạc làm huyện lệnh và nổi tiếng nhiều hoa đẹp) mà thiên hoàng Saga đã đem đặt cho vùng Yamazaki. Lối "mượn tên" như một hình thức tu từ nầy rất phổ thông ở Nhật thời xưa.

(24) - Ôe no Masafusa (1041-1111), chắt của Masahira, học giả thuộc giai đoạn sau đời Heian.

(25) - Cùng với Văn Thù là hai vị bồ tát giúp Đức Phật giáo hóa và cứu độ chúng sinh.

(26) - Saigyô, cao tăng và thi nhân quan trọng cuối thời Heian. Để lại 94 bài trong tuyển tập thơ waka Shin-Kokin-shuu.

(27) - Tên một vở tuồng Nô nói về sự tích nàng Kogô, con gái quí tộc Fujiwara, thiếp yêu của thiên hoàng Takakura (1161-1181). Từ khi Taira no Tokuko, con gái của quyền thần Tairano Kiyomori nhập cung làm hoàng hậu, Kogô bị ông này, vì bảo vệ quyền lợi gia đình mình, bức hiếp đến nỗi phải bỏ đi tu lúc mới 23 tuổi. Tuồng có một khúc ca tụng cảnh trăng đêm tuyệt hay.

(28) - Áo trùm như cái bị để chống rét mà tăng lữ hay trà sư thường mặc để đi đường nên còn được gọi là áo "đạo hành".

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 253

(29) - Tạm dịch: Gió tùng thổi, sông trăng vàng. Đêm dài trời lặng, biết làm chi đây"

(30) - Sau chỉ chung các cô gái làng chơi ở bến Eguchi trên sông Yodo, được nhắc đến trong thơ waka của tăng Saigyô. Trong sách Jikkinshô (Thập Huấn Sao, 1252), cao tăng Seikuu khi viết lại truyện xưa để răn đời có nói đến việc Đức Văn Thù Bồ Tát hoá thân thành gái làng chơi (du nữ).

(31) - Thơ trong thi tập Kokin Waka-shuu.

(32) - Thơ công chúa Nukata trong thi tập Manyôshuu.

(33) - Dặm (ri) đơn vị của Nhật là 3, 9273km. Đoạn đường cậu bé nầy đi và về từ 3 đến 4 dặm, tính ra ít nhất trên 10 cây số.

(34) - Koto, một loại đàn tranh, Samisen hay Shamisen là đàn 3 giây, Kokyuu tức hồ cung hay đàn nhị.

(35) - Hai loại cây hoa bạc như lau sậy, tượng trưng cho mùa thu.

(36) - Cách búi tóc Shimadamage tương truyền của gái làng chơi vùng Shimada, lại có thuyết cho là theo kép tuồng kabuki Shimada Mankichi. Thường là cách búi dành cho người chưa chồng.

(37) - Gọi theo tên của người lái buôn chuyên môn cung cấp đồ dùng trong nhà cho các nhà công khanh ở Kyôto dưới thời Edo, người phổ biến loại con nộm rất được yêu chuộng này.

(38) - Yuya là tên khúc hát trong một vở tuồng Nô của soạn giả Zeami kể về mối tình qua đường của tướng họ Taira là Takamori với tiểu thơ Yuya, kết thúc trong biệt ly.

(39) - Phép đặc biệt gọi là Yurushi, chứng nhận đã đủ tài sức, một kiểu giấy phép hành nghề.

(40) - Nguyên tác: con daimyo (lãnh chúa)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 254

(41) - Trò chơi thời Edo tên gọi Tôsenkyô, nghĩa là phóng quạt với độ mở rộng hay hẹp khác nhau nhằm đánh đổ một cái đích đặt cách chỗ người ném khoảng một mét, để tranh cao thấp.

(42) - Tranh sơn mài kiểu Ogata Kôrin (1658-1716), bậc thầy thời Edo, có những đường nét hoa lệ và táo bạo. .

(43) - Lối nhuộm tinh vi đời xưa làm nổi lên được màu sắc, hình ảnh và hoa văn đẹp đẽ trên lụa được Miyazaki Yuuzensai (1681-1763), một nghệ nhân thời Genroku (1688-1704) phát huy. Từ thời Meiji trở đi, phát triển rộng rãi và trở thành một sản phẩm danh tiếng của vùng Kyôto.

(44) - Tập tranh minh họa cuốn Inaka Genji viết dang dở của Ryuutei Tanehito (1783-1842), do họa sư Utagawa Kunisada (1786-1864), một kiệt tác với nét họa diễm lệ và nội dung rất tỉ mỉ về cuộc sống cung đình.

 

SẮN DÂY NÚI YOSHINOYoshino Kuzu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 255

Nguyên Tác: Tanizaki Jun.ichirô

Dịch: Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 256

HẾT

Lời Người Dịch:

Sắn Dây Núi Yoshino (1930) được xem như một truyện của Tanizaki mà độc giả ngoại quốc khó lòng tiếp thu và làm khổ tâm người dịch không ít vì nó đầy dẫy chi tiết lịch sử, dã sử truyền thuyết dân gian và tuồng kịch mà ngay dân bản xứ có khi còn không nắm vững. Dầu vậy, theo gương can đảm của Anthony H. Chambers, người đã chuyển ngữ nó sang tiếng Anh (Arrowroot, 1983, Secker & Warburg, UK), chúng tôi cũng xin táo bạo làm việc giới thiệu Sắn Dây Núi Yoshino đến bạn đọc Việt Nam, một tác phẩm quan trọng hàng đầu trong văn nghiệp của Tanizaki. Đây cũng là một trong những tác phẩm mà ông đắc ý đắc ý nhất.

Sắn Dây Núi Yoshino giống dây mơ rễ má, cái nhau núm ruột nối liền một cá nhân với quê hương và kỷ niệm luyến tiếc nhưng cũng là sợi dây dẫn đường cho cuộc hành trình đi vào chiều sâu tâm hồn con người Nhật Bản như một tập đoàn. Nó còn đánh dấu điểm khởi hành của giai đoạn thứ hai (1930-1965) trong đời sáng tác phong phú của Tanizaki, khi ông từ bỏ lối thuật truyện khách quan hầu hết dựa trên đối thoại, để sử dụng một cách viết mới, hầu như độc thoại, tinh tế và chủ quan hơn. Nhiều người bàn đến ở đây ảnh hưởng cách hành văn của "tiểu thuyết tùy bút" hay "tùy bút tiểu thuyết" kiểu Stendhal trong tác phẩmL'Abbesse de Castro ( trong tập Chroniques

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 257

Italiennes) mà Tanizaki đã có cơ hội dịch sang Nhật ngữ.

Trong Sắn Dây Núi Yoshino, Tanizaki vẫn đeo đuổi việc đi tìm hình ảnh Người Đàn Bà Lý Tưởng và Nước Nhật Truyền Thống. Người đàn bà lý tưởng, vừa là người tình và người mẹ, đã bàng bạc khắp các tác phẩm của ông, nhất là trong Nhớ về mẹ thương (Hahawo kouru no ki ), Mộng phù kiều (Yume no ukihashi) và Người mẹ của Tướng Shigemoto (Shôshô Shigemoto no Haha ). Còn về hình ảnh của nước Nhật truyền thống, thì trong hồi ký viết năm 1964, ông có đưa ra một ví dụ: "Nếu chỉ nhấp trà, ăn bánh ngọt, khoai nướng và trứng luộc, uống sake Masamune mà ngắm hoa anh đào sau mành trúc ở giữa Tôkyo!...Ta không thể nào hiểu được cái đẹp của hoa khi không biết gì về sự tích danh tướng Yoshitsune, Wakaba-no-Naishi, phu nhân Shizuka, Tadanobu, con chồn Genkurô [i], cái trống Hatsune và bộ áo giáp Hiodoshi...Anh đào ở Tôkyo không có gì huyền ảo. Khi tôi đi ngắm hoa ở các nơi danh thắng miền Tây, đã có lúc tưởng gặp lại được hồn ma của Wakaba-no-Naishi, phu nhân Shizuka [ii] ... và thấy mình biến thành con chồn hay thành anh chàng Gonta để mà mê man đuổi theo sau tiếng trống, hồi còi".

Hình ảnh con chồn trong Sắn Dây Núi Yoshino cũng là một biểu tượng thần bí thường thấy trong văn học truyền thống Trung Quốc, Nhật Bản và chỉ riêng trong văn, kịch... của Tanizaki, ta đã có thể gặp nó nhiều lần.Thần Inari là thần lúa gạo, đem đến tài lộc, đã được đội lốt chồn. Chồn là con vật thông minh, tinh quái và rất gần gũi với con người. Đặc biệt con chồn trắng hoá thân làm người con gái tên là Kuzu no Ha (Lá Sắn Dây) thấy trong tuồng Nô và tuồng múa rối jôruri cùng nhan đề, đã bỏ chồng con để đi biệt tích khi gốc gác bại lộ (lúc Kuzu no Ha thật xuất hiện). Con chồn Genkurô cũng đã giả dạng Tadanobu [iii], người hầu cận trung thành của danh tướng Yoshitsune [iv] trong vở tuồng Yoshitsune

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 258

Senbonzakura (Nghìn cội anh đào Yoshitsune), để được gần gũi mẹ nó mà bộ da đã bị người ta lột để căng làm tang trống.

Rặng núi Yoshino với ngọn Yoshino (cao độ 858m) có thể xem như thánh địa của dân tộc Nhật. Tên tuổi của nó đã được chép lại từ thời Cổ Sự Ký (Kojiki) và Nhật Bản Thư Ký (Nihon Shoki), hai cuốn sử thư tối cổ. Mảnh đất nầy từng chứng kiến việc thiên hoàng Tenmu (?-686) lẩn lút trong vùng lúc mưu đồ đoạt ngôi của cháu, mối tình tuyệt vọng đưa đến tự sát của hai vợ chồng trên núi Imose, cuộc đời lưu lạc của danh tướng Yoshitsune (1159-1189), phu nhân Shizuka, ái thiếp của ông, cùng những dũng sĩ tùy tùng, sự tồn vong của triều đình phương Nam do thiên hoàng Go-Daigo (1288-1339) lập ra. Yoshino còn là sân khấu của sự tích con chồn trắng phải chia tay với chồng con đã nói ở trên, giống như cuộc chia ly của bà vú Shigenoi với chàng Sankichi [v] khi bị giằng co giữa tình mẹ con và bổn phận, thấy trong các vở tuồng kabuki và jôruri.

Qua Sắn Dây Núi Yoshino, ta thấy lịch sử không phải là những chi tiết cứng nhắc do các sử quan chép lại theo lối biên niên. Có một loại sử khác mà dân gian đã sáng chế theo cảm tính, sự tưởng tượng và cả những lầm lẫn, dựa theo tuồng hát nhiều hơn là sự thật. Nó đầy tính hoang đường, hư cấu nhưng cũng giàu chất thơ biết bao nhiêu.

Người đọc cũng có thể nhận ra dễ dàng ảnh hưởng sâu sắc của Truyện Genji đến phong cách viết văn của Tanizaki, người rất mê và đã dịch (2 lần) tác phẩm nầy sang kim văn. Tsumura, anh bạn của Tanizaki trong Sắn Dây Núi Yoshino đã cưới người vợ mang hình ảnh của mẹ mình, như thể đem những mảnh vỡ của quá khứ để chắp thành hiện tại. Trong Truyện Genji, tác giả Murasaki Shikibu cũng khéo léo sử dụng yếu tố thời gian để dẫn dắt câu chuyện như khi đem cái bóng quá khứ trùm lên cuộc sống hiện tại các nhân vật. Hoàng đế Kiritsubo

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 259

yêu Fujitsubo vì nàng giống người vợ mệnh yểu của mình, Genji cũng yêu nàng vì nàng giống mẹ chàng. Genji bị Murasakino Ue thu hút vì nàng là hình ảnh của Fujitsubo. Chàng ta lại tiến gần đến với Tamazakura vì nàng là hiện thân của Yuugao, mẹ nàng và người yêu cũ của Genji. Kaoru yêu Uji no Ôgimi nên đến khi gặp cô em khác mẹ Ukifune của nàng thì lại yêu luôn....Những mối tình vượt không gian, thời gian và thông qua các " đại diện " như thế cho ta thấy quá khứ, hiện tại và tương lai như giao thoa với nhau làm cho câu chuyện được tiếp nối một cách sinh động.

Nguyên tác được sử dụng trích từ tuyển tập văn khổ bỏ túi Sắn Dây Núi Yoshino. Truyện Lão Mù (Yoshino Kuzu - Mômoku Monogatari), do Shinchô Bunko xuất bản lần thứ 23 năm 1971. Người dịch có tham khảo bản dịch sang Anh ngữ đã nói ở trên của Anthony H.Chambers cũng như bản dịch sang Pháp văn của René de Ceccaty và Nakamura Ryôji (Le lierre de Yoshino, trong La vie secrète du seigneur de Musashi, Gallimard, NRF, Paris, 1987).

Phần Một: Vua Nhà Trời

Thời tôi rong chơi vùng núi sâu Yoshino trong đất Yamato dễ chừng đã hai mươi năm về trước, khoảng cuối đời Meiji hay đầu Taishô (1912), lúc giao thông còn khó khăn chứ chưa được như bây giờ.Tại sao nổi hứng đi làm chi vào chốn rừng sâu núi thẳm, cái xứ mà gần đây người ta hay gọi là rặng Alpes của Yamato? Thì câu chuyện này xin được bắt đầu bằng việc trình bày duyên may nào đã run rủi bước chân tôi.

Bạn đọc có lẽ nhiều người đã biết, từ ngày xưa ở vùng đất này, nghĩa là chung quanh dòng Totsugawa, rặng Kitayama và làng Kawakami, dân cư sở tại còn truyền tụng sự tích về một người thuộc dòng dõi các hoàng đế Nam Triều mà họ gọi là Ngài Nam Triều hay Đức Vua Nhà Trời. Người mang tên Vua Nhà Trời, có thể chắt chít gì của thiên hoàng Go-

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 260

Kameyama [vi], chính là hoàng tử Kitayama. Ngài không phải là nhân vật trong truyền thuyết mà hoàn toàn có thật, các sử gia nghiên cứu về thời đó đều nhìn nhận. Nếu nói sơ qua cho dễ nắm thì theo các sách giáo khoa trường cấp hai, trong năm Genchuu thứ 9 của Nam Triều[vii] (tức năm Meitoku thứ 3 Bắc Triều, 1392) đời Tướng QuânYoshimitsu, hai bên Nam Bắc đã hòa nghị để đi đến thống nhất, chấm dứt sự tồn tại của triều đình miền Nam đóng ở Yoshino hơn nửa thế kỷ sau ngày nó được thiên hoàng Go-Daigo thành lập vào năm Engen nguyên niên (1336). Tuy vậy, giữa đêm 23 tháng 9 năm Kakitsu thứ 3 (1443), đã xảy ra việc kẻ tên Kusunoki Jirô Masahide [viii] phò hoàng tử Manjuuji, bất chợt tấn công cung điện Tsuchimikado và trộm lấy ba báu vật truyền quốc đem về cố thủ trên ngọn núi Eizan. Lúc ấy, họ bị quân truy kích lùng bắt, hoàng tử phải tự sát. Trong số ba quốc bảo [ix]thì kiếm báu và gương thiêng đã bị thu hồi nhưng ngọc tỉ vẫn còn nằm trong tay người Nam Triều. Bọn hào tộc họ Kusu và Ochi lại phò hai con của hoàng tử, thu thập nghĩa binh, trốn chạy từ đất Izu sang Kii, từ Kii sang Yamato, rốt cuộc rút vào vùng núi sâu Oku-Yoshino là nơi ở ngoài tầm tay quân Bắc. Họ tôn vương tử thứ nhất làm Jiten.ô (Tự Thiên Vương) tức Vua Nhà Trời, vương tử thứ hai làm Seii Daishôgun tức Tướng Quân, đổi niên hiệu thành Tensei (Thiên Tĩnh), giữ được ngọc tỉ hơn 60 năm trời trong vùng hẻm núi mà quân địch không dễ gì dòm ngó. Chỉ vì sự man trá của dư đảng nhà Akamatsu [x] mà hai vị vương tử phải bỏ mình, rốt cục dòng dõi chi Daikakuji (của thiên hoàng Go-Kameyama) mới bị diệt vong vào tháng 12 năm Chôroku nguyên niên (1457). Nếu tính cho đến thời điểm đó thì từ năm Engen nguyên niên cho đến năm Genchuu thứ 9 đã là 57 năm, đến tháng 12 năm Chôroku nguyên niên thêm 65 năm nữa, thực ra tất cả trong khoảng 122 năm ấy, những hòn máu rơi của Nam Triều đã náu mình trong xứ Yoshino để chống cự lại lực lượng ở kinh sư.

Từ đời cha ông, dân tình Yoshino vẫn một lòng một dạ với Nam Triều nên mới giữ truyền thống đó mà tính toán là Nam Triều đã được tiếp nối đến tận thời của Vua Nhà Trời. Việc khăng khăng chủ trương "không phải chỉ có trên sáu mươi năm mà cả hơn trăm năm kia!" thành ra chẳng có gì vô lý. Về phần tôi, nhờ cái duyên may thích đọc Thái Bình Ký

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 261

(Taiheiki) [xi]hồi còn bé nên có hứng thú tìm hiểu những chuyện bí mật về Nam Triều, và từ lâu vẫn ôm ấp hoài bão viết một quyển tiểu thuyết lịch sử đóng khung sự tích nhân vật chính của nó là Vua Nhà Trời.

Theo một tập sách ghi chép lời truyền tụng của người làng Kawakami, có một thời, các di thần Nam Triều vì lo sợ sự tập kích bất ngờ của quân Bắc đã dời căn cứ của họ từ Shionoha dưới chân ngọn Ôdaigahara vào hẻm Ôsugi gần biên giới xứ Ise, một vùng thật sâu trong núi ít khi có dấu chân người. Ở một nơi do ba thung lũng nhỏ hợp lại gọi là Sannoko, họ xây cung điện cho nhà vua và giấu ngọc tỉ truyền quốc trong một cái hang. Ngoài ra, theo như điều ghi chép lại trong các tập truyện ký Thượng Nguyệt Ký (Kôtsuki-ki), Xích Tùng Ký (Akamatsu-ki) thì bọn ba mươi tên tàn đảng Akamatsu do Majima Hikotarô dẫn đầu đã trá hàng Vua Nhà Trời, rồi vào ngày thứ 2 tháng chạp năm Chôroku (1457), lợi dụng trời mưa tuyết lớn, bất đồ khởi sự, một cánh đánh vào cung Ôkôchi của ngài, một cánh tấn công dinh Tướng Quân đóng ở thung lũng Kônotani. Nhà vua rút đại đao ra chiến đấu nhưng cuối cùng phải chết dưới bàn tay nghịch tặc. Giặc cắt đầu vua, cắp cả ngọc tỉ lẫn thủ cấp bỏ chạy, giữa chừng bị tuyết nghẽn đường, đến đèo Obagamine thì trời đã tối. Chúng mới vùi thủ cấp của ngài trong tuyết và qua đêm ở đó. Sáng hôm sau, lý trưởng cùng hương dõng của 18 làng vùng Yoshino truy kích đến nơi và giữa khi đang giao tranh kịch liệt, từ thủ cấp của nhà vua đang vùi trong tuyết, một luồng máu bỗng phun lên, nhờ đó mà họ đã đoạt lại nó mang về.

Tùy theo sách vở, những chi tiết kể trên có khác nhau đôi chút nhưng câu chuyện đều đã được ghi lại trong Nam Sơn Tuần Thú Lục (Nanzan Junshu-roku), Nam Phương Kỷ Truyền (Nannpô Kiden), Anh Vân Ký (Ôun-ki), Thập Tân Xuyên Ký (Totsugawa-no-ki)  vv... Đặc biệt hai cuốn Kôtsuki-ki và Akamatsu-ki vốn do những người tham dự vào biến cố đó lúc về già chép để lại hay là ký sự do con cháu của họ soạn ra nên không có gì để hồ nghi nữa. Một quyển cho biết lúc đó nhà vua mới mười tám tuổi, còn dòng họ Akamatsu, tiêu vong một lần từ vụ nội loạn năm Kakitsu, có hưng thịnh trở lại cũng nhờ được báo đền cái công lao

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 262

sát hại hai vị vương tử Nam Triều và mang quả ấn truyền quốc về kinh đô.

Chính vì vùng núi sâu từ Yoshino cho đến Kumano giao thông tắc nghẽn như thế, việc những truyền thuyết xa xưa tồn tại lâu dài và những gia đình cố cựu còn giữ được gốc gác, không phải là chuyện lạ lùng gì. Ví như chuyện nói về dinh cơ của họ Hori ở Anofu, nơi có lần thiên hoàng Go-Daigo chọn làm hành tại. Không những một phần ngôi nhà ngày nay hãy đứng nguyên mà người ta còn bảo con cháu tộc nầy bây giờ vẫn cư ngụ tại đó. Cả chuyện dòng dõi một nhân vật tên Takehara Hachirô vốn được nhắc đến trong Thái Bình Ký (Taiheiki)[xi], ở chương thuật lại cuộc bôn tẩu của hoàng tử

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 263

Daitô [xii] (Đại Tháp) xuống vùng Kumano. Hoàng tử từng ở tạm nhà họ ít lâu, và có với con gái của gia đình ấy một đứa con trai cho nên nhà Takehara nhờ đó cũng được hiển vinh. Ngoài ra còn có một tục lệ xưa hơn nữa ở một làng tên gọi Gokitsugu trong vùng núi non Ôdaigahara : người chung quanh vùng đó cho rằng dân làng nầy là con cháu của quỷ sứ nên không bao giờ chịu gả bán với họ mà người làng Gokitsugu cũng không màng đến việc cưới hỏi dân thiên hạ. Họ còn tự xưng mình là dòng dõi của bọn quỉ sứ đã mở đường cho En-no-Gyôja (ông tổ của các thầy tăng du hành trên núi) nữa! Vì phong thổ của vùng nầy như thế cho nên trong dân chúng không thiếu gì những gia đình cố cựu, gọi là "gia đình dòng dõi", tự cho trong người mình có dòng máu của lớp hào tộc địa phương ngày xưa đã từng phục vụ các quan Nam Triều. Hiện nay, vùng chung quanh Kashiwagi, hàng năm đến ngày mồng 5 tháng 2, bao giờ cũng có cúng tế "Ngài Nam Triều", còn ở chùa Kim Cương Tự (Kongô) ở Kônotani, nơi có dấu vết dinh Tướng Quân xưa, người ta cũng cử hành lễ triều bái năm mới một cách trang nghiêm.Vào dịp đó, hơn vài chục gia đình gọi là con nhà dòng dõi, được đặc biệt cho phép mặc lễ phục có hoa văn bông cúc mười sáu cánh và được ngồi lên trên trước cả đại diện của quan đầu tỉnh hay đầu quận.

Việc được làm quen với vô số những tài liệu như thế chỉ nung nấu trong tôi ý nghĩ sẵn có là lập kế hoạch viết một cuốn tiểu thuyết lịch sử về đề tài này. NamTriều - Yoshino vào mùa anh đào nở - vẻ thần bí chốn thâm sơn - ông Vua Nhà Trời mới mười tám tuổi - nhân vật Kusunoki Jirô Masahide - cái ấn truyền quốc dấu trong hang núi - thủ cấp nhà vua phun bắn máu trong đám tuyết vv...chỉ cần thử nêu ra chừng ấy thôi, thiết tưởng không đề tài nào còn có thể đặc sắc hơn.Ngoài ra, bối cảnh câu chuyện lại tuyệt vời. Sân khấu của nó đủ cả khe suối, ghềnh đá, cung điện, lều tranh, anh đào mùa xuân, lá đỏ mùa thu, đem tom góp những cái đó và làm sống lại nó là có thể thành hình rồi. Hơn thế, người viết không chỉ dựa vào tưởng tượng vì ngoài chính sử là cái dĩ nhiên, không nói cũng biết đã có sẵn biết bao nhiêu truyện ký hoặc văn thư cổ. Cho dầu tác giả có sử dụng sự thực lịch sử một cách tùy tiện thôi đi nữa, thì cũng đủ soạn ra một quyển sách thú vị. Nếu chịu khó nhuận sắc một chút, trộn lẫn vào đó ít truyền thuyết và lời đồn đại trong dân, tô điểm

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 264

bằng những nét độc đáo của địa phương, dùng những chi tiết như dòng dõi quỷ sứ, tăng nhân tu hành trên ngọn Ômine, khách đi hành hương vùng Kumano vv...rồi dựng nên một nhân vật nữ chính qua hình ảnh người con gái đẹp kết duyên với nhà vua, hay một nàng công chúa nào đó vốn là con cháu hoàng tử Daitô, chẳng hạn. Nếu biết sáng tạo như thế, có lẽ câu chuyện lại hào hứng hơn. Tôi lấy làm lạ là không hiểu vì cớ gì mãi đến ngày nay chừng ấy chi tiết chưa lọt được vào mắt của một ông văn sĩ nào.Nhất là trong một cuốn như Hiệp Khách Truyện (Kyôkakuden) [xiii] , nghe nói là tiểu thuyết viết dở dang của Bakin [xiv] mà tôi chưa được đọc, có một nhân vật tưởng tượng là tiểu thư Koma-hime, con gái dòng dõi họ Kusunoki nhưng xem ra hình như không dính dáng gì đến sự tích Vua Nhà Trời. Ngoài ra, những tác phẩm viết về nhà vua trên núi Yoshino thì vào thời Tokugawa có một hay hai cuốn nhưng không hiểu trong đó, người viết lấy được mấy phần sự thực lịch sử để làm chuẩn. Nói tóm lại, đảo mắt một vòng xem qua thôi thì người đời, kể từ lãnh vực tiểu thuyết đại chúng bước sang sân khấu múa rối cho đến kịch tuồng, không thấy ai lưu tâm đến sự tích nầy.Vì lý do đó, trong khi chưa có kẻ mó tay vào, tôi muốn thế nào cũng phải sử dụng ngay những tư liệu ấy.

Lúc ấy may mắn có người đem đến cơ hội không ngờ để tìm hiểu về địa lý và phong tục vùng núi sâu, đó là cái anh chàng Tsumura, bạn của tôi hồi Dự Bị Đại Học [xv]. Tsumura vốn dân Ôsaka, nhưng thân thích lại sinh sống ở Kuzu thuộc vùng Yoshino nên nếu nhờ được Tsumura giúp hỏi thăm về địa điểm đó qua bọn họ thì thật tiện.

Ven bờ sôngYoshino, có hai làng mang tên Kuzu.Về phía hạ lưu, tên cái làng gọi là Kuzu được viết bằng chữ Cát (sắn dây ) [xvi]. Phía thượng lưu (quê Tsumura) thì tên Kuzu lại viết là Quốc Thê (Chổ Nhà Nước Tạm Trú). Cái lớp tuồng Nô nổi tiếng Kuzu, liên quan đến sự tích thiên hoàng Tenmu [xvii], tức vị thiên hoàng đã lên ngôi ở cung Kiyomihara tự thời Asuka (cuối thế kỷ thứ 6 đến đầu thế kỷ thứ 7), là tên của địa điểm thứ hai. Thế nhưng cả Kuzu (Cát) lẫn Kuzu (Quốc Thê) không chỗ nào sản xuất ra kuzuko tức bột sắn giây, thổ sản tên tuổi của vùng Yoshino. Dân Kuzu (Cát) thì không biết thế nào chứ người Kuzu (Quốc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 265

Thê) chuyên sống bằng nghề làm giấy. Cho đến bây giờ người ta vẫn theo phương pháp cổ truyền, lấy sợi kôzo, một loại lá dâu núi, tẩy nó bằng nước sông để chế tạo giấy lối thủ công. Thế rồi, hình như làng Kuzu này lại có rất nhiều người mang cùng một họ kỳ cục gọi là họ Konbu. Bà con của Tsumura cũng họ Konbu, lại sống bằng nghề làm giấy và được xem như một gia đình đông đúc nhất ở đấy. Theo lời Tsumura, họ Konbu cũng là một gia đình cố cựu và nhất định có mang không ít thời nhiều dòng máu của các di thần Nam Triều.Từ khi có dịp hỏi thăm gia đình nầy, tôi mới biết cách đọc chính xác tên các địa danh, ví dụ như Nhập Ba thì phải đọc là Shionoha, Tam Công là Sannoko...Và cũng nhờ người họ Konbu cho biết, muốn đi từ Kuzu (Quốc Thê) tới Shionoha thì sau khi vượt qua ngọn Đèo Gosha ( Ngũ Xã) hiểm trở rồi, phải đi hơn năm dặm nữa; muốn tới Sannoko thì phải đi hai dặm mới tới ngõ vào hẻm núi, còn như muốn vào tận chỗ sâu nhất nơi ngày xưa Vua Nhà Trời ngự lại mất thêm bốn dặm. Những chuyện như thế chăng nữa đều là điều nghe kể cho thôi vì dân Kuzu (Quốc Thê) có mấy ai đã lên chỗ mãi đầu nguồn!. Chẳng qua, theo những người sống bằng nghề thả bè trên sông học lại, phía sâu trong hẻm núi, ở vùng đất bằng gọi là Hachimandaira có một làng gồm năm bảy gia đình làm nghề đốt than sinh sống và nếu đi thêm ba bốn dặm, sẽ tới chỗ ẩn tít trong cùng gọi là Kakushidaira, mới thực sự là nơi có dấu vết cung điện của Vua Nhà Trời cũng như hang động ngày xưa cất dấu ngọc tỉ. Từ cửa ngõ hẻm núi đi vào bốn dặm thì đường đất thật chẳng ra đường, chỉ có vách đá dựng lên liên tiếp đến nỗi những nhà sư du hành tu trên ngọn Ômine cũng không dễ gì vào tận đó.Thường người chung quanh vùng Kashiwagi đi tắm suối nước nóng dọc bờ sông Shionoha, chỉ đến đây là cùng.Thực ra, nếu đi vào sâu thêm trong hẻm núi thì hãy còn có rất nhiều suối nước nóng phun ra tự trong lòng khe và có nhiều thác nước từ sườn núi cao đổ ào xuống như thác Myôjin chẳng hạn nhưng chỉ có dân mạn ngược hay bọn đốt than mới biết được phong cảnh tuyệt vời như vậy.

Câu chuyện của mấy tay thả bè kể lại đã góp phần làm cho thế giới tiểu thuyết của tôi phong phú thêm một bậc, và hình ảnh suối nước nóng phun ra từ trong lòng khe là một chi tiết ăn tiền để đem vào câu chuyện. Tuy nhiên bấy giờ tôi đã tiến hành điều tra để có tất cả tin tức cần thiết

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 266

trong khả năng của một người ở xa nên nếu không có lời mời của Tsumura thì tôi cũng chả hơi đâu vào mãi tận chốn thâm sơn cùng cốc ấy. Thu thập chừng nầy tư liệu rồi thì không đến tận chỗ mà chỉ cần huy động trí tưởng tượng thôi cũng đủ để viết. Xử lý kiểu này không phải là không có cái hay của nó. Thế nhưng, lời nhắn tin của Tsumura: "Mấy khi có cơ hội, rán vào trong nầy chơi cho biết!" đã đến nơi tôi ở khoảng cuối tháng mười hay đầu tháng mười một năm đó thì phải. Vừa vặn đúng dịp Tsumura có việc phải gặp mấy người thân quyến ở Kuzu (từ đây xin hiểu là Quốc Thê), và anh ta nói đại khái: "Tuy có lẽ không đi nổi đến tận Sannoko, nhưng nếu cậu đánh bộ một vòng quanh khu vực phụ cận Kuzu thì nội việc khảo sát sơ sơ địa lý và phong tục trong vùng cũng đã có ích rồi. Không riêng lịch sử Nam Triều thôi đâu. Vào tận địa phương như thế nầy làm gì cậu chả đào thêm được một số chi tiết khác cũng hấp dẫn không kém để có thể viết thêm một lô hai ba tác phẩm nữa. Không bỏ công đâu, vả lại cậu cũng phải chứng tỏ mình là người có lương tâm nhà nghề một chút chứ! Lúc nầy thời tiết vừa đẹp, thuận lợi cho việc đi đường. Thăm viếng Yoshino đã đành phải đợi đúng dịp anh đào nở, nhưng mùa thu cũng nên thơ không kém đâu, cậu ơi!".

Tôi nhập đề có hơi dài dòng nhưng quả là tôi đã bất chợt lên đường trong những tình huống như trên. Một phần vì cái lý do mà Tsumura gọi là "lương tâm nhà nghề" nhưng thực tâm mà nói, chính cái viễn tượng được rong chơi đây đó mới là điều đã thuyết phục tôi ra đi .

Phần Hai: Núi Vợ Chồng

Vì Tsumura cho biết đến ngày hẹn anh ta sẽ lên đường từ Ôsaka, tới Nara thì trọ ở lữ quán Musashino dưới chân núi Wakakusa...nên phần mình, tôi cũng đáp tàu đêm từ Tôkyô và sau một đêm ngủ trọ ở Kyôto, sáng hôm sau đã đặt chân lên Nara. Lữ quán Musashino bây giờ hãy còn nhưng chủ thì hình như không phải là người cũ thời đó. Hai mươi năm về trước, lữ quán đã cũ kỹ rồi nhưng tôi nhớ nó có vẻ thanh nhã. Sau đó ít lâu Tổng Cục Đường Sắt mới xây khách sạn của họ chứ thời đó thì những nhà trọ như Musashino và Kikusui đã là sang nhất đám. Phần vì Tsumura có vẻ nôn nóng không muốn nán lại thêm, phần vì tôi đã đi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 267

chơi ở đây hoài, không còn lạ gì cảnh vật của Nara, nên trong khi trời còn đang tốt, hai chúng tôi chỉ ngồi trong phòng trọ một hai tiếng đồng hồ đủ ngắm ngọn Wakakusa, xong là lên đường.

Đổi xe ở Yoshinoguchi, chúng tôi đáp chuyến tàu xọc xạch trên tuyến đường phụ đến ga Yoshino rồi từ đó bắt đầu đi bộ trên đường cái dọc theo dòng sông Yoshino. Gần Vũng Sáu Khoanh Ruộng (Mutsuda no Yodo) và Bến Đò Liễu (Yanagi no Watashi), hai địa danh được nhắc đến trong tập thơ cổ Vạn Diệp Tập (Manyô-shuu), con đường rẽ làm hai. Nhánh bên hữu đưa về ngọn núi Yoshino, nổi tiếng vì hoa anh đào. Qua khỏi cầu đã đến thẳng được Nghìn Cội Đào Dưới Núi ( Shimo no Senbon) , rồi rặng đào Sekiya, đền Zaô Gongen, đền Yoshimizu, Nghìn Cội Đào Lưng Núi (Naka no Senbon), những nơi mà mỗi mùa xuân khách thưởng hoa dạo chơi đông đảo. Thật ra tôi đã đến Yoshino xem hoa hai lần rồi, một lần hồi nhỏ theo mẹ đi thăm Kyôto, và lần thứ hai lúc đang học cấp ba. Tôi nhớ mấy lần trước đều cùng đám đông leo lên núi bằng con đường bên tay mặt, nhưng đấy là lần đầu, tôi đi thử con đường tay trái.

Dạo sau nầy, vì xe hơi và đường dây cáp có thể lên tới Nghìn Cội Đào Lưng Núi (Naka no Senbon) nên nơi đây không còn những người lững thững tản bộ xem hoa chứ hồi xưa, khách thưởng ngoạn khi lấy con đường rẽ tay mặt để lên núi, thường dừng chân trên cầu quãng Mutsuda no Yodo để ngắm cảnh sắc cánh đồng ven sông Yoshino.

"Xem kìa! Xem đằng kia kìa !  Núi Vợ Chồng (Imoseyama) đấy nhé !. Bên trái là ngọn  Hòn Vợ (Imoyama), bên phái là  Hòn Chồng (Seyama) "

Anh phu xe kéo dẫn đường từ trên lan can thành cầu đưa tay chỉ về phía thượng nguồn, làm người lữ khách ngừng cây gậy trúc. Ngày xưa, mẹ tôi cũng thường bảo ngừng xe ở giữa cầu, ôm tôi, lúc đó còn chửa biết gì, vào lòng :

" Nầy, còn nhớ tuồng hát Núi Vợ Chồng không hở con ? Đây là Núi Vợ Chồng thật đấy , con ạ ! "

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 268

Mẹ thỏ thẻ bên tai tôi như thế. Lúc đó tôi còn bé quá nên không giữ lại ấn tượng nào rõ rệt, chỉ còn nhớ lại cái lạnh se da giữa tháng tư còn phủ lên vùng núi non, trong một buổi chiều mà vòm hoa giăng giăng trông giống những đám mây dưới một khung trời sương dâng nhòa nhạt. Dòng sông Yoshino mà mặt nước ở trên đường gió lướt, lăn tăn gợn sóng trông như tấm vóc, đang từ hẻm xa nơi núi xếp nếp mấy từng, trăng trắng trôi về phía chúng tôi. Trong vùng núi non trùng điệp mờ ảo bỗng thấy hai quả núi nhỏ, đúng hơn là hai ngọn đồi dễ thương, hiện ra trong sương chiều .Tôi không nhận ra có một dòng sông xen giữa hai quả núi vì thấy chúng nó như đâu mặt với nhau nhưng theo vở tuồng tôi biết thì chúng bị ngăn cách bởi một con sông. Trên sân khấu kabuki, chàng Koganosuke, con trai quan Chánh Án Kiyozumi và người vợ hứa hôn của chàng là tiểu thư Hinadori, hai người sống trên hai cái điện cao nhìn xuống thung lũng, một người bên Seyama, Hòn Chồng, một người bên Imoyama, Hòn Vợ. Trong cả vở tuồng Imoseyama, cảnh tượng đó đối với tôi là đậm đà màu sắc thần tiên hơn cả nên nó đã ghi dấu hết sức sâu đậm trong bộ óc non nớt của tôi. Khi nghe mẹ nói, tôi nghỉ thầm " Ra thế , ngọn Imoseyama đấy à ! " và mơ tưởng nếu bây giờ đi tới ngay núi đó thì tôi có thể gặp Koganosuke và người đẹp của chàng. Kể từ ngày ấy, tôi không bao giờ quên cảnh vật được nhìn từ trên cầu và nhiều khi bất chợt nghĩ về nó với niềm luyến tiếc. Thế rồi mùa xuân năm hăm mốt hăm hai tuổi, khi về thăm Yoshino lần thứ hai, tôi lại có lần tựa thành cầu, vừa ôn kỷ niệm về người mẹ đã quá cố vừa nhìn đăm đăm phía nguồn sông. Con sông Yoshino từ chỗ dưới chân hòn núi cùng tên bắt đầu nới rộng ra rồi vào đến bình nguyên cho nên nước không còn chảy xiết mà có dáng dấp thoải mái của " dòng nước trôi giữa đồng bằng ". Phía tả ngạn thượng nguồn, tôi có thể thấy những cái mái thấp và dãy tường lốm đốm trắng của khóm nhà đơn sơ, cổ kính. Đó là thị trấn  Chợ Trên (Kamiichi), dính làm một với đường cái quan, lưng đâu vào sườn núi và mặt nhìn xuống dòng sông.

Lần nầy, qua khỏi chân cầu Mutsuda và khi đến ngã ba thì tôi chọn con đường bên trái, lấy hướng Núi Vợ Chồng (Imoseyama), nơi mà tôi đã đứng ngắm từ phía hạ lưu. Đường cái quan viền theo bờ sông và chạy thẳng tới trước, mới nhìn thì tưởng là bằng phẳng, dễ đi, nhưng tôi nghe

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 269

nói khỏi Kamiichi, đến khúc ngang qua Miyataki, Kuzu, Ôtaki, Sako, Kashiwagi, nó sẽ dần dần chui vào vùng núi non thâm sâu của Yoshino, sau đó lên tới nguồn sông Yoshino, vượt qua ngọn núi làm ranh giới giữa hai vùng Yamato và Kii rồi cuối cùng thoát ra ngoài bãi biển Kumano.

Chúng tôi khởi hành từ Nara sớm sủa nên vừa quá ngọ chút xíu đã vào thị trấn Kamiichi. Như ấn tượng tôi đã có khi nhìn từ trên cầu, những ngôi nhà ở Kamiichi cất hai bên đường cái quan có vẻ thô sơ, cổ kính.Về phía bờ sông, dãy nhà đôi khi có chỗ bị cắt quãng thành ra chỉ còn một bên phố nhưng nói chung, khu nhà vẫn đủ ngáng tầm mắt không cho thấy dòng nước. Hai bên đường, những căn nhà với những chấn song ám khói và gác thấp sát dưới mái, trông như chụm lại bên nhau.Vừa bước đi vừa chõ mắt nhìn vào nhà qua các chấn song, tôi thấy chúng được cất theo kiểu thông thường của các nhà dân, nghĩa là có lối đi thông trên nền ra đến cửa bên kia. Phần nhiều trên cửa vào của những lối đi này có treo một tấm rèm màu xanh thẫm, có tên cửa hiệu hay tên dòng họ, kẻ bằng màu trắng. Không riêng các cửa hiệu, dường như nhà thường dân cũng có tục lệ treo rèm kẻ tên. Mái hiên nhà nào cũng thấp xuống, trông thiếu điều mặt tiền sắp sập tới nơi. Cửa vào hẹp nhưng ở đằng sau rèm, thấp thoáng bóng cây cối trong sân giữa và cả những căn nhà phụ nữa. Nhà cửa ở vùng nầy xem ra cất đã trên năm mươi năm, có cái từ một trăm, ngay cả hai trăm năm trước. Tuy nhà cửa thì cũ thật nhưng giấy hồ phết cửa nom hãy còn mới, không bị vết ố như thể vừa mới thay. Ngay dăm vết rách tí tẹo cũng được che cẩn thận bằng những tờ giấy hình cánh hoa dán đè lên. Cái màu của giấy dán cửa, trong bầu không khí trong ngăn ngắt của ngày thu càng trắng đến lạnh lùng. Một phần vì ở đây không bụi bặm nên mới giữ được thanh khiết như thế, một phần vì dân cư không lắp cửa kính nên họ thường lưu tâm giữ gìn sự sạch sẽ của cửa giấy hơn người thành phố. Nếu có thêm một lớp cửa kính bên ngoài như nhà ở Tôkyô thì không nói làm gì chứ nếu chỉ có độc một lớp giấy và không chịu ngó ngàng tới, lúc giấy bẩn đi, nhà sẽ tối, còn khi giấy bị thủng, gió sẽ lùa vào. Cửa giấy mới toanh như thế thì cho dù chấn song hàng hiên và đồ vật trong nhà có đen điu, vẫn thấy thanh cảnh ngăn nắp, chẳng khác nàng con gái đẹp, tuy nghèo nhưng biết trau chuốt dáng dấp

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 270

của mình. Khi nhìn màu nắng chiều le lói trên cánh cửa giấy, tôi mới cảm thấy thấm thía cái hương vị của mùa thu.

Thực ra, tuy trời tạnh và trong vắt nhưng những tia nắng phản chiếu chỉ làm cảnh vật sáng sủa ra và giúp cho cái đẹp thấm nhẹ vào châu thân chứ không đến nỗi chóa mắt. Mặt trời đang chiếu trên mặt nước sông, ánh lên tận những tấm giấy phết trên cửa của dãy nhà nằm phía tay mặt. Những quả hồng bày trước tiệm hoa quả trông đẹp một cách lạ lùng, nào là hồng chín cây, hồng tiến, hồng vùng Mino, tất cả những loại hồng nầy khoe trước hiên lớp vỏ màu san hô già láng bóng của quả chín đang bắt lấy ánh nắng và nhấp nháy như những con ngươi. Ngay cả những lọn bánh canh bột mì udon để trong hộp kính trước cửa tiệm bán udon cũng có vẽ tươi hơn. Trên đường, trước hiên nhà, người ta trải chiếu rơm và đặt những cái nia để phơi tro. Đâu đây vẳng lại tiếng đập sắt ở lò rèn và tiếng sàn sạt của máy xay lúa.

Chúng tôi đi bộ ra mãi bìa thị trấn, đến một cái quán bán thức ăn cất ở ven sông và ăn trưa.Khi nhìn từ phía cầu, tôi có cảm tưởng Inoseyama phải nằm tít mãi phía thượng nguồn nhưng đến đây mới thấy hai quả đồi đó đã hiện ra trước mắt.Con sông tách chúng ra, phía bờ bên nầy là Imoyama, Hòn Vợ, còn bờ bên kia mới là Seyama, Hòn Chồng. Tác giả của vở tuồng Đem Sự Tích Núi Vợ Chồng Dạy Đàn Bà ( Imoseyama Onna Teikin)[xviii]  có lẽ nhân đến viếng vùng này mà cấu tứ viết nên vở đó chăng ? Tuy nhiên, bề ngang của dòng sông nơi đây có vẽ rộng rãi hơn và không đến nổi chảy xiết như trong vở kịch. Cho dầu lâu đài của Koganosuke và Hinadori trên hai ngọn đồi có thực đi nữa, hai bên không thể nào gọi nhau để nói chuyện như trên sân khấu được. Hòn Chồng dính liền với một giồng đất ở phía sau nó nên hình thù không được cân đối nhưng Hòn Vợ là một quả đồi tròn trịa, đứng một mình, bao phủ cây cối xanh um và thị trấn Kamiichi kéo dài tận đến dưới chân nó. Nếu từ phía sông mà quét một cái nhìn thì sẽ thấy đằng sau lưng mỗi ngôi nhà như có thêm một tầng gác.Nhà trệt thành ra hai tầng, hai tầng thì xem như ba. Trong số đó, nhiều nhà có bắt đường dây cáp từ tầng gác xuống tận mặt sông. Người ta mắc một cái thùng gỗ vào đó và thòng nó xuống sông để lấy nước.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 271

-Nầy cậu ! Hết Imoseyama hãy còn có Nghìn Cội Đào Yoshitsune (Yoshitsune Senbonzakura ) đấy nhé !

Tsumura bất đồ quay sang nói với tôi như thế.

-Nghìn Cội Đào thì phải xuống Chợ Dưới ( Shimoichi) chứ nhỉ ! Tôi nghe ở đó có cửa hiệu tên là Tsurubezushi [xix] cơ mà.

Quan tướng Koremori [xx] hồi chạy loạn, để tránh địch lùng bắt, có lần làm con nuôi nhà bán cơm nắm cá giấm (tsurubezushi). Đó là lời chi tiết người ta bày vẽ ra trong tuồng múa rốijôruri, thế mà ở Shimoichi, có những kẻ dựa vào chuyện đó để tự xưng là con cháu của ngài. Tôi chưa tìm hiểu việc ấy bao giờ nhưng có nghe lời người ta đồn đại. Họ bảo nhà Tsurubezushi không có một ai mang tên Igami no Gonta [xxi] như anh con trai lêu lổng ngày xưa, nhưng con gái họ hãy còn được gọi là Osato giống sự tích trong tuồng hát và vẫn bán cơm nắm cá giấm bày trong hộp gỗ hình chiếc gàu múc nước. Khi đề cập đến tên vở tuồng, Tsumura không có ý định nhắc đến hồi này mà chỉ muốn nói về đoạn có cái trống Tiếng Đầu Tiên (Hatsune) [xxii] của phu nhân Shizuka [xxiii] mà thôi. Ở Hái Rau (Natsumi ), một ngôi làng phía thượng lưu dòng sông, nghe nói có một gia đình còn giữ lại chiếc trống đó làm vật gia bảo nên Tsumura đề nghị tôi ghé lại đó kiếm xem.

Tôi nghĩ làng Natsumi phải nằm trên bờ sông Natsumi như nói đến trong vở tuồng Nô nhan đề Hai Nàng Shizuka ( Futari Shizuka ) [xxiv]. " Có nàng con gái hay thơ thẩn . Đến bên dòng sông Natsumi.." và sau tiếng hát đó, hồn ma của phu nhân Shizuka sẽ hiện ra : " Để lòng ta vơi bao tội lỗi. Người chép trang kinh giùm ta đi ", và sau đó kèm theo điệu vũ với lời ca như thế này nữa:

"Thân mang nhiều tủi thẹn Chuyện xưa nào dám quên... Giữa đồng Yoshino Người ơi, ta đâu chỉ Là cô gái hái rau Trên sông Natsumi"

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 272

Những điều đó giúp suy ra rằng đất Natsumi phải có duyên nợ gì với phu nhân Shizuka và truyền thuyết về người không phải là điều bịa đặt thôi đâu. Trong sách Yamato Meisho Zueminh họa những thắng cảnh của đất Yamato còn chú thích : " Làng Natsumi có nước ngon nổi tiếng , gọi là Hoa Lung Thủy hay Nước Trong Lồng Hoa, lại có dấu tích phủ đệ mà phu nhân Shizuka tá túc một thời gian ". Nhìn đó khắc biết những chuyện người ta còn truyền tụng có lẽ đã bắt nguồn từ lâu rồi.Gia đình còn giữ chiếc trống đó bây giờ mang họ Ôtani nhưng ngày xưa gốc gác là trại chủ trang trại Murakuni. Theo lời thuật lại của những nhà cố cựu, trong năm Bunji (1185-1190) khi tướng Yoshitsune và người ái thiếp Shizuka lưu lạc xuống vùng Yoshino, có ở lại làng ấy. Khu vực phụ cận hãy còn mang các địa danh nổi tiếng như Lạch Voi (Kisano Ogawa), Cầu Chợp Mắt (Utatane no Hashi), Cầu Củi (Shibahashi) . Khách vãng cảnh có nhiều người muốn tìm xem cái trống Hatsune nhưng nhà chủ coi như là vật gia bảo nên hễ không có kẻ giới thiệu cho trước vài hôm thì không bao giờ bạ ai cũng cho xem. Tsumura đã phòng sẳn chuyện đó nên đã cậy thân quyến ở Kuzu nói lót trước rồi. Có lẽ hôm nay họ đang đợi chúng tôi.

-Thế có phải đó là cái trống căng bằng da chồn mẹ mà mỗi lần bà ái thiếp Shizuka vỗ kêu cái boong thì chồn con giả làm Tadanobu lại hiện ra đấy phỏng ?

-Ừ, đúng rồi. Trong tuồng hát thì như thế đấy !

-Có gia đình giữ được trống ấy à ?

-Thiên hạ bảo thế !

-Căng da chồn làm trống thực sao ?

-Tớ chưa thấy tận mắt cái trống nên không dám nói liều.Tuy nhiên, chuyện gia đình đó có gốc gác lâu đời là sự thật.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 273

-Tớ chỉ e chuyện này lại giống như chuyện tiệm bán cơm nắm cá giấm bày trong gàu gỗ. Chắc có bố nào tinh nghịch đi xem tuồng Futari Shizuka về nghiễn ra thôi !

-Có thể lắm ! Nhưng tớ lại có chút lý do muốn xem cái trống đó một chút. Thế nào mình cũng nên tìm đến thăm gia đình Ôtani để được nhìn cái trống Hatsune. Tớ đã định bụng như vậy từ lâu và cũng vì mục đích đó mà tớ cất công đi chuyến nầy.

Nghe Tsumura bảo thế tôi nghĩ chắc có duyên do gì rồi nhưng chỉ nghe anh ta nói vỏn vẹn : " Rồi tôi sẽ cho cậu biết sau ! "

Phần Ba : Cái Trống Hatsune

Để đi từ Kamiichi đến Miyataki, chúng tôi vẫn tiến bước dọc bờ bên phải của con sông Yoshino. Càng đi vào sâu trong núi, vẻ thu dường như tăng thêm. Đôi khi chúng tôi đi vào giữa những lùm cây sồi, bước trên lá khô nghe xào xạc. Chung quanh chốn này, cây phong tương đối ít, và hơn nữa, chúng không mọc tụ vào một chỗ. Tuy vậy, lá cây đã đỏ ối: nào là trường xuân, thù du, sơn...điểm xuyết đó đây trong rặng tuyết tùng bao trùm đỉnh núi, khoe những đám lá màu đỏ đậm đến màu vàng nhạt. Tuy cùng gọi là lá đỏ nhưng ngắm cảnh ở đây mới thấy dù vàng, đỏ hay nâu, màu sắc có đủ loại và hết sức phức tạp. Cùng là lá vàng mà có đến mươi thứ màu vàng khác nhau. Người ta bảo khi mùa thu đến, người trong vùng Shiohara thuộc Shimotsuke (tỉnh Tochigi gần Tôkyô) mặt ai cũng đỏ. Nếu phong cảnh trông đẹp ra khi có lá đỏ bao trùm khắp nơi nhưng nếu chỉ lác đác như ở chỗ này thì cũng chẳng kém chi. Những kiểu nói "đua khoe sắc thắm " hay "muôn hồng nghìn tía" là để tả cảnh hoa nở trên cánh đồng xuân nhưng ở đây nào khác, có chăng là màu vàng mới là màu cơ bản. Sự biến hóa của màu sắc cũng phong phú chẳng kém vào mùa xuân. Ngoài ra, lá vàng rơi xen giữa mấy kẽ núi xuống khe suối trong ánh nắng ngập tràn đôi khi lấp lánh không khác chi lớp bụi vàng trên mặt nước.

Ly cung của thiên hoàng Tenmu ở Yoshino trong câu thơ "Thiên hoàng ngự đến Cung Yoshino", cái dinh thự mà thi nhân Kasano

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 274

Kanamura [xxv] gọi là "ngự sở lớn xây bên bờ thác Miyoshino", cánh đồng Akizu thấy trong thơ Hitomaru [xxvi] , cũng như ngọn núi Mifune...được tập cổ thi Man.yôshuu nhắc đến, tất cả những nơi đó nghe nói đều nằm gần làng Thác Cung Điện (Miyataki) ngày nay. Chưa vào sâu trong làng, chúng tôi đã rời con đường cái mà vượt qua bờ bên kia. Ở đây, hẻm núi hẹp dần, bờ đá dựng đứng, nước trên cao đập mạnh xuống những tảng đá lớn nằm lót dưới lòng sông hay đổngập đầy những vực thẳm xanh ngắt. Cầu Utatane bắt ngang qua một cái vực, nơi mà dòng suối từ trong lùm cây cối rậm rạp của trũng Kisatani chảy rì rầm rồi đổ vào lạch Kisa. Chuyện tướng Yoshitsune ngủ đỡ giấc trên cầu có lẽ bắt nguồn từ trí tưởng tượng của người đời sau. Cái cầu mong manh đến sợ, bắc qua dòng nước suối trong hầu như ẩn dưới những chòm lá xanh um, có một mái che tựa mái thuyền, nom dễ thương, không phải để che mưa mà chắc là để che lá rụng. Nếu không như thế thì vào mùa thu lá rụng như bây giờ, chẳng mấy lúc cầu bị lá cây lấp cả. Cạnh bên cầu, có hai túp nhà nông dân. Ở dưới mái cầu, hết phân nửa diện tích dường như bị họ dùng để chứa đồ như nhà mình Vì họ chất đầy củi nên trên cầu chỉ còn đủ chỗ cho một người đi qua. Chỗ này tên gọi  Cửa Thông Nước (Higuchi). Từ đây con đường chẻ ra hai nhánh, một dọc theo bờ sông đi xuống làng Natsumi, còn đường kia thì sau khi vượt khỏi cầu Utatane, đi ngang qua đền Sakuragi và làng Kisatani, lên đến Nghìn Cội Đào Trên Cao (Kami no Sempon) hướng về Nước Trong Bám Rêu (Kokeno Shimizu) và thảo am của nhà thơ Saigyô [xxvii] . Nghe nói cái người "đạp tuyết trắng rẽ sườn non " [xxviii] thấy trong thơ của phu nhân Shizuka đã qua chiếc cầu này để đi từ vùng thâm sơn Yoshino xuống thung lũng Nakano In.

Khi chúng tôi nhận ra nó thì ngọn núi không biết tự lúc nào đã đến sát bên và cao sừng sững trên đường đi.Khung trời thu hẹp lại, tưởng chừng cả dòng sông Yoshino lẫn nhà cửa cũng như con đường đều như phải nghẽn lại ở hẻm núi nầy. Thế nhưng làng mạc là thứ mà hể có kẻ hở xen vào được thì nó sẽ vươn ra mãi bất cứ đến đâu. Ba bên bị núi bao vây chỉ còn một chỗ trũng giống như cái đảy, bên bờ một con sông ứ nước, đã thấy những mảnh đất hình bậc thang người ta càn ra, trên ấy có nhà

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 275

tranh và ruộng rẫy. Chính là làng Natsumi. Thế ra chốn có nước chảy, núi giăng, là địa hình nơi người sa cơ đến "ở tạm".

Chúng tôi hỏi thăm nhà của gia đình Ôtani thì được biết ngay. Nó nằm ngoài bờ sông, trong một bãi dâu, cách lối vào làng chừng một cây số.Đó là một ngôi nhà có mái thật đẹp. Thân cây dâu đã lên khá cao nên từ xa nhìn tới, cái mái tranh của căn nhà chính ra vẻ nhà xưa và mái căn nhà phụ với hàng hiên lợp ngói, nổi lên trên những rặng dâu như đảo nằm giữa biển và có vẻ mời mọc khách. Tuy nhiên, được mỗi cái mái chứ ngôi nhà chỉ là một cái nhà nông dân bình thường, có cất thêm hai căn phòng nhìn ra đám ruộng dâu. Cửa giấy mở toang ra phía trước, và trong gian tiếp giáp với phòng khách, một người đàn ông trạc bốn mươi, tướng như chủ nhà đang ngồi. Khi thấy bóng chúng tôi, chưa kịp tự giới thiệu thì ông đã ra chào đón. Mặt ông rám nắng, xương xẩu, mắt hiền lành nhưng mệt mỏi, bờ vai rộng, hoàn toàn là hình ảnh của một nông dân đơn sơ, chất phác.

-Nghe ông Konbu trên Kuzu nói chuyện hai ông nên từ nãy giờ tôi có ý mong.

Ông ta chào hỏi với một giọng địa phương quê mùa khó hiểu và để trả lời câu hỏi thăm của chúng tôi, ông ta cũng chẳng nói chi cho được rõ ràng mà chỉ biết lễ phép cúi đầu. Tôi nghĩ đây là một gia đình đã sa sút, không còn giữ được tư thế của ngày xưa nhưng những người như ông ta có vẻ dễ tiếp xúc hơn.

-Chúng tôi xin lỗi đã quấy quả trong lúc ông bận rộn và biết rằng chẳng mấy khi ông để vật gia bảo quí giá lọt vào mắt người ngoài nhưng chúng tôi cũng mạo muội lặn lội đến xin phép ông cho xem.

-Không, đâu phải chúng tôi muốn dấu diếm gì....

Ông tỏ ra thẹn thùng và hơi bối rối cho biết tổ tiên căn dặn phải chay tịnh một tuần trước khi đem báu vật ra nhưng gia đình ông cũng không giữ được qui tắc phiền hà ấy. Ông nói sẳn sàng đưa cho những ai ngõ ý muốn xem nhưng ngày ngày còn bận chuyện đồng áng nên không có

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 276

thời giờ đón tiếp người đến thăm bất chợt.Nhất là gần đây vì vụ tằm mùa thu chưa xong xuôi nên chiếu lót nhà hãy còn bị gỡ lên, khách lạ tới cũng chẳng có phòng khách để tiếp.Chính vì lẽ đó nên có thông báo trước thì mới thu xếp để được rảnh rỗi.Ông ta vừa đặt hai bàn tay móng đen cáu ghét lên đùi, vừa trả lời một cách ngượng ngập.

Như thế mới biết rõ ràng là vì hai đưa tôi mà ông đặc biệt cho lót chiếu hai gian buồng trở lại và ngồi đợi. Từ trong phòng nhìn qua khe cửa ra phía nhà kho còn trơ sàn ván, tôi thấy nông cụ hãy còn bày ra ngỗn ngang như có ai mới vội vã dọn vào tạm.Phút chốc, nhà chủ đã đem bảo vật bày ra trên bệ, cung kính đặt từng thứ một trước mặt chúng tôi.

Một cuộn sách nhan đề "Gốc tích thôn Natsumi", vài thanh đoản đao và trường kiếm bái lĩnh từ ngài Yoshitsune, danh sách những vật ấy cũng như các thứ ổ kiếm, bao kiếm, ấm chén bằng sứ, và rồi cái trống Hatsune do lệnh bà Shizuka ban cho. Ở cuối cuốn sách mang tên "Gốc tích thôn Natsumi" trong số mấy món đồ đó, có chép:

"Vào dịp ngài Naitô Mokuzaemon là chức quan trông coi việc hành chính của Gojô [xxix] đến viếng, Ôtani Genbei, lúc đó 76 tuổi, có cơ hội được đón tiếp, đã ghi lại trên mặt giấy y nguyên những điều sau đây mà ông ta được nghe, để truyền lại con cháu trong nhà" với ngày tháng "Mùa hè năm Ansei thứ hai, Ất Mão".

Tương truyền chính năm Ansei thứ hai (1855) đó, khi quan hành chính địa phương Naitô Mokuzaemon đến làng này, thì cụ tổ mấy đời của chủ nhà, ông lão Ôtani Genbei, đã dập đầu xuống đất để thưa chuyện nhưng khi viên quan đọc được những điều ghi chép trong sách đã phải nhường cụ ta chỗ chiếu trên mà quì dưới đất. Có cái là cuốn sách này có chỗ đã cháy sém thành than, đen điu bẩn thỉu, đọc được cũng bở hơi tai cho nên sách có đính kèm một bản sao chép. Chả hiểu nguyên bản nói những gì nhưng bản chép lại đầy lỗi chính tả, không tài nào phân biệt chữ nọ với chữ kia, khó lòng tin rằng người lảnh nhiệm vụ chép lại là kẻ ăn học đàng hoàng. Tuy nhiên, nếu tin vào văn bản thì tổ tiên gia đình nầy đã từng sinh sống tại đây từ trước thời Nara (710-794), trong cuộc biến loạn năm Nhâm Thân (672), chủ trang trại Murakuni là Oyori đã theo phò

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 277

thiên hoàng Tenmu để chống lại hoàng tử Ôtomo (tức thiên hoàng Kôbun). Lúc ấy, đất đai họ quản lĩnh kéo dài từ làng nầy mãi đến tận Kamiichi, dài những năm cây số và cái tên "sông Natsumi" đã được đem đặt cho năm cây số của khúc sông Yoshino. Đoạn chép về ngài Yoshitsune như sau:

"Lại nói sau khi ngài Yoshitsune đã ăn tết Đoan Ngọ ở vùng núi Shiroya trên thượng nguồn xong mới xuống và trú chân khoảng ba bốn mươi hôm trong trang trại Murakuni này. Khi đi xem cầu Shibahashi ở Miyataki, ngài có vịnh hai bài thơ" và hai bài waka ấy còn được ghi trong sách".

Cho đến nay tôi chưa hề nghe nói Yoshitsune làm thơ bao giờ và hai bài thơ còn chép lại, dù là dưới mắt một tay mơ, cũng không thấy chút giai điệu nào có hơi hướm của giai đoạn cuối thời văn chương cung đình, lời lẽ còn có vẻ quê mùa nữa. Sau đó đến phần nói về lệnh bà Shizuka:

"Lúc ấy, phu nhân Shizuka, thiếp yêu của ngài Yoshitsune, có tạm trú trong nhà trang chủ Murakuni, nhân vì ngài Yoshitsune thất thế phải trốn lên Mutsu trên miền Bắc, bà cô thân tuyệt vọng đành gieo mình xuống giếng. Giếng ấy mang tên Giếng Shizuka". Theo cuốn sách, lệnh bà đã chết ở đó. Sách còn chép thêm: "Tuy nhiên, lòng quá đau thương vì phải chia ly với ngài Yoshitsune mà từ đó suốt ba trăm năm, hồn của phu nhân đêm đêm vẫn hiện ra từ miệng giếng dưới dạng một quả cầu lửa ma trơi. Cho đến khi vị cao tăng Rennyo (Liên Như) đi qua làng Iigai để cứu độ mọi người, dân sở tại đã van xin nhà sư ra tay cứu độ cả cho vong hồn của phu nhân. Nhà sư không chút do dự đã tiếp dẫn linh hồn phu nhân và ông đã thảo lên ống tay áo bà Shizuka một bài thơ mà nay gia đình Ôtani vẫn còn cất giữ chu đáo".

Bài thơ cũng có ghi trong sách.

Trong khi chúng tôi đang đọc cuốn sách, chủ nhà ngồi một bên im lặng, không chen vào một lời giải thích nào cả. Thế nhưng qua nét mặt, thấy ông ta có vẻ chắc mẫm về nội dung tổ tiên ghi lại mà không cần đặt vấn đề. Khi chúng tôi hỏi : "Thế thì ống tay áo ngài Rennyo chép bài thơ lên

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 278

bây giờ ra sao rồi?" thì ông cho biết từ đời tổ tiên, để cầu siêu cho vong linh phu nhân, họ đã tiến cúng nó vào chùa Saijô trong làng nhưng nay không biết nó đã vào tay ai vì không thấy trên chùa nữa.Chúng tôi thử nhấc trường kiếm, ổ kiếm và vỏ kiếm lên xem thì thấy nó quả là đồ cổ, nhất là vỏ kiếm đã bục rách nhưng không có chi tiết nào giúp chúng tôi đánh giá được. Còn cái trống Hatsune đáng chú ý kia thì chẳng có da bọc mà chỉ còn mỗi thân trống được giữ lại trong cái hộp bằng gỗ ngô đồng. Vật này cũng chẳng biết thế nào, chỉ thấy lớp sơn mài còn khá mới, không có tranh trang trí bên trên; nhìn chung, nó chỉ là cái thân trống màu đen chẳng có gì đặc biệt. Gỗ của nó có vẻ cũ và chắc vì thế, vào một thời điểm nào đó, người ta đã đem nó đi sơn lại. "Thì chắc là thế!". Chủ nhà trả lời một cách dửng dưng..

Ngoài ra còn hai tấm bài vị uy nghiêm, có kèm cả cả mái và cửa.Trên cánh cửa một tấm có trổ hoa văn hoa quì, trong đó khắc hàng chữ " Chính Nhất Vị Đại Tướng Quốc Chi Linh Vị ", còn trên cửa tâm kia có hoa văn hoa mơ, ở giửa khắc " Quy Y Trinh Ngọc Tín Nữ Linh Vị ", bên mặt đề " Niên hiệu Genbun thứ hai [xxxi] , năm Tỵ ", bên trái " Ngày 10 tháng 11, Nhâm ".Thế nhưng đối với hai tấm bài vị này, chủ nhà hình như cũng chẳng biết điều gì về chúng cả. Chỉ nghe nói lại nó có liên quan đến các bậc chủ quân của gia đình Ôtani và mỗi năm đến ngày mồng một tháng giêng, họ có lệ đem hai tấm bài vị ấy ra cúng tế. Còn về tấm bài vị có ghi niên hiệu Genbun thì chủ nhà nghiêm trang bảo rằng nó chắc là của phu nhân Shizuka.

Nhìn cặp mắt hiền lành nhút nhát và pha chút mệt mỏi của ông, chúng tôi không biết phải nói gì bây giờ. Chẳng lẽ lại giải thích niên hiệu Genbun thuộc vào thời nào hay dẫn ra những chi tiết về cuộc đời của phu nhân Shizuka như thấy chép trong bộ sử truyện Azuma kagami hay Truyện Heike. Tóm lại, ông chủ nhà nầy thành thực tin tưởng vào điều mình nói và vị phu nhân trong trí tưởng tượng của ông không cần phải đúng là nàng Shizuka đã múa trước mặt Yoritomo ở đền Tsurugaoka.Đối với ông, đó chỉ là một người đàn bà cao quí tượng trưng cho cái quá khứ xa xưa khi tổ tiên ông ta còn sống mà ông ta hãy còn tiếc nuối. Hình ảnh mông lung của người đàn bà quí tộc có cái tên là phu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 279

nhân Shizuka cô đọng lại tất cả tình cảm tôn thờ và tận tụy của ông đối với tổ tiên, đối với quân vương và quá khứ cổ kính Không cần phải đặt câu hỏi xem người đàn bà tôn quí ấy có thật tìm chổ trọ và sống những ngày cô đơn dưới mái nhà nầy hay không. Nếu ông đã tin như thế thì tốt nhất hãy để ông ta sống yên vui với niềm tin đó. Còn như muốn đồng tình với ông thì có thể giải thích là đã có một sự kiện giông giống như thế xãy ra vào thời toàn thịnh của gia đình ông ta. Dù người đàn bà tôn quí đó chẳng phải chính phu nhân Shizuka thì cũng có thể là một cô công chúa Nam Triều đến đây lánh nạn đao binh vào thời  Chiến Quốc (Sengoku, 1467-1568) và câu chuyện nầy đã hòa quyện làm một với sự tích của lệnh bà Shizuka.

Giữa lúc chúng tôi chực kiếu từ thì chủ nhà bảo :

-Nhà chẳng có chi, các ông dùng tí zukushi lấy thảo!

Ông ta châm trà rồi đem ra một mâm quả hồng và một cái gạt tàn thuốc lá sạch, không có tí tàn.

Có lẽ zukushi mà ông nói có nghĩa là jukushi tức quả hồng chín. Cái gạt tàn ông ta đem ra không phải là để gạt tàn thuốc lá vào đó mà để chúng tôi dùng làm đĩa ăn thứ hồng chín nhũn nầy .Thấy ông mời mọc chí tình, tôi e dè lấy một quả tưởng chừng sắp vỡ đến nơi đặt trên lòng bàn tay. Quả hồng to, hình viên trụ, đáy nhọn, chín rục, đỏ tươi và hơi trong, phình ra như một cái bong bóng nhựa, trông đẹp như hòn ngọc khi đưa ra trước ánh sáng. Những quả hồng ngâm rượu thấy bán ngoài chợ không thể nào đạt được cái màu tuyệt đẹp như thế và chưa chín tới độ này thì đã vữa ra cả.Theo lời ông chủ nhà, muốn làm mứt hồng kiểu nầy, chỉ được dùng loại hồng vùng Mino vỏ thật dày. Hái lúc nó hãy còn xanh và chua, rồi bỏ vào trong hộp hay lồng ủ ở một nơi không có gió. Không cần làm gì cả, mười hôm sau, bên trong ruột sẽ tự động nhão ra và ngọt như mật. Các loại hồng khác sẽ hóa lỏng chứ không keo lại như giống hồng Mino. Cách ăn thì giống như ăn trứng luộc nửa chín nửa sống, nghĩa là gỡ cái cuống bên trên rồi cho thìa vào lỗ hổng mà múc. Có thể theo một cách khác là bỏ vào đĩa, bóc vỏ ra cầm lên mà ăn. Tuy

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 280

có bẩn tay nhưng ăn kiểu này ngon hơn.Vừa vặn khoảng mười hôm thì nhìn vừa đẹp, ăn lại ngon. Quá thời hạn đó, ruột hồng dễ thành nước.

Đang khi nghe lời giải thích, tôi đăm đăm quả hồng như hòn ngọc bằng sương trời nằm trong lòng bàn tay mình. Tôi có cảm tưởng tất cả khí thiêng của núi rừng và ánh nắng như thể đang ngưng đọng lại trong một lòng bàn tay. Nghe nói ngày xưa người nhà quê mỗi khi lên kinh đô thường bọc đất trên đó trong giấy đem về nhà làm quà kỹ niệm, riêng phần tôi, nếu có ai hỏi màu sắc mùa thu ở Yoshino như thế nào thì tôi sẽ gói cẩn thận mấy quả hồng nầy để đưa cho họ thấy.

Rốt cuộc, cái gây ấn tượng cho tôi nhiều hơn cả lúc ghé nhà ông Ôtani không phải là cái trống, cũng không phải mớ văn thư cũ mà chỉ là mấy quả mứt hồng. Tsumura và tôi, mỗi đứa tham lam ngốn ngáo hai quả hồng zukushi, sung sướng để cho chất keo ngọt ngào mát mát đi từ răng lợi ngấm vào tận con tì con vị. Miệng tôi, cổ họng tôi căng phồng, đầy ắp mùa thu Yoshino. Ngay cả những quả xoài tên gọi Anmoraka được nhắc đến trong kinh Phật có lẽ cũng chẳng ngon bằng.

Phần Bốn : Tiếng Chồn Tru

-Cậu nầy, đọc sự tích của làng thì có nói chiếc trống Hatsune là do phu nhân Shizuka tặng nhưng không thấy chép về tấm da chồn ?

-Ừ. Do đó, theo tớ nghĩ thì chiếc trống đó đã có trước bản tuồng. Nếu bản tuồng ra đời trước thì trống phải được chế sao cho ăn khớp với tình tiết vở tuồng. Cũng như soạn giả vở Imoseyama phải nhìn thấy quang cảnh hai hòn núi trước đã và soạn giả Nghìn Cội Anh Đào phải có lần đến hỏi thăm gia đình Ôtani hay nghe theo lời đồn đại rồi lấy cảm hứng dựng vở tuồng từ đó. Có cái, người viết Nghìn Cội Anh Đào là Takeda Izumo[xxxi] (1691-1756) nên vấn đề được đặt ra là vở tuồng phải được soạn ra trước niên hiệu Hôreki (1751-1764) thế mà cuốn sách chỉ mới được viết vào năm Ansei thứ hai (1855). Tuy thế, sự tích có lẽ còn bắt nguồn xa hơn nữa trong quá khứ vì theo quyển sách, nó được chép bởi ông lão Ôtani Genbei, năm 76 tuổi và cụ này lại nghe những chuyện

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 281

truyền lại từ xưa nữa. Cho dù cái trống chỉ là đồ giả, tớ nghĩ rằng nó phải có trước năm Ansei thứ hai thì mới hợp lý. Cậu đồng ý chứ ?

-Thế nhưng cái trống ấy trông mới quá !

-Không đâu ! Cái trống ấy mới thật nhưng nó có thể được sơn đi sửa lại hai ba lần rồi ấy chứ. Trước khi cái trống ấy ra đời , tớ nghĩ cũng có thể đã có những cái trống khác nằm trong hộp gỗ ngô đồng kia.

Từ làng Natsumi trở về Miyataki phía bờ bên kia, phải đi ngang qua cái cầu Shibahashi, một trong những thắng cảnh của vùng.Hai đưa tôi ngồi lên trên mỏm đá bên cầu, nói chuyện như thế một đổi.

Kaibara Ekiken trong Hòa Châu Tuần Lễ Ký (Washuu Junrei-ki) [xxxii]

có viết :

" Ở vùng Thác Cung Điện (Mitataki) không có cái thác nào, hai bên chỉ là vách đá sừng sửng và sông Yoshino chảy len chính giữa. Ghềnh đá ấy cao khoảng 5 ken [xxxiii], đứng chắn như một tấm bình phong. Chỗ sông chảy qua rộng độ 3 ken. Cầu bắt qua nơi hẹp nhất. Bởi vì dòng sông thu hẹp lại ở chỗ này nên nước rất sâu và cảnh trí tuyệt đẹp ".

Nơi mô tả trong sách vừa vặn đúng ngay ở chỗ chúng tôi đang ngồi trò chuyện.

" Trong làng có người làm nghề iwatobi (nhảy ghềnh) nghĩa là nhảy từ ghềnh đá xuống đáy sông, bơi theo giòng rồi lại trồi lên phía hạ lưu. Họ kiếm tiền bằng cách diễn trò đó.Lúc buông người xuống, họ chụm tay chân sát bên thân, đến một độ sâu cở một jô ( 3 mét), nếu dang tay ra thì sẽ nổi lên ".

Trong sách Tranh Vẽ Các Thắng Cảnh (Meisho Zue) có một bức họa về cảnh iwatobi. Hình thế hai bên bờ và dòng nước của con sông thấy không khác gì trong bức họa đó. Khi con sông đển chỗ này, nó uốn khúc rất gắt rồi tung bọt đổ xuống giữa những ghềnh đá hiểm trở. Ông chủ gia

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 282

đình Ôtani cho chúng tôi biết rằng hàng năm, không hiếm chi những chiệc bè đã lâm nạn khi đụng vào những phiến đá đó.

Những người làng làm nghề " nhảy ghềnh " ngày thường đi câu hay cày bừa dọc bờ sông, khi nào gặp du khách đi qua thì mới nhanh chân tới mời mọc họ xem mình biểu diễn ngón nghề. Nếu nhảy ùm xuống từ ghềnh đá thâm thấp ở phía bờ đối diện thì họ lấy một trăm tiền, còn nhảy từ ghềnh cao phía bờ bên nầy, họ lấy gấp đôi, cho nên cái ghềnh bên kia được gọi là Hyakumon-iwa (Ghềnh Trăm Tiền), còn ghềnh bên này được gọi là Ghềnh Hai Trăm Tiền (Nihyakumon-iwa ), đến nổi cho đến nay hai cái tên đó hãy còn. Ông chủ gia đình Ôtani thời trẻ cũng có dịp đi xem nhưng dạo sau này du khách không mấy ai muốn xem diễn trò nữa, cho nên nghề đó cũng trở thành tàn lụi không biết tự hồi nào.

-Nầy, ngày xưa đi thưởng hoa ở Yoshino làm gì đã có đường sá mở mang như bây giờ. Vì phải đi vòng từ huyện Uda mà lên, cho nên khách mượn con đường nầy đông lắm đấy. Hồi ngài Yoshitsune từ kinh đô bôn tẩu, chắc cũng theo cùng tuyến đường thôi nhỉ ? Cho nên soạn giả Takeda Izumo bắt buộc phải đi ngang qua vùng và nhờ đó đã xem được cái trống Hatsune.

Tsumura ngồi trên mỏm đá đó và không hiểu vì cớ gì lại nhắc nhở về cái trống. Anh chàng không phải là con chồn Tadanobu nhưng tấm lòng tưởng nhớ đến tiếng trống Hatsune của anh thì chú chồn kia cũng không sánh kịp. Tsumura thổ lộ rằng không hiểu vì sao mà khi nhìn cái trống, anh đã tưởng như gặp gỡ mẹ mình.

Đến đoạn này thì tôi phải thưa với bạn đọc thêm một vài điều về chàng thanh niên tên gọi Tsumura. Thực tình cho đến lúc ngồi trên mỏm đá và được nghe tâm sự, tôi cũng chẳng biết chi nhiều về anh. Như đã nói, chúng tôi là bạn đồng song trường Dự Bị ở Tôkyô, hồi đó là chỗ thân tình, nhưng lúc vào Đại Học, vì gia cảnh, anh ta phải trở về quê mình là thành phố Ôsaka và bỏ ngang việc học. Tôi chỉ nghe nói gia đình anh đã nhiều đời làm nghề cầm đồ trong khu Shimano.uchi, ngoài ra, anh có hai chị em gái nhưng cha mẹ đều mất sớm, ba người đều được bà nội một tay nuôi dạy. Cô chị lấy chồng dã lâu còn cô em gái cũng sắp làm dâu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 283

nhà người ta. Bà nội cảm thấy đơn chiếc và cũng mong có người nối nghiệp nhà mới gọi thằng cháu về nên anh mới đột ngột bỏ học. Tôi có lần thử khuyên " Thế thì vào Đại Học Kyôto vậy ! " thế nhưng hồi đó, Tsumura không muốn tiếp tục học mà thích viết lách. Trong bụng anh hình như đã tính bề gì việc buôn bán có thể giao tất cho người quản lý, có thể dùng thời giờ rảnh để từ từ viết một cuốn tiểu thuyết thì thích hơn.

Sau đó, chúng tôi có trao đổi thư tín với nhau nhưng tôi không thấy anh ta viết gì ngoài mấy bức thư. Nói là thích viết nhưng một khi đã sống một cuộc đời an định và không thiếu thốn của một ông chủ con thì cái mộng ước ấy cũng tàn đi.Hai năm sau đó, khi được đọc bên lề của một bức thư anh viết mới biết bà anh đã qua đời, tôi đã tưởng tượng ra cảnh anh sắp rước về một cô vợ đúng với cái tên "con nhà nền nếp " ở vùng Osaka và thực sự trở thành một " ông chủ " trong khu phố Shimanouchi.

Sự tình là như thế, tuy về sau Tsumura có lên Tôkyo đôi ba lần nhưng dịp được ngồi nói chuyện được thoải mái với nhau kể từ ngày rời ghế nhà trường thì hôm ấy là lần đầu. Tuy lâu ngày mới gặp bạn nhưng Tsumura vẫn là con người đúng như tôi đã tưởng tượng. Đàn ông hay đàn bà một khi ra trường để sống cuộc sống gia đình đều có sự thay đổi về thể chất : có lẽ vì ăn uống có thêm chất dinh dưỡng, da thịt họ trắng ra và người đẫy hơn.Trong trường hợp của Tsumura, tính tình của anh có thêm cái gì tròn trịa của một ông chủ trẻ vùng Ôsaka, tuy anh còn dùng ngữ vựng giới sinh viên nhưng giọng nói có pha dấu nhấn đặc biệt của ngôn ngữ địa phương miền Tây - trước kia đã thoáng thấy nhưng bây giờ rõ rệt hơn nhiều. Viết ra như thế để một độc giả bình thường nhất cũng có thể hình dung ra tướng mạo Tsumura như thế nào.

Bây giờ xin nói duyên do tại sao cái trống Hatsune lại ràng buộc anh, điều mà Tsumura đã bất chợt tiết lộ cho tôi nghe lúc hai đứa cùng ngồi trên mỏm đá. Sau đó tôi sẽ nói thêm động cơ nào đã xui khiến anh làm cuộc hành trình nầy cũng như mục đích thầm kín của chuyến đi mà anh cất giấu trong lòng. Nói cho rõ đầu đuôi thì bắt buộc dài dòng nên tôi xin cố gắng tóm lược càng gọn càng tốt về những điều anh ta thuật lại.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 284

" Tâm tình của tớ, những ai không phải là dân Ôsaka hay mồ côi cha mẹ, từ nhỏ không biết mặt cha mặt mẹ (đây là lời kể của Tsumura) thì khó mà hiểu cho đến nơi đến chốn. Như cậu cũng từng biết, ở Ốsaka có ba loại âm nhạc, một là nhạc của sân khấu múa rối jôruri, hai là những điệu đàn koto trường phái Ikuta, ba là ca khúc Jiuta.Tớ không thực sự là người yêu nhạc nhưng đã sống trong bầu không khí của những thứ âm nhạc ấy. Nghe mãi thành quen và không ít thời nhiều thấy mình đã chịu ảnh hưởng của nó chẳng hiểu tự hồi nào. Đặc biệt còn nhớ đến bây giờ là lúc mới lên bốn lên năm, trong gian sau của ngôi nhà ở Shimanouchi, có bóng một người đàn bà thành thị dáng dấp thanh lịch với khuôn mặt trắng và đôi mắt mơ màng đang hòa tấu koto với một lão nghệ nhân mù chơi samisen. Tớ nghĩ hình ảnh của người đàn bà đánh đàn koto có lẽ là hình ảnh duy nhất về người mẹ còn đọng lại trong ký ức của tớ ; tuy thực ra tớ không dám đoan chắc người ấy là mẹ tớ. Về sau, bà nội tớ mới bảo cho biết có lẽ người ấy chính là bà chứ mẹ của tớ chắc chắn mất trước đó ít lâu rồi. Dù sao, tớ lấy làm lạ vì người đàn bà và lão nghệ nhân đã hòa tấu một điệu jiuta của phái Ikuta nhan đề là Konkai [xxxiv] (Tiếng Chồn Tru). Bởi vì từ bà đến chị và em gái tớ đều theo học ông thầy nầy nên sau đó tớ đã được nghe đi nghe lại bản " Tiếng Chồn Tru " nhiều lần và hãy còn giữ ấn tượng rõ ràng. Sau đây là lời ca của bài hát đó :

Mặt như hoa rười rượi, Còn lại giữa sương khô. Gương hồn mẹ mờ phủ Dù tăng đến độ cho. Mẹ ngoảnh đầu nhìn lại, Con ra dấu bảo chờ. Như nói lời vĩnh biệt. Không khóc, biết sao giờ! Vì ai mẹ vượt núi, Vì ai mẹ qua làng. Vì ai mẹ tìm đến, Vì ai, vì vì ai! Ta đến vì con đó, 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 285

Mẹ về, lòng con đau. Về khu rừng ta ở, Ta bắt buộc quay đi, Hồn nhớ mong thổn thức, Mặc cúc trắng sau ghềnh, Mặc giây trường xuân rũ Ta muốn vạch lối đi Giữa những lùm trúc dại. Côn trùng kêu bi ai, Và trời mưa tuôn mãi Trời còn mưa sáng nay Mưa cả sáng hôm nay, Đâu còn lại dấu vết Trên cánh đồng bờ tây. Đường trên ruộng nguy hiểm Đi qua cẩn thận cùng Lên đỉnh rồi xuống lũng Hết đồi nọ đồi nầy, Lòng buồn thương biết mấy!

Nay thì tớ đã nằm lòng điệu nhạc và những chỗ nghỉ chỗ ngắt của nhạc khí nhưng có một cái gì trong ca từ đã đi thẳng vào tấm lòng non nớt làm cho ký ức của tớ mới ghi nhận rõ ràng khúc hát của người đàn bà và lão nghệ nhân.

Nói chung, trong lời ca của jiuta lúc nào cũng có những đoạn bất nhất trí, văn phạm khó hiểu, như thể người ta cố ý làm cho nó tối nghĩa. Những bài dùng trong tuồng Nô và Jôruri đặc biệt khó hiểu nếu không biết điển cố. "Tiếng Chồn Khóc" được xếp vào loại nầy.Tuy vậy những câu như Mặt như hoa rười rượi, Còn lại giữa sương khô.Mẹ ngoảnh đầu nhìn lại, Con ra dấu bảo chờ. Như nói lời vĩnh biệt. là dấu ấn của sự xót xa xé lòng nơi một đứa con trước sự ra đi của người mẹ. Nó đã hằn sâu trong đầu óc thơ ngây của tớ. Vì ai mẹ vượt núi, Vì ai mẹ qua làng. Lên đỉnh rồi xuống lũng, Hết đồi nọ đồi nầy. nghe chẳng khác một khúc hát ru em.Lúc đó tớ chưa đủ trí khôn để hiểu ý nghĩa cái tựa Konkai nhưng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 286

nghe đi nghe lại mãi điệu nhạc, tớ có được cái cảm tưởng mơ hồ rằng bài hát phải liên quan đến một con chồn.

Có thể vì bà nội hay đưa tớ đi xem tuồng múa rối ở các rạp Bunraku và Horie; có cái xen trong Kuzu no Ha (Lá Sắn Giây) cho thấy cảnh người mẹ bỏ con ra đi đã để lại nơi tớ một ấn tượng sâu đậm từ tiếng cành lau xào xạc mà chồn mẹ vẫy trong buổi chiều thu, cho đến bài thơ chồn mẹ viết để lại trên cánh cửa giấy và cõi lòng nặng trĩu của nó khi phải đành tâm để đứa con thơ đang say ngủ lại đằng sau.

Khi nào con nhớ má Tìm ở Izumi Trong rừng Shinoda...

Cái sức mạnh của xen tuồng làm rúng động một đứa con nít không biết mặt mẹ mình thật ra hơi khó có thể làm cho một người không ở trong cùng một hoàn cảnh giống nó thông cảm được. Nghe những câu như Hồn nhớ mong thổn thức, Mặc cúc trắng sau ghềnh, Mặc giây trường xuân rũ, Ta muốn vạch lối đi, Giữa những lùm trúc dại. tôi hình dung được một đứa trẻ tuyệt vọng đuổi theo con chồn trắng, mẹ nó, đang chạy như biến trên những con đường đầy màu sắc mùa thu về phía hang ổ của mình. Đặt mình vào địa vị đứa trẻ, tớ càng cảm thấy thấm thía nỗi cô đơn mất mẹ.

Có lẽ vì khu rừng Shinoda nằm ở gần Ốsaka cho nên bài hát nhắc đến mẹ chồn là một phần trong các trò chơi trong nhà của bọn trẻ con. Tớ còn nhớ một, hai câu kiểu như:

Bắt cho được nó, Bắt cái con chồn, Rừng Shinoda Nào ta đi bắt....

Khi trẻ con chơi trò đó, một đứa đóng vai chồn, còn mấy đứa kia đóng vai người đi săn, chúng nắm chung một cái giây thòng lọng để đi bắt chồn.Có lần nghe nói ở Tôkyô cũng có trò chơi nầy, tớ mới nhờ mấy cô

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 287

geisha ở một trà thất chơi thử cho xem, thế nhưng cả nhạc lẫn lời không giống những gì tớ nghe được ở Ôsaka.Trong khi ở vùng Tôkyo, lúc chơi trò nầy, người ta ngồi, ở Ôsaka, người ta lại đứng và người đóng vai chồn từ từ xáp tới bên cái thòng lòng, vừa vờ nhảy nhót giống như động tác của chồn sao cho ăn khớp với tiếng nhạc.Trò nầy đặc biệt đáng yêu khi " chồn " là một cô con gái đẹp hay là một người vợ trẻ.Tớ còn nhớ có một đêm tháng giêng khi được mời đến chơi trò nầy ở nhà một người bà con và tớ đã chứng kiến một người đàn bà vừa xinh vừa dòn giả làm chồn cực giỏi. Còn có một trò chơi khác nữa. Đám trẻ ngồi thành vòng tròn và " chồn " ngồi ở giữa vòng. Chúng nó vừa ca hát, vừa chuyền tay nhau một món đồ nhỏ như mấy hạt đậu chẳng hạn và làm sao để " chồn " không thấy được. Khi bài hát chấm dứt, tất cả bọn trẻ ngồi im phăng phắc và " chồn " phải đoán đồ vật đó hiện nằm trong tay đứa nào. Sau đây là đôi câu trong bài hát đó :

Nhặt hạt lúa mì, Nhặt cành ngãi cứu. Tay chín hạt đậu Chín hạt thôi đâu Còn thêm nỗi sầu Nhớ nhà cha mẹ Nếu con tìm má Thì cứ vào rừng Rừng Shinoda Lá sắn trở mình Đau lòng nát dạ

Tớ cảm thấy được trong lời ca nầy, dù chỉ thoáng gợn, nỗi nhớ nhà của một đứa trẻ con. Nhiều đứa trẻ gốc ở vùng thôn quê Kawachi hay Izumi lên Ôsaka làm công như người học việc hay đứa ở. Vào những tối mùa đông, trong những hiệu buôn ở các khu Senba hay Shimano.uchi, người ta thường thấy những kẻ giúp việc, sau khi khóa cổng, vào tụ họp với nhà chủ chung quanh lò than và hát bài nầy. Bây giờ tớ mới để ý là những đứa trẻ bỏ làng quê để lên tỉnh học nghề hay học cung cách làm ăn, khi hát những câu như Nhớ nhà cha mẹ, chúng đã phải nghĩ đến

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 288

hình bóng cha mẹ mình đang nằm ngủ trong căn nhà kho leo lét ánh đèn dưới mái tranh. Về sau, tớ được nghe bài hát nầy dùng làm nhạc đệm trong hồi thứ sáu của vở tuồng Chuujingura (Bốn mươi bảy ngươi vũ sĩ trung thành với cố chủ). Khi tới chỗ hai người samurai, mặt dấu dưới cái nón mây đan chùm chụp, bước ra, thì tớ bất giác thấy bài hát nầy mới hợp làm sao với tình cảnh của mấy nhân vật như Yoichibei, O-Kaya hay O-Karu [xxxv] .

Lúc đó, nhà ở Shimanouchi thường nuôi nhiều người làm.Khi tớ nhìn chúng chơi đùa và hát bài ca ấy, tớ vừa thấy dễ thương vừa thấy ganh tị với chúng. Bọn chúng phải bỏ cha bỏ nẹ để đi sống với người lạ, đấy là chuyện đáng buồn; thế nhưng hễ muốn gặp họ thì chúng chỉ cần về nhà mình là gặp. Tớ không được như thế. Việc đó gieo vào đầu tớ ý nghĩ là tớ có thể gặp mẹ tớ nếu chịu vào rừng Shinoda, và hồi năm thứ hai, thứ ba tiểu học, tớ có lần lén gia đình, đi đến đó cùng với đứa bạn cùng lớp. Ngay cả ngày nay nơi đó cũng chưa hẳn là một chỗ đến được dễ dàng, phải đi bộ mất một dặm rưỡi từ ga xe điện Nankai, nói chi cái thời chưa có cả xe lửa, bởi vì tớ nhớ đã đến nơi bằng một chiếc xe ngựa cà tàng và đi bộ một đỗi rất xa.Trong một cánh rừng long não cổ thụ, tớ thấy có ngôi miếu thần chồn Inari Lá Sắn Giây (Kuzu no Ha), ở đó còn có Cái Giếng Soi Mặt của Bà Chúa Kuzu no Ha. Tớ được an ủi phần nào khi được ngắm trong điện dành để treo tranh cúng, tấm tranh vẽ hình chồn mẹ chia tay với chồn con và bức chân dung của kép Jakuemon hay một người nào giống như thế. Lúc ra khỏi rừng, trên đường về, thỉnh thoảng tớ lại bùi ngùi khi nghe tiếng kêu lách ca lách cách của con thoi từ bên trong liếp cửa giấy của các nhà nông dân. Con đường đi dọc khu vực có lẽ ngang qua vùng sản xuất bông vải của miền Kawachi nên có nhiều nhà dệt cửi. Thế nhưng chỉ riêng âm thanh của máy dệt thôi cũng đã giúp tớ thỏa mãn biết là bao tấm lòng mong đợi.

Tớ lấy làm lạ khi thấy mình phần nhiều chỉ nhớ mẹ, chứ không hề nhớ cha. Hơn nữa cha của tớ đã chết trước cả mẹ, cho nên dù tớ còn giữ được đôi chút hình ảnh mơ hồ của bà mẹ thì đối với ông cha, tớ hoàn toàn không nhớ gì cả. Từ đó mà suy ra thì tình thương nhớ của tớ đối với mẹ mình chỉ là một mối hoài cảm bàng bạc về một "người đàn bà

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 289

mình chưa hề gặp", nghĩa là có liên quan đến sự chớm nở của tình yêu trai gái vào tuổi dậy thì.Đối với tớ thì người đàn bà trong quá khứ hay người mẹ, người đàn bà trong tương lai hay người vợ, cả hai đều giống nhau ở chỗ họ là những "người đàn bà chưa hề gặp" và đều ràng buộc với tớ bằng sợi dây định mệnh.Trạng thái tâm hồn nầy, ở một chừng mực nào đó, có lẽ tiềm tàng ở mỗi cá nhân, ngay cả người ở vào những hoàn cảnh khác tớ. Có thể tìm thấy bằng chứng về điều đó trong một câu hát của bài Tiếng Chồn Khóc. Những câu như: Vì ai mẹ tìm đến, Vì ai, vì vì ai! Ta đến vì con đó, Mẹ về, lòng con đau. Ôi, nó nói lên sự đau đớn của đứa con mong mẹ nhưng lại giống như nỗi lo âu của đôi trai gái khi phải rời nhau. Có thể tác giả của bài ca cố ý đặt lời mù mờ để người ta có thể giải thích theo hai lối.Dù sao, kể từ khi tớ nghe bài hát ấy lần đầu tiên, tớ không tin rằng những lời ca đó đang nói về một người mẹ trong mộng tưởng. Tớ thấy qua hình ảnh huyễn hoặc đó, cả người mẹ lẫn người vợ của tớ nữa. Do đó hình ảnh của người mẹ mà tớ mãi ôm ấp trong cái lồng ngực nhỏ không phải một bà đứng tuổi mà là người con gái mãi mãi xinh đẹp trẻ trung. Người mẹ của tớ phải giống như bà vú Shigenoi tức mẹ của anh chàng mã phu Sankichi trên sân khấu, một nữ quí nhân trong tấm áo choàng sang trọng, đi theo hầu vị công nương, con gái của lãnh chúa. Trong giấc mơ của mình, tớ thấy mẹ tớ là mẹ Sankichi, còn tớ chính là chàng ta.

Có thể những nhà soạn kịch đời Tokugawa [xxxvi] đã nghĩ được ra phương pháp tinh xảo để khơi gợi được những tình cảm tế nhị nằm trong tiềm thức của khán giả. Trong vở kịch nói về Sankichi, một bên là nàng công nương, đứa con gái, một bên là chàng mã phu, đứa con trai, còn bà thị nữ, vừa làvú em vừa là người mẹ, đứng ở giữa hai người. Ngoài bề mặt, đề tài của vở kịch là tình thương yêu giữa cha mẹ và con cái nhưng bên trong, nó hé cho ta thấy cái tình cảm lãng mạn chưa định nghĩa được của một chàng trai mới lớn. Ít nhất, từ góc độ cái nhìn của Sankichi thì mẹ của chàng và vị công nương, cả hai sống bên trong cung cấm của lâu đài lãnh chúa, đều có thể là đối tượng của sự nhớ mong. Trong vở Lá Sắn Dây (Kuzu no Ha), cả người cha và cậu con đều chung một lòng yêu người mẹ; nhưng trong trường hợp nầy, việc dựng lên nhân vật "mẹ chồn" đã thành công vì làm mủi lòng đám khán giả mơ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 290

mộng. Tớ luôn luôn ước muốn mẹ tớ phải là chồn và tớ ganh tị khủng khiếp với đứa bé trong tuồng hát. Cho dầu tớ không còn hy vọng gặp lại mẹ tôi trên đời vì mẹ tớ là một con người, nhưng ngộ nhỡ mẹ là chồn đội lốt người thì biết đâu có lúc mẹ chẳng lại hiện ra bên tớ? Chắc chắn là những đứa con mất mẹ sẽ cảm thấy như thế khi xem tuồng. Trong điệu vũ " đi đường  " ( michiyuki ) [xxxvii] của vở  Nghìn Cội Anh Đào (Senbonzakura) sự kết hợp giữa người mẹ, người con gái đẹp, chồn và người yêu lại còn gắn bó hơn thế nữa. Cả mẹ và con đều là chồn và, trong khi lệnh bà Shizuka và con chồn Tadanobu đóng vai nữ chủ nhân và người hầu cận thì trên sân khấu, xen diễn xuất lại được dựng ra giống cuộc hành trình của đôi nam nữ yêu nhau. Có lẽ vì thế mà tớ mê nhất cái màn vũ nầy. Tớ muốn mình được như con chồn Tadanobu và trong trí tưởng tượng của tớ, vì bị tiếng trống phát ra từ cái trống căng bằng da của mẹ tớ lôi cuốn nên tớ đã chạy theo phu nhân Shizuka dưới những rặng anh đào đẹp như mây trong núi Yoshino. Có lần tớ còn muốn đi học múa để có thể đóng được vai Tadanobu như trên sân khấu.

"Tuy nhiên, chuyện chưa hết đâu!" Tsumura thêm vào, vừa đưa mắt nhìn qua bóng thẫm của khu rừng trong thôn Natsumi, phía bên kia bờ. "Lần nầy, tớ có cảm tưởng rõ ràng mình đã bị cái trống Hatsune dụ dỗ tới đây". Thế rồi, đôi mắt hiền hòa đặc biệt "công tử Ôsaka" của anh ánh lên một nụ cười, nụ cười mà tôi không hiểu muốn nói lên điều gì.

Phần Năm: Kuzu

Kể từ bây giờ, tôi xin phép được thay mặt Tsumura để thuật lại câu chuyện một cách gián tiếp.

Tsumura đặc biệt thương nhớ đất Yoshino vì ảnh hưởng của vở tuồng Nghìn Cội Anh Đào. Một lý do khác là anh chàng biết mẹ mình xuất thân vùng Yamato Việc biết đích xác quê quán bà nằm nơi nào trong vùng nầy và gia đình bà còn có ai không từ lâu vẫn là một điều bí ẩn.Tsumura đã từng hỏi thăm bà nội, lợi dụng lúc bà còn sống để tìm hiểu tường tận thân thế mẹ anh ta nhưng bà nội cũng đã quên nhiều nên không trả lời được rõ ràng. Gia đình Tsumura vốn là gia đình có nền nếp lâu đời, chuyện thân thích hai ba thế hệ vẫn còn đi lại là thường, nhưng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 291

sao đi hỏi các bậc cô bác thì lạ lùng thay, chẳng có người nào biết quê quán mẹ anh cả. Thực ra, mẹ của Tsumura không ở dưới Yamato lên tỉnh để lấy cha anh liền: lúc còn con nít bà đã bị bán vào lầu xanh trong xóm ăn chơi ở Ôsaka, và sau đó nhờ một gia đình đàng hoàng nhận làm con gái nuôi trước khi gả chồng. Giấy tờ hộ tịch cho biết bà sinh năm Bunkyuu thứ ba (1863), được phép của ông Urakado Yoshijuuro, địa chỉ ở khu phố 3 Imabashi cho về làm dâu gia đình Tsumura vào năm Meiji thứ 10 (1877) lúc 15 tuổi (ta) và mất năm Meiji thứ 24 (1891) lúc 29 tuổi (ta). Đó là tất cả những gì Tsumura được biết về mẹ mình khi anh vừa học xong cấp hai bậc trung học. Sau đó anh mới hiểu ra rằng cả bà nội cũng như những người bà con có tuổi không muốn kể thêm vì họ không muốn đụng đến cái quá khứ của mẹ anh.Tuy nhiên, đối với Tsumura, việc mẹ anh lớn lên trong thế giới sa đọa chỉ làm tăng thêm lòng thương cảm của anh đối với mẹ và không hề khiến anh hổ thẹn hay khó chịu.

Hơn nữa, bà đã thành duyên lúc mới 15 thì cho dù là ở một thời đại hãy còn tục tảo hôn, thì có lẽ mẹ anh tuy có vướng chút bùn nhơ của xã hội ấy nhưng cũng mới sơ qua và bà vẫn chưa mất cái vẻ chân thật ngây thơ của một cô gái nhỏ. Chắc nhờ ở những đức tính như thế mà bà đã có với chồng được ba đứa con.Về làm dâu từ lúc còn là một thiếu nữ chửa biết gì, bà đã được dạy dỗ kỹ càng để trở thành bà chủ xứng đáng của một gia đình nền nếp. Tsumura từng có dịp xem quyển bài tập để đánh đàn koto được mẹ anh chép tay từ lúc bà mới mười sáu, mười bảy. Đó là một tờ giấy lớn xếp làm tư, trên đó bà chép lại lời ca theo hàng ngang và giữa những hàng đó, có ghi chú cẩn thận các nốt nhạc cho koto viết bằng mực đỏ, bút tích theo thư pháp O-ie nom rất đẹp.

Sau đó Tsumura lên Tôkyô trọ học và dĩ nhiên xa cách với gia đình nhưng ý nghĩ muốn tìm về quê mẹ của anh càng ngày càng nồng cháy. Có thể nói là cả thời thanh xuân, anh chỉ sống trong ý nghĩ tìm về mẹ mình. Không phải anh không có chút đỉnh tình cảm hiếu kỳ đối với những cô gái hàng phố, tiểu thư, geisha hay nữ tài tử vv... mà anh ta tình cờ gặp gỡ trên đường, thế những những người đàn bà mà anh để ý chỉ là những cô có khuôn mặt hao hao với hình ảnh người mẹ mà anh thấy qua ảnh chụp. Khi anh ta bỏ học để về Ôsaka, không phải vì anh muốn làm

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 292

vừa lòng bà nội, nhưng chỉ vì anh ta muốn tiến sát lại gần một miền đất ở cạnh quê hương mẹ anh thêm chút nữa và cũng vì ngôi nhà ở Shimano.uchi, nơi mẹ anh đã sống một quãng đời ngắn ngủi của bà. Có thêm lý do khác là mẹ anh gốc gác miền Tây. Ở Tôkyô, ít khi anh có dịp gặp một người giống mẹ anh nhưng ở Ôsaka, đôi khi lại có. Anh ta chỉ biết mẹ anh đã lớn lên trong một xóm lầu xanh nhưng anh tiếc là không biết đích xác xóm nào. Để đi tìm hơi hướm của người mẹ, anh hay tìm đến các cô gái làng chơi và lui tới những trà đình tửu điếm. Kết cuộc anh đã nhiều lần thầm yêu những người con gái ấy và mang cái tiếng "dân chơi bời". Tuy nhiên những chuyện đó chỉ bắt nguồn từ niềm nhớ thương người mẹ cho nên không có cuộc tình nào đi xa và đến bây giờ, anh vẫn giữ tấm thân trong trắng.

Thế rồi, cách đó ba bốn năm, bà anh qua đời.

Chuyện dưới đây xảy ra ít lâu sau khi bà anh đã quá cố. Một hôm, anh ngồi sắp đặt lại đồ đạc của bà cho đâu vào đấy và bắt đầu bằng các ngăn kéo của một cái tủ nhỏ cất trong nhà kho. Lẫn lộn trong mớ giấy tờ của bà nội anh có mấy bức thư và giấy tờ cũ mà anh chưa được thấy bao giờ. Nó gồm có mấy bức thư tình mà mẹ anh, lúc còn là người giúp việc, và cha anh gửi cho nhau, một bức thơ của một người có lẽ là bà mẹ ruột của mẹ anh gửi từ Yamato đến cho con gái, mấy tấm giấy chứng nhận đã theo học các khóa đàn koto, shamisen, cắm hoa và trà đạo do các vị thầy cấp cho... Những lá thư tình, ba lá do cha anh gửi và ba lá từ phía mẹ anh, không có nội dung gì đặc biệt ngoài những lời lẽ thân ái, nhớ nhung trẻ con của thiếu niên thiếu nữ ngỏ cho nhau trong cái say đắm của mối tình đầu. Hình như hai người có lần lén lút gặp nhau. Cho dầu chữ viết hãy còn non nớt nhưng lối hành văn trong lá thư của mẹ anh rất là cổ kính trang nhã "chút lòng ngu muội mượn giấy thay lời bày tỏ nỗi niềm..." "tấm thân tủi hổ nay được đoái hoài vui mừng khôn xiết" vv.. đối với một cô bé mười lăm như thế là hết sức chải chuốt, nó chứng tỏ trai gái thời đó đã hiểu đời sớm.Thơ gửi từ dưới quê lên cho mẹ anh thì chỉ có một lá. Thư đó gửi về địa chỉ "Cô Sumi, khu phố 9, Shinmachi, thành phố Ôsaka, kính nhờ ông Konawaka chuyển hộ". Người gửi tên là " Gia đình Konbu Sukezaemon, xóm Kubokaito, làng Kuzu, quận

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 293

Yoshino, tỉnh Yamato". Thơ viết như sau: "Má viết thơ nầy vì ba má rất cảm ơn tấm lòng hiếu thảo của con. Trời càng ngày càng lạnh nhưng nghe tin con được bình yên, ba má mừng. Ba con với má thành thật cảm ơn con". Sau đó là một loạt những lời dặn dò: nào là phải coi ông chủ nhà như là cha, hết lòng hầu hạ, ông dạy gì nghe nấy, đừng có tham lam đồ đạc của người khác, phải biết thờ Trời kính Phật vv...Ngồi trên cái sàn bụi bặm của nhà kho, Tsumura đọc đi đọc lại lá thư dưới ánh sáng lù mù. Khi anh bừng tỉnh thì nắng chiều đã tắt, mới vào phòng học và trải nó dưới ngọn đèn điện. Bồng bềnh hiện ra trên mặt giấy là hình ảnh của một bà già nhà quê, có lẽ cách đây ba bốn mươi năm, trong một túp lều nhà nông trong làng Kuzu quận Yoshino, vừa dụi đôi mắt kèm nhèm, vừa khòm mình trước ngọn đèn lồng viết thư cho con gái. Có là một cuốn giấy dài độ ba mét, văn phạm và ngữ vựng có chỗ không được chính xác, đúng là điều không tránh khỏi nơi một bà lão miền quê nhưng thư pháp thì đúng là lối O-ie, viết theo lối chữ thảo khá tốt, khó thấy nơi một người nông dân bình thường. Nhưng dù sao, rõ ràng họ đã gặp cảnh khốn quẩn đến nổi phải đánh đổi đứa con để lấy chút tiền. Bức thư đó đề ngày mùng bảy tháng chạp, khốn nỗi không ghi rõ năm, nhưng có thể đoán được đó là bức thư đầu tiên họ gửi cho con gái sau khi gửi con đi Ôsaka. Trong đó có vài chỗ nói lên sự cô đơn của những con người biết mình chẳng còn sống thêm được bao lâu: "Đây là lời trối trăn của má" hoặc là "Cho dù má có sức mỏn hơi tàn nhưng lúc nào má cũng ở bên con để phù hộ con làm ăn nên nổi". Lạ lùng nhất là trong những lời nhắn nhủ phải như thế nầy, không được thế kia, có một đoạn dài dòng căn dặn đừng bao giờ phí phạm giấy."Giấy nầy là do má với con O-rito làm ra. Con phải tuyệt đối, tuyệt tuyệt đối luôn luôn giữ nó bên mình và quí trọng nó. Dù con có sang giàu hay không thiếu thốn thứ gì, con cũng không được bao giờ xài phí giấy. Má và con O-rito khổ cực lắm mới chế ra tờ giấy nầy. Bàn tay của má với nó đã nứt nẻ và đầu ngón tơi ra hết." Những lời nhắn nhủ nầy tất cả kéo đến hai mươi dòng. Nhờ đó, Tsumura biết rằng họ ngoại anh sống bằng nghề làm giấy và trong nhà có một người đàn bà tên O-rito, có lẽ là chị hay em gái của mẹ anh.Thư cũng có nhắc đến một người khác tên gọi O-ei: "Con O-ei mỗi ngày vào trong núi chỗ tuyết ngập dày, để đào củ sắn. Cả nhà cố gắng làm việc để dành tiền và khi nào có đủ sẽ đi thăm con. Con hãy vui lòng chờ đợi!"

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 294

Bức thư kết thúc bằng một bài thơ:

Thương con mẹ thở dài theo, Lòng u ẩn ngóng phía Đèo Âm U

Trước khi có đường xe lửa, ai từ Ôsaka muốn đi Yamato theo đường cũ đều phải vượt qua ngọn"Đèo Âm U" (Kurakari Toge). Trên đỉnh đèo có một ngôi chùa, một nơi nổi tiếng để đến nghe tiếng cuốc kêu. Tsumura có một lần ghé khi anh còn học trung học, lúc đó hình như là một đêm tháng sáu. Anh leo lên núi vào lúc trời chưa rạng. Dừng chân nghĩ lại bên chùa một chốc thì khoảng năm sáu giờ sáng, trong khi cánh cửa giấy bên ngoài vừa mới trắng lờ nhờ, một tiếng chim cuốc bất chợt cất lên từ một chỗ nào đó trong những ngọn núi phía sau. Tiếp đến, không biết là chính con chim đó hay một con cuốc khác hót lên hai, ba tiếng, rồi rộn ràng tiếng cuốc, nghe đi nghe lại đến nhàm. Thế nhưng khi Tsumura đọc tới hai câu thơ nầy, bất chợt lòng anh bỗng rộn một niềm thương cảm nhớ về những tiếng cuốc kêu mà lúc đó anh thấy quá tầm thường. Bấy giờ anh mới hiểu tại sao người xưa ví tiếng chim với linh hồn người chết và nó làm liên tưởng tới những là "hồn Thục Đế" hay "bất như quy" [xxxviii]  .

Thế nhưng trong lá thư của bà lão, có một đoạn khác làm anh cảm thấy gần gũi một cách lạ lùng. Cái người đàn bà nầy, cái bà đáng vai bà nội của anh, lập đi lập lại về chồn ở nhiều chỗ trong thư." Từ đây mỗi ngày, ban sáng con phải tới điện ngài Inari để cầu khẩn thần chồn trắng Myôbu-no-shin". Nào là " Chắc con biết khi nào cha con gọi thì thần cũng hiện ra bên cạnh, bởi vì mình bao giờ cũng một lòng một dạ", rồi sau đó "Con nên nhớ rằng gần đây mình tai qua nạn khỏi cũng nhờ thần chồn trắng đó con. Mỗi ngày má vẫn cầu thần ban phước lộc cho nhà chủ của con. Mình phải vững lòng tin". Những đoạn trong thơ viết như thế chứng tỏ ông bà ngoại của Tsumura là những kẻ dốc lòng thờ cúng Thần Chồn Inari. "Điện Ngài Inari" dường như là cái miếu nhỏ xây ở giữa khu nhà và Myô-no-shin, sứ giả của Thần Inari có lẽ chỉ là một con chồn cái sống trong hang cạnh miếu. Còn như câu "Khi nào cha con gọi thì thần cũng hiện ra bên cạnh" thì không biết có thật là con chồn trắng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 295

đã chui ra khỏi hang để đáp lại lời kêu gọi của ông già kia hay là nó nhập vào người khi ông hay bà lão ấy lên đồng. Dù sao cũng phải hiểu ý là ông ngoại của Tsumura có tài kêu được chồn đến, chồn kia cũng sống bên cạnh ông bà lão như bóng với hình và chi phối được vận mạng của gia đình họ.

Y như lời thư "Giấy nầy là do má với con O-rito làm ra. Con phải tuyệt đối, tuyệt tuyệt đối luôn luôn giữ nó bên mình và quí trọng nó", Tsumura kính cẩn cầm lấy cuốn thư áp sát vào ngực mình. Nếu lá thư nầy gửi đi ít lâu sau khi mẹ anh bị bán đi Ôsaka tức khoảng trước năm Meiji thứ 10 (1877) thì tệ nhất nó phải được viết cách đây ba bốn mươi năm rồi nhưng tuy cũ kỹ và màu đã ngả vàng nhưng so với phẩm chất của giấy thời nầy thì dày và chắc hơn nhiều. Tsumura cầm nó lên soi trước đèn để quan sát những thớ dài mà mỏng. Anh nhớ lại mấy dòng: " Má và con O-rito khổ cực lắm mới chế ra tờ giấy nầy. Bàn tay của má với nó đã nứt nẽ và đầu ngón tơi ra hết" Anh cảm thấy tờ giấy nầy, giống như làn da của một bà lão, có chứa giọt máu của người đã sinh thành người mẹ của anh. Chắc chắn là khi lá thơ nầy đến địa chỉ ngôi nhà trong khu phố Shimanouchi, mẹ của anh cũng trân trọng ấp nó vào ngực như anh đang làm, và vì, "đượm hương tay áo của người xa xưa", lá thư đó đối với anh thành ra một kỹ niệm quí báu và êm ái gấp đôi.

Sau đó, dựa vào những tin tức thu lượm được qua lá thư, Tsumura đi tìm gia đình của mẹ anh và thiết tưởng không phải đi sâu vào chi tiết để biết làm sao anh đã thành công. Chỉ biết từ thời đó tính ngược về ba bốn mươi năm trước là đúng lúc có những biến động của cuộc Duy Tân Meiji. Nhà Konakawa, căn số 9 trong khu Shinmachi [xxxix], nơi mẹ anh bị bán vào, cũng như nhà Urakado ở Imabashi, nơi mẹ anh vào làm con nuôi một ít lâu trước khi lấy chồng, bây giờ đã tàn hết rồi; mà con cháu những vị thầy cấp giấy chứng nhận là bà đã theo học trà đạo, thuật cắm hoa, đàn koto và samisen hầu như cũng chẳng còn ai. Rốt cuộc, chỉ có lá thư là đầu mối duy nhất; và cách đi tìm dễ dàng hơn cả là đến ngay làng Kuzu, quận Yoshita trong xứ Yamato. Vào mùa đông năm bà nội anh qua đời, sau khi làm lễ một trăm ngày cho cụ, Tsumura không nói ai hay mục đích, làm như du lịch, quyết chí một mình lên đường đi Kuzu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 296

Vùng thôn quê vốn ít có những thay đổi lớn như ở Ôsaka, nhất là Kuzu là một nơi hoàn toàn thô lậu, sâu trong ngõ ngách của vùng núi non Yoshino. Ngay cả một gia đình bần bách nhất cũng không dễ gì biến mất sau hai ba thế hệ. Mang trong lòng đầy ắp niềm hy vọng, khi đến chợ Kamiichi, Tsumura mướn một chiếc xe kéo và vào buổi sáng tháng chạp đẹp trời đó, anh ta tất tả nhắm hướng Kuzu theo con đường quan lộ mà anh và tôi, hai đứa đã đi bộ suốt hôm nay. Khi đôi mắt trông chờ của anh bắt gặp những ngôi nhà trong làng, thì cái thu hút anh trước tiên là những tấm giấy mà người ta đang hong khô trước hàng hiên hầu như của mỗi ngôi nhà. Những tấm giấy hình chữ nhật phơi gọn gàng trên mấy thanh gỗ dựng đứng bên nhau, cùng một cách thức như dân làng chài phơi rong biển. Những tấm giấy trắng toát bày ra rải rác khắp nơi dọc theo đường cái quan, cao thấp trên những vạt ruộng lưng chừng đồi, phản chiếu lấp lánh ánh nắng xế của buổi chiều lạnh lẽo. Nước mắt tự dưng ứa lên mi Tsumura. Đây đúng là mảnh đất của tổ tiên mình rồi. Bây giờ, anh đã đặt được chân lên quê hương của mẹ anh, nơi mà anh vẫn nhìn thấy trong giấc mộng từ lâu nay. Khi mẹ anh mới chào đời, cái ngôi làng trong hốc núi muôn thuở không biết bước thời gian đi qua là gì chắc cũng thanh bình êm ả như khung cảnh đang hiện ra trước mắt anh. Bốn mươi năm về trước, ngày cũng bắt đầu với mặt trời mọc lên rồi sau đó lặn xuống y như chuyện của ngày hôm qua.Tsumura có cảm tưởng anh đã đến sát và chỉ đứng cách "quá khứ" có mỗi một bức vách. Nếu anh thử nhắm mắt một lúc thì khi mở mắt ra, biết đâu anh chẳng bắt gặp mẹ mình đang nô đùa giữa mấy cô bé con sau bờ dậu ở một nơi nào bên cạnh.

Lúc đầu Tsumura lầm tưởng Konbu là một họ ít người có, anh sẽ tìm ra gia đình mẹ anh tức khắc nhưng khi đến xóm Hõm Rào (Kubokaito) bên cạnh, anh mới vỡ lẽ ra vì gia đình mang họ Konbu nhiều vô cùng, không biết bắt đầu tìm từ nhà nào trở đi . Không biết cách gì hơn là nhờ người kéo xe đi từng nhà mang họ Konbu để hỏi thăm. Nhưng ai cũng bảo không biết ngày xưa thế nào chứ nay thì không thấy ai tên Konbu Sukaezaemon cả. Đi mãi hồi lâu mới có một cụ già có lẽ là bậc cố lão từ trong một góc sâu cửa hàng bánh kẹo hiện ra dưới mái hiên, lấy tay chỉ về phía xa mà nói: "Nói như thế thì có lẽ là cái nhà đằng kia rồi!". Đó là

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 297

một mái tranh tranh nằm lưng chừng trên sườn đồi ở phía trái đường cái quan. Tsumura bèn dặn người kéo xe đợi mình ở trước tiệm bánh kẹo rồi rời con đường cái, lần theo bậc thang cấp thoai thoải leo lên đồi về phía mái nhà tranh. Khí trời buổi sáng lành lạnh nhưng một chùm ánh sánh vây bọc mấy ngôi nhà đang chụm đầu lại thành một khối và được ngọn núi lài lài bao quanh che gió máy. Nhà nào cũng làm giấy. Vừa leo lên con đường mòn, Tsumura để ý thấy từ những căn nhà bên trên, có mấy người con gái đang dừng tay làm việc một khoảnh khắc để đưa cặp mắt hiếu kỳ nhìn người khách đàn ông thành thị. Công việc chế tạo giấy hình như dành cho mấy người con gái với con dâu. Họ làm việc trước sân nhà, người nào cũng có khăn buộc tóc quấn ngang trán. Đi giữa những vệt nắng tươi trong phản chiếu màu giấy đang phơi và màu những chiếc khăn bịt đầu, Tsumura tiến về phía căn nhà mà cụ cố lão đã chỉ cho anh. Biển treo ghi tên Konbu Yoshimatsu chứ không phải Sukezaemon. Bên tay mặt của ngôi nhà chính, họ có cất một gian nhà kho và trên sàn gỗ, một người con gái tuổi độ mười bảy mười tám đang khom lưng, hai tay ngâm trong một chất lỏng đục lờ như nước vo gạo. Cô ta đang nhúng một cái khung gỗ, đưa qua đưa lại và nhẹ nhàng múc từ dưới đáy lên. Chất nước màu trắng, bị chắn lại trong khung gỗ, cặn đọng thành hình mảnh giấy trên tấm lưới đan theo kiểu mành mành để chưng hấp. Thế rồi người con gái đặt những tờ giấy lên trên sàn rồi tiếp tục nhúng cái khung trong nước. Vì cánh cửa lối vào nhà bỏ ngỏ, Tsumura đứng đằng sau hàng dậu cúc dại đã tàn và quan sát trong khi người con gái làm được hai ba tấm giấy. Cô ta người mảnh mai nhưng đúng là gái đồng quê nên trông cứng cáp và chắc nịch. Hai gò má cô săn, đầy ắp sinh lực nhưng cái lôi cuốn Tsumura là những ngón tay đang dìm trong nước đục. Anh sẽ không lấy làm lạ nếu đó là hai "bàn tay đã nứt nẻ" và những "đầu ngón tơi ra hết". Tuy nhiên những ngón tay ửng đỏ vì cái lạnh, nứt nẻ, hao mòn, lại tràn trề sức sống của tuổi dậy thì ngày một vươn lên như không có gì có thể cản trở được, chứa đựng một vẻ đẹp làm mủi lòng người.

Bất chợt lúc đó, sự chú ý của Tsumura lại chuyển qua một chỗ khác. Anh ta nhận ra có một cái miểu thờ thần Inari ở góc tay trái ngôi nhà chính. Anh đi như có ai kéo chân, qua bờ dậu về hướng cái sân. Anh tiến

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 298

gần một người đàn bà trạc hăm bốn hăm lăm có vẻ là chủ nhà tự nãy giờ đang đem giấy ra phơi.

Sau khi nghe Tsumura nói về lý do anh đến thăm, cô ta ra dáng hồ nghi. Mọi việc đến quá đột ngột với cô. Thế nhưng khi anh đưa bức thư ra làm bằng thì cô ta bắt đầu có vẻ tin tưởng. "Tôi không rõ mấy chuyện nầy đâu. Ông phải gặp những người lớn tuổi hơn" và gọi một bà già trạc sáu mươi từ trong căn nhà chính ra. Đó là "con O-rito" , người đã được nhắc đến trong lá thư. Bà là chị của mẹ Tsumura, vai bác anh.

Trước những câu hỏi sốt sắng và dồn dập của Tsumura, bà bác tỏ ra bối rối và phải lần mò tìm lại mối giây trong quá khứ để trả lời anh từng chút một với cái miệng móm mém đã khuyết hết răng. Có nhiều câu hỏi bà không thể trả lời, phần vì đã quên bẵng, phần vì bị lẫn, phần vì ngần ngại không muốn tiết lộ một vài chi tiết, cho nên có chỗ tiền hậu bất nhất, nhiều khi lúng búng trong miệng hay thều thào như đứt hơi. Do đó lắm lúc anh không nắm được ý bà muốn nói gì cho dù hỏi gặng đi gặng lại. Phân nửa những điều bà nói thì rõ ràng còn phân nửa kia chừng như có thêm bớt bằng trí tưởng tượng nhưng tất cả cũng đủ để giúp anh giải đáp những thắc mắc liên quan đến người mẹ mà anh đã đặt ra từ hai mươi năm nay. Theo lời bà bác, mẹ anh đã bị gửi đi Ôsaka vào thời Keiô, khoảng giữa năm 1865-68 . Nhưng bà còn nói thêm rằng vào thời đó bà (năm nay 67 tuổi) đã mười ba mười bốn và mẹ của anh cũng phải mười một mười hai. Nếu thế, thì nhất định câu chuyện chỉ phải xảy ra sau cuộc Duy Tân thời Meiji (1868). Đúng thật, mẹ anh chỉ làm việc ở Shinmachi có hai, ba, hoặc cùng lắm bốn năm rồi về làm dâu nhà Tsumura ngay. Dựa vào những điều bà bác O-rito cho biết, thuở ấy gia đình Konbu đang lâm vào cảnh túng ngặt và vì họ là một nhà cố cựu khá trọng thể diện cho nên đã cố dấu cho bằng được chuyện con mình đi làm ở một nơi như thế. Không những trong thời gian con gái đi làm mà ngay cả sau khi nó về làm dâu một gia đình danh giá, có lẽ họ vẫn nghĩ đó là một điều đáng hổ thẹn cho con và cho cả chính mình nên không hề đi lại thăm hỏi. Ngoài ra, trên thực tế thì người làm ở những xóm lầu xanh, con hát, gái làng chơi, gái trà thất hay gì gì đi chăng nữa, một khi triện đã đóng vào tấm văn tự bán mình rồi thì việc cắt đứt hoàn toàn quan hệ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 299

với cha mẹ là đúng với tập quán thông thường. Sau đó, với danh nghĩa "kẻ ăn người ở" trong nhà thì dù có chuyện gì xảy ra cho họ nữa, phía cha mẹ cũng không có quyền can thiệp. Tuy vậy, theo những gì bà bác còn nhớ một cách mù mờ thì khi cô em gái trở thành dâu con nhà Tsumura, mẹ của bà ta có đi Ôsaka thăm con một hai lần thì phải. Khi trở về, bà có kể lại những thay đổi đáng kinh ngạc trong đời cô con gái, bây giờ đã là bà chủ một gia đình trưởng giả và sống trong nhung lụa. Dưới Ôsaka cũng có nhắn O-rito thế nào cũng xuống chơi nhưng bà bác cho biết vì không muốn cho những người sang trọng họ thấy cái tướng lùi xùi quê mùa của mình nên không đi. Và từ đó O-rito cũng chẳng thấy người em về thăm Kuzu nữa nên không biết lúc lớn lên, dung mạo em mình thế nào. Rồi em rể và em gái lần lượt chết, phía bà thì cha mẹ cũng mãn phần cho nên mối liên lạc với nhà Tsumura coi như đoạn tuyệt.

Bà bác O-rito khi nhắc đến người em ruột, bà mẹ của Tsumura, thường gọi vòng vo là "đẻ của ông" . Có lẽ bà chỉ muốn lễ phép với Tsumura nhưng cũng có thể là bà đã quên bẵng tên cô em gái. Khi Tsumura hỏi về người tên là O-ei trong câu  "Con O-ei mỗi ngày vào trong núi chỗ tuyết ngập dày, để đào củ sắn" thì được biết đó là bà chị cả, bà bác O-rito hàng thứ hai và O-sumi, mẹ của anh là cô gái út. Vì hoàn cảnh đặc biệt, O-ei đã đi làng khác lấy chồng [xxxx] trong khi đó chồng của O-rito vào ở rể trong nhà, lấy họ Konbu và thành người chủ gia đình. Hai người chồng của O-ei và O-rito đều đã chết, chủ gia đình hiện tại là con trai của O-rito tên gọi Yoshimatsu và vợ anh ta là người đàn bà đã tiếp chuyện khi Tsumura bước vào trong sân hỏi thăm. Khi mẹ của O-rito còn sống, cụ có giữ lại ít giấy tờ và thư từ liên quan đến O-sumi nhưng trải qua ba đời rồi, khó lòng còn vật nào tồn tại. Sau khi nói thế, bất thần O-rito như nhớ ra điều chi. Bà đứng lên, mở cửa cái ban thờ Phật trong nhà, lấy ra một tấm ảnh trưng bày bên cạnh mấy cái bài vị. Tsumura có cảm tưởng mình đã được nhìn thấy ở đâu. Đó là chân dung mẹ anh, khổ bưu thiếp, chụp khoảng trước khi bà qua đời. Anh cũng có một bức sao như thế trong tập ảnh của mình.

-Đây, đây, đẻ của ông có để lại vật nầy...

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 300

O-rito như nhớ thêm được điều gì khác:

-Ngoài tấm ảnh còn có chiếc đàn koto. Cụ tôi giữ cẩn thận lắm, xem nó như vật kỷ niệm của con gái dưới Ôsaka. Lâu nầy không giở ra xem, chẳng hiểu bây giờ nó thế nào...

Bà bảo cây đàn koto được cất trong kho trên gác. Tsumura nán lại chờ Yoshimatsu về lấy xuống cho anh xem.Trong khi chờ đợi, anh ghé xóm bên cạnh ăn cơm. Sau khi trở lại, anh giúp hai vợ chồng trẻ khênh món đồ kềnh càng bám đầy bụi đó ra chỗ sáng ngoài hiên.

Không hiểu sao món đồ quí ấy lại nằm ở một nơi không đúng chỗ là cái nhà nầy. Khi tấm vải dầu đã bạc màu bao quanh được mở ra, một chiếc đàn koto dài gần hai mét [xxxxi] , tuy đã cũ nhưng sơn và rắc kim nhủ tuyệt đẹp hiện ra trước mắt họ. Cây đàn được trang trí trọn vẹn bằng tranh sơn mài chỉ trừ mặt sườn gỗ gọi là "vỏ" (kô) ở dưới hàng dây đàn. Hai rìa dọc theo thân đàn gọi là "bãi" (iso) hình như được trang trí với phong cảnh bải biển Sumiyoshi [xxxxii] : một bên vẽ cánh cổng torii đền thần đạo và chiếc cầu hình vòng cung ẩn trong rừng tùng, bên kia vẽ một ngọn thạch đăng cao với rặng tùng ngã theo gió và những đợt sóng xô lên bờ.Vô số những con chim choi choi bay lượn trên vùng từ "biển" (umi) cho đến quãng "long giác" (ryuukaku), "tứ lục" (shibunnoroku) thuộc phần đầu cao của đàn; trong khi phần đầu thấp, nơi có "vải sậy" (oginuno) và ở dưới "lá sồi" (kashiwaba) có tranh trang trí hình mây ngũ sắc và các tiên cô. Vì gỗ ngô đồng làm thân đàn đã lên nước cùng với thời gian cho nên những bức tranh trang trí và kim ngân nhũ rắc lên nên toàn thể cây đàn hắt lên một thứ ánh sáng làm choá mắt. Tsumura phủi bụi khỏi tấm vải dầu bọc đàn và xem xét kỹ lưỡng các hình vẽ. Tấm vải hình như được dệt theo kiểu Shioze, đường chỉ rất sít sao và dày, mặt trên phô ra bên ngoài có hình hoa mơ kép màu trắng hiện ra trên nền đỏ, còn mặt dưới có hình một mỹ nhân Trung Quốc ngồi trên lầu cao gảy đàn tranh. Trên hai cột lầu có viết hai câu thơ đối với nhau:

Nhị thập ngũ huyền đàn dạ nguyệt, Bất kham thanh oán khước qui lai[xxxxiii]

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 301

Trên nền, ở phía trong là cảnh một đàn nhạn đang bay dưới vầng trăng, bên cạnh có chép một bài thơ tiếng Nhật:

Ngỡ ngỗng trời đang giăng hàng, Ai hay trụ nhạc cũng dàn đường mây.     

1) Iso (Bãi) 2)Umi (Biển) 3)Ryuukaku (Long Giác) 4) Shibun-no-Roku (Tứ Lục) 5) Oginuno (Vải Sậy) 

6) Kashiwaba (Lá Sồi)

Hoa mơ kép không phải hoa văn của gia đình Tsumura. Có thể nó là của gia đình Urakado, nhà cha mẹ nuôi hay là của hàng quán trên xóm Shinmachi. Có lẽ khi mẹ anh về làm dâu nhà Tsumura, bà thấy không cần phải giữ làm chi cái dấu vết của ngày tháng bà còn sống ở xóm lầu xanh nên gửi tặng nó cho gia đình ở dưới quê. Cũng có thể nghĩ rằng trong gia đình lúc đó có một cô gái đến tuổi cập kê, bà ngoại anh đã chấp nhận món quà để dành cho cô gái ấy. Hoặc giả, bà mẹ của Tsumura đã giữ cái đàn suốt thời kỳ bà lấy chồng ở Shimanouchi và trước khi chết, viết di chúc để nó lại cho gia đình, Thế nhưng cả bà bác O-rito lẫn

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 302

cặp vợ chồng trẻ, không ai biết gì về chuyện đó cả, Hẳn là có một phong thơ kèm với cây đàn nhưng bây giờ không ai biết nó ở đâu. Họ chỉ còn nhớ rằng cái đàn koto ấy là của một người trong nhà mà họ đã "gửi đi Ôsaka" để lại cho.

Ngoài ra, có một chiếc hộp nhỏ đựng ít đồ phụ tùng như trụ chăng dây và phím đàn. Những cái trụ làm bằng gỗ đen, rắn chắc, được sơn, rắc kim nhũ và trang trí hình tùng-trúc-mai lên trên. Mấy cái phím vì dùng nhiều nên đã mòn hết. Chạnh lòng vì cái ý nghĩ mẹ anh đã sử dụng những cái phím nầy với mấy ngón tay mảnh khảnh của bà, Tsumura thử lồng một cái vào ngón út của anh. Cái cảnh anh đã thấy hồi còn bé với người đàn bà thanh lịch đang hòa bản Tiếng Chồn Tru (Konkai) với ông thầy trong gian sau căn nhà, lại thoáng hiện ra trước mắt anh. Cho dù người đàn bà ấy không phải là mẹ anh và chiếc đàn không phải là chiếc đàn koto này, mẹ anh chắc đã bao lần vừa đánh bản nhạc vừa hát theo. Anh tự nhủ nếu được thế nào cũng phải cho sửa chữa cái đàn nầy thật nhanh chóng và nhờ một nhạc sĩ có tài đánh cho nghe bản Konkai vào ngày giỗ của mẹ.

Ngôi miếu Inari trong vườn đã dùng để thờ thần chồn như vị thần phù hộ gia đình từ nhiều đời và cặp vợ chồng trẻ có thể xác nhận đó là cái miếu đã được nhắc đến trong lá thư của bà ngoại anh. Thế nhưng ngày nay, trong gia đình không ai có tài gọi được chồn ra nữa. Từ ngày còn bé, Yoshimatsu có nghe nói ông mình làm được chuyện đó nhưng từ một thời kỳ nào đó "thần chồn trắng Myôbuno-shin" không thấy xuất hiện nữa và nay chỉ còn dấu một cái hang cũ của chồn dưới gốc cây dẻ đằng sau miếu. Khi người ta dẫn Tsumura đến đó, anh thấy có một sợi giây thiêng shimenao của Thần Đạo tết bằng giấy ai treo hờ hửng ở miệng hang.

Câu chuyện trên đây đã xảy ra vào năm bà cụ nội Tsumura qua đời nghĩa là hai ba năm trước khi anh kể lại tôi nghe trong khi hai đưa ngồi trên mỏm đá ở Mitataki. Những "người bà con ở Kuzu" mà anh nhắc trong bức thư anh gửi cho tôi không ai khác hơn gia đình bà O-rito. Bà là bà bác cánh bên ngoại của Tsumura và gia đình bà cũng là gia đình

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 303

mẹ của anh bạn tôi. Do đó, trong khoảng vài năm sau nầy, anh đã bắt đầu đi lại với gia đình mình. Hơn nữa, anh còn giúp đỡ chút đỉnh tiền bạc để họ sinh sống. Anh lại xây một ngôi nhà riêng cho bà bác và mở rộng cái xưởng làm giấy, giúp gia đình Konbu có phương tiện làm ăn bề thế hơn dù vẫn trong phạm vi một nghề thủ công.

Phần Sáu: Shionoha

-Thế thì lần nầy, mục đích chuyến đi của cậu là gì?

Hai chúng tôi vẫn ngồi nghỉ trên mỏm đá, quên khuấy màn đêm đã xuống dần chung quanh. Nhân lúc bạn tôi dừng lại giây lát câu chuyện kể, tôi mới hỏi xen vào;

-Cậu đi gặp bà bác, phỏng?

-Trong câu chuyện nầy, tớ còn quên chưa kể cho cậu một chi tiết!

Trong cái chập choạng của buổi hoàng hôn, chúng tôi bắt đầu hết nhận ra hình thù những bọt nước của dòng sông đang đập vào bờ đá dưới chân mình nhưng tôi vẫn cảm thấy được mặt Tsumura có hơi đỏ lên khi anh nói thế.

-Lần đầu tiên tớ đến, khi còn đứng ngoài rào nhà bà bác, có một cô gái trẻ mười bảy mười tám đang làm giấy ở bên trong. Cậu có nhớ là tớ đã kể cậu nghe chuyện ấy không?

-Ờ ờ!

-Cô gái đó thực ra là cháu ngoại của bà bác cả - cái bà tên O-ei và đã mất rồi đó. Hồi tớ ghé, đúng dịp cô ta đến phụ một tay cho gia đình Konbu.

Đúng như tôi nhận xét, giọng nói của Tsumura dần dần trở nên hết sức ngượng ngập:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 304

-Như tớ vừa kể cậu nghe khi nãy, cô ta đúng là gái quê, lại không đẹp đẽ gì cho cam. Vì công việc, cô ta phải nhúng tay trong nước giữa trời lạnh cóng cho nên chân tay đã nứt nẻ và trông rất thô kệch. Thế như hàng chữ trong lá thư của bà ngoại tớ, cái "bàn tay nứt nẻ và đầu ngón tơi ra hết" đã ám ảnh tớ hay sao mà lạ lùng thay, từ lúc đầu tiên chỉ cần một lần được thấy cô gái nhúng đôi bàn tay đỏ hỏn trong nước, tớ đã thương cô ta liền. Còn phải nói thêm nữa là cô có nhiều nét hao hao khuôn mặt của mẹ tớ trong tấm ảnh. Đã đành vì gia cảnh, thân phận cô chỉ là người làm đứa ở nhưng nếu được trau dồi thì cô cũng sẽ gần được như mẹ tớ thôi.

-Ra thế, cô ta là cái trống Hatsune của cậu đấy!

-Phải, đúng rồi! ..Sao, cậu thấy thế nào? Tớ định hỏi cô ấy làm vợ.

Cô ta tên là O-sawa. O-tomo, con gái của bà bác cả O-ei, lấy chồng họ Ichida, con nhà nông ở gần Kashiwagi. O-sawa sinh ra ở đó. Vì gia đình sống chật vật nên khi mới xong bậc tiểu học, cô đã phải xuống thị trấn Gojô giúp việc cho người ta. Vì nhà neo người, năm mười bảy cô mới xin thôi về quê, từ đó giúp việc đồng áng. Nhưng đến mùa đông, không có nông vụ, cô được gửi đến gia đình Konbu phụ họ làm giấy. Năm nay đáng lý cô cũng phải đến nhưng có lẽ chưa đến lúc. Nhân thế, theo lời Tsumura, trước tiên anh phải thổ lộ cho bà bác O-rito và vợ chồng Yoshimatsu nỗi lòng thầm kín của mình, rồi tùy theo kết quả, hoặc nhờ họ gọi cô ấy tới gấp hoặc chính mình tìm đến nhà cô.

-Nếu mọi sự trôi chảy thì tớ cũng có hy vọng gặp được cô O-sawa?

-Đúng! Chuyến đi này rủ cậu đi tớ cũng muốn cậu thế nào cũng gặp cô ấy hộ và cho tớ nghe nhận xét của cậu về cô ấy đấy. Bề gì hoàn cảnh của hai bên khác nhau nhiều quá, không biết cưới cô ấy về rồi có được hạnh phúc hay không đây? Tuy tin tưởng là không sao nhưngcũng không thể hoàn toàn yên trí....

Tôi thúc hối Tsumura đi ngay, hai đứa tuột xuống mỏm đá mà chúng tôi ngồi nãy giờ. Thế rồi đến Miyataki, chúng tôi thuê xe kéo và khi chúng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 305

tôi đến nhà gia đình Konbu ở Kuzu, nơi chúng tôi đã xin ngủ đỗ, thì trời đã tối sẫm.Tôi xin lược hết những ấn tượng tôi có về bà bác O-rito, gia đình bà, cảnh tượng nhà cửa, xưởng giấy... vì không chỉ làm choán giấy mà còn lập lại những điều đã viết ở trên. Tôi chỉ xin ghi lại đôi ba điều còn giữ lại trong ký ức. Thời đó, điện chưa tới vùng nầy và chúng tôi và gia đình họ ngồi thành vòng tròn quanh một bếp lò lớn dưới ánh đèn dầu nói chuyện với nhau. Nhà của họ đúng là một ngôi nhà tranh miền núi tiêu biểu. Họ chụm lò bằng gỗ sồi, dẻ xanh lẫn gỗ dâu nhưng họ cho biết chỉ có gỗ dâu là cháy chậm và toả hơi nóng dịu hơn cả cho nên cho thứ củi nầy vào đầy cả lò. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì họ xài phung phí còn hơn người tỉnh thành. Dưới ánh sáng của những tia lửa kêu lách tách, rui kèo và trần nhà trên bếp lò ánh lên một màu đen nhánh như vừa mới được tô bằng hắc ín.Còn phải kể thêm là mấy con cá thu vùng Kumano dọn ra trong bửa cơm chiều ngon ơi là ngon. Cá thu bắt được ngoài biển Kumano được kẹp trong lá trúc còi và chuyển vận lên vùng núi để bán. Trong cuộc hành trình dài năm, sáu ngày hay một tuần, nhờ có gió cá tự động khô đi. Nhiều khi chồn còn chạy ra cuổm cả cá. Đó là họ kể với tôi như vậy.

Sáng hôm sau, khi bàn định với nhau xong, Tsumura và tôi, tạm thời mỗi người sẽ hành động theo một hướng khác nhau. Tsumura sẽ trình bày vấn đề thiết thân của anh và thuyết phục gia đình Konbu nói vun vào hộ. Trong khi đó, nếu tôi có mặt thì sẽ làm vướng víu anh cho nên tôi sẽ đi một vòng khoảng năm sáu ngày tìm hiểu vùng núi sâu trên thượng nguồn sông Yoshino để thu lượm tư liệu cần thiết cho cuốn tiểu thuyết đã dự tính. Ngày đầu tiên rời khỏi Kuzu, tôi định đi đến làng Unogawa viếng phần mộ của hoàng tử Ogura, con trai thiên hoàng Go-Kameyama, sau đó vượt ngọn đèo Ngũ Xã (Gosha) đến làng Kawakami rồi qua đêm ở Kashiwagi. Ngày thứ hai tôi định vượt đèo Obagamine và ngủ lại trang trại Kawai trong làng Kitayama. Qua đến hôm thứ ba, tôi sẽ thăm chùa Long Tuyền Tự (Ryuusen) ở Otochi, chỗ có cung xưa của Vua Nhà Trời, và phần mộ hoàng tử Kitayama, rồi sau đó, leo lên rặng Ôdaigahara và ngủ một đêm trong núi. Ngày thứ tư, tôi tính ghé suối nước nóng Ngũ Sắc (Goshiki) và thám hiểm thung lũng Sannoko. Nếu đi trót lọt, tôi sẽ thăm hai vùng đất bằng là Hachimandaira và Kakushidaira cho được và

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 306

xin tiều phu cho ngủ trọ trong chòi hay lui trở lại qua đêm ở Shionoha. Ngày thứ năm tôi sẽ từ Shionoha đi Kashiwagi, và cùng ngày đó hoặc hôm sau về tới Kuzu. Đấy là chương trình chuyến đi tôi đã lập ra, có tham khảo ý kiến gia đình Konbu về địa lý trong vùng . Sau khi hứa hẹn ngày tái ngộ, tôi chúc Tsumura mọi điều may mắn rồi lên đường. Khi tôi sắp sửa rời chân, Tsumura cho biết anh có thể đến thăm gia đình O-sawa ở Kashiwagi và chỉ cho cách tôi tìm nhà cô ta, dặn tôi nhớ ghé lại chơi khi nào tôi đặt chân đến Kashiwagi trên đường về.

Chuyến đi của tôi hầu như diễn ra ăn khớp với chương trình. Theo lời người ta, ngày nay thì ngay cả ngọn đèo Obagamine hiểm trở cũng đã có đường xe buýt, và khách có thể đi thẳng một lèo đến Kinomoto trong xứ Kii mà không cần phải xuống xe cuốc bộ. Nhớ lại tình huống hồi trước lúc tôi qua vùng thì như thể đã là chuyện xưa lắc. May là trời tốt nên tôi thu thập được nhiều tư liệu hơn cả lòng mong đợi, cho đến hôm thứ tư thì thấy chuyện đường sá khó khăn hay nhọc nhằn "chỉ có thế thôi sao!". Thế nhưng đường vào thung lũng Sannoko mới làm tôi tá hỏa. Nhất là trước khi đi đến đó, tôi có nghe thiên hạ hay bảo: "Chỗ đó khiếp lắm!" hoặc là : "Trời ơi, ông đi Sannoko đấy à?" nên đã chuẩn bị tinh thần. Do đó, tôi mới thay đổi lịch trình đôi chút. Ngày thứ tư, ngủ trọ một đêm tại suối nước nóng Goshiki, tôi mượn một người đi theo làm hướng đạo, rồi qua hôm sau, mới sáng tinh mơ đã khởi hành.

Con đường men theo dòng sông Yoshino từ nơi phát nguyên của nó là núi Ôdaigahara để xuống dưới, đến bên bờ một chỗ chẻ nhánh tên gọi Hai Bắp Vế (Ninomata), nơi sông gặp gỡ một dòng suối thì con đường rẽ làm hai.Một nhánh đưa thẳng về Shionoha, còn nhánh kia uốn cong về bên phải trước khi đâm xuống thung lũng Sannoko.

Con đường lớn dẫn đến Shionoha thì đúng là một "con đường" chứ cái nhánh quẹo qua bên phải chỉ là một lối mòn chật hẹp, chỉ đủ để đánh dấu giúp cho người đi, và xuyên qua những cánh rừng tuyết tùng dày đặc. Thêm nỗi hôm qua trời mới mưa, nước lũ sông Ninomata dâng cao làm lở đi hay nhận chìm cả mấy chiếc cầu làm bằng thân cây thô, làm tôi phải nhảy từ phiến đá nầy qua phiến đá nọ trên những chỗ xoáy của

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 307

dòng nước xiết và nhiều khi đành bò bốn cẳng chứ ngoài ra không có cách đi qua. Trên đầu nguồn sông Ninomata là "sông" Okutama. Từ chỗ đó, chúng tôi băng qua lòng sông  Địa Tạng (Jizô) và cuối cùng tới được phía sông Sannoko. Đoạn đường đi từ sông nầy qua sông kia bọc bằng những vách đá dựng đứng không biết bao nhiêu trượng. Nhiều chỗ hẹp đến nỗi phải lách người mới đi lọt, nhiều chỗ đường sụp mất tích. Người ta phải bắc các thân gỗ nguyên khối hay ván lót đường làm những chiếc cầu tạm tiếp nối trong không trung để con đường mòn ngoằn ngoèo có thể băng qua những vực thẳm. Một tay leo núi nhà nghề chắc sẽ coi là như chuyện cơm bữa , thế nhưng thể dục dụng cụ vẫn là môn tôi yếu nhất thời trung học: mấy thứ xà đôi, xà móc hay ngựa gỗ từng làm tôi sợ đến phát khóc. Hồi đi thăm Yoshino lần trước, tôi hãy còn trẻ, người trông thanh cảnh hơn bây giờ và có thể đi bộ trên đường bằng ba bốn mươi cây số mà không biết mệt. Thế nhưng giờ đây, ở một nơi khó đi như thế này, nếu không dùng cả bốn vó thì không tài nào tiến tới trước được. Chân tôi hãy còn đủ sức nhưng vấn đề là thân hình đã bớt nhanh nhẹn. Chắc chắn là trên đoạn đường, mặt tôi đã hết đỏ gấc rồi lại xanh chàm không biết đến bao nhiêu lần.Thật lòng mà nói, phải chi không có người hướng đạo đi cùng thì tôi đã quay về phía cầu gỗ Ninomata rồi. Sự hiện diện của ông làm tôi mắc cỡ vì không biết tính sao, tiến một bước hay lùi một bước đều ngại, rốt cuộc, hai bàn chân vừa run lẩy bẩy vừa phải tiếp tục.

Vì lý do đó nên phong cảnh mùa thu trong thung lũng đẹp như thế mà tôi lấy làm hỗ thẹn không đủ sức để miêu tả tường tận nó vì mải bận cúi xuống, chú ý vào bước chân mình. Đôi lúc có ngẩng đầu lên là khi giật nẩy người vì tiếng mấy con chim sẻ ngô chợt đập cánh bay lên. Ngược lại, ông hướng đạo của tôi quả thật đã quen việc. Ngậm điếu thuốc lá rời quấn trong lá hải đường trên môi, ông ta tiến lên trên con đường nguy hiểm nầy mà không chút mệt nhọc, còn chỉ bảo đây là thác nầy, sông nọ, ghềnh kia....Thế rồi, ông đưa tay ra trỏ về phía xa:

-Đằng đó là ghềnh đá Tâu Ngài (Gozenmôsu). Ông ta bảo. Còn kia là ghềnh Berobedo. Ông lại chỉ về hướng một nơi xa hơn.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 308

Nghe nói thế, tôi đưa cặp mắt kinh hoàng nhìn xuống đáy vực mà không thấy thấu tới nơi và không phân biệt nổi cái nào là Gozenmôsu và cái nào là Berobedo nhưng ông hướng đạo giải thích là ngày xưa đức vua ngự ở đây cho nên có những ghềnh đá mang những cái tên như vậy. Do đó, bốn năm năm về trước, có học giả, tiến sĩ hay công chức cao cấp gì đó, nói chung là một vị có tiếng tăm, từ Tôkyô đến thăm thung lũng này, và đặt câu hỏi :

-Ở đây có cái ghềnh đá nào tên Gozenmôsu không ?

Ông hướng đạo lúc đó cũng đi dẩn đường, mới cung kính trả lời :

-Dạ thưa có ! Rồi chỉ về hướng ghềnh đá.

-Thế còn cái ghềnh tên là Berobedo ?

-Dạ, thưa nó đây ! Ông ta bảo thế rồi chỉ một mỏm đá khác.

-À ra thế, tốt lắm. Nhất định Vua Nhà Trời (Jiten.ô) có ở đây rồi !

Tấm tắc xong, vị ấy bèn quay về Tôkyô. Đó là câu chuyện mà ông hướng đạo đã kể tôi nghe nhưng không giải thích được nguồn gốc cái tên của những ghềnh đá ấy.

Cái ông hướng đạo nầy còn biết thêm nhiều câu chuyện truyền tụng ở vùng nầy. Ngày xưa khi bọn truy kích Vua Nhà Trời từ kinh đô đột nhập vào đây, chúng không biết ngài ở đâu, mới đi hết núi nầy sang núi nọ để lùng. Một hôm, chúng xuống thung lũng ở đây và thấy rằng trong dòng nước sông Tanigawa chảy từ thượng lưu xuống phía chúng có lẫn cả vàng nên chúng lần mò đi lên thì thấy có cung điện của ngài. Một câu chuyện khác kể rằng sau khi đến ngự trong cung Kitayama, mỗi ngày Vua Nhà Trời ra rửa mặt trên dòng sông Kitayama chảy trước cung điện. Đức vua bao giờ cũng đi với hai kẻ tùy tùng có khuôn mặt giống ngài như đúc đến nỗi không ai phân biệt được ai là đức vua thật. Những kẻ truy kích mới dò hỏi một bà lão trong thôn hay có dịp qua đó thì bà mới chỉ cho :

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 309

-Cái người nào khi thở ra mà hơi thở màu trắng ấy chính là đức vua.

Chính nhờ đó mà bọn truy kích mới tấn công và cắt được thủ cấp đức vua nhưng nghe nói con cháu nhà bà lão vì thế mấy đời đều đẻ ra toàn người tàn tật.

Vào khoảng một giờ trưa, tôi đến được một túp lều ở vùng đất bằng Hachimandaira, vừa mở cơm hộp ra ăn vừa lấy sổ tay ra ghi chép những truyền thuyết nghe được. Từ đây chỉ còn đoạn đường khứ hồi độ dưới ba dặm (mươi cây số) để đến chỗ đất bằng tên gọi là Đồng Ẩn Náu (Kakushidaira) nhưng đoạn đường sắp tới sẽ dễ đi hơn con đường chúng tôi mới vượt qua ban sáng. Thế nhưng cho dù các nhân vật Nam Triều muốn tránh cặp mắt người đời, việc vào ở mãi sâu trong nầy quả là điều bất tiện. Chắc chắn là câu thơ của hoàng tử Kitayama như sau :

Lạc loài vào chốn non sâu, Cửa sài phong kín, dạ sầu với trăng

không thể nào được làm ra ở một nơi như nơi nầy.Nói tóm lại, phải chăng Sannoko chỉ là một địa điểm trong truyền thuyết chứ không dính dáng đến sự thực lịch sử ?

Tối hôm đó, ông hướng đạo và tôi ngủ đỗ lại ở Hachimandaira trong căn lều của một sơn nhân, được đãi ăn cơm có thịt thỏ rừng. Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại Ninomata bằng con đường cũ, ở đó, sau khi giả từ ông, tôi về Shionoha một mình. Tuy nghe nói từ đấy đến Kashiwagi chỉ có bốn cây số nhưng tôi trùng trình lại với ý định đi tắm suối nước nóng phun lên dọc bờ sông. Trên sông Yoshino, nơi nước dâng lên khi hợp lưu với dòng Ninomata, có một chiếc cầu treo. Vừa vượt qua đó, tôi đã thấy suối nước nóng nằm trên bãi sông dưới chân cầu. Thế nhưng khi thử nhúng tay vào, tôi thấy nước chỉ hâm hẩm như nước hấp hơi nắng là cùng. Mấy bà nhà nông đang bận rộn rửa củ cải trong đó.

-Chỗ này mùa hè mới vào tắm được. Cữ nầy, muốn tắm phải cho nước vào bồn tắm mà đun lên.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 310

Bà ta vừa nói vừa chỉ tay về hướng một cái bồn tắm bị bỏ mặc trên bãi sông.

Vừa lúc tôi ngoảnh đầu nhìn cái bồn thì từ trên cầu treo có tiếng ai gọi ơi ới :

-Ê.. ! ê.... !.

Nhìn lại, té ra ai như Tsumura và O-sawa. Anh chàng chạy về hướng tôi, cô gái theo sau lưng. Chiếc cầu treo chao nhẹ dưới bước chân và tiếng guốc gỗ lốc cốc của họ âm vang trong thung lũng.

Về sau, tôi không viết được quyển tiểu thuyết lịch sử như đã dự tính vì hãy còn thiếu một số tư liệu. Cô O-sawa mà tôi thấy trên cầu hôm đó nay đã trở thành bà Tsumura là chuyện không cần phải nói. Chuyến đi vừa qua xem ra đem lại nhiều thành quả cho Tsumura hơn là cho tôi.

Tôkyô, dịch từ 25/04 đến 05/06/2005. Nguyễn Nam Trân

 Chú Thích Của Người Dịch

[i] Con chồn ranh mãnh trong truyền thuyết, đã giả làm Tadanobu.

[iii] Satô Tadanobu (Tá Đằng, Trung Tín, 1161-1186), một trong những người con của Satô Shôji, cùng với anh mình là Tsuginobu (1158-1185) theo hầu Yoshitsune và đoạn hậu chẹn bọn tăng binh theo bắt, để cho chủ tướng thoát thân khi họ trốn chạy đến Yoshino. Ông tự sát ở Kyôto sau đó.

[iv] Minamotono Yoshitsune (1159-1159), tục gọi là Kurô (Cửu Lang), em trai Tướng Quân Yoritomo, người khai sáng Mạc Phủ Kamakura. Ông là danh tướng tài hoa nhưng yểu mệnh mà cuộc đời đã trở thành một huyền thoại trong dân gian. Sau khi diệt được nhà Taira, bị Yoritomo tranh chấp quyền lực, lùng bắt phải bôn đào từ Kyôto xuống

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 311

Yoshino sau lên miền bắc, căn cứ địa cũ. Bị đồng minh phản bội và chọn cái chết.

[v] Nhân vật trong vở múa rối của Chikamatsu Monzaemon, sau được phóng tác thành tuồng Kabuki nhan đề Shigenoi kowakare (Cuộc chia tay giữa Shinegoi và đứa con). Bà vú Shigenoi có đứa con rơi là Sankichi, làm nghề mã phu. Bị giằng co giữa tình mẹ con và bổn phận (vú nuôi con gái lãnh chúa), bà đã chọn việc theo hầu cô công nương và bỏ rơi Sankichi, con đẻ của mình.

[vi] Thiên hoàng thuộc Nam Triều đã về kinh đô Kyôto năm 1392 sau cuộc hòa nghị.

[vii] Như lịch sử nhiều quốc gia, Nhật Bản đã trải qua tình trạng chia cắt trong vòng 57 năm (1336-92). Bắc Triều đóng ở Kyôto, còn Nam Triều đóng trong cùng núi non Yoshino. Các thiên hoàng hiện tại thuộc dòng dõi Nam Triều.

[viii] Người thuộc dòng họ Kutsunoki, hào tộc vùng Kawachi, Izumi, ủng hộ Nam Triều.

[ix] Ba vậy báu (sanshu jingi) tượng trưng cho quyền lực thiên hoàng.

[x] Akamatsu Mitsusuke (Xích Tùng Mãn Hựu, 1373-1441?), hào tộc đời Nam Bắc Triều, ám sát Tướng Quân Ashikaga Yoshinori, cháu người dựng chùa Kim Các, sau tự sát. Sử gọi là cuộc loạn năm Kakitsu (1441-1444).

[xi] Tức Thái Bình Ký, truyện ký về chiến tranh gồm 40 quyển miêu tả khoảng thời gian nước Nhật đi đến cảnh phân chia thành hai triều đình Nam Bắc với một giọng văn hoa lệ, bằng chữ Nhật xen lẫn chữ Hán. Có lẽ do một pháp sư tên Kojima viết ra khoảng năm 1368-1379.

[xii] Một hoàng tử có chí trung hưng thế lực thiên hoàng (nhà vua) chống lại thế lực mạc phủ (nhà chúa) nhưng phải bôn tẩu khắp nơi và cuối cùng bị kẻ thù cầm tù và thảm sát.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 312

[xiii] Nguyên là một tiểu thuyết đại chúng nói về giới du côn anh chị đời Edo do nhà văn Kyokutei Bakin (1767-1848) viết.

[xiv] Kyokutei Bakin (Khúc Đình Mã Cầm, 1767-1848), nhà viết tiểu thuyết (đặc biệt là kiếm hiệp) nổi tiếng thời Edo.

[xv] Còn gọi là trường Nhất Cao (Ikkô), trường cao đẳng chuẩn bị vào đại học, năm 1949 đă sáp nhập vào Đại Học Đông Kinh.

[xvi] Kuzu (sắn dây) thân thảo, lá chỉa ba, một trong bảy thứ cỏ mùa thu, mặt trái (ura) dễ bày ra khi trời có gió. Làm liên tưởng đến chữ urami nghĩa là "oán hận" hay "hận tình". Còn gọi là kuzu kazura (sắn đèn lồng ) một chữ dùng trong thơ khi ám chỉ lòng "oán hận". Vở tuồng Nô nhan đề Kuzu của soạn giả Zeami (1363?-1443?) cũng nói về thiên hoàng Tenmu khi còn là một ông hoàng lưu lạc.

[xvii] Thiên hoàng vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản, sau khi đoạt ngôi của cháu sau loạn Nhâm Thân (672), đă lập ra luật lệnh, chế độ, biên tu quốc sử, tại vị từ 673 đến 686. Lúc cňn là hoàng tử Ôama (671), có lần vào vùng núi Yoshino ẩn cư.

[xviii] Tên một vở tuồng búp bê nghĩa là " Đem Chuyện Núi Vợ Chồng Dạy Dỗ Người Đàn Bà" do nhà soạn kịch Chikamatsu Hanji và các bạn hợp tác viết và diễn lần đầu tiên năm 1771, kể lại bi kịch của chàng Koganosuke và nàng Hinadori. Sau trở thành tuồng Kabuki.

[xix] Tiệm bán một loại sushi mà cá được ướp đặc biệt và bày trong hộp gỗ hình chiếc gàu múc nước.

[xx] Tức Taira no Koremori (1157-1184?), con trai cả của quyền thần Kiyomori, nổi tiếng là người đẹp trai. Lúc họ Taira bị đánh tan, phải trú ẩn trong dân. Sau chết ngoài biển, có thuyết cho là đi tu và chết bệnh.

[xxi] Nhân vật trong tuồng múa rối Jôruri nhan đề Yoshitsune Senbonzakura, đóng vai một tên vô lại con nhà bán cơm nắm cá giấm, sau được cảm hóa, hy sinh cả mình và vợ con để cứu Tairano Koremori.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 313

[xxii] Tiếng đầu tiên (Sơ Âm) thường để chỉ tiếng cuốc kêu đầu mùa hè.

[xxiii] Phu nhân Shizuka (Tĩnh) tức là Shizuka Gozen, ái thiếp của danh tướng Yoshitsune (Nghĩa Kinh), xuất thân con hát shirabyoshi (tên gọi gái làng chơi sành nghệ thuật thời Heian và Kamakura, ăn mặc nam trang), dung nghi diễm lệ, lại giỏi ca vũ nhạc. Trên đường lưu lạc, đành chia tay với Yoshitsune ở Yoshino. Bị bắt về Kamakura lúc đang có thai, phải múa ở đền Tsurugaoka trước mặt vợ chồng Tướng Quân Yoritomo (kẻ thù và là anh ruột của Yoshitsune) điệu múa mà xưa Yoshitsune yêu thích nhất. Sau nàng đi tu. Ngày sinh và mất của nàng không rõ. Mối tình bi đát hai người là nguồn cảm hứng phong phú của các soạn giả tuồng Nô và Kabuki . Tác phẩm liên quan đến nàng có các vở như Kuzu (Sắn Dây), Yoshino Shizuka (Shizuka ở Yoshino) , Futari Shizuka (Hai nàng Shizuka) , Funa Benkei (Con thuyền của Benkei).

[xxiv] Futari Shizuka (Hai nàng Shizuka), tuồng Nô của Zeami. Nàng con gái hái rau (Natsumi) là người bị hồn ma Shizuka ám. Nàng xưng danh tánh cho nhà sư và bắt đầu múa. Thế rồi, hồn ma của Shizuka cũng hiện ra và múa theo.

[xxv] Nhà thơ thời Man.yôshuu, hoạt động trong khoảng 20 năm từ 713 đến 733.

[xxvi] Gọi tắt tên nhà thơ Kakinomotono Hitomaro (Thị Bản, Nhân Ca Lữ), một trong Tam Thập Lục Ca Tiên.

[xxvii] Nhà thơ và danh tăng thời Heian. Sinh năm 1118, mất năm 1190. Có Sanka-shuu (Sơn Gia Tập).

[xxviii] Ám chỉ Yoshitsune, người yêu của Shizuka, trên đường bôn tẩu.

[xxix] Địa danh. Thị trấn nằm trên dòng sông Yoshino, nơi thu thập và phân phối gỗ của vùng núi nầy.

[xxx] Tương ứng với năm 1737 nghĩa là gần 600 năm sau thời của Minamotono Yoshitsune (1159-1189) và Shizuka Gozen.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 314

[xxxi] (Trúc Điền, Xuất Vân, 1691-1756)

[xxxii] Kaibara Ekiken (Bối Nguyên, Ích Hiên, 1630-1714) là nhà Hán học, giáo dục và bản thảo học Nhật Bản. Hoà châu tức là vùng Yamato (Đại Hòa), quyển sách ghi chép chuyến viếng thăm vùng này của tác giả.

[xxxiii] Ken = 1, 818m.

[xxxiv] Ca từ của bài Tiếng Chồn Tru (Konkai) viết ra ở đây lấy từ tập Matsunoha (Lá Tùng, 1703), một tập thơ dân gian, thật ra rất tối nghĩa. Tanizaki có sửa đổi đôi chút cho hợp với đề tài câu truyện.

[xxxv] Những nhân vật trong vở tuồng. O-Karu, là con gái Yoichibei, để kiếm tiền giúp chồng, phải bán mình vào xóm thanh lâu ở Gion. Sao vì sợ lộ việc cơ mật, bị người giết.

[xxxvi] Còn gọi là thời Edo (1600-1868) lúc gia đình các Tướng Quân họ Tokugawa lãnh đạo Nhật Bản đến trước cuộc Duy Tân (1868).

[xxxvii] Michiyuki (đạo hành, đi đường) là một điệu múa trong tuồng Jôruri, Kabuki và Kyôgen mà hai nhân vật, thường là nam nữ yêu nhau, đi vòng vo trên sân khấu và hát, như thể sống lần cuối một cuộc đời thu gọn trước khi về cõi chết.

[xxxviii] Chim cuốc, còn gọi là đỗ quyên, tử qui vv... dính với sự tích Thục Đế như trong văn chương Trung Quốc và Việt Nam. "Bất Như Quy" cũng là chim cuốc (hototogisu), diễn âm tiếng kêu của chim.

[xxxix] Xóm làng chơi ở Ôsaka thời Edo. Trong niên hiệu Kan-ei (1624-1644), mạc phủ đă xây cất một khu phố mới (Shin = Mới, Machi = Khu Phố, Xóm) để tụ hợp các gái làng chơi bốn phương. Cùng với Shimabara ở Kyôto và Yoshiwara ở Edo là ba xóm bình khang lớn nhất nước.

[xxxx] Trong gia đình chỉ có con gái, đáng lẽ chồng cô cả phải gửi rể theo họ vợ và trở thành chủ gia đình.

[xxxxi] Nguyên tác honken no koto tức đàn cầm có chiều dài cở 1,82 m.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 315

[xxxxii] Phong cảnh bải biển ở phía nam Ôsaka, nơi có đền thờ nổi tiếng.

[xxxxiii] Thơ của thi nhân Tiền Khởi đời Đường vịnh nhạn sông Tiêu Tương (vùng Giang Nam) phải bỏ đi về bắc vì không chịu nỗi tiếng đàn buồn thảm của nàng Tố Nữ trong thần thoại:

XÂM MÌNHNguyên tác : Shisei (1910) 

Tác giả: Tanizaki Jun-ichirô (1886-1965) Người dịch: Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 316

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Lời Người Dịch :

Tanizaki Jun-ichirô, nhà văn, kịch tác gia, sinh ở Nihonbashi, trung tâm Tôkyô, năm 1886. Đang học Đại Học Đế Quốc Đông Kinh thì bỏ ngang. Năm 1910, tham gia tạp chí Shinshichô (Tân Tư Trào ) và bắt đầu văn nghiệp. Xâm Mình (Shisei) là một trong những đoản thiên đầu tay có tính cách tuyên ngôn văn nghệ vì nó ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết toàn bộ tác phẩm về sau của ông từ Cái Khóa (Kagi) đến Truyện nàng Xuân Cầm (Shunkinsho), Chữ Vạn (Manji), Mối tình thầm của ngài Musashi ( Bushu-Kô Hiwa) , Truyện lão mù (Mômoku Monogatari), Tình Của Người Ngây (Chịjn no ai) ...

Kiện tướng trên văn đàn Nhật Bản thời Taishô (1912-1926), ông đã để lại một sự nghiệp đồ sộ . Đừng nói chi đến những giải thưởng và vinh dự quốc nội và quốc tế nhận được, nếu có xem ông như nhà văn Nhật Bản hàng đầu chắc cũng không ngoa. Là người kể chuyện có duyên nhất trong số những cây viết tiền chiến, nội dung các tác phẩm của ông phần nhiều khai thác cảnh sống đồi trụy của xã hội cũ đang suy tàn và địa ngục của đời sống nội tâm. Sở trường về tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết phong tục, văn chương Tanizaki vừa thâm trầm, cổ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 317

kính, vừa bóng bẩy, diễm tình, vừa đồi phế, bệnh hoạn nhưng không kém phần tinh tế. Làm như ta qui tụ được tài hoa của cả Marquis de Sade, Paolo Pasolini, Marcel Proust, Guy de Maupassant, Nguyễn Tuân, Edgar Allan Poe... trong cùng một con người.

Xâm Mình dường như đóng khung được hai chủ đề lớn trong văn học. Trước hết là vai trò của cái huông "cuốn sổ đoạn trường". Con nhện xâm trên lưng chỉ phù-điêu-hoá lời tiên tri về tương lai người con gái trong truyện như dự ngôn của nhà viết kịch Euripidès về Aphrodite (theo ý kiến Mishima Yukio), của Nguyễn Du (qua Đạm Tiên) về Kiều : cái đẹp đã hoài thai của độc, sự sống vốn nẩy mầm cái chết. Chủ đề thứ hai là mối quan hệ giữa nghệ sĩ và tác phẩm. Người nghệ sĩ dù thực hiện tác phẩm để giải thoát một ám ảnh, vẫn còn có thể thành nạn nhân của nó một khi tác phẩm thoát khỏi tay mình.

Bản dịch thô vụng này đã đăng tải trên một nội san sinh viên ở Paris hơn 30 năm về trước dưới bút hiệu Uyên Minh, được bạn bè ưu ái gìn giữ , cho lên mạng trong vài năm gần đây. Để nhuận sắc, dịch giả sử dụng văn bản Shisei trong Jun-ichirô Rabirinsu I - Shoki tanpenshu (Mê cung của Jun-ichirô - Tập I - Những đoản thiên đầu tay) do Chiba Junji biên tập, nhà Chuôkôron xuất bản năm 1998 ở Tôkyô.

Chuyện xảy ra hồi thiên hạ còn giữ được cái đức " Ngu " đáng quí, thuở mọi người chưa nghĩ đến tranh danh đoạt lợi như bây giờ. Cuộc đời lúc đó mới nhàn tản làm sao ! Để khuôn mặt các nhà quyền quí và đám vương tôn công tử không vương lấy một bóng mây tư lự, để những trận cười của các nàng hầu trong phủ đệ và đám gái buôn hương không bao giờ biết dứt, chỉ cần biết uốn ba tấc lưỡi giúp vui như các chú hầu trà và kép diễu cũng thành một thứ nghề được đời trọng vọng. Bản tuồng hát và tiểu thuyết kiếm hiệp có phụ bản bằng tranh đương thời như

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 318

Nữ-Sadakurô, Nữ-Jiraiya và Nữ-Narukami (1) đều cho ta thấy người đẹp là kẻ mạnh, người xấu xí là kẻ yếu. Không ai là không ra sức làm đẹp, thậm chí họ đã đem xâm những bức họa lên cái thân thể trời cho. Vào thời đó, trên da thịt người ta là cả một cuộc khiêu vũ của những tập hợp màu sắc và đường nét, hoặc đậm đà hoặc rực rỡ.

Khách lui tới những chốn ăn chơi chỉ chịu lên kiệu mấy tên phu có hình xâm đẹp. Chị em ta dưới xóm Yoshihara hay Tatsumi mê mẩn mấy cậu trai có bức họa nổi thật khéo trên người. Đừng nói chi bọn máu mê hay lính chữa lửa, từ đám thương nhân đến hàng vũ sĩ, ai ai cũng khoái thích chàm lên người. Đôi khi, trong các kỳ họp của Hội Xâm Mình tổ chức ở Ryôgoku (2), người dự hội thường lấy tay vỗ vỗ lên chỗ xâm, khi thì để khoe một mẫu hình đẹp, khi thì để phẩm bình qua lại với nhau.

Dạo đó có một gã thợ xâm mình có hoa tay tên gọi Seikichi. Tài của y vốn không thua gì những bậc sư trong nghề kể cả Charibun miệt Asakusa, Yakkohei xóm Matsushima hay bọn Konkonjirô. Dưới mũi bút họa của Seikichi, chỉ cần một thoáng là da thịt của hàng chục khách đã trải ra như tấm vóc. Nhiều hình xâm mà anh chàng là tác giả từng được trầm trồ ở Hội Xâm Mình. Trong khi Darumakin sở trường về lối chấm phá đậm nhạt, Karakusa Gonta được đời xưng tụng là bậc kỳ tài về lối xâm son, Seikichi ta nổi danh vì những mẫu hình kỳ quái và những nét xâm kiều diễm của y.

Seikichi trước kia chuộng họa phái Toyokuni-Kunisada (3) và đã sinh sống bằng nghề vẽ tranh Ukiyo-e(4)nên ngày nay tuy rơi xuống hàng thợ xâm mình, y vẫn giữ được chút lương tâm và cái nhạy cảm của người họa sĩ. Y không bao giờ chịu đặt cây kim xâm trên một làn da, một thân hình không có sức thu hút mình. Nhiều lúc, khách tuy đã được y thuận xâm cho, ngoài việc vâng theo một mẫu họa và món tiền lễ nào đó mà y

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 319

tùy hứng phán ra, còn phải chịu thêm sự đau đớn của đầu mũi kim xâm, một cực hình kéo dài hàng một hai tháng.

Trong lòng người thợ xâm hình trẻ tuổi này, từ lâu chôn giấu một khoái cảm và một khát vọng thầm kín. Khi đường kim của y gây ra những vết phồng tấy trên da và làm ứa những giọt máu đỏ tươi, hầu hết khách hàng, cho dầu là đàn ông chăng nữa, đều rên rỉ vì không chịu nổi sự đau đớn. Hễ khách hàng càng rên siết bao nhiêu, độ khoái cảm khó tả của y lại tăng bấy nhiêu. Seikichi đặc biệt thích lối xâm chấm phá và xâm son vì đó là hai lối xâm gây đau đớn nhiều nhất. Khách, sau khi mỗi ngày đã chịu trung bình hàng năm, sáu trăm mũi kim, còn phải tắm nước nóng cho ăn màu, ra khỏi bồn đều ngã quị dở sống dở chết dưới chân Seikichi, hồi lâu vẫn không lê mình nổi nửa bước. Ngay trước cảnh tượng thảm thương như vậy, mắt y lúc nào cũng chỉ ném một tia nhìn lạnh lùng :

- Cha chả, coi bộ đau đấy chứ nhỉ ?

Y vừa hỏi vừa cười thích thú.Gặp mấy người khách yếu chịu đau, trẹo miệng nghiến răng, rên siết như chết đến nơi, y lại bảo :

- Anh là Edokko (5) dân gan góc kia mà ! Ai cho rên mà rên?. Đường kim Seikichi nầy đau số một đó !

Nói xong, y liếc xéo nét mặt đầm đìa nước mắt của khách, rồi tiếp tục xâm bất kể. Còn gặp người can đảm, cố sức chịu đựng không nhíu cả lông mày thì y trêu :

- Hưừm, tướng anh thế mà cũng chịu đựng giỏi nhỉ ! Nhưng xem nào, bắt đầu từ giờ mới thấm đau, tài thánh cũng không đương nổi đây.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 320

Rồi y cười, nhe hàm răng trắng nhởn.

Khát vọng bình sinh của y là tìm cho được một người con gái có làn da óng mượt để đem hết tâm hồn và tài hoa của mình mà khắc ghi vào đó. Một người con gái như vậy phải hội đủ điều kiện về tư chất cũng như về dung mạo. Nếu nàng ta chỉ có một khuôn mặt đẹp hay một làn da mượt thì vẫn chưa thỏa mãn những đòi hỏi của y. Seikichi đi dò la trong các xóm bình khang, tìm ngay cả các cô gọi là đẹp nức Edo, nhưng vẫn không đào ra một ai như y mong đợi. Ba bốn năm đằng đẵng nuôi trong lòng hình ảnh người-chưa-bao-giờ-gặp đó một cách hoài công, y vẫn kiên trì không từ bỏ ước mơ của mình.

Đúng vào một chiều mùa hạ của năm thứ tư tìm kiếm, lúc đi qua tửu quán Hirasei trong khu phố Fukagawa, Seikichi chợt bắt gặp một bàn chân đàn bà trắng nuột để trần buông thõng sau bức mành mành của chiếc kiệu đợi ngoài sân. Với cái nhìn bén nhạy của Seikichi, một bàn chân người vẫn có năng lực diễn tả những động thái phức tạp chẳng thua gì khuôn mặt. Và bàn chân người con gái hôm ấy đối với y là một thứ ngọc quí bằng da bằng thịt, vì nó đẹp từ hàng ngón chân xếp rất gọn ghẻ từ ngón cái tới ngón út, từ mầu sắc của mấy chiếc móng chẳng thua gì vỏ ốc hồng nhạt mà người ta bắt được trên bờ biển của những hòn đảo trong tranh, từ gót chân đầy đặn như thỏi ngọc, từ làn da gan chân mầu mỡ tưởng chừng được xối mát không ngừng bằng mạch nước trong đổ ra từ ghềnh đá. Bàn chân này phải no tròn bằng huyết tươi của lũ đàn ông và giày xéo lên bao xác tình si. Người đàn bà có bàn chân này là kẻ đến nay Seikichi bỏ bao công chờ đợi. Có lẽ đó là người đàn bà nổi bật nhất trong đám đàn bà. Y cố nén nhịp tim đang hồi hộp như muốn bật tung ra khỏi lồng ngực, đuổi theo chiếc kiệu để cố thấy mặt nàng, nhưng được vài khu phố thì mất dấu.

Lòng khát khao của người thợ xâm mình biến thành một thứ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 321

tình yêu mãnh liệt. Năm đó rồi tàn, và một buổi sáng khi mùa xuân thứ năm đã già nửa, trong lúc Seikichi, miệng nhay một cây tăm, ngắm mấy chậu vạn niên thanh đặt bên hàng hiên tết bằng những lóng trúc ngã màu teng đồng trong sân ngôi nhà trọ ở xóm Saga trong khu Fukagawa, thì cánh cửa gỗ sau sân chợt động như có ai tới thăm. Qua hàng dậu thấp, y thấy một cô gái lạ mặt.

Đó là cô gái đưa tin cho một nàng ca kỹ ở xóm Tatsumi, vốn là chỗ quen biết với Seikichi.

- Cô em sai đưa cái áo Haori này đến cho thầy, kính nhờ thầy vẽ mẫu hình nền trong hộ cho...

Nói xong, nàng tháo cái tay nải vàng nghệ, lấy ra chiếc áo Haori đàn bà bọc trong tấm giấy có họa hình kép hát  Iwai Tokaju (6)  ,  và một phong thư. Nội dung bức thư ngoài khẩn khoản chuyện cái áo, nàng ta còn bảo cô nhỏ đưa thư này nay mai cũng trở thành đàn em của mình, sẽ bắt đầu nghiệp cầm ca ở các trà đình kinh đô, mình thì đừng quên đã đành nhưng xin cũng tìm cách nâng đỡ cô em đó.

- Ta chịu không tài nào nhớ mặt cô. Chắc cô mới đến đằng Tatsumi dạo sau này thôi, phải không ?

Vừa hỏi, Seikichi vừa chăm chắm nhìn cô gái. Cô ta mới mười sáu mười bẩy là cùng mà đã có cái vẻ đĩnh đạc già dặn thật lạ lùng của một kẻ đã sống lâu năm trong làng hương phấn, một tay từng bóp nát bao nhiêu trái tim đàn ông. Dáng dấp của nàng như được chung đúc từ vô số giấc mộng của bao đời trai thanh gái lịch đã đi qua từ hàng chục năm nay trong cái kinh thành tụ tập tất cả tiền tài và tội lỗi của cái nước này.

- Hồi tháng sáu năm ngoái, dường như cô em có lên kiệu ở

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 322

trước quán Hirasei ấy nhỉ ?

Seikichi bảo cô gái ngồi xuống bên hiên và hỏi để có thể ngắm kỹ càng đôi chân trần của cô đặt trên chiếc bệ kê chân giát chiếu Bingo.

- Thưa vâng, dạo ấy thầy em hãy còn sinh tiền nên đôi lúc em cũng có dịp đến đằng đó...

Nàng cười chúm chím vì câu hỏi kỳ quái, vừa đáp như thế.

- Ta đợi cô em năm nay nữa là tròn năm năm trời. Tuy mới biết mặt cô hôm nay là lần đầu nhưng ta nhớ đã từng trông thấy bàn chân cô rồi. Ta có một vật này muốn cô em xem. Cô bước lên trên chơi chút đã.

Vừa lúc cô gái định cáo từ ra về, y nắm tay nàng mời lưu lại và dẫn lên phòng khách, một căn gác nhìn xuống giòng sông Sumida (7). Y lấy ra hai cuộn tranh, trải bức thứ nhất trước mặt cô gái.

Đó là bức tranh vẽ Mạt Hỉ (8), nàng cung phi sủng ái của hôn quân Trụ Vương. Bức tranh diễn tả xuất thần vẻ yêu kiều và tàn bạo ; vẻ yêu kiều của bà phi tình tứ mà thân hình quá mảnh mai như không chịu nổi sức nặng của chiếc mão miện dát đầy lưu ly, san hô, để mặc vạt áo lụa phất phơ trên bậc thang lên điện, tay phải cầm nghiêng một chén rượu lớn, ẻo lả tựa vào lan can ngắm nghía người đàn ông đang đợi hành hình ; vẻ tàn bạo qua hình ảnh người tử tù tay chân đều bị cột chặt bằng xích sắt vào trụ đồng, mắt nhắm nghiền, đầu lả về phía bà phi, trong tư thế đợi giây phút cuối của cuộc đời.

Người con gái nhìn chăm chú bức tranh một lúc rồi không hiểu vì sao, ánh mắt nàng chợt sáng lên, đôi môi run rẩy. Kỳ dị thay, gương mặt nàng dần dần bỗng giống y khuôn mặt bà phi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 323

Nàng như đã tìm ra được cái tôi của mình ẩn nấp nơi đây.

- Bức tranh này phản ánh cái Tâm của cô em đấy !

Seikichi nói xong, cười khoái trá, nhìn xoi mói vào mắt cô gái. Người con gái ngẩng vầng trán tái xanh, thưa :

- Tại sao thầy lại đem cái đồ dễ sợ này cho em xem ?

- Người đàn bà trong tranh này là cô em đó. Nhất định là máu của nàng ta đang giao hòa với máu cô em.

Y lại trải bức họa thứ hai : bức họa này nhan đề là "Phân bón". Chính giữa bức tranh là một cô gái trẻ đang dựa mình vào một thân cây anh đào, mắt dán vào vô số thây đàn ông nằm lớp lớp dưới chân nàng. Bầy chim lượn chung quanh nàng như đang ríu rít khúc ca chiến thắng và đôi mắt ướt át của nàng không dấu nổi vẻ sung sướng tự hào. Không biết đó là cảnh một bãi chiến trường sau cuộc giao tranh hay cảnh của một hoa viên giữa độ xuân về. Nàng con gái được cho xem cảnh tượng trong tranh bổng mang tâm trạng như đang tìm kiếm một cái gì tiềm ẩn trong hồn nàng.

- Đây là bức tranh minh họa tương lai của cô em đấy. Những xác nằm la liệt là hình ảnh của mấy chú si tình bỏ mạng vì cô đó !

Y vừa nói, tay chỉ vào cô gái trong tranh mà nét mặt không khác chi người đang ngồi đối diện.

- Xin lỗi thầy, thầy làm ơn cất bức tranh này đi.

Người con gái như muốn đẩy lui sức cám dỗ, quay lưng không nhìn bức họa rồi phủ phục trên mặt chiếu, mãi lúc sau mới run run :

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 324

- Thầy ơi, em xin thưa thật nhé : đúng như thầy đoán không sai, tính hạnh em chẳng khác cô gái trong tranh đâu. Nhưng thôi, thầy tha cho em, dẹp giùm bức tranh đó đi.

- Đừng giở cái giọng nhát nhúa như vậy, ráng nhìn cho thật kỹ nó đi, cô có sợ chăng là sợ lúc nầy thôi !

Y nói mà trên mặt vẫn giữ một nụ cười châm chọc khó chịu. Tuy thế, cô gái vẫn không dám ngẩng đầu lên, cứ nằm im tay lấy vạt áo che kín mặt.

- Thôi cho em về đi thầy. Ở gần bên thầy sao mà hãi quá " Nàng con gái van lơn mãi.

- Đợi ở đây đi. Rồi ta sẽ biến cô em thành mỹ nhân tuyệt thế cho xem.

Vừa nói, Seikichi đường hoàng ngồi sát lại cô gái. Trong lưng của y đã lận sẵn một bình thuốc mê nài lại từ một tay y-sư Hòa Lan.

***

Mặt trời lay láy trên giòng sông, rọi vào căn phòng tám chiếu như muốn đốt cháy. Những tia nắng hắt từ mặt nước rún rẩy vẽ những đường nét uốn éo vàng diệp lên lớp giấy hồ phết cửa, lên gương mặt thiêm thiếp giấc nồng của cô gái. Cửa phòng đóng chặt, Seikichi tay cầm bộ đồ xâm, ngồi thừ như mất hồn một lúc lâu. Đây là lần đầu tiên y được nhẩn nha nhìn tường tận một vẻ đẹp kỳ dị và nghĩ cho dầu ngồi mười năm, trăm năm trong căn phòng mà ngắm khuôn mặt kia, y cũng sẽ không bao giờ biết chán. Như dân Memphis ngày xưa đã trang điểm cõi trời đất cao rộng của xứ Ai Cập bằng những kim tự tháp và tượng Sphinx, y đem cả tấm tình yêu của mình bắt đầu chạm trổ lên trên da thịt băng thanh của một con người.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 325

Thế rồi tay trái y kẹp giữa ngón trỏ, ngón giữa và ngón út những mũi bút họa, tỳ lên lưng người con gái, tay phải cầm kim bắt đầu xâm. Linh hồn của người thợ xâm trẻ tuổi hòa trong mỗi giọt mực, ngấm vào da. Mỗi giọt son Lưu Cầu tan trong rượu mạnh đi vào thân thể cô gái là những giọt máu của tính mệnh y. Qua bức họa Seikichi thấy cả mầu sắc của tâm hồn mình.

Không biết trời quá ngọ vào lúc nào, rồi ngày xuân êm đềm cũng ngả chiều mà tay của Seikichi vẫn không dừng một khắc và người con gái cũng chưa tỉnh giấc. Độ chừng sợ nàng về chậm, một gã vác đàn được gửi tới nhưng liền bị y đuổi khéo :

- Ai chớ cái cô nhỏ đó thì đã về mất đất rồi !

Rồi trăng bắt đầu treo ngang trên dãy dinh cơ của phiên trấn Tosa cất bên kia sông, để ánh sáng mờ ảo len vào nhà nhà dọc theo bờ; Seikichi vẫn chưa xâm xong được một nửa, quyết ý khêu tim bạch lạp làm việc tiếp.

Xâm mỗi giọt mực, đối với y bổng thành ra một chuyện không đơn giản chút nào. Mỗi lần châm một mũi, rút một mũi, người nghệ sĩ không nén được tiếng thở dài như cảm thấy đang chạm khắc lên chính trái tim mình. Dưới đường kim, dần dần hiện trên làn da hình một con nhện cái thật lớn, và khi trời bắt đầu rựng sáng thì con vật tám chân yêu ma này đã bắt đầu bò lên khắp chiếc lưng.

Đêm mùa xuân rạng cùng với tiếng mái chèo thương hồ ngược xuôi khuấy nước. Khi đợt sương trên đỉnh những chiếc buồm trắng no gió sớm bắt đầu tan dần để những mái ngói ở các xóm cồn trên sông như Nakasu, Hakozaki, Yoshikishijima lấp lánh ánh nắng, người thợ xâm mới tạm ngừng đường kim, ngắm hình thù con vật mà y đã trổ lên lưng thiếu nữ. Chính hình xâm

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 326

này là cả mạng sống của y. Nhìn việc làm hoàn tất, người nghệ sĩ cảm thấy trong lòng một nổi trống không to lớn.

Hai bóng người cứ thế không mảy may động đậy. Thế rồi giọng khàn khàn, trầm trầm của Seikichi dội vào bốn bên bức vách :

- Ta vì muốn cho cô em thành một người con gái đẹp thật sự nên đã trút hết tâm lực vào vào bức hình xâm. Từ nay, khắp nước Nhật này không còn ai có thể trội hơn cô em được đâu. Em sẽ hết e thẹn, rồi mà xem, trăm thứ đàn ông đều trở thành phân bón lót đường em cả.

Như hiểu được lời của người thợ xâm, từ đôi môi nàng con gái bắt đầu có tiếng rên khe khẽ thoát ra như sợi tơ mỏng. Dần dần tỉnh lại, mỗi lần nàng nặng nhọc thở ra hít vào thì con nhện trên lưng cũng cựa quậy ngo ngoe như vật sống.

- Chắc đau lắm phải không ? Tại con nhện đương quặp siết thân hình cô em mà!

Nghe nói, người con gái mở mắt ngơ ngác nhìn, đôi đồng tử tiếp nhận thêm những tia sáng của trăng tàn, lấp lánh hẳn ra, chiếu vào mắt Seikichi :

- Xin thầy làm ơn cho xem con nhện trên lưng em đi. Nếu như thầy đã dồn hết tinh thần vào đấy thì chắc chắn em phải đẹp ra chứ hở ?

Tiếng nói của nàng như người đang còn trong giấc mộng. Nhưng không hiểu từ đâu đó đã toát ra một cái gì sắc nhọn.

- ƯØ thôi, bây giờ vào bồn mà tắm nước nóng đi cho màu nó ăn. Ráng chịu một chút, đau lắm đó.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 327

Seikichi ghé sát vào tai nàng, nhỏ nhẹ như an ủi.

Cô gái cố nén cái đau đang lan khắp châu thân, gượng cười :

- Nếu mà được đẹp ra thì dầu có đau đớn cách mấy em cũng chịu được cho thầy xem.

***

- Ối trời ơi, có nước nóng thấm vào rát quá... Xin lỗi, thầy để mặc em, làm ơn lên trên gác đợi đi, em không muốn chođàn ông thấy sự đau đớn của em đâu, bực lắm !

Nàng không đủ sức lau nổi cái thân thể của mình vừa ngoi ra từ nước nóng, gạt bàn tay đưa ra che chở của Seikichi, đau đớn gieo người xuống tấm ván cọ, vật vã rên siết như đang ở giữa cơn ác mộng. Mái tóc điên loạn xổ tung xuống gò má ; sau lưng nàng có treo một tấm kính lớn, hai gan chân trắng ngần chiếu lên mặt kính.

Thái độ của cô gái đã thay đổi hoàn toàn so với chiều hôm qua. Người thợ xâm khôn xiết kinh ngạc nhưng vẫn nghe lời leo lên gác ngồi đợi một mình. Khoảng nửa giờ sau, nàng đã để mái tóc vừa gội chảy xuống đôi vai, áo xống tề chỉnh bước lên. Bây giờ thấy nàng hoàn toàn không còn mảy may đau đớn gì cả, tựa lan can tỉnh táo ngước mi nhìn khung trời mờ sương.

- Ta biếu không cô em hai bức tranh này lẫn bức xâm trên người đó. Thôi, sửa soạn về đi là vừa.

Seikichi vừa nói, vừa đặt hai bức họa trước mặt cô gái. Nhưng nàng ta , đôi mắt long lanh ánh kiếm, tiếng nói vang như khúc khải hoàn :

- Thầy ơi, bây giờ em không còn nhút nhát chút nào đâu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 328

Chính thầy sẽ là nạn nhân để làm phân bón đầu tiên cho em đó... !

- Trước khi về, cho ta xem lại bức xâm lần nữa thử coi.

Seikichi bảo. Người con gái lặng im, gật đầu, từ từ tuột áo. Những phiến nắng ban mai chiếu dội lên mặt bức xâm, làm con nhện trên lưng như muốn hực lửa.

Tanizaki Jun-ichirô Tạp chí Shinshichô tháng 11 năm Meiji 43 (1910)

Chú thích

(1) Nữ -Sadakurô ...:Tên những bản tuồng Kabuki và tiểu thuyết bằng tranh lấy cảm hứng từ đề tài Trung Quốc hay Nhật Bản mà trong đó, phụ nữ thủ những vai chính mạnh bạo như Jiraiya, đạo tặc có yêu thuật đời Tống, Narukami, thần sấm chớp.

(2) Ryôgoku (Lưỡng Quốc) : xóm bình dân thời Edo (1603 - 1866) nằm giữa hai lãnh địa (quốc) , nay thuộc ngoại ô Tôkyô.

(3) Toyokuni (1769-1825) và cao đệ của ông là Kunisada(1786-1864).

(4) Ukiyo-e : tranh Nhật Bản vẽ về những đề tài xã hội và nhất là tình tiết cuộc sống phong lưu dưới thời Edo thái bình.

(5) Edokko : dân bản quán ở Edo. Edo là tên cũ của Tôkyô dưới thời mạc phủ Tokugawa, lúc ấy là thủ phủ miền Đông Nhật Bản, nổi tiếng vì những vũ sĩ thiện chiến và can đảm.Thành ngữ Nhật Bản có câu " Trai miền Đông, gái Kinh Đô " (Azuma otoko, kyô onna).

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 329

(6) Iwai Tojaku (1776-1847), gọi tắt Tojaku, kép nam chuyên thủ vai đào trong các tuồng Kabuki.

(7) Nguyên tác Ogawa tức giòng sông lớn, để chỉ Sumidagawa, phần chảy qua vùng Tokyo.

(8) Mạt Hỉ: có lẽ Tanizaki muốn nói đến Đát Kỷ sủng cơ đã làm vua Trụ mất nước về tay Vũ Vương nhà Chu thì đúng hơn. Mạt Hỹ hay Muội Hỷ là ái thiếp của vua Kiệt nhà Hạ, một người đẹp làm vong quốc khác. Xin tồn nghi.

KỲ LÂN(Kirin, 1910) [1]

Nguyên tác: Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Dịch: Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 330

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 331

 Nhạc Thiều đã dứt khôn trông phụng, 

Sử Lỗ biên rồi khó thấy lân! (Nguyễn Đình Chiểu)

  Dẫn Nhập Của Người Dịch:

Truyện ngắn dưới đây đăng trên tạp chí Shinshichô tháng 12 năm 1910, một tháng ngay sau Xâm Mình (Shisei). Tanizaki lúc đó mới 24 tuổi. Ông đã đi thẳng vào làng văn nhờ hai tác phẩm này với sự chúc phước của các đại sư đương thời như Mori Ôgai, Ueda Bin và Nagai Kafuu.

Kỳ lân là một linh thú của thần thoại Trung Quốc, hai lần xuất hiện trong đời Khổng Tử: một lần trước khi ông sinh ra như điềm báo hiệu ông sẽ trở thành vị tố vương (vua không ngai), lần thứ hai 70 năm sau, như một con thú lạ bị người ta giết, nhân đó Khổng Tử đoán đời mình đã đến hồi chung cuộc. Nói chung, kỳ lân tượng trưng cho nhân cách phi thường của Khổng Tử.

Tanizaki và các nhà văn Nhật Bản (Mori Ogai, Nakajima Atsushi, Inoue Yasushi...) đã tìm nguồn cảm hứng hương xa trong cổ điển Trung Quốc qua hình ảnh những trang tuyệt thế như Ngư Huyền Cơ, Bao Tự, Đát Kỷ, Dương Quí Phi, Hạ Cơ...Cùng lúc, một số nhà văn Tây Phương (Gustave Flaubert, Oscar Wilde, Pierre Louys...) đặt bối cảnh các tác phẩm của họ mãi tận Jerusalem, Carthage, Alexandria..., ca tụng sắc đẹp Salammbô, Salomé và nữ hoàng Sheba. Thế nhưng, theo J.Pigeot và

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 332

J.J.Tshudin, hai dịch giả Pháp và cũng là hai nhà chuyên môn về Tanizaki thì nguồn gốc của tác phẩm Kỳ Lân lạ lùng đến không ngờ. Bởi lẽ truyện này dù lồng khung trong bối cảnh Trung Quốc nhưng thực ra đã bắt nguồn trực tiếp từ hai tiểu phẩm của Anatole France nhan đề Thais (1889) và Balthasar (1886), trong đó nhà văn Pháp tưởng tượng ra cuộc gặp gỡ giữa những hiền nhân và ác nữ, cũng giống như cuộc gặp gỡ giữa Khổng Tử, bậc sư phó đạo đức lễ nghĩa của muôn đời, và nàng Nam Tử, tượng trưng cho sự quyến rũ của sắc dục và tâm địa ác độc.

Vào Truyện

Phượng này , phượng này! Sao để đức ngươi suy! Chuyện chưa đến may còn đuổi kịp, Chuyện đã qua rồi can ích chi! Thôi ngưng đi, ngưng đi! Những kẻ nay ra làm việc nước, Rước vào nguy hiểm có khi [2]

Năm 493 trước Tây Lịch [3]. Sách vở của Tả Khâu Minh, Mạnh Kha và Tư Mã Thiên đều chép rằng vào dịp đầu xuân, khi Định Công nước Lỗ cử hành lễ tế Giao lần thứ mười ba, Khổng tử với vài người học trò theo hầu hai bên xe, từ giã quê hương Lỗ quốc [4] , lên đường truyền bá đạo học của mình.

Bên bờ sông Tứ, cỏ thơm mọc xanh xanh. Dù trên các đỉnh Phòng Sơn, Ni Khâu, Ngũ Lĩnh [5], tuyết đã tan nhưng ngọn gió bấc, thổi hung hãn như vó ngựa Hồ, hãy còn đem đến cùng với cát sa mạc những đợt lạnh cuối cùng của một mùa đông khốc liệt. Tử Lộ hăng hái dẫn đầu đoàn người, chiếc áo hồ cừu màu tím của chàng phấp phới trong gió. Nhan Uyên ánh mắt nghiêm trang trầm tư và Tăng Sâm với phong thái thực thà đôn hậu, chân dận trong hài cỏ nối bước theo sau. Phàn Trì, gã đánh xe trung thành, vừa cầm cương điều khiển cỗ xe thắng bốn ngựa, đôi khi đưa mắt nhìn trộm khuôn mặt già nua của phu tử đang ngồi trên xe, mắt ứa lệ cảm thương cho cái số kiếp long đong của thầy mình.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 333

Một ngày nọ, cả đoàn đã đến biên giới nước Lỗ, ai nấy đều quay lại phía cố hương lòng những ngậm ngùi, thế nhưng bóng núi Qui Sơn đã che lấp con đường vừa mới đi qua nên họ nào có thấy chi. Lúc đó, Khổng Tử mới lấy đàn cầm ra khảy, và hát bằng một giọng buồn thổn thức:

Những muốn nhìn về nước Lỗ, Qui Sơn khuất nẻo quê rồi. Trên tay không rìu không búa, Đành cho cây núi che thôi.

Thế rồi cứ như thế mà đi mãi về hướng bắc suốt ba ngày liền. Đến một giải đồng bằng êm ả, họ nghe có tiếng ai ca hát thật thanh thoát. Đó là tiếng hát của một ông lão mặc áo khoác da hươu, thắt lưng giây gai, đang đi nhặt gié lúa sót trên bờ ruộng. Khổng Tử mới gọi Tử Lộ đến hỏi:

- Này Do, nghe tiếng hát này ngươi thấy nó ra sao?

- Thưa tôn sư, tiếng hát ấy không có giai điệu bi thương như khúc hát của thầy. Nó tựa cánh chim tự do bay giữa từng trời, không gì bó buộc.

- Đúng như thế. Ông lão chính là Lâm Loại [6], một môn đệ của Lão Tử ngày xưa. Tuy sống phải đến trăm tuổi rồi nhưng mỗi khi xuân về thì lại ra đồng, bao nhiêu năm rồi vẫn cứ mót lúa và ca hát. Trò nào muốn đến gặp để hỏi thăm thì cứ việc.

Nghe thầy nói thế, một đệ tử là Tử Cống bèn chạy đến giữa cánh đồng, đón chào ông lão và lên tiếng hỏi :

- Tiên sinh vừa mót lúa vừa cất tiếng hát vui tươi như thế, hẳn trong lòng không vướng một điều gì hối hận?

Thế nhưng ông lão chẳng thèm quay đầu lại, cứ chú tâm nhặt gié lúa sót, vừa bước đi, không lúc nào ngưng tiếng hát. Tử Cống vẫn không bỏ cuộc, chạy theo hỏi chuyện. Lúc đó, ông lão mới tạm ngừng hát và sau khi đưa mắt ngắm Tử Cống suốt một lượt, mới nói:

- Theo ông thì ta có điều gì để phải hối hận ?

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 334

- Tiên sinh lúc trẻ không làm gì nên chuyện, lúc lớn lên không chịu tranh đua với đời, về già vợ con không có để an ủi tuổi già, nay cái chết đến gần kề, có vui sướng gì mà vừa đi mót lúa và ca hát vui vẻ như thế?

Nghe xong, ông lão cất tiếng cười ha hả:

- Niềm vui của ta thiên hạ nếu ai muốn đều có được, nhưng ngược lại, nó đã khiến cho họ đau khổ. Lúc trẻ không nên chuyện, lớn lên không tranh đua, già không vợ con, cái chết sắp đến bên mình à, chính vì được như thế nên ta mới cảm thấy vui đấy chứ!

Tử Cống lại hỏi tiếp:

- Đã là người ai cũng cầu được sống lâu, lo sợ trước cái chết, cớ sao tiên sinh có thể vui sướng trong sự chết chóc?

- Sinh với tử cũng như đi tới nơi rồi lại quày về. Chết ở chỗ này là sinh ra ở chỗ khác. Phải biết rằng bám víu vào sự sống là một điều lầm lẫn. Chuyện bây giờ chết đi hay xưa kia sinh ra, liệu có khác gì nhau!

Ông lão trả lời như thế rồi cứ thế tiếp tục ca hát. Tử Cống không hiểu ý nghĩa lời nói của ông ta nhưng cũng quay về bẩm lại với thầy.

Khổng Tử mới bảo:

- Đó là một lão nhân mà chúng ta có thể trao đổi ý kiến được. Tuy nhiên, ông ta vẫn chưa tìm ra lẽ đạo hay chưa đạt đến cốt lõi của vấn đề!

*

Thế rồi cả đoàn lại đi hết ngày này sang ngày nọ theo con đường lữ hành dài dằng dặc. Họ vượt qua sông Ky. Khăn bịt đầu bằng vải đen của phu tử đã nhuốm bụi đường mà áo hồ cừu của người cũng đã bạc màu vì mưa gió.

Khi họ vào đô thành nước Vệ [7], dân chúng ngoài đường phố chỉ trỏ vào đoàn xe và nói với nhau:

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 335

- Đấy là bậc thánh nhân người nước Lỗ tên gọi Khổng Khâu. Nghe nói ông ta đến đây để truyền lại những lời giáo huấn cao đẹp và phương pháp thi hành thiện chính cho hai kẻ cai trị bạo ngược là chúa công và phu nhân của chúng ta.

Mặt mũi của dân chúng trông gầy còm hốc hác, ai nấy đều mệt mỏi vì đói khát. Nhà cửa của họ tối tăm, từng bức vách vọng ra tiếng than van sầu muộn. Những cây hoa đẹp nhất nước đã phải nhổ đi dời vào trồng trong cung cho vui mắt phu nhân. Những con lợn béo nhất nước cũng phải đem đi tiến để miệng phu nhân xơi cho bổ khỏe. Nắng xuân tươi thắm như trêu ngươi chiếu lên những đường phố ảm đạm màu tro xám.Hơn thế nữa, trên cái gò cao nằm ngay giữa kinh thành, cung điện nguy nga tựa hồ thêu bằng năm sắc cầu vồng, giống như con mãnh thú no nê máu huyết, đang chong mắt nhìn xuống phố xá điêu tàn hiện ra như đống hài cốt. Âm hưởng của những quả chuông ngân từ trong cung sâu chẳng khác nào tiếng rống của mãnh thú, đang âm vang khắp bốn bề vương quốc.

Khổng Tử lại hỏi Tử Lộ :

- Này Do, khi nghe tiếng chuông kia ngươi thấy thế nào?

- Thưa tiếng chuông đó khác với cung bậc e dè như lời giải bày với trời cao trong tiếng đàn của thầy, cũng không được tự do tự tại, phó mặc cho tự nhiên như tiếng ca của Lâm Loại. Nó chỉ ca tụng những sự hoan lạc đi ngược với đạo trời, quả thật là thứ âm thanh đáng kinh sợ.

Khổng Tử bèn giải thích:

- Ngươi nói chí lý. Cái chuông đó tên gọi Lâm Chung tức chuông rừng, ngày xưa Vệ Tương Công [8] đã vắt kiệt tài sản và mồ hôi nước mắt của dân chúng để đúc ra. Khi chuông đó gióng lên thì tiếng kêu thê thiết của nó từ ngự uyển vang vọng ra những rừng cây. Vì chất chứa biết bao lời nguyền rủa và nước mắt của đám cùng dân, nạn nhân của chế độ hà khắc, nên nó mới vang ra những âm thanh khủng khiếp như vậy.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 336

*

Linh Công [9] bước ra bao lơn Linh Đài, nhìn giang sơn đang nằm trải dài trước mắt. Ông đã cho đặt trên đài những tấm bình phong bằng đá vân mẫu và những chiếc trường kỷ cẩn đầy mã não. Bên cạnh là phu nhân Nam Tử trong tấm áo dài xanh với những vạt áo sắc cầu vồng buông lơi như đang phủ lên người một áng mây. Cả hai cùng nâng chén quỳnh sực nức hương thơm để mời nhau và nhìn xuống cảnh núi rừng đồng ruộng đang đắm mình trong lớp sương xuân.

- Trong khi cả trời lẫn đất đang trôi trong một dòng suối chan hòa ánh sáng diễm lệ như thế này, cớ sao nơi nhà dân chúng, ta không nhìn thấy một cành hoa đẹp, không nghe một tiếng chim hót véo von, nghĩa là thế nào?

Vừa nói, Linh Công vừa chau mày lấy làm quái lạ. Đang đứng hầu bên cạnh, viên hoạn quan Ung Cừ [10] mới tâu rằng:

- Thưa, nhân vì người trong nước quá đỗi cảm kích lòng nhân đức của đại vương và mến mộ dung nghi quốc mẫu nên hễ có hoa đẹp đều dâng lên để tô điểm tường giậu trong vườn ngự. Do đó chim chóc cả nước, không sót một con, vì bị hương hoa của ngự viên quyến rũ, đều tụ tập chung quanh nơi ấy rồi ạ!

Viên hoạn quan vừa dứt lời thì bỗng nghe tiếng chuông xe của Khổng Tử đang đi qua dưới Linh Đài kêu rộn ràng, phá tan cảnh tịch mịch thê lương của đường phố. Tướng quân Vương Tôn Giá [11] cũng đang tháp tùng Linh Công, mở to mắt nhìn ra dáng kinh ngạc :

- Kẻ đang rong xe dưới đường kia là ai vậy nhỉ? Ông ta có cái trán của vua Nghiêu, cặp mắt của vua Thuấn, cổ chẳng khác Cao Dao, vai sánh được Tử Sản. Từ lưng trở xuống phía dưới, so với vua Vũ [12], chắc chỉ kém mỗi ba tấc.

Nghe nói, phu nhân Nam Tử vừa trỏ tay chỉ đoàn xe và người, quay lại hỏi họ Vương :

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 337

- Nhưng sao mặt gã đàn ông đó lại rầu rĩ quá thể! Này tướng quân, khanh là người hiểu rộng biết nhiều, hãy nói cho ta hay hắn từ đâu đến vậy?

Vương Tôn Giá giải thích :

- Thần khi trẻ đi lại các nước thì nghiệm thấy rằng ngoài Lão Đam [13], viên sử quan tùng sự ở triều đình nhà Chu, chưa ai có tướng mạo khôi vĩ như con người này. Đấy ắt là thánh nhân họ Khổng nước Lỗ vì không thực hiện được hoài bảo chính trị ở quê hương nên ra nước ngoài truyền bá đạo học của mình. Khi ông ta sinh ra, nghe nói ở nước Lỗ kỳ lân xuất hiện, từ trời cao vọng xuống tiếng nhạc khoan thai và có cả tiên nữ giáng trần. Môi ông ta như môi trâu, bàn tay như tay hổ, lưng như lưng rùa, thân dài chín thước tám tấc, nghi biểu chẳng khác Văn Vương. Người vừa đi qua là ông ta chứ chẳng ai khác.

Linh Công uống cạn chén rượu đang cầm trên tay, hỏi :

- Thánh nhân Khổng Tử dạy điều chi cho người ta vậy?

Vương tướng quân thưa thêm :

- Người được gọi là thánh nhân trong tay nắm được tất cả đầu mối của mọi tri thức. Thế nhưng trường hợp Khổng Tử, ông chỉ chú trọng việc đi đến các nước truyền bá cho bậc quân vương đường lối chính trị để tề gia, phú quốc, bình thiên hạ.

- Ta tìm sắc đẹp khắp nơi trên đời, nay đã gặp Nam Tử. Lại thu thập tài sản châu báu trong thiên hạ xây cho được cung điện như thế này. Ta chỉ còn muốn dựng nghiệp bá để có quyền uy xứng đáng với tầm cỡ của phi tử và cung điện. Vậy ta muốn các ngươi làm cách nào vời cho được vị thánh nhân đó đến đây truyền cho ta cái thuật bình thiên hạ.

Vừa nói, Linh Công vừa đưa mắt qua phía bên kia bàn, nhìn đôi môi của phu nhân Nam Tử. Lý do là bình sinh những điều gì diễn tả được nỗi lòng của ông ta đều không phải do chính ông ta nghĩ ra mà thường là những lời nói phát ra từ bờ môi của nàng.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 338

- Thần thiếp cũng mong một lần được giáp mặt con người mà đời cho là phi phàm đó. Nếu gã đàn ông có khuôn mặt rầu rĩ kia quả là thánh nhân thì chắc hắn sẽ có nhiều điều ngỏ với thiếp lắm.

Phu nhân ngước mắt lên như người đang mơ mộng và lặng ngắm về phía xa xôi nơi đoàn xe vừa mất dạng.

*

Chợt khi đoàn người ngựa của Khổng Tử vừa đến trước Bắc Cung thì có một viên quan dáng dấp khôi ngô, đi theo là đám tùy tùng đông đảo, ra roi đánh một chiếc xe thắng bốn con ngựa nòi Khúc Sản [14] mà chiếc ghế bên phía hữu vẫn còn để trống, vừa đến nơi. Viên quan xuống xe, ân cần và cung kính vái chào:

- Kẻ hèn tên là Trọng Thúc Ngữ [15], vâng mệnh chúa công tôi đến đây để đón rước tiên sinh. Việc tiên sinh lần này lên đường truyền bá đạo học của ngài, tứ phương chư quốc không đâu là không biết. Hành trình xa xôi như thế chắc giờ đây mái xe xanh màu phỉ thúy của tiên sinh đã bạc cùng sương gió mà tiếng trục bánh cũng không còn êm ái bên tai nữa. Nguyện xin tiên sinh hãy đổi qua chiếc xe mới này và hạ cố đến cung điện của chúa công tôi để truyền cho người cái đạo an dân, trị nước của các bậc tiên vương. Để tiên sinh tẩy trần đã có nước nóng sôi sục và trong vắt như thủy tinh của ôn tuyền phía nam Tây Bồ, để tiên sinh đỡ khô cổ đã có các thức hoa quả cam, chanh, quất thơm tho ngọt ngào trong vườn thượng uyển, để đầu lưỡi tiên sinh nếm được những vị ngon và bụng tiên sinh no đến thỏa thuê lăn ngay ra ngủ thì đã có lợn, gấu, báo, bò, dê được vỗ cho béo sẵn trong chuồng trại của hoàng cung. Xin tiên sinh dừng bánh xe ghé lại tệ quốc, dù một, hai, ba tháng hay một năm, mười năm cũng được, để xua hết sự ngu tối mù mịt, cho chúng tôi được sáng mắt sáng lòng.

Khổng Tử bèn trả lời:

- Cái mà ta mong mỏi không phải là cung điện tráng lệ của bậc vương giả mà là lòng thành kính muốn học đạo tam vương [16] của người ấy

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 339

thôi. Việc đó thì nước có vạn cỗ xe nhưng nếu vua như Kiệt,Trụ thì vẫn chưa gọi là xứng đáng, còn cho dù đất chỉ rộng trăm dặm mà muốn thực hành chính trị của Nghiêu Thuấn thì không thể nói là chỗ chật hẹp được. Nếu Linh Công muốn trừ những mối họa trong thiên hạ và có chí mưu đồ hạnh phúc cho bách tính thì ta xin ở lại đất này cho đến lúc nhắm mắt vùi xương.

*

Thế rồi, chẳng bao lâu sau, Khổng Tử và đám đệ tử được đưa vào bên sâu trong cung điện. Những đôi hài sơn đen của họ khua vang trên nền đá mài sạch bóng không gợn hạt bụi. Họ đi qua một cơ xưởng, nơi tiếng thoi cữi kêu tanh tách và có những nàng nữ quan vừa dệt gấm vừa cùng cao giọng hát [17]:

Bàn tay mềm mại chúng em, Hối hả may áo kịp đem cho người.

Từ dưới bóng những cành đào trong rừng đang độ ra hoa trắng như bông, có tiếng nghé ngọ lười lĩnh của những con bò đang được thả nuôi trong trại.

Vệ Linh Công nghe theo lời khuyên can của Trọng Thúc Ngữ, trước tiên ra lệnh cho phu nhân Nam Tử và đám cung tần lui ra, tẩy sạch môi miệng cho hết hương vị hoan lạc của rượu ngon, sửa soạn áo xống chỉnh tề tiếp kiến Khổng Tử ở một gian phòng trong cung điện. Linh Công đem thuật phú quốc, cường binh [18] và đạo bá vương ra hỏi Khổng Tử.

Thế nhưng đứng trước những câu hỏi liên quan đến việc đấu tranh làm tổn hai nhân mạng và tàn phá đất nước người khác, vị thánh nhân nhất nhất không trả lời. Ngoài ra, người cũng không dạy điều gì nhằm vắt kiệt sức lực hay chiếm đoạt tài sản của nhân dân. Như thế, người không bàn về chính tri, kinh tế hay kỹ nghệ mà chỉ trang nghiêm luận thuyết về đạo đức, coi nó là điều quan trọng nhất [19]. Người phân biệt rõ ràng giữa bá đạo nghĩa là đường lối đem sức mạnh bắt mọi nước phải phục tùng và vương đạo tức dùng nhân nghĩa để giáo hóa.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 340

- Nếu chúa công muốn thi hành vương đạo, trước tiên cần phải khắc phục mọi dục vọng cá nhân cái đã!

Lời răn dạy của vị thánh nhân là như thế.

*

Kể từ ngày hôm đó, cái làm xiêu lòng Linh Công không phải là lời nói của phu nhân Nam Tử nữa mà là giáo huấn của vị thánh nhân. Buổi sáng ra nơi miếu đường thì nhà vua hỏi Khổng Tử về đạo trị nước đúng đắn, buổi chiều đến Linh Đài học Khổng Tử về cách vận hành của thiên văn theo thời tiết bốn mùa [20]. Ban đêm ông không hề ghé qua phòng khuê của phu nhân. Tiếng thoi đưa dệt gấm trong cơ xưởng im bặt, nó được thay bằng tiếng trương bật của dây cung, tiếng vó ngựa và tiếng tiêu thiều của đám quan nhân trẻ tuổi đang trau giồi lục nghệ [21].

Một hôm, nhà vua dậy sớm, một mình leo lên Linh Đài, đưa mắt ngắm nhìn quang cảnh đất nước, thấy khắp núi rừng đồng nội vang tiếng chim hót líu lo, chốn chốn nhà dân muôn hoa đua nở rực rỡ, lũ nông phu bước chân ra đồng, bận rộn canh tác mà vẫn không quên ca hát ngợi khen công đức của mình. Từ trong khóe mắt của Linh Công, những giọt nước mắt nóng trào ra vì cảm động.

Lúc đó, bất ngờ nghe tiếng ai vọng đến bên tai :

- Vì đâu chúa công lại khóc như thế này?

Một làn hương ngọt ngào mê mẩn tâm hồn phả vào mũi Linh Công. Đó là mùi thơm của những cánh đinh hương mà phu nhân thường ngậm trong miệng hòa lẫn với mùi các hương liệu và dầu hoa tường vi đến từ Tây Vực mà nàng vẫn ủ trong áo xống. Ma lực của làn hương toát ra từ thân thể người đẹp mà lâu nay ông bỏ quên giống như những cái móng tay nhọn hoắc tàn nhẫn cấu vào trái tim giờ đây trong sáng như ngọc của ông làm nó đau nhói.

- Ta xin nàng đừng đăm đăm nhìn vào mắt ta bằng cái nhìn mê hoặc. Chớ trói buộc lấy thân ta bằng đôi cánh tay mềm mại diễm kiều. Vị

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 341

thánh nhân đã dạy cho ta cách chiến thắng cái ác rồi nhưng ta chưa học được từ nơi người phương pháp đối phó với sự quyến rũ của mỹ nhân.

Linh Công nói xong, gạt phắt bàn tay người đẹp và ngoảnh mặt nhìn chỗ khác.

- Ôi chao, cái tên Khổng Khâu kia không biết tự lúc nào đã giật lấy chúa công khỏi vòng tay của thần thiếp. Đó cũng là điều dễ hiểu vì từ xưa thiếp chưa hề yêu chúa công. Nhưng ngược lại, chúa công thì không có tài phép gì để mà không yêu thiếp.

Khi nói như thế, đôi môi của Nam Tử run lên như có một cơn giận mãnh liệt đang bùng cháy. Phu nhân trước khi về làm dâu ở Vệ đã âm thầm dan díu với một chàng công tử nước Tống tên gọi Tống Triều [22]. Lý do làm phu nhân nổi giận, không phải vì tình yêu của chồng trở nên phai nhạt mà vì cảm thấy sức mạnh điều khiển trái tim đàn ông của mình đã yếu kém đi.

- Không phải ta không còn yêu ái khanh. Thế nhưng kể từ hôm nay, ta sẽ yêu khanh với tình yêu của người chồng đối với vợ mình. Cho đến gần đây, ta đã yêu khanh như một tên nô lệ phụng sự chủ nhân, giáo đồ tôn sùng thánh mẫu. Ta không làm gì khác hơn là dâng cả nước, cả dân, cả của cải, cả sinh mạng mình để mua lấy sự hài lòng của khanh. Ngày nay, nhờ vị thánh nhân dạy bảo, ta đã biết rằng hãy còn có những điều cao thượng đáng làm hơn những chuyện đó. Trong bao nhiêu lâu, cái đẹp nhục thể của khanh đối với ta là sức mạnh không gì vượt nỗi. Nhưng giờ đây tiếng nói âm vang từ con tim của thánh nhân mới là cái đem đến cho ta sức mạnh còn cao xa hơn sức mạnh nhục thể của khanh nữa.

Theo đà cái lời phát biểu đầy quyết tâm và can đảm này, đầu của Linh Công dường như ngẩng cao hơn, vai của ông vươn hẳn lên, mắt ông dám nhìn thẳng vào khuôn mặt đầy phẫn nộ của phu nhân.

- Chúa công nhất định không phải là kẻ đủ cương quyết để có thể ăn nói chống báng thần thiếp. Đâu. Ngài đáng thương thật! Ở đời, không ai đáng thương cho bằng người thiếu ý chí. Tuy nhiên, thiếp có thể cướp

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 342

lại chúa công từ bàn tay của Khổng Khâu ngay từ bây giờ. Miệng lưỡi chúa công thốt ra được những lời lẽ cao đẹp thực đấy nhưng khi nhìn thiếp, cớ sao mắt ngài lại lộ vẻ si mê đến thế? Thiếp có đủ phù phép để chiếm đoạt linh hồn đàn ông và sẽ ra tay đưa cái gã đàn ông gọi là thánh nhân Khổng Khâu đó vào tròng cho chúa công xem.

Phu nhân nhếch môi cười ngạo nghễ, mắt liếc xéo Linh Công rồi áo xiêm sột soạt, xẳng xớm quay xuống Linh Đài. Kể từ ngày đó, con tim vừa mới tìm được sự bình tĩnh của Linh Công đã bắt đầu cảm thấy sự xâu xé giữa hai thế lực xung khắc.

*

- Chư quân tử bốn phương khi đến Vệ, ai nấy đều tìm đủ mọi cách van xin để được thiếp tiếp kiến một lần. Vị thánh nhân kia là người trọng lễ, cớ sao không thấy bóng dáng ông ta đâu cả vậy?

Khi được viên hoạn quan Ung Cừ truyền chỉ của phu nhân, vị thánh nhân khiêm tốn kia không thể cưỡng lời [23].

Khổng Tử cùng một đoàn đệ tử đến hầu ở cung điện nàng Nam Tử, họ quay sang hướng bắc khấu đầu một cách trọng thể. Từ phía trong bức màn gấm của chiếc bệ nhìn về phía nam, chỉ thấy hé lộ đôi hài thêu [24] của phu nhân. Khi nàng khẽ cúi đầu trả lễ đoàn người, tiếng châu ngọc cài trên mái tóc, tiếng chuỗi hạt đeo cổ và vòng xuyến trên cườm tay chạm vào nhau nghe như tiếng nhạc.[25]

- Mọi người khi đến nước Vệ này, ai được nhìn mặt thiếp cũng đều ngạc nhiên tấm tắc : "Trán của phu nhân giống như Đát Kỷ, mắt của phu nhân là mắt Bao Tự". Nếu tiên sinh quả thực là bậc thánh nhân thì xin chỉ dạy cho thiếp biết, tự thời tam hoàng ngũ đế xa xưa đến nay, trên mặt đất này, có người nào dung mạo xinh đẹp hơn thiếp chăng?

Nói xong, phu nhân mới vén tấm màn để lộ một nụ cười tươi tắn rồi cho gọi cả bọn đến gần. Nàng đội mũ miện phượng hoàng, cài thoa hoàng kim, giắt lược đồi mồi, áo khoác màu cầu vồng óng ánh như vẩy cá, khuôn mặt vui vẻ rạng rỡ như lấp lánh muôn tia sáng mặt trời.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 343

- Thần chỉ tìm hiểu về những người đạo cao đức trọng chứ còn về những người có khuôn mặt đẹp thì thần không biết gì cả.

Nghe Khổng Tử trả lời như thế, Nam Tử lại hỏi tiếp :

- Thiếp đang thu thập những đồ lạ lùng, quí hiếm trên cõi đời này. Trong kho tàng của thiếp có cả vàng Đại Khúc lẫn ngọc Thùy Cức [26]. Trong vườn của thiếp còn có rùa Lũ Cú, hạc Côn Luân [27]. Thế nhưng thiếp chưa từng thấy kỳ lân, giống linh vật xuất hiện mỗi khi có bậc thánh nhân ra đời. Thiếp cũng chưa được nhìn bảy cái lỗ trên trái tim [28] mà một người đại hiền ắt phải có. Nếu tiên sinh thực sự là thánh nhân thì có thể nào cho thiếp được xem chỗ ấy hay không?

Đến đây, Khổng Tử bèn đổi sắc mặt, nghiêm nghị đáp :

- Thần không biết gì về những vật quí hiếm, lạ lùng. Sở học của thần là điều mà đàn ông đàn bà nhà quê nhà mùa ai cũng học được, và đó cũng là những điều không biết là không được.

Phu nhân nghe xong, hạ giọng :

- Đàn ông hễ nhìn mặt thiếp, nghe tiếng thiếp nói thì dẫu mày đang chau cũng thư giản, mặt có tối sầm cũng sáng sủa ra. Cớ sao mỗi tiên sinh lúc nào cũng vẫn giữ vẻ buồn bã ủ dột? Thiếp thấy khuôn mặt nào buồn đều khó coi cả. Khi còn ở nước Tống, thiếp có biết một gã trai trẻ tên gọi Tống Triều. Anh chàng này không có vầng trán cao sang như tiên sinh nhưng thay vào đó, đôi mắt anh ta trong sáng đẹp đẽ như trời xuân. Còn như Ung Cừ, hoạn quan hầu hạ bên mình thiếp đây, tuy hắn ta không có cái giọng oai nghiêm của tiên sinh nhưng tiếng nói của hắn lại thanh tao như tiếng chim xuân. Nếu tiên sinh thực sự là bậc thánh nhân thì phải có khuôn mặt xinh đẹp phù hợp với một tâm hồn phong phú chứ. Bây giờ, thiếp xin vì tiên sinh mà xóa đám mây u ẩn và gạt đi những điều phiền não đang ám ảnh tiên sinh.

Thế rồi quay lại đám cận vệ tả hữu, phu nhân bảo họ đem đến một cái hộp.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 344

- Thiếp có nhiều loại hương thơm. Khi trong lòng phiền muộn, chỉ cần ngửi làn hương này sẽ cảm thấy như bước vào trong một thế giới huyền ảo tuyệt vời.

Theo lời nàng ra lệnh, bảy thị nữ đầu đội kim quan, lưng thắt thắt lưng liên hoa, nâng bảy lò hương, đến đặt chung quanh chỗ vị thánh nhân ngồi.

Lúc đó, phu nhân bèn mở hộp hương ra, lần lượt lấy từng loại hương một ném vào trong các lò hương. Bảy làn khói đậm lặng lẽ vươn lên khỏi bức màn gấm. Những làn khói vàng và tím lẫn vào khói trắng của gỗ bạch đàn như quyện lại với nhau biết bao nhiêu giấc mộng dị thường đã mấy trăm năm chìm dưới đáy Nam Hải. Hương thơm của mười hai loại uất kim hương [29] ngưng đọng tất cả tinh anh của loài cỏ thơm đã được nuôi dưỡng bằng những đợt sương xuân. Có cả thứ long diên hương cô lại từ nước dãi ứa từ miệng rồng trấn giữ đầm sâu ở Đại Thạch Khẩu [30] cũng như trầm hương chế ra từ nhựa của rễ cây quí hiếm chỉ có ở đất Giao Châu. Chúng nó có sức lôi cuốn lòng người, đưa họ vào một thế giới mộng tưởng xa xôi, ngọt ngào. Dù vậy, nó chỉ làm cho khuôn mặt của bậc thánh nhân đăm chiêu như đang ẩn giữa lớp mây mù.

Phu nhân vẫn tươi cười bảo:

- Này, khuôn mặt của tiên sinh đã bắt đầu sáng sủa hơn một chút rồi đấy. Thiếp có rất nhiều thứ rượu ngon, chén quí. Nếu hương thơm đã đem đến cho cõi lòng cay đắng của tiên sinh phần nào sự ngọt ngào thì vài giọt rượu sẽ làm cho thân thể tôn nghiêm cứng nhắc của tiên sinh được thư giản khoan khoái.

Nghe nàng ra lệnh, bảy thị nữ đầu đội mũ ngân quan, thắt lưng bồ đào lại cung kính đem đủ loại rượu quí và chén quí đặt lên bàn.

Phu nhân rót từng thứ rượu vào những cái chén, mời mọi người một lượt. Những giọt rượu này có ma lực giúp người ta đâm ra khinh miệt mọi thứ đạo đức để chỉ chuyên chú vào những gì tượng trưng cho sắc đẹp. Có thứ rượu rót trong chén ngọc quỳnh, trong suốt đến nổi có thể

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 345

nhìn thấy xuyên qua đó những tia sáng màu xanh, không hương vị trần gian nào sánh kịp. Nó giống như một thứ nước cam lồ đem đến cho người uống niềm hoan lạc trên thượng giới. Lại có thứ chén màu lam ngọc, mỏng như tờ giấy, có thể tự nó hâm được rượu cho nóng. Khi rót rượu lạnh vào, chỉ cần đợi một chốc thôi, nó sẽ phát nhiệt sôi lên và thiêu đốt được mối sầu trong gan ruột con người. Còn loại chén gọi là hà ngư đầu có hình thù đầu con tôm sống ở vùng Nam Hải đang nổi giận nên chùm râu đỏ đâm ra vài tấc. Chén được cẩn bằng những hạt vàng và ngọc, trông tựa như bọt sóng. Thế nhưng chừng ấy thứ chỉ làm cho vị thánh nhân chau mày ủ ê thêm mà thôi.

Nụ cười của phu nhân lại càng thêm tươi :

- Kìa, khuôn mặt của tiên sinh tỏa sáng hơn hồi nãy rồi đấy! Thiếp có rất nhiều thứ thịt chim và muông thú. Người đã được khói hương xóa sạch những phiền não trong hồn và được sức mạnh của rượu làm cho khớp xương thớ thịt thư giản, cần phải nếm những món ăn đậm đà đầu lưỡi nữa chứ.

Phu nhân vừa dứt lời đã có bảy thị tì đội mão trân châu, thắt lưng thái canh [31] đến đặt trên bàn đủ các loại thịt chim và thú lạ. Nàng tiếp tục mời cả đoàn dùng hết món này đến món khác. Nào là bào thai huyền báo, nào phượng non Đan Huyệt [32], có cả thịt rồng khô núi Côn Luân lẫn bàn chân con tượng. Chỉ cần cho vào miệng một miếng thịt ngon ngọt như thế này, người ta lúc đó sẽ không đếm xỉa, phân biệt thiện ác gì nữa. Thế nhưng khuôn mặt của vị thánh nhân vẫn đượm buồn.

Lần thứ ba, phu nhân lại cất tiếng cười dòn :

- Ôi chao, gương mặt tiên sinh giờ đây càng thêm tươi tắn và tôn quí. Người nào sau khi ngửi được làn hương huyền diệu, nhấm nháp vị cay ngây ngất của rượu ngon, ăn được miệng thịt bổ béo ấy rồi thì có thể bước vào một thế giới thần tiên huyền ảo vừa vừa dữ dội vừa kích thích vừa đã mắt mà kẻ phàm tục hằng mong được thấy để thoát khỏi những lo âu và sầu muộn của thế gian này. Bây giờ thiếp xin được phép trình bày truớc mắt tiên sinh cái thế giới ấy.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 346

Nói xong, quay lại một hoạn quan hầu cận, nàng đưa ngón tay trỏ vào bức màn gấm xếp nếp và buông dài đang phủ kín một góc tường, truyền lệnh cho tả hữu kéo nó giạt ra hai bên.

Bên kia bức màn là những bậc thang dẫn xuống khu vườn trước mặt. Dưới bậc thang và trên mặt đất trãi lớp cỏ xanh thơm mới nhú mầm, ánh sáng của một ngày xuân ấm áp chiếu dọi lên một nhóm người, không biết là bao nhiêu, tay chân bị trói và nằm chồng chất lên nhau. Người thì ngẫng mặt lên trời, người quị gối dưới đất, kẻ trông như đang chồm lên, kẻ khác lại như thể muốn đấu đá. Từ trong đám người đủ hình đủ dạng này văng vẳng những âm thanh lạ lùng như tiếng khóc than, lúc thì kêu gào, lúc thì rên rĩ, nghe thật khủng khiếp. Có người thì thân thể nhuộm đỏ chót trông giống một đóa mẫu đơn đang nở rực rỡ, có người thì run rẫy xác xơ như con bồ câu bị thương. Bọn họ là đám tội nhân đang chịu những cực hình, phần vì lý do là pháp luật của nước này vốn rất nghiêm khắc, phần để làm trò quí phi xem chơi cho thích mắt. Không có lấy một người được mảnh vải che thân, không một ai da thịt lành lặn. Trong bọn họ, có một gã đàn ông chỉ vì không ngớt lời phê phán sự độc ác của phu nhân nên mặt mày đã bị cột bào lạc [33] hủy hoại, lỗ tai bị xiên và cổ phải mang gông nặng. Lại có cả người con gái đẹp chỉ vì cái tội muốn được Linh Công yêu thương, đã chuốc lấy lòng ghen tương của phu nhân đến nỗi bị xẻo mũi, cắt gân chân và xiềng bằng xích sắt. Trước quang cảnh này, Nam Tử thần hồn như bay bỗng, nó làm cho khuôn mặt nàng có cái đẹp của nhà thơ và vẻ trầm tư của triết gia.

- Đôi khi thiếp vẫn tháp tùng xe chúa công ngự đi qua những đường phố trong thành. Nếu chúa công nổi hứng, tình tứ nhìn cô gái nào trong đám người qua lại thì thiếp sẽ ra lệnh vây bắt ngay và cho cô ta chịu cái số phận như thế này. Giờ đây thiếp cũng muốn tiên sinh đi cùng xe với Chúa Công và thiếp dạo chơi trong thành. Sau khi đã thấy cảnh tượng thiếp trừng trị lũ tội đồ kia rồi, chắc hẳn tiên sinh không có ý làm phật lòng thiếp chứ ạ?

Trong câu nói đó của phu nhân, có tiềm ẩn một ước muốn áp chế và hủy hoại mạnh mẽ. Ánh mắt vẫn dịu dàng trong khi miệng lại thốt ra những

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 347

lời đanh ác, chuyện đó xưa nay đối với phu nhân vẫn là điều bình thường.

Một ngày xuân nọ vào năm 493 trước Tây Lịch, trên đất Thương Khư [34] nằm giữa hai con sông Hoàng Hà và Ky Thủy, có hai cỗ xe thắng bốn ngựa dạo trên đường phố thành đô nước Vệ. Trên chiếc xe đầu tiên, dưới bóng tàn lọng do hai nữ quan cầm che hai bên, theo hầu chung quanh là đám đình thần và cung nhân, vua Linh Công nước Vệ, bên cạnh có thái giám Ung Cừ và phu nhân Nam Tử, người đàn bà có cái tâm địa của Đát Kỷ và Bao Tự, đang ngồi. Trên chiếc xe thứ hai [35] với một đoàn đệ tử đi đằng trước đằng sau là thánh nhân Khổng Tử, kẻ xuất thân xứ Tưu [36] quê mùa, lòng mang nặng hoài bảo chính trị vua Nghiêu vua Thuấn.

- Thôi rồi, nhìn đây đủ thấy là cái đức thánh nhân của ông ta không làm gì được trước sự bạo ngược của quí phi. Từ giờ trở đi, có lẽ những lời bà ta phán ra sẽ trở thành pháp luật của nước Vệ mà thôi.

- Ông thánh nhân tướng mạo rầu rĩ thật. Còn bà ta trông mới ngạo nghễ làm sao! Nhưng chưa bao giờ chúng ta thấy gương mặt phu nhân lại đẹp như hôm nay.

Đám thường dân tụ tập trong ngõ, mắt nhìn theo đoàn xe đi ngang qua, miệng bàn tán với nhau như vậy.

Tối hôm đó, phu nhân Nam Tử trang điểm đặc biệt lộng lẫy, nằm trên nệm gấm, chờ đợi đến tận khuya. Hình như ai đang gõ nhẹ cửa rồi có tiếng hài rón rén bước vào.

- Ôi chao, rốt cuộc chúa công đã trở lại với thần thiếp đấy à? Từ rày về sau và cho đến mãi mãi, thiếp sẽ không cho chúa công ra khỏi vòng tay của thiếp nữa đâu nhé!

Phu nhân mở rộng hai cánh tay, vươn ra nâng lấy tay áo dài của Linh Công. Đôi tay mềm mại, như bốc lửa vì men rượu, biến thành một sợi giây ràng buộc khó gỡ quanh thân thể Linh Công.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 348

- Ta thù ghét khanh. Khanh đúng là ác nữ. Khanh là con quỷ sống đã hủy hoại đời ta. Thế nhưng ta không sao có thể rứt bỏ được ái khanh.

Giữa khi Linh Công run rẩy nói, đôi mắt của phu nhân lấp lánh một niềm tự hào quái ác.

Sáng ngày hôm sau, thầy trò Khổng Tử một đoàn lại lên đường trực chỉ đất Tào để tiếp tục truyền bá đạo học [37].

Ngô vị kiến hiếu đức như hiếu sắc giả dã.

"Ta chưa từng thấy có ai yêu đạo đức bằng yêu sắc dục". Đó là câu nói cuối cùng của vị thánh nhân khi người giã từ nước Vệ. Lời ấy được chép trong Luận Ngữ, trước tác quí giá của người và vẫn còn lưu truyền mãi đến bây giờ.

(Dịch xong tại Tôkyô tối 25/06/2008)

  ______________

[1]- Văn Bản:

-Tanizaki Jun.ichirô, 1981,Kirin, trong Toàn Tập Tanizaki Jun.ichirô, quyển thứ 1, trang 75-90, Chuô Kôron, Tôkyô xuất bản, tái bản lần thứ nhất năm 1992. Nguyên tác Nhật ngữ.

-Pigeot, Jacqueline & Tschudin, Jean-Jacques, 1986, Kirin, dịch sang Pháp văn từ Kirin, đăng trong Tanizaki Oeuvres, Tome I, trang 13-26 (dịch), trang 1606-1618 ( bình chú), Gallimard xuất bản, 1997. Bản tham chiếu.

[2] - Nguyên văn: Phượng hề, phượng hề. Hà đức chi suy. Vãng giả bất khả gián. Lai giả do khả truy. Dĩ nhi, dĩ nhi. Kim chi tùng chính giả, một nhi.(Luận Ngữ). Tương truyền là bài hát của Tiếp Dư tức Sở Cuồng, một ẩn sĩ giả điên, với ngụ ý phê bình Khổng Tử (người cao cả như con chim phượng) khi họ gặp nhau khoảng năm 489 trước Tây Lịch, nhưng như

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 349

thế lại là sau chuyến đi sang nước Vệ của Không Tử, bối cảnh của truyện ngắn này.

[3] - Theo J.Pigeot và Tschudin, Khổng Tử đã từ Lỗ đến Vệ lần đầu tiên năm 497TCN tức là sớm hơn thời điểm trong truyện những 4 năm. Hai người cho rằng Tanizaki hoặc không coi trọng sự chính xác lịch sử cho lắm hoặc đã sai lầm vì vô ý.

[4] - Tương truyền vì mắc mưu ngoại bang đem tặng nữ nhạc nên Lỗ Định Công mãi vui chơi, chỉ làm lễ tế trời qua quít khiến cho Khổng Tử chán nãn, bỏ quan mà đi.

[5] - Tên sông, núi đều là địa danh nằm gần Khúc Phụ trong tỉnh Sơn Đông, quê hương của Khổng Tử.

[6] - Một đạo gia, truyện có chép trong sách Liệt Tử.

[7] - Một trong sáu nước lớn đời Xuân Thu, nay thuộc vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, xưa là đất phong của Khang Thúc, em trai Vũ Vương nhà Chu.

[8] - Vệ Tương Công là bố của Linh Công. Tuy con một người thiếp, Linh Công được cha chọn làm vua thay vào chỗ của trưởng nam.

[9] - Vua chư hầu, trị vì từ năm 534 đến 493 TCN. Nàng Nam Tử, vợ ông ta, xuất thân quí tộc nước Tống, nổi tiếng là con người phong hóa đồi bại, can dự nhiều đến triều chính và các việc phế lập sau khi Linh Công chết.

[10] - Nhân vật có thực, từng được nhắc đến trong Sử Ký của Tư Mã Thiên.

[11] - Danh tướng nước Vệ, đã cầm quân kháng cự và thắng quân Tần năm 502 TCN. Không Tử có nhắc đến ông hai lần trong Luận Ngữ.

[12] - Nghiêu, Thuấn, Vũ tức ba đế vương trong thần thoại, tượng trưng cho đạo đức và đại nghiệp. Cao Dao là quan hình pháp cứng rắn và liêm khiết của vua Thuấn, còn Tử Sản, người cùng thời, được Khổng Tử đặc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 350

biệt kính trọng. Tử Sản làm tể tướng nước Trịnh, có tài cải cách chính trị và ngoại giao, còn đặt ra bộ luật thành văn đầu tiên của Trung Quốc.

[13] - Một tên hiệu của Lão Tử, tương truyền trước kia có làm việc ở văn khố nhà Chu trong thành Lạc Dương.

[14] - Tức giống ngựa quí sinh sản ở đất Khúc, lúc đó thuộc về Tần, nằm ở phía bắc Hoàng Hà.

[15] - Nhân vật có thực, cố vấn cho Linh Công về nghi lễ. Được Khổng Tử khen ngợi như Vương Tôn Giá trong Luận Ngữ để giải thích cho học trò rằng nhờ có tôi hiền nên một ông vua bạo ngược như Vệ Linh Công có thể sống còn.

[16] - Ám chỉ các vua hiền thời cổ. Đồng nghĩa với từ "tam hoàng ngũ đế" , ba vua năm đế, nghĩa là thời đại hoàng kim trong lịch sử Trung Quốc.

[17] - Đây là một bài hát mà Tanizaki mượn từ Vệ Phong trong Kinh Thi. "Tham tham nữ thủ, Dĩ thường khả phùng" đại ý trách người chồng bắt người vợ mới cưới về phải làm việc quần quật mà không để ý tới công khó.

[18] - Chữ dùng trong Chiến Quốc Sách, phần nói về nước Tần, cũng là kế sách mà chính phủ Nhật thời Meiji hô hào.

[19] - Luận Ngữ thuật lại là Khổng Tử chỉ tập trung thuyết về nhân và lễ.

[20] - Chứng minh ảnh hưởng của thiên văn học và lịch số đến việc trị nước. Kinh Thư và Chu Lễ là những tác phẩm cơ bản của đạo Nho đều có đề cập đến vai trò quan trọng của thiên văn.

[21] - Sáu ngành học cần thiết cho bậc sĩ trở lên gồm lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số, đặt ra từ đời nhà Chu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 351

[22] - Theo Luận Ngữ và Sử Ký, Tống Triều là một người rất đẹp trai, vai anh em (ruột hay cùng cha khác mẹ) với Nam Tử cho nên còn có thể xem đây là một mối tình loạn luân nữa. Ông ta từng đến Vệ chơi năm 496 và có thể đã có mặt lúc Khổng Tử ở đó.

[23] - Việc Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử có chép lại trong Luận Ngữ. Cuộc viếng thăm này đã gây ra một sự bất mãn nơi một số đồ đệ.

[24] - Chắc cảnh khoe chân này là để dành cho Tanizaki, người nổi tiếng có khuynh hướng yêu thích bàn chân (foot-fetischism).

[25] - Để diễn tả cực ý của sự xa hoa, kể từ những dòng này, Tanizaki sẽ dùng nhiêu từ tu sức bằng Hán văn hiểm hóc. Ví dụ hoyô (bộ dao) khi nói đến đồ trang sức trên tóc hayyôraku (dao lạc) để chỉ đồ trang sức trên cổ và trên tay. Dịch giả buộc lòng phải dịch thoát.

[26] - Những vùng đất có tính truyền thuyết. Đại Khúc nổi tiếng vì vàng và kiếm có chất lượng tốt. Thùy Cức là một địa danh trong đất Tần, nơi sản xuất ngọc thạch. Có lẽ Tanizaki đã xuất điển từ các tác phẩm như Tả Truyện hoặc các sách Xuân Thu khác.

[27] - Lũ Cú không rõ ở đâu nhưng được biết như nơi nổi tiếng vì rùa. Riêng Côn Luân, còn đọc là Côn Lôn, là rặng núi có tính thần bí nằm ở Tân Cương, ngăn đồng bằng Tarim với Tây Tạng.

[28] - Ám chỉ trái tim quí hiếm có bảy lỗ của Tỉ Can, một người hiền, chú của vua Trụ, đã bị ông vua bạo ngược này sai mổ tim để làm thuốc cho ái cơ Đát Kỷ.

[29] - Có chép trong Lương thư, được xem như một loại hương thơm dùng để chế rượu lễ. Có nơi dịch là mùi thơm bột nghệ (safran des Indes) hay hương hoa vành khăn (tulipe). Thường xuất hiện trong thơ Đường (Lư gia thiếu phụ uất kim hương vv...)

[30] - Một địa danh ở tỉnh Sơn Tây, Hoa Bắc, xưa là nơi buôn bán giao thương với Mông Cổ.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 352

[31] - Các dịch giả người Pháp dịch là hoa tilleul (hoa cây đoạn)

[32] - Tên một ngọn núi miền Đông Bắc Trung Quốc, nơi xuất phát Đan Thủy, dòng sông đổ ra biển Bột Hải (Liêu Đông).

[33] - Hình phạt dã man của vua Trụ nhà Ân cho bôi dầu cho trơn cột đồng nung trên lò than và bắt người ta đi qua.

[34] - Nền cũ cố cung nhà Ân (Thương), nay thuộc An Dương (Hồ Nam).

[35] - Sử Ký Tư Mã Thiên có chép lại điều khuất nhục này. Chỗ còn lại trên xe thứ nhất đã dành cho một viên hoạn quan thay vì Khổng Tử, người được xem như bậc sư phó của nhà vua.

[36] - Tên quê quán Khổng Tử trong tỉnh Sơn Đông, cách sông Tứ 60 lý về hướng đông nam, nơi cha ông từng trấn nhậm.

[37] - Tào là một tiểu quốc nằm giữa Vệ và Tống, ở Sơn Đông. Thật ra, theo Sử Ký, Khổng Tử còn trở lại đất Vệ sau đó hai lần, lần đầu vào năm 494 TCN để gặp lại Linh Công nhưng vẫn không được dùng, và lần thứ hai vào năm 489 TCN để cố vấn cho người kế vị Linh Công.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 353

BÀN CHÂN FUMIKO(Fumiko no ashi, 1919)[1]

Nguyên tác: Tanizaki Jun.ichirô (1886-1965) Dịch: Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 354

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

 

Tanizaki Jun.ichirô (1886-1965)

Dẫn Nhập Của Người Dịch

Truyện ngắn dưới đây có thể gây sốc cho một số độc giả dù nội dung không có lấy một lời lẽ tục tằn. Khuynh hướng bái vật (fetischism) đặc biệt đối với bàn chân đàn bà (foot-fetischism) đã được nhắn đến trong Xâm Mình (Shisei, 1910), tác phẩm Tanizaki viết thời trẻ. Bàn Chân Fumiko (Fumiko no ashi, 1919) cũng miêu tả lệch lạc tính dục này trong bối cảnh xã hội Nhật Bản đầu thế kỷ trước. Chính vì đi ngược với văn học tải đạo thời Minh Trị, Tanizaki bị xem như một nhà văn ma giáo, bệnh hoạn, trụy lạc. Nhiều người đòi đốt tác phẩm của ông.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 355

Các nhà phê bình đã đặt giả thuyết về ảnh hưởng của quyển Bệnh Lý Tính Dục (Psychopathia Sexualis) - sách do Richard von Krafft-Ebing trước tác mà Tanizaki được đọc khoảng năm 1908 - đối với truyện ngắn này. Cũng cần nhắc thêm là từ 1905, Sigmund Freud đã bàn về khuynh hướng bái vật trong trứ tác kinh điển bằng tiếng Đức của mình, Ba Tiểu Luận Về Lý Thuyết Tính Dục. Người thầy thuốc thành Wien còn khai triển đề tài nói trên trong những công trình nghiên cứu khác vào khoảng năm 1927. Phải chăng khuynh hướng bái vật về bàn chân đã bắt nguồn từ tình yêu bị ức chế của đứa con đối với mẹ mình như các nhà tâm lý học theo trường phái này cố gắng giải thích?

Đặc điểm của Tanizaki trong Bàn Chân Fumiko là ông chỉ chuyên chú vào khía cạnh nghệ thuật của hiện tượng tâm lý bái vật và mỹ hóa nó một cách tài hoa, trang nhã. Không phải vì đưa những đề tài cấm kỵ lên mặt giấy mà ông trở thành một nhà văn lớn. Không có nó, ông cũng đã vĩ đại rồi.

Đâu là lý do khiến Tanizaki có khuynh hướng phơi bày những mảng tối trong tâm hồn con người? Ông muốn tìm về thiên đường ấu thơ đã mất bên bà mẹ yêu dấu, người từng đánh thức những cảm xúc phái tính đầu đời của mình? Ông cố ý nói lên sự cô đơn của con người khi ngoại giới bao la chỉ còn ngưng đọng trong một vật thể cỏn con? Hay là ông muốn mượn sự trụy lạc làm nơi ẩn náu để đề kháng xã hội ngụy thiện và công thức đương thời?

Trước khi những lệch lạc tính dục kể cả khuynh hướng bái vật được trình bày trong văn chương Âu Châu thời trung cổ và cận đại mà Marquis de Sade (1740-1814) là một tác giả tiên phong tên tuổi, sách vở Á châu đã từng nhắc tới Nam Đường Hậu Chủ, Tây Môn Khánh...các nhân vật đặc biệt sùng bái bàn chân người đẹp. Trong văn chương Trung Quốc và Việt Nam, không thiếu gì những cách diễn đạt văn học ca ngợi bàn chân như "bộ bộ sinh liên hoa", "tam thốn kim liên", "sen vàng lửng thửng", "khói biếc hài thương nữ"...

Nhân vì tính dục cũng còn là một vấn đề nóng bỏng của thời đại chúng ta và là trọng tâm khám phá của các nhà văn trẻ, việc phủi lớp bụi thời

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 356

gian thử đọc lại Bàn Chân Fumiko, ra đời cách đây gần một thế kỷ để thưởng thức lối hành văn kể chuyện lôi cuốn và sức tưởng tượng phong phú của Tanizaki, tự nó chắc cũng có một ý nghĩa nào đó.

*

Vào Truyện

Thưa thầy,

Mong thầy tha tội đường đột của một anh học trò mặt trắng như em, chưa từng hân hạnh gặp thầy một lần mà đã dám cầm bút viết thư. Dẫu biết bận trăm công ngàn việc nhưng xin thầy hãy bỏ chút thời giờ quí báu để đọc từ đầu đến cuối câu chuyện sắp kể ra đây. Em mạn phép thưa trước điều đó.

Có thể thầy nghĩ rằng khi mở miệng nói như vậy, em tỏ ra hợm hĩnh, nhưng thật tình trong tận đáy lòng, em vẫn nghĩ rằng câu chuyện em định kể ra, đối với thầy, không thể nào hoàn toàn vô vị. Nhược bằng thầy cho là nó có đôi chút giá trị tư liệu để khơi nguồn cảm hứng cho một tác phẩm mai sau của mình thì em cũng không thấy có gì cản trở. Ngược lại, việc đó còn làm em vô cùng vinh hạnh. Thú thật với thầy, vì em hằng mong sao cho câu chuyện này được thầy dựng thành tiểu thuyết nên mới viết lá thư này để bày tỏ lòng kỳ vọng của em. Ngoài thầy, nhà văn xưa nay em hết sức ngưỡng mộ, có lẽ không một ai hiểu được tâm lý vô cùng đau khổ và kỳ lạ của nhân vật chính trong câu chuyện. Người duy nhất có thể rủ lòng thương cảm đối với nhân vật đó chỉ là thầy chứ không ai khác.....YÙ nghĩ này là động cơ đầu tiên thôi thúc em viết thư cho thầy, thế nhưng, chỉ cần thầy chấp nhận nghe em kể chuyện, em cũng đã mười phần mãn nguyện chứ đừng nói chi việc thầy nghe lời thỉnh cầu của em mà sử dụng nó như tư liệu viết văn.

Có thể sự thôi thúc của em sẽ gây bực bội, làm thầy không vui, nhưng chỉ cần thầy chịu nghe em mà đặt bút viết về nó thì, em trộm nghĩ, người đóng vai chính trong câu chuyện này nhất định sẽ hết sức hài lòng. Dù

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 357

sao đi nữa, dưới con mắt của một người mà em đánh giá là có sức tưởng tượng dồi dào, giàu kinh nghiệm sống như thầy, em không tin rằng những tình tiết trong câu chuyện lại chẳng đáng cho thầy đảo mắt qua một lần. Em là một thanh niên không rành viết lách nên khó trình bày câu chuyện khéo léo hơn người khác, nhưng xin thưa một lần nữa, dám mong thầy chịu khó để ý đọc nó cho đến hàng chữ cuối.

Nhân vật chính của câu chuyện giờ đây đã qua đời. Ông ta tên Tsukakoshi, thuộc một gia đình sống bằng nghề cầm đồ có cửa hiệu ở xóm Muramatsu trong khu Nihonbashi tự đời Edo. Ông Tsukakoshi mà em đang nói tới, nếu tính từ tổ tiên trở xuống là đời thứ mười. Ông ta mới vừa chết cách đây có hai tháng, vào ngày 18 tháng 2 năm nay, ở cái tuổi 63. Thật ra, sau khi bệnh tiểu đường mà ông mắc phải từ hồi 40 tuổi và có thời làm cho ông béo núc nác như một tay đô vật, khoảng năm sáu năm trở lại, đã đi kèm với chứng lao phổi, khiến cho ông lần lần gầy rạc, một hai năm trước khi chết người chỉ còn hơn mỗi que tăm. Đến khi dọn về nhà nghỉ mát ở Shichiri-ga-hama gần Kamakura được một thời gian, chứng lao phổi dần dần trở nặng, vượt cả bệnh tiểu đường và kết liễu đời ông. Thời xuống dưới Kamakura ở, ông coi như đã về nghỉ hưu, nhường cửa tiệm cầm đồ cho anh con nuôi ở rể là Kakujirô cai quản. Do đó, người trong nhà vẫn gọi là ông là "cụ hưu" thế này, "cụ hưu" thế nọ. Em cũng bắt chước họ mà gọi ông ta bằng cái tên đó. Mối giây liên lạc giữa "cụ hưu" và gia đình nhà gốc trên Tôkyô vô cùng xấu, cho nên từ lúc người bệnh hấp hối cho đến phút lâm chung, bên giường chỉ có mỗi một mình Hatsuko, con gái độc nhất của "cụ hưu" và cũng là vợ của anh con nuôi ở rể tên Kakujiirô. Gia đình Tsukakoshi vốn là nhà cố cựu đất Edo, nội thành phố Tôkyô thôi ít nhất phải có năm sáu cửa hiệu lớn của bà con thân thích trong họ. Thế mà trong thời gian cụ ta nằm bệnh, ít có khi nào thấy ai xuống thăm, còn tang lễ cũng chỉ được cử hành cực kỳ đơn giản và trong sự buồn thảm.

Chính vì lý do đó, những người biết rành mạch tình cảnh lúc trước và sau khi ông cụ sắp mất chỉ có bà sai vặt tên gọi O-Sada, lúc đó được cắt tới chăm nom bên giường và Fumiko [2], cô hầu non của cụ. Tính thêm cả em nữa, vỏn vẹn cũng chỉ có ba người. Đến đây, xin thầy cho phép

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 358

cắt ngang câu chuyện một chút để nói về sự liên hệ giữa ông cụ và em cũng như cảnh ngộ cá nhân em. Năm nay em vừa mới 25 tuổi, sinh viên trường mỹ thuật, quê ở quận Akumi thuộc tỉnh Yamagata. Vì gia đình em và gia đình Tsukakoshi có liên hệ họ hàng xa cho nên ngày em cất bước lên Tôkyô, vì không chỗ nương tựa, vừa đặt chân tới ga Ueno, là em đã bọc bức thư gửi gắm của ba em trong người, tìm ngay đến tiệm cầm đồ của cụ trong khu Muramatsu. Lúc đó cụ hưu vẫn còn coi sóc cửa hàng nên rốt cuộc cụ trở thành người chăm sóc cho em mọi thứ. Cũng vì lý do đó nên về sau, em thường ghé qua xóm Muramatsu mỗi năm vài ba lần thăm cụ. Thế nhưng sự giao hảo của cụ và em có được sự thân mật đặc biệt vượt qua giới hạn một liên hệ ơn nghĩa là điều mới bắt đầu cách đây không lâu......khoảng từ một năm hay nửa năm thôi. Em chỉ muốn thầy hiểu cho rằng ngoài nhân vật đóng vai chính, ông cụ về hưu, còn có một nhân vật nữ không kém phần quan trọng là Fumiko, cô hầu non vừa mới nói, và sau nữa là bản thân em, cả ba đều liên hệ sâu xa với nội dung câu chuyện. Nhất là em không hề đóng vai một kẻ đứng bên lề. Để rồi thầy sẽ thấy, có lẽ em còn giữ một vai tuồng trọng yếu trong đó nữa. Hơn thế, trong khi phân tích tâm lý ông cụ, có thể cùng lúc em cũng đang mổ xẻ chính tâm lý của mình.

*

Lý do nào làm ông cụ và em trở thành thân thiết à? Nói đúng ra, phải hỏi đâu là duyên do khiến em bắt đầu tiến đến gần cụ cơ! Chuyện nên được mào đầu bằng câu trả lời cho thắc mắc này. Một đứa con trai sinh trưởng nơi quê mùa hẻo lánh trên Yamagata như em và một người sinh ra trong gia đình cố cựu một khu phố làm ăn buôn bán đất kẻ chợ Edo như cụ, phải nói là hoàn toàn không có điểm chung nào, từ tính nết, học vấn cho đến phong cách. Em là cậu học trò trẻ tuổi nhà quê lên tỉnh, vì ngưỡng mộ văn chương mỹ thuật Âu Tây nên chỉ sống với ước mơ mình sẽ trở thành một họa sĩ hội họa Tây phương. Cụ hưu ngược lại, không những là dân Edo mà còn là dân Edo chính cống, sống theo truyền thống và tập quán sót lại từ thời mạc phủ Tokugawa. Em xin thưa là nơi cụ có một chút gì hơi điệu hạnh, cho mình sành sỏi, thái độ thường gặp nơi mấy người già ở khu phố buôn bán trong thành. Ai có thấy cũng phải nhìn

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 359

nhận cụ và em là hai mẫu người hoàn toàn khác biệt, lời ăn tiếng nói không thể nào hợp nhau. Sở dĩ hai bên trở thành thân thiết là vì em đã tìm đến với cụ. Về phía cụ hưu thì bị người trong gia đình lẫn thân quyến ghét bỏ xa lánh, cho nên khi được em đôi lúc đến thăm, tuy em chỉ là bà con xa nhưng bao giờ cũng biết kính cẩn một điều thưa, hai điều bẩm, không lẽ cụ lại không mừng rỡ. Đặc biệt lúc sắp mất, ngoài người thiếp Fumiko thì không nói, hễ em mà không đến nhà thương thăm viếng mỗi ngày là cụ giận. Tuy vậy, nếu từ phía em không đi bước đầu để tiếp cận, chắc cụ sẽ không thể nào trở nên thân tình như thế. Những ai không rõ chuyện cứ tưởng rằng em vì cám cảnh cụ bị bà con họ hàng bỏ rơi, sinh lòng tội nghiệp nên hay lui tới thăm nom. Người nào có lòng tốt giải thích như vậy, em xin hết sức cảm ơn nhưng nói kiểu đó chỉ tổ làm em phải thẹn đỏ mặt. Động cơ khiến em đến gần với cụ không hề cao cả như vậy. Nói trắng ra, cái cớ làm em đến gặp cụ hưu không phải là vì cụ mà vì Fumiko, người thiếp trẻ của cụ đấy! Dĩ nhiên không phải em tìm gặp nàng để thỏa mãn một ước muốn sâu kín gì, lại nữa, cho dầu ước muốn đó trồi lên, em cũng ý thức ngay rằng cái thân một thằng học trò nhà quê như mình thì dễ gì với tới người đó. Thế nhưng cứ mỗi lần hình bóng của Fumiko lướt qua trước mắt, em đã cảm thấy say sưa đến mức độ đứng ngồi không yên như cả mười ngày trời chưa được gặp nàng. Vì lý do đó mà em hết tìm cớ này đến kế nọ, có khi không có công chuyện gì cũng tìm cách dẫn xác tới nhà ông cụ.

*

Sở dĩ họ hàng ruồng rẫy cụ hưu cũng chỉ vì cụ đã bị cô Fumiko đó, một geisha xóm Yanashibashi quyến rũ, đến độ rước cô ấy về nhà. Chuyện xảy ra đúng vào khoảng tháng chạp cách đây hai năm, cụ hưu 60 tuổi, còn Fumiko hồi đầu năm vừa tròn 16, mới thành nghề. Chính ra hình như chuyện chơi bời phóng đãng của cụ cũng đã thành vấn đề từ trước nhưng người trong thân tộc nghĩ rằng từ thời trai trẻ cụ bay bướm rồi cho nên đến lúc đó, họ vẫn chưa rầy rà chi. Họ mong rằng đã đến cái tuổi lục tuần, mai mốt thế nào cụ chẳng phải ngừng. Em nghe người ta nói lại thì cụ đã lấy vợ hồi 20 tuổi, ba lần cải giá, đến năm 35 thì đã ly hôn với bà thứ ba. Kể từ đó cụ sống độc thân luôn (và Hatsuko, cô con

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 360

gái độc nhất là kết quả cuộc hôn nhân giữa cụ và người vợ đầu tiên). Việc cụ thay đổi vợ nhiều lần như thế, không thể chỉ giải thích bằng cái tính phóng đãng, mà còn phải đưa ra thêm một nguyên nhân bí mật, đó là tật xấu đời trong đời sống tình dục của cụ, điều mà mãi đến gần đây chẳng mấy ai ngờ vực. Không chỉ trước mặt vợ nhà, ngay đối với những cô đầu cụ mua, cụ luôn luôn tỏ ra tính khí thất thường. Lúc tưởng cụ đã gặp người hợp nhãn, chưa đầy tháng sau, đã thấy cụ chán ngấy cô ta và đuổi theo người đàn bà khác. Hơn nữa, cái hơi lạ ở nơi một người đàn ông gọi là trăng hoa như cụ, không bao giờ thấy có một người đàn bà nào tỏ ra say mê cụ cả. Chỉ có cụ tìm đến với họ trước và yêu thương họ nồng nhiệt. Phần các nàng, nếu có trao thân cũng vì muốn nhắm vào gia sản cụ thôi. Chưa thấy ai đem tình yêu chân thành để báo đáp tấm lòng của cụ. Cụ quả là dân kẻ chợ Edo thật sự, một người đàn ông đúng nghĩa, hết sức sành sỏi, làm người ta sẳn sàng bỏ qua cho thái độ huênh hoang. Đáng lý ra, không sớm thời muộn, phải có nàng nào đó gắn bó sâu đậm với cụ mới đúng, nhưng lạ lùng thay, bản thân cụ cứ bị các cô gái cho rơi hoặc lừa gạt. Thêm vào đó, như đã nói, cụ là người tính khí thất thường, dù có mê mệt ai trong một thời gian, bản thân cụ lại không đủ sức để tiến xa hơn với họ.

- Ngữ nhà ông ta, đánh chết cũng không chừa cái tính bê bối. Cứ cho ông ấy chạy theo các cô đi nhưng cuối cùng phải biết thân mà ăn ở với một người thôi chứ!....Có lẽ cưới hẳn một cô hầu thì may ra mới hết lông bông!

Đó là những câu mà đám người họ hàng nhà cụ vẫn bàn tán với nhau.

Ấy thế, cuối cùng, Fumiko lại là trường hợp ngoại lệ. Cụ hưu quen biết nàng vào dịp hè cách đây hai năm nhưng tình cảm từ ấy vẫn bỏng cháy chứ không hề nguội đi chút nào. Không những vậy, cùng với thời gian, cụ càng mê mệt nàng hơn mà thôi. Thế rồi, vào tháng 11 năm nay, khi cô ta chấm dứt thời gian học việc như một hangyoku và trở thành ippon[3]  được phép hành nghề geisha thì cụ nhà ta đã lo liệu cho cả mọi thứ chi tiêu, ngay trả lại món tiền thế chân cần thiết để một cô đầu được phép ra riêng. Rốt cuộc, không bằng lòng với bao nhiêu đó, cụ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 361

đã đem nàng về đặt trong cửa hàng ở phố Muramatsu như hầu chẳng ra hầu, vợ không ra vợ. Mặc dầu cụ hưu nhiệt tình đến mức đó nhưng giống như mọi lần, không có gì chứng tỏ Fumiko yêu thương cụ cả. Dễ hiểu thôi, hai bên chênh lệch nhau những bốn mươi tuổi, trừ phi ngu ngốc hoặc điên khùng, không ai đi yêu một ông già cỡ tuổi cụ. Nàng có ngoan ngoãn nghe lời cụ chăng nữa thì cũng vì nghĩ ông lão chẳng còn sống bao lâu và mắt nàng đã dán chặt vào mớ tài sản, chứ tuyệt không thể có lý do nào khác.

Lần đầu tiên em gặp được người đàn bà lạ lùng bí ẩn ấy trong căn nhà ở xóm Muramatsu là đúng đầu năm ngoái, vào dịp ghé qua chúc Tết cụ hưu. Em được đưa vào ngôi nhà đằng sau cửa tiệm cầm đồ, cách với tiệm bằng một cánh cửa lưới sắt. Cũng như mọi hôm, cụ hưu ở trong căn buồng sâu tận cuối nhà.

- Ối dào, cậu Uno đấy à! (Thực ra, tên em là Unokichi nhưng không biết ông cụ đã quen xén bớt mất phần sau từ hồi nào. Em có ác cảm với cách gọi này vì nó giống như người ta gọi người làm công). Nào, nào, vào đây chơi cái đã!

Coi bộ cụ đã uống nhiều rượu. Mặt đỏ ké tận mang tai. Đang ở trong nhà mà cụ quấn chăn len và rúc vào dưới bàn kotatsu [4] để tìm hơi ấm. Cụ chào đón như thế với cái giọng đon đả của người dân kẻ chợ đất Edo làm em liên tưởng đến mồm mép dẻo quẹo của mấy ông thầy kể chuyện tếu rakugo[5]. Chính lúc đó em mới nhận ra kẻ đang ngồi đối diện với cụ và cũng dựa vào cái kotatsu là một người đàn bà mình ngờ ngợ chưa hề được gặp. Khi em bước vào phòng khách thì người đàn bà đó đang chống cùi chỏ trên mặt bàn và hai đầu gối để lệch qua một bên, chỉ có khuôn mặt và phần trên thân mình quay về hướng em. Khi em nói "đầu" và "mình" xoay về phía em là bởi vì lúc đó hai phần đó như là biệt lập, mỗi phần trong đôi mắt em đều đem đến cái ấn tượng là nó có một vẻ đẹp riêng. Nói gọn hơn, lúc đó em không hề có cảm tưởng là chỉ có nguyên một "thân hình" đang xoay lại phía em mà thôi. Có thể tóm tắt là khuôn mặt sáng láng thanh tú và vóc người mảnh mai mềm mại lần lượt xô về phía em những cơn sóng nhỏ, hết đợt này tới đợt khác. Và sau khi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 362

truyền đến nơi này rồi, những làn sóng đó vẫn còn lay động dìu dặt trên những các cơ thể, ví dụ như đi từ chiếc cổ dài qua khe hở chiếc kimono có hoa văn để xuống đôi vai và lăn tăn đọng lại ở đấy. Tất cả như gieo một ấn tượng về vẻ đẹp mỹ miều và nhục cảm nơi người con gái. Một trong những nguyên nhân khiến em suy nghĩ như vậy có lẽ là ảnh hưởng của quần áo nàng mặc. Nếu đem so sánh với cách ăn mặc thời trang màu sắc chói chang bây giờ thì cách ăn mặc của nàng, kimono nhã nhặn với hoa văn tôzan[6] cổ hơi lớn và vạt lại quá dài, hầu như không còn đúng điệu nữa.

Cụ hưu cứ tỉnh như không, đưa mắt nhìn nàng và em một hồi rồi nói:

- Cậu Unokichi đấy. Bà con xa với tôi, hiện là sinh viên trường mỹ thuật. Ba cậu dưới quê có gửi gắm thành thử tôi cũng cố giúp cậu ấy đến đâu hay đến đấy...

Rồi cụ him híp mắt, nở một nụ cười hơi khó hiểu. Như thế, tuy đã làm tròn phận sự giới thiệu cô ta với em nhưng thật ra cụ không có câu nào giúp cho em biết người con gái ấy là ai.

- Em tên Fumi. Mời thầy ngồi chơi!

Người con gái như e thẹn, lúng búng mấy tiếng trong miệng rồi cúi đầu chào. Em cũng vui vẻ cúi đầu đáp lễ nhưng không khỏi có một tình cảm kỳ lạ như mình đang bị hồ ly tinh dụ dỗ.

- Người này ắt là cô hầu non của ông ta!

Em chắc mẫm trong bụng như thế và nhìn trộm nét mặt cụ hưu, dưới lỗ mũi đỏ hằn hai nếp nhăn to như khắc vào, đổ xuống cái miệng rộng toác mang cái tên dị dạng gamaguchi "hàm ếch" [7] vẫn không ghìm nổi một nụ cười gây khó chịu. Thế nhưng bên trong tiếng cười ấy, ta có thể suy đoán nó hàm chứa một khẳng định:

- Đúng như cậu đoán, cô này là người thiếp của tôi. Tôi mới đưa về đây chưa được bao lâu!

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 363

Không những thế, em nhận ra ngay cô là người rất đỗi được cụ hưu yêu dấu.

Chẳng hiểu đâu là nguyên do chứ khó lòng nói cô là một người hoa nhường nguyệt thẹn. Sở dĩ ông cụ yêu, phải chăng vì cô có ở đâu đó trên khuôn mặt và trong vóc dáng những nét phù hợp với mỹ cảm của người dân kẻ chợ như cụ thôi. Nghĩ đến đấy, em mới suy ra cái nụ cười của ông cụ như có nghĩa là: "Sao, cậu thấy tôi đào ra được một em ngon lành chưa!". Em cảm thấy trong thái độ của cụ ngầm chứa sự đắc ý như thế. Một cô hầu mà mặc chiếc áo kimono khổ dài, có mái tóc đen ánh mượt mà như nước sơn, tóc lại búi theo kiểutsubushishimada [8] như thế thì không hợp tình hợp cảnh. Dáng dấp đó chỉ tạo cho cô cái vẻ của một geisha đang ra tiếp khách. Thế nhưng cô phải lên khung như thế với cái cổ với hoa văn tôzan nghĩa là theo đúng sở thích tinh tế của một người ăn chơi sành sỏi đất Edo thì mới vừa ý cụ, và cái nhận xét của em lúc đó, rồi thầy sẽ thấy, đã được kiểm chứng không bao lâu sau.

Nếu so sánh giữa đàn bà Nhật và ngoại quốc thì em yêu chuộng vẻ đẹp phụ nữ nước ngoài hơn nhưng em cũng chẳng có lý do gì mà ghét bỏ một người đẹp hầu như đầy đủ tiêu chuẩn để thỏa mãn sở thích của dân Edo. Dĩ nhiên, không phải sự toàn bích mà là một vài khuyết điểm trên đường môi nét mũi của cô gái mới tạo ra một ấn tượng tuyệt vời về sự hài hòa và thanh tao. Để cho người đàn bà có thể toát ra được một vẻ đẹp như thế, cô ta phải có một vài chỗ bất toàn, dĩ nhiên chỉ ở mức độ cần thiết.

Khuôn mặt cô ta tròn và cân đối như quả trứng nhưng thon lại phía dưới cằm để tạo một hình trái xoan, đôi má tuy có hơi hõm vào nhưng không hề đem đến cho khuôn mặt ấn tượng cứng rắn, bởi vì, khi cô nàng thốt ra một lời nào, cử động của làn môi như dâng lên từng cơn sóng nhỏ tiếp nối nhau về phía đôi má, gợi ra một cảm tưởng dịu dàng và vun vén.

Đường nét vầng trán cũng gọn gàng dù tóc mọc không đến độ cân đối để có thể ví nó với hình dáng đỉnh núi Fuji [9]. Hai món tóc tỏa ra hai bên trán, mặt cũng như trái, có vài chỗ hơi thưa và cao tuy rằng sau đó lại phủ xuống vừa vặn ở ngang tầm đuôi mắt. Đôi chỗ đường nét không

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 364

hoàn toàn thẳng thớm này tuy có làm cho mái tóc không đúng hình thù ngọn Fuji nhưng giúp vầng trán được thoáng hơn. Như thế, giữa màu tóc đen nhánh, một phần của vầng trán trắng phau len vào và như được tô lên bằng một màu xanh mơ hồ. Nó không chỉ đem đến cho vầng trán, chính ra là hẹp, những biểu hiện đa dạng cũng như sự bình yên thanh thản khó lòng diễn tả mà còn làm tôn màu đen của mái tóc.

Cặp lông mày dày hình vòng cung, nhưng may mắn là khác với trường hợp mái tóc viền quanh trán, nó hung hung và thưa hơn nên không tạo ra một vẻ nghiêm khắc. Mũi nàng cao và thanh, trông thật xinh nhưng vẫn không được hoàn hảo. Hai bên thành mũi hơi mọng, chỗ đường cong chạy từ lông mày xuống thấy thô thô, và phần trên hai cánh mũi lại phồng lên, nhun nhủn, làm liên tưởng đến thịt hai bắp chân. Thế nhưng, theo em nghĩ, đem gắn một cánh mũi hoàn hảo như tượng điêu khắc lên khuôn mặt này sẽ làm cho nó có một vẻ lạnh lùng. Mũi tròn trĩnh như hòn bi [10] thì không nên có nhưng một đầu mũi tròn đầy sẽ gợi ra được cái gì phúc hậu, đáng yêu.

Tiếp theo là cái miệng. (Cứ đem kể từng chi tiết một trên khuôn mặt với một lối viết vụng về như thế này, chắc em đã làm bận mắt thầy. Thế nhưng nếu em không trình bày rõ ràng về hình thù khuôn mặt của cô gái thì lòng em không yên. Em muốn cho thầy biết đầy đủ về nét đẹp và cái duyên dáng của người con gái đó. Vì lý do trên, dù có bực mình xin thầy cảm phiền thầy chịu khó cho).

Khuôn mặt nàng thon lại như một quả trứng thắt đáy. Bên trên cằm là một cái miệng nhỏ xinh xắn trông vừa khéo, và chỗ dễ thương rất là con gái đất Edo hơn cả là cái môi dưới hơi trề ra một tí [11]. Vâng, đúng thế, nếu cái môi dưới này lại thụt vào như người thường thì nó sẽ làm cho nàng có dáng nghiêm nghị hơn nhưng có lẽ sẽ làm mất đi vẻ khêu gợi và tinh ranh. Nhưng nói đến tinh ranh thì phải nhìn nhận là tất cả sự tinh ranh nằm trong đôi mắt. Hai con ngươi màu đen, lấp lánh như lưu ly mở thật to, nằm giữa đôi lòng trắng ánh màu xanh xà cừ. Đôi ngươi như đang ranh mãnh chui xuống nằm dưới đáy sâu của một làn nước trong vắt tắm trong những tia sáng xuyên qua, tựa hồ những con cá nhanh

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 365

thoăn thoắt đang làm bộ nằm bất động để nghỉ ngơi vây kỳ. Giống như những cọng rong che chở thân cá, riềm mi viền quanh đôi mắt dài đến nỗi, khi nàng nhắm mắt, như thể phủ gần đến phân nửa gò má. Em chưa từng thấy ai có cặp lông mi vừa đẹp vừa dài đến thế, nhiều khi tự hỏi dài như thế thì nó có làm vướng mắt nàng lúc nhìn hay không. Mỗi lúc mắt nàng mở ra, em không còn phân biệt được đâu là mi đâu là tròng đen, như thể con ngươi đã ra khỏi vị trí của nó để hợp lại thành một với riềm mi.

Nước da của nàng làm tôn cái đẹp của đôi mi và đôi mắt. Nàng chỉ trang điểm sơ sài, một điều hiếm có đối với những cô gái thời đó (nhất là một người từng có quá khứ geisha). Không hề đập vào mắt, màu trắng ngà chứ không hồng hào của làn da toát ra một làn ánh sáng mờ ảo như thấy trong mơ. Chỉ có đôi mắt đen nháy lộ ra rõ ràng, sinh động như con cánh cam đang bò trên tấm giấy trắng. Em không hề thêu dệt quá đáng về vẻ đẹp của cô gái này. Tình thực là cảm thấy thế nào em cứ nguyên như thế trình bày lại thôi.

*

Nếu như mọi lần thì cuộc đi chúc Tết của em đã phải đến giờ chấm dứt rồi nhưng em có cảm tưởng như vừa mới bắt được vật gì quí báu, ngày hôm đó đã ngồi ì suốt từ sáng đến hai ba giờ chiều, vừa ăn cơm trưa vừa ra sức tiếp chuyện cụ hưu. Được người đẹp chuốc chén, cụ hưu đã say nhưng em nhớ hôm đó mình cũng ngà ngà.

*

- Này cậu Uno, xin lỗi cậu chứ tôi chưa từng được xem tranh của cậu bao giờ nhưng nghe đâu cậu học vẽ tranh kiểu Tây. Thứ chân dung bằng sơn dầu đó mà, chắc cậu khá thành thạo đấy chứ nhỉ?

Cụ hưu bất chợt đặt câu hỏi đó. Em nghĩ trong người cụ, lúc ấy rượu đã thấm đậm.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 366

Bằng một giọng trìu mến nhưng có phần giả lả, O-Fumi-san [12], vươn nhẹ cái gáy ra khỏi cổ áo dài, quay về phía tôi và chìa đôi môi trề ra như làm điệu, nói:

- Có lẽ khá thạo thôi à? Ông này già thật ăn nói không biết điều. Thầy giận cho ổng biết thân đi!

- Tôi nói có lẽ khá thạo, có ý gì cười cợt cậu Uno đâu. Mấy người thừa hiểu tôi là loại người cổ lỗ sĩ, đâu biết thưởng thức xấu đẹp!

- Khéo nói ghê chưa! Đã không biết gì sao lại lên tiếng.

O-Fumi san, người dám trả lời đốp chát với cụ hưu như vậy chỉ là một cô bé đầu năm nay mới vừa 17 tuổi. Trước mỗi lời cô trách móc, cụ hưu chỉ biết tìm cách chống chế, bên đuôi mắt và trên khóe miệng cụ phảng phất một nụ cười như dấu hiệu của một niềm hạnh phúc. Cụ còn tỏ vẻ muốn phô trương thật lộ liễu sự hân hoan ấy và điều này ngược lại đã làm cho chính em đâm ra mắc cỡ. Đôi lúc, cụ bảo:

- Ái chà, trả lời sao đây ta? Lại thua con nhỏ này keo nữa rồi!

Rồi sau đó làm bộ đưa tay gãi đầu, ra chiều hết sức sợ sệt. Nhìn quang cảnh đó, em biết cụ đã trở thành một đối tượng hết sức thích hợp để O-Fumi-san mặc tình vo tròn bóp méo, có thể bảo chẳng ai còn phân biệt một ông già như cụ với đứa bé sơ sinh. Tính tuổi tác ba người đang ở trong gian buồng này thì lúc đó cụ hưu 61, em 19 còn O-Fumi-san, như vừa nói, mới có 17 và là người trẻ nhất. Thế nhưng, theo lời ăn tiếng nói mà xét thì có thể nói là thứ tự hoàn toàn đảo ngược. Khi đứng trước mặt O-Fumi-san thì cả cụ hưu lẫn em đều có cảm tưởng là bị đối xử như con nít không bằng.

Còn chưa hết ngạc nhiên khi nghe cụ hưu đem chuyện hội họa Tây Phương ra bàn ở đây, em mới vỡ lẽ là cụ muốn đặt em vẽ cho O-Fumi-san một bức chân dung bằng sơn dầu.

- Không biết loại tranh nào đẹp hơn tranh nào nhưng có lẽ sơn dầu thì sát sự thật hơn tranh Nhật chứ cậu nhỉ!

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 367

Cụ hưu nói như thế, hẳn có ý muốn cậy em vẽ o-Fumi-san làm sao càng hiện thực càng tốt. Em không biết mình có vẽ đúng ý của cụ không để có thể đáp lại lòng trông đợi ấy. Tuy nhiên trong bụng em nghĩ đây là một cơ hội tốt để mình có thể gần gũi với cô gái và ý nghĩ đó khiến em không còn chần chờ gì mà không nhận lời đề nghị. Và cứ thế, từ đó mỗi tuần em đến nhà cụ hưu độ hai lần để O-Fumi-san ngồi làm mẫu cho em làm công việc đó.

Trong xóm buôn bán bình dân ở Tôkyô này, hầu hết những căn nhà cổ của thương nhân, gọi là akindoya, thường cất theo một kiểu giống nhau, nghĩa là có một lối đi hẹp dẫn vào những căn phòng khá rộng, nhưng càng đi sâu vào bên trong thì ánh sáng càng lúc càng yếu, đến nỗi giữa ban ngày mà ta có cảm tưởng mình đang ở trong hang động. Căn nhà dòng họ Tsukakoshi cũng không ngoài thông lệ ấy. Căn phòng của cụ hưu, nằm mãi bên trong, đặc biệt tù mù. Chỉ cần thời tiết xấu một chút thì mới hơn ba giờ chiều trời đã tối om, không còn đủ ánh sáng đọc báo. Nhất là vào dịp Tết Nguyên Đán là lúc ngày hãy còn ngắn, mỗi lần em ở trường về vòng ngang qua đó, khi ở ngoài đường trời hãy còn sáng nhưng vào đến trong nhà cụ hưu thì đã tối hẳn. Ngồi vẽ tranh sơn dầu trong tình trạng như vậy thật là phi lý. Ánh sáng cần thiết để dựa vào đó mà vẽ tranh chỉ vỏn vẹn vài vệt nắng đến từ cái sân trong rộng chừng 5 tsubo [13] nằm trước căn phòng. Đó là thứ nắng nhợt nhạt buồn bã mà mặt trời chiều mùa đông bỏ lại trước khi ra đi, phản chiếu vào bên trong nhà một cách hờ hững. Khuôn mặt thon thon như một hạt dưa, O-Fumi-san ngồi lặng yên trong bóng tối, hai vai buông xuôi và cánh cổ dài vươn ra ngoài cổ áo, là một hình ảnh dễ thương đến độ thần kinh em phải ngất ngây, choáng váng. Nó khiến em nhiều lúc muốn ngưng vẽ để có thể lặng người chiêm ngưỡng những đường nét da thịt thơm tho trắng ngần phản chiếu mơ hồ chút ánh sáng yếu ớt đó.

Đến khi em thật sự bắt tay vào việc, cụ hưu nhận ra cần phải gắn một bóng điện 60 oắt và kèm thêm cái đèn chạy bằng khí đốt. Cả hai làm sáng hẳn căn phòng nhưng lại chói cả mắt em. Điều kiện làm việc đã được cụ cung cấp quá đầy đủ, bây giờ em mới bước qua giai đoạn khó khăn là xếp đặt vị trí cho người mẫu phải ngồi thế nào. Bởi vì tự lúc đầu

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 368

cụ hưu muốn em thực hiện một bức chân dung cho nên khi em định vẽ bức họa bán thân hay tương tự thôi thì cụ đã lên tiếng:

- Cậu Uno ơi, tôi thấy nếu để cô ấy ngồi mà vẽ y nguyên theo đó thì chẳng có gì hay ho cả. Thế cậu có cho phép tôi nhờ cậu vẽ theo kiểu thấy trên bức ảnh này không?

Cụ ta lục từ trong đáy cái tủ nhỏ ra một tập sách truyện bằng tranh cũ rích cũ re. Cụ lật cái trang có in bức tranh minh họa truyện Inaka Genji [14] của Tanehiko [15] cho em xem. Nếu em nhớ không lầm, đó là tranh của Kunisada [16]. Trong bức mộc bản ấy có một nàng con gái trẻ với đường nét của O-Fumi-san, kiểu người đẹp đúng theo quan điểm thẩm mỹ của họa sư. Chân trần lội bộ từ trên con đường quê xa tắp đến nơi, cô gái đang định ghé vào một ngôi chùa cổ bỏ hoang. Vì muốn bước vào trong nên cô tạm ngồi lại bên hành lang, lấy một tấm khăn phủi nhẹ bùn đất lấm đôi chân của mình. Nữa phần trên thân hình nghiêng hẳn về bên trái như chực ngã, cô chỉ còn dựa được vào mỗi một cánh tay mảnh khảnh. Bàn chân trái buông thõng xuống từ hành lang, đầu ngón chân chấm lên mặt đất, còn chân phải hơi gập cong lại, và cô đang ta dùng bàn tay phải để phủi bùn dính vào gan bàn chân. Tư thế này đòi hỏi người mẫu phải hết sức khéo léo, nó còn chứng tỏ các bậc đại sư tranh ukiyo[17] ngày xưa có khả năng nhận xét nhạy bén biết chừng nào về những nét biến hóa kiều mị trong động thái của người phụ nữ.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 369

Họa sư Utagawa Kunisada (1786-1864) (ảnh Wikipedia)

Cái gây ấn tượng cho em nhất là họa sư đã giữ được sự quân bình và tinh tế trong cách trình bày vẻ mềm mại của tấm thân người đẹp thay vì sự vụng về có thể thấy khi nàng ở trong tư thế khó khăn này, lúc mà cả tứ chi phải uốn éo một cách phức tạp. Như em đã nhắc đến ở trên, ngực của người đẹp trong tranh nghiêng hẳn về bên trái còn chân phải gập lại trong một tư thế dễ làm mất thăng bằng, chỉ cần kéo nhẹ cánh tay đang chống trên mặt đất là có thể làm nàng ngã. Để tránh nguy cơ này, tất cả những cơ bắp trên tấm thân thanh nhã đều căng ra như một sợi thép để cho cho mọi bộ phận cơ thể kết hợp lại thành một dáng điệu tuyệt đẹp. Ví dụ như lòng bàn tay trái của nàng, lúc đó, để nâng đỡ cái vai, đã xòe ra và chống lên trên mặt sàn hành lang, năm đầu ngón tay như đang co giật. Cũng vậy, bàn chân trái không cắm hờ xuống đất nhưng rõ ràng là nàng gia sức thật nhiều lên đó nên ngón chân cái cong lại như hình mỏ chim.

Một động tác của người đẹp được họa sư miêu tả linh diệu nhất là sự liên hệ giữa bàn chân phải đang gập lại, chìa ra phía ngoài và bàn tay đang phủi bùn trên đó. Một tư thế như thế hẳn là cần thiết; bởi vì bàn chân phải đang bị bàn tay phải giữ lấy, bắt buộc uốn theo nó, chỉ cần bàn

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 370

tay ấy buông ra là bàn chân sẽ va mạnh xuống nền đất. Do đó, bàn tay phải nắm chặt lấy bàn chân trong khi nàng vẫn lau chùi cho nó được. Em không khỏi khâm phục tài năng và sự khéo léo có một không hai của họa sĩ ukiyoe bậc thầy này. Đáng lý chỉ cần giữ lấy bàn chân và nâng nó lên bằng cách nắm lấy nhượng chân hay bắt lấy cổ chân mà thôi, họa sư đã khéo léo len bàn tay cô gái vào giữa hai ngón chân, ngón thứ ba và thứ tư, để có thể nâng bàn chân mà chỉ cần sức của hai ngón tay. Những ngón chân như tìm cách thoát ra khỏi hai ngón tay nho nhỏ xinh xinh này và đầu gối của người đẹp trong tranh đang co lại, run rẩy vì mọi cố gắng của nó không đem lại kết quả mong muốn.

Ukiyoe của Kunisada vẽ cảnh xóm làng chơi Yoshiwara (1818) (Ảnh Wikipedia)

Thưa thầy, mong rằng những điều em viết ra đây có thể giúp thầy hiểu được phần nào quang cảnh em đang cố gắng mô tả. Một bức tranh vẽ một cô gái đẹp đang đứng thẳng, mắt nhìn về xa xôi, chân tay buông thõng như cành liễu rũ hay nằm duỗi dài ra một cách thẫn thờ, có thể làm cho người xem thương cảm đấy; thế nhưng thể hiện được như ở đây những đường cong lượn sóng và căng thẳng như chiếc roi mà không làm giảm đi vẻ đẹp đặc biệt đó, chắc chắn là cả một thử thách khó khăn. Bức họa vừa mềm mại vừa rắn rỏi, vừa căng thẳng vừa tinh tế, vừa mạnh mẽ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 371

vừa yếu ớt. Xúc động gây ra bởi nỗ lực muốn diễn tả cái đáng yêu của nó có thể so sánh với cái nghị lực sinh ra từ tuyệt vọng giúp con chim oanh cố gắng tiếp tục hót trong khi cổ họng đã đau xé.

Thực ra, để lột được nét đẹp của tư thế này, phải vẽ được sự sống tiềm ẩn trong từng bắp thịt của mỗi đầu ngón tay, ngón chân. Không thể biết là họa sư có cố tình sử dụng một bút pháp thậm xưng khi tạo ra tư thế khó thực hiện này hay không nhưng sao em chẳng thấy có gì giả tạo. Muốn biểu lộ cái nhục cảm của tư thế này thì vóc dáng người trong tranh phải mảnh mai, uyển chuyển và xinh xắn. Nếu vẽ một người mặt vừa xấu, chân ngắn, cổ núc nác thì đâu có ai thèm nhìn. Nhất định là lúc sửa soạn vẽ bức tranh này, Kunisada đã có dịp chứng kiến tận mắt một mỹ nhân đang ở trong tư thế tương tự, vì bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của nó nên đưa vào trong tác phẩm. Nếu không, làm gì chỉ cần dựa vào sự tưởng tượng mà thôi, ông lại có thể miêu tả một cách hiện thực như thế được.

Em đã tốn bao nhiêu nước bọt để thưa là không thể nào theo đúng ý cụ nghĩa là dựa theo chi tiết trên tấm mộc bản mà vẽ hình o-Fumi-san bằng sơn dầu. Dù muốn thử lửa đi chăng nữa,với trình độ kỹ thuật còn non kém của mình, em không có cách nào vươn tới nghệ thuật của Kunisada thấy trong bức mộc bản. Tiếng là không biết gì về hội họa Tây Phương nhưng khi đặt điều kiện làm việc như thế với em, kể ra cụ đã đòi hỏi hơi quá đáng. Trong đầu, cụ có thể nghĩ rằng ngay cả tranh mộc bản hai màu đen trắng mà đã đẹp và sống động như thế, thì bây giờ thử hỏi với một người mẫu bằng xương bằng thịt, có khó gì mà không vẽ cho đẹp hơn khi sử dụng kỹ thuật sơn dầu!

Em lễ phép từ tạ, nhắc cụ năm lần bảy lượt là nếu muốn đạt kết quả như thế bằng lối tranh sơn dầu, phải là người có thiên khiếu, tài năng và kinh nghiệm vẽ tranh như họa sư mộc bản Kunisada chứ không phải là anh họa sĩ quèn, chưa nắm được bí quyết của người xưa, như em. Nói cách mấy, cụ cũng chẳng chịu nghe. Cụ lại cho khênh ra giữa nhà một cái chõng bằng tre, loại chõng thường đặt trong vườn để ngồi hóng mát mùa hè. Cụ bảo O-Fumi-san ngồi lên đó và van nài em dù đẹp xấu, hay dở, mặc lòng (vì mình không có óc thẫm mỹ) cứ vẽ cho cụ cái cảnh nàng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 372

đang phủi chân, chỉ làm sao cho nó giông giống tranh mẫu cụ đưa ra là đủ thỏa mãn. Cứ làm thử đi, cụ bảo, nói vô phép chứ tốn bao nhiêu tôi cũng trả.

Cụ hưu cứ lập đi lập lại, cúi đầu nhờ vả em cho kỳ được:

-Thôi mà, đừng nói vậy tội nghiệp. Nhờ cậu giúp cho một lần đi!..............

Không biết cụ đùa hay thực lòng chứ lối ăn nói dẻo quẹo, dai nhách như thế, em có muốn cắt lời cũng không được. Đồng thời, cái miệng toang toác có hỗn danh "hàm ếch" nở một nụ cười cầu tài trông thật khó ưa. Ngày thường, cụ thực thà, giản dị và biết điều nhưng không dè hôm nay lần đầu tiên em mới thấy từ bên trong ló ra cái tính ngoan cố đó. Thái độ đeo dính như đỉa, quấn quít chân người ta, đối với em, đúng là một phát hiện không ngờ. Gương mặt cụ lúc này trông thật lạ lùng. Cách ăn nói vẫn giống ngày thường, thái độ không có gì thay đổi so với mọi lần nhưng ánh mắt cụ không biết tự lúc nào đã hoàn toàn đổi khác. Miệng vẫn nói chuyện với em đấy nhưng mắt lại nhìn đăm đăm vào một vật gì khác bên ngoài, tròng mắt đầy tia máu và đồng tử như đang bị hút sâu vào trong hố mắt, nhìn vào có thể nghĩ cụ hưu đang có một sự chuyển biến tinh thần đột ngột vốn là một triệu chứng của điên loạn. Trông thần mắt cụ, thấy ngay nó có chôn dấu một cái gì dị thường. Bằng trực giác, em đột nhiên thấy được đằng sau cách nhìn của cụ cái lý do để cho bà con họ hàng sinh lòng oán ghét. Cùng một lúc, em cảm thấy có một chấn động gây ớn lạnh chạy khắp châu thân.

Trực giác của em đã được xác nhận là đúng qua thái độ lúc đó của O-Fumi-san. Khi thấy ánh mắt của cụ hưu thay đổi, nàng bỗng sa sầm nét mặt như muốn nói: "Lại nữa rồi!". Hơi chau mày, nàng khe khẽ chậc lưỡi "Suỵt!" để lưu ý, rồi giống như bà mẹ đang trách mắng đứa con ngỗ nghịch, nàng nói:

- Sao vậy ông? Thầy Uno đã nói không được, ông còn nài ép làm chi, thử hỏi có đi đến đâu không? Tui chưa thấy ai cứng đầu như ông. Trước hết, tui sẽ không chịu làm cái việc kỳ cục vô duyên là ngồi lên cái chõng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 373

ngoài vườn mà ông đem đặt ở giữa nhà đâu. Không, không, ngàn lần không!

Vừa nói, nàng vừa trừng mắt nhìn ông già. Cụ ta mới van xin lạy lục, nịnh nọt đủ điều để nàng nguôi cơn giận và chịu ngồi lên chõng phủi chân. (Dĩ nhiên trong lúc làm đủ màu mè để thuyết phục nàng, miệng cụ vẫn cười đon đả, chỉ có đôi mắt là càng ngày càng đanh lại và hằn lên những tia máu). Quên bẵng địa vị của mình, lúc đó em cảm thấy không khỏi đồng tình với thái độ của O-Fumi-san. Lý do là họa sư Kunisada vì tình cờ bắt gặp cô gái đang làm động tác phủi chân nên mới đưa hình ảnh đó vào trong tranh chứ bị áp đặt phải ngồi xuống theo một tư thế nào đó thì quả là một việc khó khăn cho người mẫu. Chưa chắc cô ta có thể ngồi yên lâu hơn ba phút. Dù nói thế, một người bản chất ngang ngược và ích kỷ như O-Fumi-san đã chấp nhận đòi hỏi của cụ hưu một cách khá dễ dàng, bởi vì trong khi nói ra rả em chả em chả, cô đã đến ngồi lên chiếc chõng. Tôi thầm nghĩ hành động này phải có một lý do sâu xa nào đó. Giả sử O-Fumi-san kiên quyết từ chối đến cùng, nói sao cũng không nghe, biết đâu những triệu chứng cuồng điên trong cặp mắt của ông cụ lại không hiện ra rõ rệt hơn khắp khuôn mặt rồi biến thành những cử chỉ hay lời nói không kiểm soát nỗi khi cơn điên bộc phát! Có lẽ vì sợ điều đó xảy ra cho nên O-Fumi-san chịu khuất phục chăng? Ít nhất đó cũng là cách suy luận của riêng em.

- Tội nghiệp thầy Uno quá đi thôi. Cái ông này khùng đó thầy, em không kềm ổng nổi! Thôi thì thầy có vẽ được hay không cũng không sao, cứ giả đò cho ổng yên, nghe thầy!

O-Fumi-san đang ngồi trên cái chõng, đạo diễn em làm như thế. Lời của nàng cũng phù hợp với những điều em đang nghĩ trong bụng.

- Thế à, vậy để tôi thử vẽ xem.

Không biết làm gì khác, em quay về phía giá vẽ dù trong lòng không có chút quyết tâm nào sẽ làm công việc đó một cách nghiêm túc. Em chỉ nghe theo lời O-Fumi-san để tránh làm trái ý ông cụ thôi.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 374

*

Rốt cuộc, O-Fumi-san đã làm như lời cụ hưu dặn. Bắt chước người đàn bà trong quyển truyện, cô chống bàn tay trái lên cái chõng, chân phải hơi gập cong, dùng bàn tay phải nắm lấy đầu bàn chân đưa lên, trông không khác tư thế thấy trong tranh chút nào cả. Kể ra thì có vẻ giản dị nhưng phải thưa là lúc ấy, sự kinh ngạc của em thật khó lòng diễn tả cho rốt ráo. Lúc O-Fumi-san vừa ngồi xuống cái chõng tre để bắt chước dáng điệu của nhân vật trong tranh thì có thể nói là nàng chợt đã hóa thân thành người đẹp của Kunisada hay gần như thực tướng của người ấy. Mới rồi, em có nói phải có thân hình thật mảnh mai, uyển chuyển, tươi tắn mới ngồi được gọn gàng với cái tư thế đó. Chưa bao giờ mấy hình dung từ này lại có thể thích hợp hơn để miêu tả sự mềm mại xinh đẹp của thân thể O-Fumi-san. Nếu không dựa vào dáng vẻ tuyệt vời của nàng thì không tài nào làm sống lại người đẹp trong bức tranh mộc bản ấy một cách hoàn hảo. Khi hãy còn hành nghề geisha, hình như nàng nổi tiếng là người múa giỏi, bây giờ thấy nàng mới hiểu tiếng đồn thật không sai. Nếu chẳng phải thế, hỏi làm sao nàng có thể chuyển động thân thể với chừng ấy mềm dẻo và dễ dàng để có thể bắt chước y nguyên tư thế của người trong tranh, một điều khó khăn mà người mẫu bình thường không thể nào làm được. Trong một đỗi lâu, em như người bị hớp hồn, say sưa hết ngắm người trong tranh rồi người thật ngoài đời, ngắm đi ngắm lại không biết bao nhiêu lần, hết biết phân biệt đâu là tranh đâu là O-Fumi-san. Đúng như vậy, càng nhìn càng ngắm, càng không nhận thức được có sự khác nhau giữa hai bên. Thân thể O-Fumi-san, thân thể người trong tranh, cánh tay trái O-Fumi-san, cánh tay trái người trong tranh, những đầu ngón chân trái O-Fumi-san, những đầu ngón chân trái người trong tranh....em cứ kiểm điểm từng chút một như vậy và nhận ra ở cùng một bộ phận, nơi hai người, bên nào cũng tiềm ẩn một sức sống và một sự căng thẳng như nhau.

Em xin phép lưu ý thầy một lần nữa là những đường cong thân hình của O-Fumi-san sinh động và gợi cảm đến mức độ nào. Cho dầu một người mẫu bình thường biết học đòi bắt chước tư thế của người trong tranh đi nữa, cũng không thể nào làm được như O-Fumi-san, nghĩa là vượt lên cả

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 375

sự bắt chước. Nàng thể hiện được cái đẹp của đường nét da thịt trên thân thể trong từng chi tiết. Ngoài nàng chắc không ai có thể làm nỗi. Em còn đi đến chỗ muốn nghĩ rằng không phải O-Fumi-san bắt chước người đẹp trong tranh mà chính người đẹp trong tranh đã đi bắt chước O-Fumi-san. Nếu có bảo Kunisada đã dùng O-Fumi-san làm người mẫu cho bức họa của ông ta chắc cũng không ngoa.

*

Nhưng vì cớ gì giữa chừng ấy tranh ảnh minh họa cuốn truyện, cụ hưu lại chọn tấm này cho O-Fumi-san? Tại sao tư thế của người đẹp trong bức tranh ấy lại lôi cuốn cụ đến mức đó? Nhân vì lòng ham muốn của cụ hưu bộc lộ quá mạnh mẽ khiến em bất giác để ý điều đó. Dĩ nhiên với kiểu ngồi như thế này, những đường nét yêu kiều diễm lệ của O-Fumi-san sẽ được phô bày ra rõ rệt hơn là tư thế bình thường. Thế nhưng chỉ có lý do ấy thôi thì không giải thích được thái độ mê đắm, cuồng nhiệt, cũng như cặp mắt lóe lên ánh lửa điên rồ của ông cụ. Em bắt đầu nghi ngờ là đằng sau "ánh mắt" ấy chất chứa một sự bí mật và tưởng tượng ra là cái dáng ngồi của người mẫu có yếu tố gì đặc biệt thu hút tâm hồn ông. Kiểu ngồi thường không thể cho thấy phần đặc biệt của cái đẹp nhục thể ví dụ như cử động của đôi chân trần thoáng hé dưới vạt kimono và đường cong đổ dài từ bắp chân xuống phía những chiếc móng. Vì từ bé, em là người luôn luôn có một khoái cảm dị thường trước vẻ đẹp nhịp nhàng của bàn chân các nàng con gái trẻ nên tâm thần đã mê mẩn ngay giây phút nhìn thấy những đường cong đẹp đến não nùng trên đôi chân trần của O-Fumi-san. Ống chân thẳng thớm phẳng phiu như được tỉ mỉ chuốt ra từ lõi gỗ trắng, càng đi về phía nhượng chân càng nhỏ nhắn, thắt lại thật gọn. Cổ chân tiếp tục thoai thoải đổ dốc đến hàng ngón chân đều đặn, nhỏ dần dần, suốt từ ngón cái đến ngón út. Sự hài hòa này còn rõ ràng hơn cả đường nét trên khuôn mặt O-Fumi-san. Em không dám nói trên đời này không có "khuôn mặt" nào sánh được với khuôn mặt của nàng nhưng đôi "bàn chân" với hình thể gọn ghẽ, đẹp đẽ như chân nàng thì xưa giờ em chưa từng thấy. Thứ bàn chân mà gan chân bèn bẹt, ngón sắp không đều, cách nhau xa tạo thành kẽ hở khó coi, sẽ để lại nơi ta một cảm giác khó chịu như lúc phải nhìn một

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 376

khuôn mặt xấu xí. Thế nhưng gan bàn chân của O-Fumi-san no đầy đến thích mắt, mấy ngón chân xếp đều và châu vào như hình chữ m, hàng lối đều đặn như một đường răng khéo trồng. Mấy đầu ngón chân như thể có ai dùng kéo để tỉa ra từ một củ shinko[18] thì mới đẹp đẽ, ngay ngắn và gọn gàng như thế chứ. Còn những cái móng chân hồng ở mút đầu ngón nữa chứ, biết lấy gì để so sánh! Em muốn ví chúng với những quân cờ vây nhưng chúng lại bé hơn, bóng láng hơn và diễm lệ hơn quân cờ cơ. Trừ phi một người thợ thật khéo tay, biết dát mỏng và đánh bóng vỏ xà cừ của loại sò lấy ngọc trai, đem hết tâm trí mài giũa từng cái một rồi gắp chúng bằng những chiếc kẹp nhỏ, ghim vào đầu củ shinkothì may ra đạt được kết quả tương tự. Mỗi lần được chiêm ngưỡng vẻ đẹp như vậy, em mới thấy Đấng Tạo Hóa quả thật bất công khi tạo ra sự khác nhau giữa người với người. Đối với người ta và muông thú, móng tay móng chân được "mọc ra". Thế nhưng nơi bàn chân của o-Fumi-san, phải nói chúng đã được "cẩn vào". Đúng như vậy thật vì mỗi ngón chân của nàng từ khi sinh ra như đã được đính thêm một viên ngọc quí. Nếu đem gỡ chúng từ tay chân của nàng ra để xâu thành chuỗi thì nó đáng gọi là chuỗi ngọc của nữ hoàng.

Tanizaki bên cạnh Matsuko, người vợ thứ ba, cũng là nguồn cảm hứng vô tận của ông.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 377

Hai bàn chân ấy, cho dù có bước lơ đễnh trên mặt đất hay đặt một cách hững hờ lên mặt tấm tatami cũng đã đủ gợi ra cảm xúc mỹ thuật như khi ta đứng trước của một công trình kiến trúc tôn nghiêm. Đó là chưa nói đến phần bên trái của thân hình nàng, có lẽ vì bị ảnh hưởng của cái tư thế mà nửa thân người phía trên hơi mất thăng bằng vì ngả qua một bên, nên duỗi thẳng về phía dưới, làm toàn thân như chịu đựng sức nặng tụ lại ở một điểm tức là chỗ đầu ngón chân cái tiếp giáp với mặt đất. Vì vậy lớp da trên mu bàn chân, không những căng thẳng từ gót đến đầu năm ngón chân, còn cho ta cảm tưởng đang co thắt lại, diễn tả sự run rẩy, sợ hãi trước một điều gì. (Nói về một bàn chân mà phải dùng những từ ngữ như là "diễn tả" có thể khó lọt tai nhưng em tin rằng, một bàn chân cũng có thể khả năng diễn tả như một khuôn mặt. Theo em, chỉ cần xem bàn chân thôi, ta cũng đủ biết đó là loại đàn bà đa tình hay là những con người tàn nhẫn). Bàn chân trái này làm em liên tưởng đến một con chim nhỏ đang cảm thấy bị uy hiếp nên phồng ngực hít cho đầy không khí và đập cánh chực bay. Mu bàn chân của nàng rướn lên theo hình vòng cung khoe ra những thớ thịt mềm mại, mảnh dẻ, gọn gàng bên trong. Nếu nhìn từ gan chân, ta sẽ thấy năm ngón chân quặp lại, xếp hàng cạnh nhau như những con sò nhỏ. Bàn chân thứ hai được tay mặt của nàng kéo lên khỏi mặt đất chỉ vài mươi phân, có một lối diễn tả khác. Nếu bảo bàn chân đó "đang cười" chắc sẽ làm một người thông thường vô cùng bỡ ngỡ. Đến thầy hẳn cũng phải lắc đầu cho là kỳ quái mà thôi! Thế nhưng ngoài lối nói "bàn chân đang cười", em không tìm ra chữ nào để mệnh danh cho thích hợp.

Về hình thái thì ngón út và áp út như treo giữa không trung, còn ba ngón còn lại rời rạc, tạo ra những kẽ hở giữa chúng và vặn vẹo như thể làm duyên. Đúng như thế, khi ta thọc lét ai thì trong lòng bàn chân người đó, từ gót cho đến mấy ngón, thường thấy có hiện tượng này. Vì điều đó xảy ra trong khi chọc cười bằng cách cù chân, dù có gọi là "bàn chân đang cười" thì cũng chẳng có gì quá đáng. Em vừa nói là bàn chân biết làm duyên. Nhượng chân và các ngón cong vòng theo hai hướng đối nghịch, tạo nên một chỗ hõm ở chính giữa, toàn thể bàn chân trông giống con tôm bện bằng rơm dùng trang trí vào dịp Tết nhất. Em thấy tư thế này dù ai nhìn cũng phải công nhận là lẳng lơ và khêu gợi. Nếu không phải là

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 378

người giỏi nghề múa như O-Fumi-san để có những động tác mềm mại và nhuần nhuyễn thì không thể nào uốn được bàn chân một cách gợi tình như thế được. Ta có cảm tưởng đây là động tác một điệu vũ khi người đàn bà tình tứ và yêu kiều đang để thân hình mình uốn éo mê hoặc.

Còn một chi tiết khác không thể bỏ qua nữa là gót chân tròn đầy của nàng. Nơi những người đàn bà bình thường, giữa nhượng chân và gót chân bao giờ cũng có một khấc gãy, thế mà điều này không thấy tí ti nào nơi O-Fumi-san. Em đi qua đi lại nhiều lần sau lưng nàng dù không có lý do đặc biệt, cốt chỉ để ngắm nghía cho thật trọn vẹn nét đẹp của gót chân vì không thể nhìn rõ ràng nếu đứng đằng trước. Tuy cái nhìn của em kín đáo nhưng vẻ đẹp bàn chân bắt gặp đã để lại ấn tượng sâu đậm trong đầu óc. Em tự hỏi xương thịt đã được cấu tạo như thế nào để có một gót chân êm ái, tròn trịa và mịn màng đến như thế! Từ khi O-Fumi-san sinh ra cho đến năm mười bảy tuổi, có lẽ gót chân nàng chưa bao giờ phải dẫm lên những vật gì cứng rắn hơn là mặt nệm hay mặt chiếu. Em còn nghĩ là trước một bàn chân yêu kiều như thế, thà mình hy sinh một kiếp đàn ông để làm cái gót dính sát vào bàn chân ấy, chắc còn được hạnh phúc hơn nhiều. Nếu không được như thế thì cũng muốn hóa thân thành tấm chiếu để nàng dẫm bước lên trên. Nếu so sánh xem sinh mạng của em và gót chân của O-Fumi-san xem cái nào quí hơn thì em xin trả lời đó là gót chân của nàng. Nếu vì cái gót chân ấy thì dù phải chết em cũng cam đành.

Hai bàn chân bên mặt và bên trái của O-Fumi-san đều đẹp như nhau, làm sao tìm ra được một cô chị với cô em tài mạo song toàn đến thế. Và cũng như hai chị em, không phải chúng đẹp mỗi người một vẻ và đang tranh đua hương sắc đó sao?

Tuy đã cao hứng dùng hết lời lẽ để phô trương cái đẹp của đôi chân O-Fumi-san nhưng trước khi dứt lời, xin thầy cho em bàn thêm một điều nữa thôi. Đó là màu sắc của làn da đang bao bọc lấy đôi chân. Cho dù hình thù một bàn chân có hoàn chỉnh đến đâu, nếu nước da xấu thì không thể nào nói là đẹp được. Em nghĩ O-Fumi-san phải hết sức tự hào về đôi chân của mình và những khi nàng bước chân vào phòng tắm, đã

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 379

chú ý đến nó không thua gì khuôn mặt. Dù sao, mới nhìn đã biết ngay là làn da này phải được kỳ cọ chăm sóc kỹ lưỡng suốt năm mới được trắng trẻo ngọc ngà, tươi tắn và bóng láng như thế. Không chỉ thế thôi, vì thực tình mà nói, chưa chắc loại ngà nào có được cái màu trắng thần bí linh thiêng của làn da bàn chân O-Fumi-san. Trừ phi thử rót vào bên trong lớp ngà đó dòng máu ấm của một người con gái trẻ hay một thứ chất lỏng nào có tính thần bí tương tự thì may ra mới tạo được màu sắc kỳ dị mong muốn. Nếu nói về màu trắng của đôi chân thì không chỉ toàn một màu trắng, bởi lẽ vùng chung quanh gót và móng chân của nàng đượm một màu hồng thắm như cánh tường vi, chúng quanh lại viền thêm màu hồng nhạt, chúng làm em liên tưởng những quả dâu hồng rưới đầy sữa tươi, món ăn mùa hè. Màu hồng chất quả ngọt hòa với màu trắng sữa, cái màu ấy như đang tuôn theo từng đường cong trên bàn chân O-Fumi-san. Không biết điều em nghi ngờ có quá đáng hay không nhưng biết đâu nàng chấp nhận làm người mẫu trong tư thế khó khăn này chẳng qua là để phô trương đôi bàn chân tuyệt đẹp của mình?

Nếu nói về tâm tình của em đối với bàn chân của một người khác phái thì - chỉ cần đứng trước bàn chân của người đàn bà đẹp - là trong lòng em đã dậy lên một tình cảm ngưỡng mộ không sao kìm hãm nỗi. Tâm lý đó giống như sự sùng bái thần linh. Tác dụng tâm lý bàn chân gợi lên đã tiềm tàng trong nơi sâu thẳm nào đó của lòng em. Trong tâm hồn thơ dại của đứa con nít, em vẫn hiểu được đó là tình cảm bệnh hoạn và đã cố gắng mọi cách để dấu diếm nó trước mặt người khác. Thế nhưng việc khám phá ra rằng không phải chỉ có mỗi mình mình mang một tâm trạng hầu như điên rồ ấy, và biết rằng những tín đồ của tôn giáo bái vật lấy bàn chân của người khác phái làm đối tượng, hạng người phải được gọi là Foot-Fetischist [19] hãy còn đầy dẫy trong xã hội...là điều em mới đọc qua sách vở từ độ sau này thôi [20]. Kể từ ngày đó em vẫn nghĩ rằng ít nhất mình phải có một người đồng đạo nào ở đâu đó không xa nên đã âm thầm tìm gặp cho bằng được. Thế nhưng chưa gì thì giờ đây đã có cụ hưu Tsukakoshi hiện ra nhập bọn với em. Cụ hưu là người chưa từng đọc những tác phẩm về tâm lý học mới ra đời, chắc chắn chẳng hiểu những từ chuyên môn như Foot-Fetischism là gì và cũng không thể nào ngờ trong cõi đời này, mình lại có thể có nhiều bầu bạn đến thế. Có lẽ

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 380

giống như cách nghĩ của em hồi còn nhỏ, cụ cũng tin rằng mình là người duy nhất đã vướng vào thói tật xấu xa gớm ghiếc ấy. Một người trẻ như em còn có thể tha thứ được chứ cụ hưu đây vốn là ăn chơi dân lõi đời ở cái đất Edo thanh lịch mà còn mang một não trạng bệnh hoạn của con người hiện đại như thế thì cụ không khác gì một kẻ sinh ra nhầm thế kỷ. "Tại sao một người thanh lịch như ta mà lại vướng vào cái bệnh quái gở này?" Phải chăng đó là câu hỏi nhiều khi cụ đã cau mày tự đặt ra, và không khỏi lo lắng nếu có ai biết được thì khốn. Nếu em không là nạn nhân đang chia chung một vận hạn với cụ hưu và nếu từ buổi đó em không nhìn cụ với một tia nhìn dò xét thì có lẽ cụ sẽ giữ sự bí mật của mình ở tận đáy lòng rồi. Bởi vì tự phút đầu, em đã nghi ngờ có gì không ổn ngấm ngầm trong thái độ của ông già và theo dõi cụ, lại từng chứng kiến kiểu nhìn lấm lét như kẻ cắp của cụ về phía bàn chân của O-Fumi-san, em mới nói như khơi gợi:

- Xin lỗi cụ chứ hình dáng bàn chân cô đây đẹp hết chỗ nói. Cháu đã quen nhìn người mẫu phụ nữ ở trường mỹ thuật rồi nhưng chưa thấy bàn chân nào xinh đẹp, hoàn hảo đến mức này cả.

Vừa dứt lời, em đã thấy mặt của ông cụ ửng đỏ và đôi tròng mắt long lanh một cách dị thường, miệng nở một nụ cười khinh khỉnh như muốn che dấu cái thâm ý cực kỳ xấu xa của mình. Do đó, em đành phải đứng ra tích cực giải thích là đường nét bàn chân quan trọng đến mức nào đối với sắc đẹp nhục thể của người phụ nữ, và việc tôn thờ một bàn chân đẹp cũng chỉ là chuyện thế gian thường tình mà thôi. Nghe thế, cụ mới dần dần an tâm trở lại và từ từ để lộ cái đuôi ra.

- Này, cụ hưu ạ! Hồi nãy cháu có phản đối gợi ý của cụ thật nhưng bây giờ mới biết khi đòi hỏi cô đây phải ngồi làm mẫu với tư thế trong tranh thì quả là cụ có lý chứ chẳng chơi. Tư thế này giúp cô bộc lộ không sót một nét đẹp của bàn chân. Cụ cứ nói mình chẳng biết tí gì về hội họa thì không đúng chút nào ạ!

- Ấy chết. Xin cảm ơn. Cậu Unokichi đánh giá như thế thì tôi hết sức sung sướng. Mà này, chuyện bên Tây tôi không biết ra sao chứ đàn bà Nhật từ xưa vẫn tự hào là có bàn chân đẹp. Cậu cứ xem, các

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 381

cô geisha thời Mạc Phủ, mùa đông cũng không chịu mang tabi bởi vì cố ý khoe bàn chân đẹp. Đó là cái nét phong lưu các nàng phải có để nuông chiều khách. Ngày nay các cô geisha khi ra tiếp khách lại đi tất tabi, so với thời xưa, thật chả ra làm sao. Hơn nữa, các cô bây giờ đâu có ai được một bàn chân đẹp, cho nên mới hiểu tại sao cho dù được van nài, họ cũng từ chối không cởi tabi ra. Nhưng riêng O-Fumi vì có đôi chân thật đẹp, đúng là một ngoại lệ, nên tôi cứ nhất quyết đòi hỏi cô ấy lúc nào cũng chớ có mang gì trên đó cả.

Nói đến đây, cụ hưu hất cằm lên xuống, gật gù ra chiều mãn nguyện.

- Nếu cậu Unokichi hiểu được bụng dạ tôi thì tôi không biết nói gì hơn. Dù cậu không vẽ bức chân dung ấy được như ý muốn, chẳng hề hấn gì cả. Cho nên, cậu ạ, nếu chỗ nào rắc rối, cậu cứ phiên phiến. Chỉ xin cậu vẽ thật tỉ mỉ phần bàn chân cho tôi !

Rốt cuộc, ông cụ đã thừa thế nói ra những gì em đã dự tưởng. Trong khi bao người khác chỉ cần vẽ mặt - một điều có thể gọi là đương nhiên - thì cụ ta lại muốn vẽ đôi chân. Chuyện cụ ta mắc cùng một chứng bệnh như em thì chỉ cần nhìn qua chứng cứ này cũng quá rõ.

Kể từ hôm đó, hầu như không ngày nào em không ghé qua chỗ của cụ. Ngay lúc ở nhà trường, hình ảnh bàn chân O-Fumi-san vẫn cứ lúc ẩn lúc hiện trước mắt, đến nỗi em không mó tay vào được công việc gì cả. Nói như thế không có nghĩa là mỗi khi đến nhà cụ em đã dồn hết tâm lực cho cái việc cụ nhờ đâu. Nói về bức tranh thì em cứ vẽ vời dối dá cho qua, chỉ cùng với cụ hưu hết giờ này đến giờ khác ngắm nghía nét đẹp bàn chân O-Fumi-san rồi trầm trồ, tấm tắc. Cô nàng hình như cũng biết tỏng thói tật của cụ hưu nên đôi lúc tuy để lộ ra ngoài vẻ mặt không vui nhưng vẫn chịu khó làm người mẫu, nói chung là chỉ ngồi im lặng mặc cho em và cụ trao đổi câu chuyện. Tuy gọi là người mẫu nhưng cô ta không phải làm mẫu cho người khác vẽ mà chỉ là một cái cớ. Cô được bày ra đó để hai cặp mắt mê mẩn sắp hóa khùng của cụ già và chàng trai phóng lên trên đó những tia nhìn đắm đuối. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh đương sự thì mới thấy cô phải chịu đựng những tia nhìn hết sức khó chịu. Làm mẫu mà lại trở thành đối tượng để tôn thờ nên vị trí của cô

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 382

thật khó xử. Đến mức này em mới thấy rõ là sinh ra với đôi bàn chân đẹp là đã vướng vào điều phiền não. Một người đàn bà bình thường dĩ nhiên mạnh tay từ chối công việc gàn dở như thế, nhưng, vốn tính ranh mãnh, O-Fumi-san biết giả tảng ngây thơ chiều ý ông cụ. Cô ta trở thành món đồ chơi của người đàn ông thật đấy, nhưng vì chỉ cần đưa đôi chân trần ra cho xem và được tôn thờ là đã đem đến niềm vui tột cùng cho ông cụ, cho nên đối với cô, điều đó đâu phải công việc nhọc nhằn gì!

Dần dần khi quan hệ giữa ông cụ và em càng gắn bó, ông mới lộ thói tật của mình nhiều hơn. Phần em vì bản chất hiếu kỳ, cũng tìm mọi cách đốc thúc để ông cụ bày tỏ thêm. Để thực hiện mục đích đó, em cũng phải cho cụ thấy nơi em cũng có những khuynh hướng khó được người đời chấp nhận. Có điều là em tìm cách làm cho quá quắt hoặc tô vẽ thật xấu xa khi kể lại những kinh nghiệm cá nhân với ý định giúp ông cụ trút bỏ hết mọi ngượng ngùng. Khi nghĩ lại, em nghĩ rằng động cơ hướng dẫn hành động của mình hồi đó không chỉ vì muốn biết bí mật người khác nhưng hẳn phải có một sự thèm thuồng thích đào bới tận đáy sâu tâm lý chính con người mình. Có thể là, khi đóng vai trò bạn đồng chí hướng với cụ hưu, em muốn dò thấu cái khoảng tối tăm đó qua sự chia sẻ cùng một định mệnh với cụ. Khi em mở rộng lòng mình, cụ đã đón nhận với tất cả sự đồng cảm và kể lể cho em không chút che đậy tất cả kinh nghiệm bản thân, từ ngày còn thơ cho đến lúc bước vào tuổi lục tuần. Nó còn kỳ cục, xấu xa, độc đáo và phong phú hơn cả những gì đã xảy ra cho em nữa. Em không muốn thuật lại làm chi những điều cụ thổ lộ ở đây vì sẽ làm cho thầy chán ngấy lỗ tai. Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra một bằng chứng về hành vi kỳ quái của cụ mà thôi thì thưa thật, không phải đây là lần đầu tiên cái chõng tre được cụ cho đem đặt giữa căn phòng. Cụ đã nhiều lần khóa trái cửa nẻo, đặt O-Fumi-san lên cái chõng đó và đóng trò như một con chó, đùa nghịch bàn chân của nàng. Cụ khẳng định rằng với cái trò chơi ấy, cụ còn tìm ra một niềm khoái lạc to tát hơn là khi được nàng xem như ông chủ.

Đúng vào tháng ba năm nay, cụ hưu mới chính thức làm xong thủ tục hưu trí nghĩa là trao trọn tiệm cầm đồ cho vợ chồng con gái và dọn về ngôi biệt thự ở Shichiri-ga-hama. Lý do đưa ra bề ngoài là theo lời

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 383

khuyên của thầy thuốc, hai chứng tiểu đường là lao phổi đã đến lúc trầm trọng, cụ cần đổi gió, thế nhưng tình thực là cụ ra riêng để hú hí với O-Fumi-san cho thỏa thích và tránh được con mắt dòm ngó của người đời. Tuy vậy, từ khi dọn nhà, sức khỏe của cụ xuống cấp thấy rõ thành thử lý do gọi là bề ngoài đó đã trở thành lý do thực sự. Bệnh tật không làm thay đổi cái tính bướng bỉnh: tuy bị tiểu đường, cụ vẫn tiêu thụ một lượng sake đáng kể cho nên sức khỏe cụ có suy sụp cũng là điều không đáng ngạc nhiên. Ngoài ra, cái đáng lo là chứng ho lao lại tiến nhanh hơn cả bệnh tiểu đường. Cứ chiều đến thì cụ lại sốt khoảng băm tám, băm chín. Người đã gầy sẵn, bây giờ cụ rạc ra thấy rõ. Chưa được mươi lăm hôm, cụ xuống sắc đến nỗi không ai còn nhận ra. Cụ không còn có thể vui đùa quậy phá với O-Fumi-san được nữa rồi. Trong ngôi biệt thự đâu lưng vào sườn núi, nơi từ đó có thể nhìn ra cảnh biển tuyệt đẹp trước mặt, có một gian hướng ra phía nam có nắng và rộng mười tấm tatami đặc biệt dành cho chủ nhân. Cụ hưu suốt ngày gối đầu nằm dài xuống sàn, nhìn ra ngoài hàng hiên sáng sủa, không hề di động, ngoại trừ ba bữa cơm trong ngày. Đôi khi sau một trận thổ huyết, cụ lại ngửa khuôn mặt nhợt nhạt lên phía trần nhà, cặp mắt nhắm nghiền như thây chết. Có bác sĩ S. từ bệnh viện X. ở Kamakura đến chẩn mạch cho cụ hai hôm một lần.

- Cụ nhà ta không khá! Nếu sốt không hạ, coi bộ chẳng còn bao lâu...Giỏi lắm, kéo được thêm một năm nữa là cùng.

Đó là những lời bác sĩ nói với cô hầu non như để nhắc nhở. Tình hình sức khỏe càng tuột dốc, cụ càng đâm ra khó ở. Mỗi bữa cơm, cụ đều chê là món ăn không vừa miệng, và đổ lỗi lền đầu O-Sada, người đàn bà giúp việc.

- Làm sao tôi nuốt được cái món nhạt nhẽo như thế này, hử? Bộ chị tưởng tôi ốm rồi khinh thường tôi đấy phỏng?

Với cái giọng khàn đặc, cụ than vãn, cụ văng tục. Lúc thì nhiều muối nên mặn quá, khi thì bỏ lắm mirin [21]  thành quá ngọt, ra vẻ ta đây ăn uống sành sỏi, cụ trách móc đủ điều. Nhân vì từ lúc ngã bệnh, miệng cụ không còn phân biệt được các vị nữa cho nên cứ đưa thức nào ra, dù

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 384

ngon cách mấy, cụ cũng không thỏa mãn. Mỗi lần như thế, cụ lại cáu kỉh, không ngớt chĩa mùi dùi hạch sách O-Sada.

- Sao lại cứ ăn nói vô lý như thế hở ông?....Cơm không ngon đâu có phải lỗi của O-Sada! Tại miệng ông ăn hết biết mùi vị gì nữa rồi. Đau ốm không biết thân mà còn nói hành nói tỏi! Thôi, O-Sada ơi, chị cứ mặc kệ. Ông ấy chê, cho ông ấy nhịn!

Mỗi khi cụ hưu dấm dẳng là O-Fumi-san mắng át giọng như thế. Bị cô ấy kê tủ đứng, cụ mới chịu im cho. Cụ sụp mắt xuống và thu người lại chẳng khác nào con sên bị người ta ném muối lên người. Lúc ấy mới thấy O-Fumi-san chẳng khác nào ông thầy dạy mãnh thú đang trị một con cọp hay sư tử, khiến cho người đứng bên cạnh nhìn vào không khỏi khiếp sợ.

Cái ông già bẩn tính khó chiều đến thế mà không biết tự lúc nào đã phải bó tay chịu phép dưới quyền uy của O-Fumi-san. Dạo đó, đôi khi cô ta không biết bỏ nhà đi đâu, khi thì nửa buổi, khi thì trọn ngày, để mặc con bệnh nằm nhà:

- Hôm nay tôi phải lên Tôkyô, có mấy thứ mua sắm!

O-Fumi-san buông thõng một câu như thể đang nói một mình, chẳng đợi cụ hưu ừ hử gì cả, đã hấp tấp sửa soạn rồi đi cái vù. Trông cách ăn mặc và son phấn của cô nàng thật diêm dúa, không thích hợp với việc ra chợ mua sắm tí nào. Hành động ngoại tình của O-Fumi-san hết sức trắng trợn, như thể cô chẳng kiêng nể ai cả (Đúng vậy, phải nói đó là một hành động ngoại tình chứ không dùng được chữ nào khác. Bởi vì khi cụ hưu mới qua đời chẳng bao lâu, với mớ tài sản kếch xù vừa lọt vào tay mình, cô đã kết hôn với gã T., nguyên kép hát. Có lẽ từ dạo cụ còn đó, cô nàng đã lén lút gặp gỡ anh chàng). Sở dĩ gia đình quyến thuộc không ai dám nói một câu bởi vì từ lâu họ đã ngán ngẫm cái tính si mê đến bệnh hoạn của ông cụ. Phần cụ hưu, người đang ở trong tình cảnh không biết chết sống ngày nào, nếu có bị cô hầu non bạc bẽo hành hạ hay phản bội cũng là việc có thể đoán trước được. Bà con của cụ nghĩ rằng cụ chỉ đang gặt hái những gì cụ đã gieo ra mà thôi. Mặt khác, nếu ta đặt mình vào địa vị

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 385

của cô hầu non, hãy còn quá đẹp và quá trẻ, mà bị bắt buộc chầu chực ngày này qua ngày khác bên cạnh một cái thây sống dở chết dở để nhìn mãi cái màu không thay đổi của mặt biển, thì mới thông cảm cho nỗi bực dọc của cô ta. Từ buổi đầu, cô đã chẳng có một chút cảm tình nào với cụ, cái gì vơ vét được thì cô vơ vét hết cả rồi, cụ hưu lại đang lâm bệnh nặng và bị thân bằng quyến thuộc bỏ rơi nên cô nàng mới nghĩ không lý gì chờ đợi lâu la, đây đã đến lúc cho người sắp chết thấy được tình cảm thật của mình.

O-Fumi-san biến mất như thế ít nhất năm ngày một lần. Người bệnh tỏ ra hết sức bực dọc mỗi lần cô ta vắng nhà. Trong khi một câu nói của cô gái đủ làm cho cụ hiền lành ngoan ngoãn như một chú mèo thì chỉ cần cô ấy đi khuất là cơn thịnh nộ của cụ đùng đùng đổ lên đầu chị người làm. Đang hùng hùng hổ hổ nhưng hễ nghe tiếng guốc geta báo hiệu O-Fumi-san sắp về là cụ giả vờ nhắm mắt ngủ và ngưng tất cả những hành động phản kháng. Thái độ tiền hậu bất nhất của cụ trông hài hước đến nỗi O-Sada cũng không khỏi tức cười.

Ngoại trừ O-Fumi-san, trong ngôi biệt thự còn có thêm ba người khác nữa: chị giúp việc O-Sada, em đây và một anh đàn ông phụ trách tắm rửa cho cụ. Nhân vì O-Fumi-san khôn còn ngó ngàng gì đến ông cụ, O-Sada phải kiêm luôn cả nhiệm vụ y tá. Tuy bác sĩ nhiều lần thôi thúc cụ đặt một người y tá chuyện nghiệp bên cạnh nhưng cụ nhất nhất từ chối. Có lẽ dù đã liệt giường, nhấc người lên không nổi, nhưng cụ không bao giờ muốn những hành vi bí mật của mình bị tiết lộ. Chắc cụ cho rằng sự hiện diện của người y tá nào đó có thể làm cụ hết thoải mái trong khi đi tìm khoái lạc. Chỉ có ba người chia sẻ với cụ bí mật ấy: O-Fumi-san, chủ nhân của đôi bàn chân xinh đẹp, em và chị giúp việc O-Sada.

Từ khi cụ hưu dọn về sống ở Kamakura, em thường xuyên lui tới thăm viếng, chỉ vì đôi chân của O-Fumi-san, chứ không phải bản thân nàng, đã khiến em nhung nhớ vô cùng. Phần nàng, vì không thể kiếm cớ bỏ nhà đi mãi được, cũng như cần người nói chuyện cho đỡ chán, đã tiếp nhận em với tất cả sự thân ái. Từ dạo đó, em thường trốn học và xuống ở lì suốt hai ba hôm liền dưới Kamakura. Tuy nhiên, cái người còn mong

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 386

đợi một cách nồng nhiệt những chuyến thăm viếng của em hơn cả O-Fumi-san, chính là cụ hưu. Đó chỉ là chuyện tự nhiên thôi. Bởi vì làm sao cụ có thể thỏa mãn hết dục vọng của mình nếu không được em tiếp sức? Đối với một người đã liệt giường liệt chiếu như cụ thì sự có mặt của em cũng quan trọng như O-Fumi-san vậy. Nhất là khi cụ, vì nằm mãi trên giường nên lưng đã lở loét và không còn đủ sức lết ra tới nhà vệ sinh. Cụ hết giả làm chó để đùa nghịch được nữa rồi, chỉ còn biết thừ ra chiêm ngưỡng đôi chân của O-Fumi-san mà không biết phải hành động như thế nào. Cụ xin cô hầu non ngồi lên chiếc chõng tre mà cụ đã cho dọn đến cạnh đầu giường và bắt em đóng vai con chó trong khi cụ mê mải nhìn tấn tuồng xảy ra trước mắt. Em tưởng tượng ra những lúc như thế, ông cụ phải chịu một sự xúc động ghê gớm, có hại cho sức khỏe đã suy nhược của cụ. Riêng em cũng phải thú thực có cảm thấy một sự thỏa thích trong khi đóng vai con chó. Do đó, em đã vui lòng chấp nhận lời yêu cầu của cụ. Nhiều lúc, không để cụ phải nhờ, em đã tự ý bày ra lắm trò điên loạn. Trong khi viết những dòng chữ này, những hình ảnh ấy như hãy còn nhảy múa sống động trước mắt em. Ôi chao, cái cảm giác em nhận ra khi bàn chân của O-Fumi-san lướt trên mặt em làm lồng ngực em tràn trề hạnh phúc. Em, người được nàng đưa chân dẫm lên còn có diễm phúc hơn cả cụ hưu, lúc ấy chỉ biết say đắm chong mắt ra nhìn. Tóm lại, em đã thay thế cụ hưu để tán tụng bàn chân của O-Fumi-san, trình bày trước mắt cụ bao nhiêu là quang cảnh thần tiên, tạo cho cụ dịp được thờ phượng nó. Còn O-Fumi-san, khi thấy hai người đàn ông lăng xăng quấn quít bên đôi bàn chân mình như trước món đồ chơi, có lẽ cười chúng em là một lũ đã hóa khùng rồi cũng không chừng.

Cái khuynh hướng lệch lạc cuồng bạo của cụ hưu, được trợ lực bằng sự đồng lõa có một không hai của em, trở thành mãnh liệt theo đà tàn phá của chứng lao phổi ngày một trầm trọng. Em không thể bảo mình hoàn toàn trong trắng bởi vì chính em đã bày trò đưa đẩy ông lão đáng thương kia xuống đáy vực này. Thế nhưng giờ đây, cụ ta không chỉ bằng lòng đóng vai trò một người xem suông mà còn đòi hỏi em phải để cụ tự tay đụng vào đôi bàn chân của cô hầu non, điều mà cụ xem như là một quyền lợi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 387

- O-Fumi-san ơi, tôi sắp hết số rồi. Em có thể nào đưa bàn chân dẫm lên mặt tôi một ít lâu không. Được như vậy thì có xuống suối vàng, tôi cũng không còn gì ân hận...

Trong khi đờm dãi còn mắc nghẹn trong cổ họng và giữa tiếng thở khò khè đứt quãng, cụ hưu thì thào cầu xin. Nghe thế, O-Fumi-san cau đôi mày liễu, khuôn mặt nàng đau khổ như người vừa đạp phải một con giun đất, rồi chẳng nói chẳng rằng, cô lấy gan bàn chân mềm mại của mình đặt lên khuôn mặt tái mét của con bệnh. Dưới bàn chân mỹ miều, tràn đầy sinh lực, con bệnh với khuôn mặt đã lạc thần và gầy gò bất động, như đang chìm đắm trong một niềm ngưỡng mộ vô biên. Ông cụ giống tảng băng sắp sửa tan thành nước dưới ánh sáng mặt trời ban mai, tràn đầy sự biết ơn vì đã đạt được hạnh phúc tột cùng, người duỗi ra nhè nhẹ tưởng chừng sắp sửa bước vào giấc ngủ vĩnh viễn. Đôi khi, vẫn trong cùng một tư thế, ông cụ lại đưa hai bàn tay khẳng khiu lên khỏi đầu để thử sờ vào đôi chân của O-Fumi-san.

Đúng như lời tiên đoán của bác sĩ, kể từ đầu tháng hai năm nay, bệnh tình cụ hưu đã bước vào giai đoạn nguy kịch. Thế nhưng cụ vẫn còn tương đối tỉnh táo, đôi khi như chợt nhớ ra, thường hay đòi hỏi bàn chân của người thiếp yêu. Cho dù hết còn thiết gì đến ăn uống thế nhưng khi O-Fumi-san tẩm một chút sữa bò hay miếng xúp vào một mảnh vải đưa lên miệng cụ và dùng mấy ngón chân để giữ miếng vải đó là thấy cụ cứ mút lấy nó một cách tham lam như người bị nhịn đói quá lâu. Đầu tiên, cách thức này được cụ khám phá ra, rồi khi bệnh trở nặng, nó đã thành một thói quen. Nếu có ai từ chối cho cụ ăn kiểu này, cụ bướng bỉnh không chịu đụng vào món khác. Ngay cả O-Fumi-san, khi cho cụ ăn cũng chỉ được phép dùng chân chứ không được dùng tay.

Hôm cụ lâm chung, cả O-Fumi-san và em đều túc trực bên giường từ buổi sáng. Đến ba giờ chiều thì bác sĩ có mặt, chích cho cụ một mũi dầu long não rồi về. Cụ hưu lên tiếng:

-Thế là hết! Tôi sắp tắt hơi rồi. ...O-Fumi, O-Fumi ơi, em cứ để nguyên bàn chân ở đó cho tới khi tôi nhắm mắt, nghe em! Tôi muốn được chết với bàn chân của em dẫm lên mặt!...

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 388

Hơi của cụ yếu ớt tưởng chừng nghe không rõ nhưng mỗi chữ đều phát âm ràng mạch. O-Fumi-san thì vẫn giữ thái độ cố hữu, không nói không rằng, gương mặt kiêu kỳ, còn bàn chân thì đã đặt lên khuôn mặt con bệnh. Từ lúc đó cho đên khoảng năm giờ rưỡi chiều là lúc ông cụ trút linh hồn, trong suốt hai tiếng rưỡi đồng hồ, cô cứ phải đứng dẫm liên tiếp nên đã mỏi chân, đành ngồi xuống cái chõng tre, thế rồi, hết chân phải sang chân trái, thay phiên nhau mà dẫm. Cụ hưu trước sau chỉ gật đầu và se sẽ nói có một lời:

-Cảm ơn em ....

Thế nhưng O-Fumi-san chỉ lặng thinh, không chút phản ứng. Không biết có phải là em tưởng tượng quá mức hay sao mà lúc đó thấy nơi khóe miệng nàng phảng phất một nụ cười nhạt như muốn nói: "Đành vậy chớ sao! Ổng ta chẳng còn bao lâu, thôi thì mình ráng chịu đựng thêm chút nữa!".

Ba mươi phút truớc giờ ông cụ ra đi vĩnh viễn, Hatsuko, cô con gái của cụ đã tất tả chạy từ cửa tiệm ở Nihonbashi đến nơi, và dĩ nhiên là cô ta phải chứng kiến cái quang cảnh vừa lạ lùng, vừa nực cười, nói chung là quái đản này. Thay vì buồn thương trước phút lâm chung của cha già, cô chỉ thấy khiếp sợ dựng cả tóc gáy, mặt cúi gầm cứng nhắc, không nỡ đưa mắt nhìn. Tuy nhiên O-Fumi-san trước sau vẫn dửng dưng, như muốn nói rằng vì được nhờ nên cô bắt buộc phải làm và tiếp tục đặt bàn chân của mình giữa khoảng đôi mày của cụ hưu. Phải ở trong địa vị của Hatsuko thì mới rõ cô ta khổ tâm biết là chừng nào, thế nhưng O-Fumi-san thì vẫn là O-Fumi-san, có lẽ tình cảm thù địch của nàng đối với gia đình ông cụ đã khiến cho nàng cố ý giữ thái độ như thế để trêu ngươi tất cả bọn họ. Tuy vậy, thái độ cứng cỏi ấy lại có một kết quả không chờ đợi là đem lại cho con bệnh một nguồn an ủi không gì to lớn hơn. Chính nhờ O-Fumi-san xử sự như vậy mà ông cụ đã nhắm mắt ra đi trong niềm hoan lạc. Trong khi cái chết gần kề, cụ đã được bàn chân của người đẹp như một chòm mây tím [22] buông xuống tự trời cao để tiếp dẫn linh hồn.

*

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 389

Thưa thầy,

Đến đây em xin phép chấm dứt câu chuyện ông lão Tsukakoshi. Bắt đầu em chỉ muốn thông tin sơ qua cho thầy thôi, rốt cuộc đã viết vòng vo kéo ra dài dòng đến thế này. Em hết sức hối hận vì mình không biết thu vén câu chuyện nên đã làm thầy mất bao nhiêu thời giờ quí báu. Thế nhưng câu chuyện về cụ hưu mà em vừa thuật ra ở trên, chắc cũng có điểm nào đó đáng cho thầy để mắt tới, phải không ạ? Ví dụ câu chuyện muốn cho ta thấy rằng tính tình con người ở đời vốn bắt nguồn từ những cội rễ rất sâu xa. Lối hành văn của em hãy còn vụng về nhưng em tin chắc rằng, nếu được thầy ra tay sửa chữa những chỗ khiếm khuyết, em nghĩ bản văn này có thể dùng làm chất liệu để thực hiện một truyện ngắn, đó thầy.

Đến đây em xin dừng lời và kính chúc thầy đạt nhiều thành quả trên trường văn trận bút.

Một ngày tháng 5 năm thứ 8 đời Taishô

Trình dưới án thư nhà văn Tanizaki.

Noda Unokichi kính bút.

(Dịch xong ở Tokyo ngày 6 tháng 6 năm 2008)

[1] - Văn Bản:

1) Tanizaki Jun.ichirô, 1981, Fumiko no ashi, trong Toàn Tập Tanizaki Jun.ichirô, quyển thứ 6, trang 357-393, Chuô Kôron, Tôkyô xuất bản, tái bản lần thứ nhất năm 1992. Nguyên tác Nhật ngữ.

2) Lévy-Faire d�Acier, Madeleine, 1986, Le Pied de Fumiko, dịch sang Pháp văn từ Fumiko no ashi, đăng trong Tanizaki Oeuvres, Tome I, trang 431-458, Gallimard xuất bản, 1997. Bản tham chiếu.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 390

[2] - Để ý đến lối chơi chữ của Tanizaki: Fu (Phú). Mi (Mỹ). Ko (Tử), chỉ người con gái đẹp. Ngoài ra danh động từ Fumi đến từ động từ Fumu có nghĩa là dẫm lên, đi lên trên, chà đạp.

[3] - Hangyoku nhận phân nữa tiền thù lao trong khi ippon lấy nguyên.

[4] - Bàn có phủ chăn bông dưới mặt bàn, bên dưới thường có lỗ khoét trên nền nhà đặt lò sưởi. Ngày nay, kotatsu không cần khoét lỗ nữa vì gắn lò sưởi điện

[5] - Truyện tếu bình dân với kết luận không ngờ. Nội dung châm biếm hoặc khôi hài, thường là do những người chuyên nghiệp gọi là rakugoka trình diễn.

[6] - Áo dệt kiểu bình thường bằng sợi vải thường, nhã nhặn, không kiểu cách.

[7] - Thật ra phải dịch "miệng cóc" nhưng lối ví von này hơi xa lạ với độc giả Việt Nam.

[8] - Một kiểu bới tóc của geisha hay đào hát, thành hình cũ hành tây dẹp ở đằng sau đầu, bắt nguồn từ kiểu bới tên là shimadamage. Kiểu shimadamage tương truyền do kép tuồng Kabuki tên Shimada Mankichi đề xướng trong năm Kan.ei (1624-44).

[9] - Nguyên văn Fujigata: hình núi Fuji, có nghĩa là cái trán tròn trịa cân đối với một vết lõm ở giữa, giống như đỉnh ngọn núi lửa Fuji, tựa một cánh quạt xòe đặt ngược.

[10] - Nguyên văn dangobana : mũi tròn như viên bánh bột gạo.

[11] - Nguyên tác ukeguchi (miệng hứng), môi dưới hơi trề ra như hứng đồ vật. Đặc biệt Tanizaki cũng có cặp môi như thế này (xem chân dung ở đầu truyện, chụp năm 1964, một năm trước khi ông mất).

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 391

[12] - O-Fumi san là tiếng gọi Fumiko khi ở vị trí còn giữ khoảng cách, trong khi Fumi và Fumiko là tiếng tự xưng, cũng là tiếng gọi trong chỗ thân tình hay do một người ở vai vế trên. Cả ba cùng một nghĩa.

[13] - Đơn vị đo diện tích đất cát của Nhật, ước chừng 3,306m2,

[14] - Nguyên văn Nise Murasaki Inaka Genji (Truyện anh Genji nhà quê do bà Murasaki giả mạo soạn), tiểu thuyết phong lưu miệt vườn nhái theo tác phẩm cổ điển của nữ quan Murasaki Shikibu thời Heian.

[15] - Ryuutei Tanehiko (1783-1842), tiểu thuyết gia bình dân cuối đời Edo.

[16] - Nhà danh họa thời Edo, Utagawa Kunisada (1786-1864), có nhiều kiệt tác.

[17] - Tranh lối Nhật miêu tả thiên hình vạn trạng nếp sinh hoạt trong xã hội bình dân.

[18] - Chính ra phải viết là shinkô (âm o dài), dưa muối xổi bằng củ cải, màu rất trắng.

[19] - Nguyên văn tiếng Anh.

[20] - Có thể Tanizaki ám chỉ tác phẩm của Richard von Krafft-Ebing.

[21] - Một loại rượu ngọt cất từ nếp hay gạo, dùng để gia vị khi nấu ăn.

[22] - Tín ngưỡng Phật giáo của giới bình dân Nhật Bản cho rằng tu hành được vãng sanh thì lúc lâm chung sẽ được Phật tổ cho một đám mây lành màu tím đến rước về cõi Tây Phương.

 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 392

HẸN MÙA HOA CÚCNguyên Tác : Kikka no Chigiri 

Tác Giả : Ueda Akinari (1734-1809)

Người Dịch : Nguyễn Nam Trân

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 393

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Lời Người Dịch :

Nguyên tác Kikka no Chigiri ( lời ước hẹn gặp lại nhau giữa mùa hoa cúc) của Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành) đã in trong Ugetsu Monogatari(Vũ Nguyệt Vật Ngữ) hay Truyện Đêm Mưa Trăng Lu. Theo lời tựa, tập truyện được viết xong vào một đêm tháng ba trời mưa trăng lu năm Minh Hòa thứ 5 (1768), lúc tác giả 34 tuổi. Bản đầu tiên in năm An Vĩnh thứ 5 (1776). Người dịch dùng bản được Asano Sampei hiệu chú và nhà xuất bản Shinchô phát hành năm 1979.

Sinh năm 1734 trong một xóm yên hoa ở Osaka (1) , Ueda là đứa con vô thừa nhận của một cô gái làng chơi. Lên bốn, mẹ bỏ không nuôi, được một thương gia giàu có và tốt bụng nhưng không con trai, đem về cho ăn học. Ông bị lên đậu ngặt nghèo, tuy thoát chết nhưng liệt hết mấy ngón tay (nên một trong những bút hiệu của ông là Zenshi Kijin (2) nghĩa là Quái Nhân Cụt Ngón). Sau khi sống một quãng đời thanh niên đồi trụy, ông sớm thức tỉnh trở lại nối nghiệp cha nuôi buôn dầu và buôn giấy nhưng không mấy chí thú vì vẫn mang giòng máu nghệ sĩ. Năm 1771, sau trận hỏa tai làm tiêu tan sản nghiệp, ông chuyển sang nghề đông y và viết văn. Cuối đời (1793), về sống ở Kyoto và mất năm 1809,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 394

trong nghèo túng, vợ chết, không con cái và hầu như mù.

Tên tuổi Ueda Akinari gắn liền với văn xuôi Nhật Bản cận đại. Ảnh hưởng của ông rất sâu đậm đối với Kyokutei Bakin (1767-1848), tiểu thuyết gia số một thời Edo và những thế hệ đi sau (3). Phần ông thì chịu ảnh hưởng của các tiểu thuyết gia đời Minh như La Quán Trung (4), Phùng Mộng Long (5) ... Riêng Hẹn Mùa Hoa Cúc đã mượn đề tài truyện " Phạm Cự Khanh Kê Thực Sinh Tử Giao " (6) sưu tập trong tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc của họ Phùng, Cổ Kim Tiểu Thuyết, quyển thứ 16. Akinari thích viết truyện quái đản vì nó là loại văn phổ biến nhất trong quần chúng đương thời nhưng có thể một phần do bản chất thần bí của chính ông. Suốt đời, ông hay viếng đền thần chồn Inari vì tin thần đã cứu mạng lúc mình lâm bạo bệnh.

Giáo sư René Sieffert đã dịch truyện nầy sang Pháp văn (xem Le Rendez-vous aux Chrysanthèmes trong Contes de pluie et de lune, Unesco, Folio, Paris, 1956). Xin để ý lời văn trong truyện nầy tuy có dụng công nhưng chung qui rất thô phác, cổ kính, ngay khi đã được chuyển ra kim văn. Niên hiệu An Vĩnh (An-ei, 1772-1781) bên Nhật, lúc tác phẩm ra đời, tương đương với thời Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh ở nước ta.

***

Liễu mùa xuân xanh mơn mởn nhưng xin đừng trồng liễu trong vườn nhà. Cũng như chớ kết giao với hạng người khinh bạc. Dương liễu xum xuê đấy nhưng không chịu nổi trận gió đầu thu, khác nào người khinh bạc dễ nhạt mối giao tình. Liễu kia còn thắm lại lúc xuân về chứ người khinh bạc một đi không hề trở lại.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 395

Ở trạm Kako xứ Harima có người hàn sĩ học rộng tên gọi Hasebe Samon. Cam cảnh thanh bần, chỉ làm bạn với sách vở, trong nhà không của cải phiền toái. Mẹ già đưa thoi không thua gì Mạnh mẫu (7), suốt ngày chẳng rời giường cửi, những mong giúp con đạt chí nguyện bình sinh. Cô em gái út đã về làm dâu họ Sayo cũng chỗ làng nước. Nhà Sayo của cải ức vạn nhưng vốn biết mẹ con Hasebe là hiền nên mới xin kết thông gia và rước cô ta về. Đôi lúc họ mượn cớ nầy việc nọ để đem đồ biếu xén nhưng mẹ con cho rằng " chớ vì miếng ăn mà phải lụy người " nên vẫn thoái thác.

Một hôm, Hasebe Samon đến thăm người bạn tên Mỗ cùng thôn, trong lúc hai bên đang cao hứng bàn chuyện xưa nay bỗng nghe cách vách có tiếng rên rỉ bi ai. Samon bèn hỏi thăm. Chủ nhà trả lời : " Người nầy xem ra gốc gác ở miền Tây, nhân không bắt kịp bạn đồng hành để lỡ độ đường, mới xin tôi cho tá túc qua đêm.  Tôi thấy ông ta tướng mạo đường đường như con nhà vũ sĩ nên nhận lời. Chẳng ngờ từ đêm hôm đó bị lên sốt nặng, nằm li bì, đáng thương lắm. Đã ba bốn bữa rồi cứ như thế, tôi lại chẳng biết nhà cửa quê quán ông ta, nghĩ mình thật vụng tính. Bây giờ có hơi hối " . Samon nghe qua mới bảo : " Thế thì tội nghiệp quá. Bác có lo lắng cũng đúng. Mang bệnh vào thân giữa đồng đất nước người không ai quen biết thì cơ khổ. Thôi để tôi khám xem sao " . Nói xong, đã thấy chủ nhà lên tiếng : " Tôi nghe bệnh dịch hay lây, trẻ con trong nhà còn không cho bước vào phòng đó. Đừng mang họa vào thân " . Samon mới cười : " Sống chết tại trời, ai truyền bệnh được. Thiên hạ không biết cứ nghe, mình tin theo làm gì! " . Rồi đẩy cửa đi vào. Samon thấy người khách đang nằm, đúng như nhà chủ nói, có phong thái khác phàm nhưng đang nhuốm bệnh nặng nên mặt mày vàng võ, người gầy đen, co quắp dưới một mảnh chăn cũ. Người ấy nhìn Samon với vẻ mừng rỡ, miệng nói " Làm ơn cho xin miếng nước nóng " . Samon ngồi sát con bệnh và bảo " Xin tôn ông chớ lo, thế nào tôi cũng chữa cho khỏi " . Thật bỏ rơi cũng chẳng nỡ, mới xin phép nhà chủ khám bệnh xong, tự mình cho toa, bốc, sắc thuốc, lại đút cháo, lo lắng trông nom đủ điều chẳng khác ruột thịt. Người vũ sĩ thấy Samon tận tụy, cảm động ứa nước mắt thưa : " Ông đối xử tốt như thế đến cả kẻ trôi dạt nầy sao ? Tôi có chết cũng chẳng báo đáp nổi tình thâm " . Samon mới can : " Tôn ông

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 396

thốt chi những lời bi quan thái quá. Phàm bệnh dịch tất phải chịu đựng ít hôm. Tai qua nạn khỏi còn sống dai nữa đấy. Tôi sẽ qua đây trông nom ông mỗi ngày " . Đúng như lời hứa chân tình, Samon săn sóc thật tận tâm nên dần dần, người vũ sĩ cảm thấy bệnh thuyên giảm, thân thể nhẹ nhõm hẳn, nồng nhiệt tỏ lòng cảm tạ. Vì kính mến công ơn, người ấy mới hỏi thăm gia cảnh Samon và thuật cho nghe gốc gác của mình: " Tôi tên Akana Sôemon, sinh trưởng ở vùng Matsue xứ Izumo, vốn thông hiểu chút binh pháp nên được ngài Enya Kamon-no-suke, quan trấn thủ thành Tomita, tôn làm thầy. Nhân có việc cơ mật, ngài Enya mới gửi tôi đi gặp Sasaki Ujitsuna ở Ômi. Lúc đang ở công quán dưới đó chợt nghe tin chức trấn thủ cũ là Amako Tsunehisa kéo bọn Yamanaka về hùa, nhằm đêm giao thừa bất ngờ leo vào chiếm thành, giết hại chủ tôi. Nguyên lai, vùng Izumo vẫn là đất phong của họ Sasaki, còn ngài Enya phụ tá việc cai trị. Tôi mới khuyên Sasaki Ujitsuna " Xin hãy giúp bọn Mizawa và Mitoya tiễu trừ bè đảng Amako Tsunehisa hộ " . Khổ nỗi Ujitsuna bề ngoài xem ra dũng mãnh, bên trong chỉ là kẻ khiếp nhược ngu tối. Tôi bắt buộc nán lại Ômi. Thấy mình ở đó lâu cũng chẳng được việc, tôi mới lẻn trốn về xứ, ai ngờ giữa đường lâm trọng bệnh, để nhọc lòng ông, thật thân này may có phước phần. Trong nửa đời còn lại, nhất định có ngày báo đáp " . Samon gạt đi : "Tôi giúp tôn ông là vì tình người, thấy kẻ hoạn nạn làm ngơ không đành, đâu thể nào nhận lời cảm ơn quá nồng hậu của ông. Ông cứ nán lại nghỉ ngơi cho khoẻ đã " . Câu nói chí tình như thêm sức nên lần hồi con bệnh hoàn toàn bình phục.

Samon có cảm tưởng mình đã tìm ra người tri kỷ. Những lúc ngày đêm trò chuyện, nhân bàn đến kinh điển bách gia chư tử, cách đặt vấn đề cũng như lối giải đáp của Akana chứng tỏ ông ta không hề thiếu kiến thức. Đặc biệt khách lại giỏi binh thư, mỗi lần bàn bạc, hai bên đều tâm đầu ý hợp, rất ư vui thoả nên cuối cùng, họ ước với nhau kết nghĩa anh em. Akana lớn hơn năm tuổi, nhận lễ làm anh, xong hướng về Samon nói : " Cha mẹ ngu huynh mất đã lâu, mẹ già của em tức là mẹ anh. Vậy anh xin phép đến vái chào để mẹ nhận tấm lòng thành của anh xin được làm con " . Samon khôn xiết vui mừng đáp : " Mẹ hằng tội nghiệp em một thân một mình. Nếu được như huynh trưởng nói, chắc mẹ vui mà tăng tuổi thọ " . Họ đưa nhau về nhà, bà mẹ mừng rỡ tiếp đón : " Thằng

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 397

con của mẹ bất tài, lại bỏ công đi học những chuyện chẳng hợp thời, đường mây lỡ bước. Chỉ xin anh chớ ghét bỏ mà dạy dỗ nó hộ ta " . Akana vui mừng cúi lạy : " Đại trượng phu xem trọng nghĩa khí, chứ coi công danh phú quí có ra chi. Nay tôi được mẹ yêu, em kính, không dám trông mong gì hơn " , rồi ở trọ lại nhà đó ít lâu.

Hoa trên non mới nở hôm nào nay đã bay tả tơi, gió hây hẩy lăn tăn ngọn sóng, không nói cũng biết trời đã vào hè. Akana mới thưa với hai mẹ con : " Tôi trốn khỏi Ômi cũng vì có chủ đích về Izumo thăm dò động tĩnh. Tôi sẽ xuống đó ít lâu nhưng cố gắng chóng quay lại đây và dù rau cháo qua ngày cũng cố gắng báo đáp ân tình. Vậy xin từ biệt " . Samon mới hỏi: " Thế huynh trưởng đã định ngày nào trở lại đây chưa ? " . Akana bảo : " Ngày tháng như tên bắn, chắc nội mùa thu này thôi, em ạ " . Samon lại hỏi : " Có thể nào hứa trước với em ngày anh về được không ? " . Akana nói : " Anh định về giữa tiết trùng dương, có được không ? " Samon thưa : " Huynh trưởng đừng sai hẹn nhé. Em sẽ ngâm sẳn một cành hoa cúc trong vò rượu nhạt để đợi anh " . Sau khi đã thành thực ước hẹn với nhau như thế, Akana mới sang miền Tây.

Bóng câu thấm thoát, những nhánh thù du dưới thấp đã sẫm mầu, chen với cúc dại huy hoàng vàng lưng dậu, tháng chín đến rồi. Ngày mồng chín, Samon dậy sớm hơn thường nhật, quét chiếu nhà cỏ cho sạch, chưng trong lọ con hai ba nhành cúc vàng cúc trắng, vét cạn hầu bao bày cơm rượu.

Bà mẹ bảo : " Mẹ nghe Yakumo ở tận cùng xứ San-in bên kia núi cách đây đến cả trăm dặm đường, anh con làm sao về cho kịp. Vậy chờ khi nào anh ấy đến nơi hãy sửa soạn! " . Samon thưa : " Anh con là người trọng chữ tín, thế nào cũng giữ lời hứa. Nếu đợi anh ấy về mới hấp tấp bày tiệc thì thật đáng thẹn " . Bèn mua rượu ngon, nấu cá tươi để sẵn trong bếp.

Ngày hôm đó trời quang đãng, nhìn ngút mắt không lấy một gợn mây. Bọn lữ khách gối đất màn sương nhập bọn trên đường kháo với nhau " Ai thượng kinh hôm nay nhằm ngày tốt đấy. Trời quang mây tạnh là điềm buôn bán có lời " . Một người vũ sĩ xấp xỉ năm mươi nói với một

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 398

anh trai trẻ khoảng hai mươi ăn mặc cùng một kiểu : " Trời đẹp thế nầy, nếu từ Akashi mướn được thuyền mà rong buồm đi sớm thì chiều chắc kịp qua đêm ở cửa Ushimado. Chỉ vì bọn trẻ ngại sóng gió, mình đành chịu tốn kém. " . Anh kia vừa đi, vừa vuốt giận ông bạn : " Lúc lệnh bề trên nhà ta lên kinh, từ đảo Shôzujima qua bến Murozu, ngài cũng gần chết khiếp. Cứ theo lời bọn tùy tùng học lại, vùng biển này đáng sợ lắm đấy. Thôi đừng tức tối nữa. Để sang bến Uogahashi, tôi mời bác tô mì " . Một gã dắt ngựa đang phát cáu với con vật : " Cái con chết chương nầy, sao đi mà không chịu chong mắt ra cho ông nhờ! " , nói xong sắp ngay ngắn bọc hàng trên yên rồi ẩy ngựa bước tới. Quá ngọ vẫn chưa thấy bóng Akana. Rồi mặt trời ngả sang đoài, khách bộ hành ai nấy đều rảo bước tìm chỗ qua đêm. Mỗi Samon mắt vẫn đăm đăm nhìn về xa xôi, ruột gan nóng như nung.

Bà mẹ gọi Samon bảo : " Chỉ mong lòng người không thay đổi như trời thu chứ hoa cúc đâu chỉ thắm mỗi hôm nay. Như anh con giữ chữ tín quay về thì dù phải chờ đến khi mưa lạnh báo thu tàn, con cũng chẳng có gì để trách anh. Thôi vào nhà nghỉ đi, mai hẵng đợi " . Samon không dám trái ý, mới cùng lui vào trong, mời mẹ đi ngủ trước, rồi ra ngoài cửa nhìn lên, thấy bên sông Ngân là vầng trăng bạc soi mỗi bóng mình, lòng lại thêm buồn. Chỉ nghe tiếng sủa của con chó giữ nhà và tiếng sóng vỗ ngoài bến vọng tới. Đến khi trăng lặn bên sườn núi, đang nghĩ mình quên chưa đóng cổng, bất chợt nhìn lên thì thấy trong khoảng đêm đen có một bóng người lay động theo làn gió lại gần, nhìn mãi mới biết chính là Akana Sôemon.

Samon mừng rỡ nói như reo : " Tiểu đệ đợi từ sáng sớm đến giờ. Anh giữ lời ước về được thật không gì vui hơn. Mời anh vào trong cho! " . Nghe nói thế, Akana chỉ gật đầu mà không ừ hử. Samon đi trước dẫn đường, mời Akana ngồi vào chỗ dưới song cửa sổ phía nam, xong thưa : " Huynh trưởng chậm về, mẹ già không chờ được, e rằng anh mai mới đến nơi nên đã vào trong nghỉ rồi. Để em đánh thức mẹ nhé! " . Akana lắc đầu một lần nữa ngăn Samon lại nhưng vẫn chẳng nói chẳng rằng. Samon mới thưa : " Anh lặn lội đêm hôm, hẳn nhọc mệt vì đường sá. Vậy xin anh uống chén rượu mừng cho lại sức " . Bèn hâm rượu, bày

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 399

biện mấy món đưa cay. Akana nâng tay áo lên che mặt, làm như ngán mùi tanh của thức ăn. " Cơm nầy do chính tay em tuốt lúa giã gạo. Tuy chẳng có gì nhưng là chút lòng thành. Xơi một miếng cho em vui " . Akana vẫn không trả lời, chỉ thở dài buồn bã, mãi lâu mới lên tiếng : " Hiền đệ tiếp đón ân cần, anh từ chối sao đang. Tuy thế, anh không thể lừa dối em. Cho anh thưa thật và tuyệt đối đừng ngạc nhiên. Anh không còn là người trên dương thế nữa mà chỉ là một cô hồn vất vưởng hiện ra trong thân xác vay mượn nầy thôi. "

Samon hoảng kinh. " Huynh trưởng nói chuyện gì lạ lùng thế nhỉ. Em không thể tin được. " Akana mới bảo : " Khi anh từ biệt hiền đệ về đến quê nhà rồi, thấy người nước sợ oai lũ giặc Tsunehisa, đều quên ơn ngài Enya mà ngả theo chúng, Anh liền đến thăm Akana Tanji, người anh em họ trong thành Tomita. Hắn ta giải bày điều lợi hại và đưa anh đến gặp Tsunehisa. Anh bèn nhân cơ hội ấy dò xét quân tình. Quan sát thật kỹ mới biết tên Tsunehisa sức địch muôn người, lại khéo rèn luyện sĩ tốt. Tuy nhiên, về mặt mưu trí thì vì tâm địa đa nghi như chồn cáo nên hắn không có một ai gọi là gan ruột nanh vuốt. Ở lâu không tiện, anh mượn cớ ước hẹn với hiền đệ phải về cho kịp tiết trùng dương để xin kiếu. Chẳng ngờ Tsunehisa đâm ra oán ghét và hạ lệnh Tanji giữ riệt anh tận đến bữa nay, không cho lọt khỏi vòng thành. Anh sợ sai hẹn thì hiền đệ chẳng còn coi anh là người tín nghĩa nữa. Hết sức khổ tâm mà không biết tính sao. Cổ nhân có câu : Con người không ai đi nổi nghìn dặm mỗi ngày nhưng hồn phách thì thừa sức. Nhớ lời dạy đầy đạo nghĩa ấy, anh tự đâm cổ chết để đêm nay hồn nương theo luồng gió lạnh cõi âm về cho kịp lời ước hẹn gặp nhau giữa mùa hoa cúc. Hiền đệ đã thấu lòng anh chưa? " . Nói xong nước mắt ràn rụa : " Từ đây, chúng mình sẽ mãi mãi chia tay. Mong em thay anh chăm sóc mẹ già " . Mới thấy vừa đứng dậy khỏi chiếu tiệc, thoắt đã biến mất.

Samon lật đật chận lại thì ngón âm phong đã che mắt tối sầm, không nhận ra phương hướng nữa. Anh ta trượt chân bổ sấp, rồi cứ thế mà khóc lớn. Bà mẹ choàng tỉnh, đứng dậy nhìn ra chỗ con ngã thì thấy anh ta đang nằm giữa đống chén bát, bình rượu, đĩa cá, trên chiếu tiệc. Bà mới đến bên cạnh nâng dậy, hỏi " Gì thế hở con? " thì chỉ thấy Samon khóc

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 400

vùi, nấc nghẹn chẳng thốt được câu nào. Bà mẹ bảo : " Nếu mày buồn khổ vì anh mày lỡ hẹn thì ngày mai, lúc nó đến hãy nói cho nó biết. Cứ khóc thế nầy có phải ngốc không nào! " . Trước lời quở trách nghiêm khắc, Samon vội phân trần : " Đêm hôm nay, huynh trưởng nhớ lời hẹn cúc hoa đã về đến nơi đấy chứ. Con đem rượu và thức nhắm ra mời, anh ấy hai ba bận từ chối và kể sự tình xảy ra như thế nào, vì không muốn bội ước nên đã tự đâm cổ để linh hồn vượt trăm dặm tìm về " . Nói xong, anh ấy biến mất. Chính vì vậy con đã làm kinh động giấc ngủ của mẹ. Cúi xin mẹ tha thứ! " . Thấy nước mắt con lã chã, bà mẹ mới bảo : " Người trong ngục tối mong được cởi gông. Kẻ đang khát chỉ ước có miếng nước mát mà nhấp. Chắc con đang mang tâm trạng ấy. Hãy lấy lại bình tĩnh đi! " . Nghe thế, Samon lắc đầu : " Không phải mộng mị gì đâu mẹ. Huynh trưởng con có về thật đấy! " . Nói xong lại khóc đến quị xuống. Lúc ấy bà mẹ mới hết nghi ngờ và cũng oà theo. Đêm hôm ấy cả hai mẹ con cùng khóc than không dứt.

Rạng ngày, Samon dập đầu thưa với mẹ : " Con từ thuở nhỏ theo đòi nghiên bút nhưng ở chốn làng nước chưa tỏ điều trung nghĩa, trong nhà không tròn đạo hiếu kính, sống cũng như thừa. Nay anh Akana đã hủy tính mạng để giữ lời hẹn ước thì đứa em như con cũng phải lên đường đi Izumo nhặt nắm xương tàn của anh cho tròn chữ tín. Cho phép con đi một thời gian và nhớ bảo trọng mình vàng " . Bà mẹ lại nói : " Con có đi cũng cố về sơm sớm kẻo mẹ già tựa cửa. Đừng để lần từ biệt hôm nay thành ra cuộc chia ly vĩnh viễn. " Samon mới thưa : " Kiếp người bèo bọt, giữa ban mai nào biết được buổi chiều, nhưng con đi xong việc sẽ chóng quay về " . Nói xong lau nước mắt ra cửa, tạt qua bên Sayo nhờ chăm sóc mẹ già chu đáo, xong phăng phăng xuống Izumo. Trên đường đói chẳng buồn ăn, rét quên choàng áo, giữa giấc mơ cũng gào khóc, chỉ có mười hôm đã đến bên chân thành Tomita.

Việc trước tiên là tìm tới ngay phủ đệ của Akana Tanji, xưng tên xin gặp. Tanji bước ra nghênh tiếp, ngạc nhiên hỏi gặn : " Nếu không có tin nhạn đưa thư thì làm sao ông biết chóng vánh như thế " . Samon trả lời : " Kẻ sĩ không luận bàn chuyện phú quí hay là tình huống thế nào mà chỉ lo giữ điều tín nghĩa. Nay huynh trưởng Sôemon trọng lời thề thốt,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 401

chẳng tiếc thân, hồn thu đường đất trăm dặm tìm về cho nên tôi mới ngày đêm không nghỉ mà tới nơi đây. Tôi chỉ xin đem chuyện sách vở để hỏi một điều, mong ngài giải đáp cho. Xưa khi Công Thúc Tọa (8) nước Ngụy nằm trên giường bệnh, vua Ngụy đến thăm, thân cầm tay hỏi : " Nhỡ mai khanh có mệnh hệ nào thì lấy ai làm người chống đở xã tắc " . Tọa mới tâu : " Thương Ưởng tuy tuổi trẻ nhưng là bậc kỳ tài. Vương nếu không dùng hắn thì hãy giết đi chứ đừng để hắn ra ngoài cõi. Nếu cho hắn đi nước khác, chắc chắn mai sau sẽ rước họa " . Thực bụng tâu như thế xong, Tọa mới ngầm kêu Thương Ưởng vào bảo nhỏ: " Ta đã tiến cử ngươi nhưng nhà vua có ý không dùng. Ta lại bảo đã không dùng ngươi thì phải giết. Đó là đạo trước lo cho vua sau mới lo tới bầy tôi. Vậy ngươi nên mau mau trốn qua nước khác kẻo bị hại " . Câu chuyện nói trên nếu đem so với tình cảnh giữa ngài và Sôemon, hỏi khác nhau thế nào? " Tanji chỉ biết cúi gầm, không có lấy một câu.

Samon mới xích người lại gần hơn : " Anh Sôemon của tôi không chịu khuất thân thờ Amako vì nghĩ tình cựu giao với ngài Enya. Còn ngài bỏ chủ cũ Enya đi hàng Amako là không làm tròn đạo nghĩa của người vũ sĩ. Anh Sôemon giữ lời hẹn cúc hoa mà xả thân, hồn đi trăm dặm tìm về, coi chữ tín nặng nhường nào. Còn ngài, để làm đẹp lòng Amako, đã hành hạ cả cốt nhục để người ấy phải sát thân, quả không xứng đáng là một chiến hữu. Tsunehisa dù có ngăn chận thế nào đi nữa, ngài há không vì chút tình cố cựu mà ngầm giúp như Công Thúc Tọa đã đối xử với Thương Ưởng được hay sao? Chỉ lo sự phú quí cho riêng mình đâu phải là nền nếp vũ gia, có chăng chỉ là cách sống của bọn Amako mà thôi. Không hiểu sao anh ta lại không biết thế mà còn đưa chân đến chốn nầy làm gì? Ta hôm nay có mặt ở đây cũng vì đặt lòng trung nghĩa lên trên mọi sự. Còn mi, mi sẽ chuốc lấy cái tiếng bất nghĩa thối tha. " . Nói chưa hết lời đã tuốt kiếm chém Tanji (9) một nhát chết lăn tại chỗ. Thừa lúc bọn cận vệ còn đang nháo nhác bèn trốn đi không để lại dấu vết. Amako Tsunehisa nghe việc đó, thầm phục lòng trung tín của hai anh em, không hạ lệnh đuổi bắt Samon.

Ôi, chính vì thế mà ở đời, không nên kết giao với hạng người khinh bạc.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 402

Dịch xong ngày 21 tháng 10 năm 2003 Nguyễn Nam Trân

(1) - Xóm Sonezaki, nơi Ueda Akinari chào đời là bối cảnh nhiều tiểu thuyết của Ibara Saikaku (1642-1693) và tuồng hát của Chikamatsu Monzaemon (1653-1724), hai nhân vật kiệt xuất của văn học Nhật Bản tiền cận đại và bậc thầy của Akinari.

(2) - Ngoài biệt hiệu nầy, ông còn đặt nhiều bút hiệu có tính chất tự trào như Wayaku Tarô (người dịch ra văn Nhật), Muchô Kọji (người ngang như cua) hoặc Shiki Kọjin (kẻ học đòi khoác lác).

(3) - Tiêu biểu có Kôda Rôhan và Higuchi Ichiyô, hai nhà văn tên tuổi thời Meiji, Akutagawa Ryunosuke và Satô Haruo thời Taishô, ngoài ra còn kể đến Izumi Kyôka, Hayashi Fumiko, Okamoto Kanoko, Ishikawa Jun vv�

(4) - La Quán Trung tên thật là La Bản (?-?), sống vào thế kỷ 14, cuối Nguyên đầu Minh, tác giả các tiểu thuyết bạch thoại như Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa, Tùy Đường Lưỡng Triều Sử Truyện, Đường Ngũ Đại Sử Diễn Nghĩa, Bắc Tống Tam Toại Bình Yêu Truyện., Thủy Hử Truyện. Nhiều thuyết cho rằng Thủy Hử là tác phẩm của Thi An (tự Nại Am), người được xem như thầy của họ La.

(5) - Phùng Mộng Long (1574-1646), sinh năm Vạn Lịch đời Minh và mất năm Thuận Trị đời Thanh, tác giả các tập đoản thiên tiểu thuyết bạch thoại Cổ Kim Tiểu Thuyết, Tình Sử Loại Lược, Cổ Kim Tiếu, Tỉnh Thế Hằng Ngôn, Dụ Thế Minh Ngôn, Cảnh Thế Thông Ngôn.

(6)  - Truyện chàng Phạm Cự Khanh từ cõi chết về dự bửa cơm thịt gà với người sống

(7) - Mạnh mẫu, mẹ thầy Mạnh Kha, từng chặt đứt khung cửi (đoạn cơ) và dọn nhà ba lần để cảnh tỉnh con (tam thiên chi giáo).

(8) - Xem truyện Thương Ưởng trong Sử Ký Tư Mã Thiên.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 403

(9) - René Sieffert cho rằng chữ trung Nhật Bản cũng có giới hạn vì người đáng bị chém phải là Amako Tsunehisa chứ không phải Tanji, một kẻ chấp hành.

 

ĐỒI KHỈ (Saruzuka) 

- Osamu Dazai 

Người dịch : Cung Điền (Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 404

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai

HẾT

Ở thành phố Dazai của xứ Chikuzen có 1 thương gia giàu tên là Tokuzaemon. Nhờ làm chủ một tiệm rượu lớn do tổ tiên truyền lại đã tự mấy đời nên ông ta giàu nhất tỉnh, lại còn nổi tiếng gần xa vì có 1 cô con gái rất đẹp. Cô ấy tên Ô-Lan, từ thuở mới sáu, bẩy đã được thiên hạ tấm tắc khen vì nhan sắc hơn người. Nhìn vẻ kiều diễm của Ô-Lan, lắm kẻ trong tỉnh có lúc thấy tủi thân khi đem ra so sánh với con gái của miønh, và chỉ biết tìm đến men rượu để quên đi những niềm tuyệt vọng.

Ô-Lan năm nay vừa đến tuổi trăng tròn lẻ. Mỗi lần khoác lên tấm thân thanh mảnh của mình những chiếc áo Kimônô hoa gấm, vẻ đẹp lộng lẫy của nàng lại cứ như làm cho tất cả cỏ cây vạn vật chung quanh được rực rỡ hẳn ra. Nhìn nét mỹ miều sáng mơn mởn trong ánh nắng xuân, chính cả mẹ nàng cũng thấy ngẩn ngơ, quên khuấy đi không biết mình mới nói gì với con lúc nãy. Tiếng đồn về nhan sắc chim sa cá lặn bay xa, biết bao nhiêu tu mi nam tử chỉ mới tai nghe nhưng mắt chưa nhìn đã tơ tưởng yêu mê yêu mệt.

Gần vùng của nàng có 1 chàng trẻ tên Kuwamori Jiroemon, bố mẹ làm nghề cầm đồ nên gia đình cũng khá giả. Chàng này trông cũng không đến nỗi xấu trai lắm dù có khuôn mặt hơi bẹt với cái mũi lớn khổ, bộ râu rậm chổi xể, và đôi mắt thì quặp xuống. Nhưng anh chàng trông lương

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 405

thiện, có hàm răng xinh xắn, nụ cười khá dễ thương. Có lẽ nhờ ở các điểm đó mà hai người có duyên với nhau chăng? Ai cũng biết tình yêu thường mù quáng, điên rồ, và ta không thể đánh giá ai qua hình dáng bên ngoài. Thực tế là Ô-Lan đã phải lòng chàng ta, câu chuyện bắt đầu từ khi anh chàng Jiroemon vào trong quán rượu để tránh một cơn dông. Mọi sự xảy ra sau đó chỉ là phần nối dài của buổi đầu từ khi anh chàng nhờ may mắn mà lọt vào đuoc mắt xanh của người đẹp.

Trong khi cha mẹ đôi bên còn chưa rõ nếp tẻ, Jiroemon đã đem tâm tiønh thổ lộ cho Denroku, một người bán cá thường lui tới tiệm cầm đồ của nhà mình. Jiroemon nhờ Denroku tới gặp gia điønh Tokuzaemon để bàn bạc việc xin cưới Ô-Lan . Dĩ nhiên là lão Denroku xớm xởi nhận ngay vì đang nợ thâm niên với tiệm cầm đồ, nay bỗng được nhờ vả 1 chuyện mà anh chàng Jiroemon không tự lo liệu được. Lão ta nghĩ : tiệm cầm đồ nằm ở khu phố này thì quán rượu lại ở ngay khu phố kế cận, nếu mọi sự suông sẻ thì mình có thể uống rượu thoả thích mà lại có thể xin khất chuyện trả lãi cho món nợ. Lão chọn ngay một bộ đồ sang trọng trong những bộ quần áo cầm nợ ở tiệm cầm đồ, thắng bộ vào đàng hoàng rồi đi thẳng tới nhà Tokuzaemon với 1 vẻ thực tự tin, đến nỗi nhiøn thấy lão người ta cũng phải tự hỏi không hiểu đây là nhân vật nào vậy?

"Hì, hì" lão Denroku khoái trá cười thầm, hai bàn tay khép mở chiếc quạt nan kêu lách cách. Lão bắt đầu mở miệng khen những tảng đá trong khu vườn nhà Tokuzaemon. Phần lãoTokuzaemon, thoạt mới trông thấy Denroku đã muốn nổi gai ốc, nhưng lão trấn tĩnh cất tiếng hỏi:

- Thưa ông đến có chuyện chi ?

- À, cũng chẳng có chi !

Denroku trả lời bình tĩnh, lựa lời nói quanh co để đưa đến chuyện chàng Jiroemon nhờ vả : "Thưa ngài, ngài có quán bán rượu, họ đằng này có tiệm cầm đồ. Tuy hai công việc buôn bán khác nhau, nhưng quy lại cũng như là một. Để đến tiệm rượu, trước hết phải dừng tại tiệm cầm đồ; rời tiệm cầm đồ, sau đó đi tới quán rượu". Lão nói lảm nhảm, thuyết

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 406

rằng hai chuyện buôn bán đi liền với nhau như thầy thuốc và nhà sư, hai gia đình mà hợp lại với nhau thì như hùm thêm vây, sẽ đè bẹp cả thành phố. Lão Denroku mang hết tài ăn nói chưa từng thấy, đến ngay cả lão Tokuzaemon cũng cảm thấy xiêu lòng.

- Cậu Kuwamori là trưởng nam, là người thừa kế; tôi không đòi hỏi gì thêm cả. Thế còn tôn giáo của cậu ta thì sao ?

- À�có lẽ� lão Denroku ngập ngừng, rồi lão nói buột ra với vẻ tuyệt vọng: tôi không chắc cho lắm, nhưng họ chắc thuộc phái Tịnh Độ (1)

- Như vậy thì tôi không chấp nhận - lão Tokuzaemon trả lời thẳng thừng, miệng chu lại với dáng dữ dằn - Giòng họ nhà tôi theo phái Pháp Hoa (2)  đã lâu năm. Trong suốt đời tôi, chúng tôi tin vào ngài Nichiren(3), và sáng tối niệmphậttheo kinh Pháp Hoa. Tôi nuôi con như vậy, và không gả con tôi cho người nào khác đạo giáo.  Lão hằn học tiếp theo : "Thật tình, đã đi làm mai, ít ra ông cũng phải dò hỏi chuyện đó trước đã !".

- "Ờ.. mà ... tôi ... "  - lão Denroku toát mồ hôi lạnh sau lưng - "họ nhà phía chúng tôi cũng theo phái Pháp Hoa từ lâu năm. Chúng tôi cũng tụng niệm Phật, theo ngài Nichiren sáng tối. Tất cả đều cung cúc theo kinh Pháp Hoa. Thật tình là như vậy..."

- Tokuzaemon vặn lại: "Ông nói nhăng nói cuội gì vậy? Tôi không cần biết cậu ta có bao nhiêu tiền của, hay cậu ta có tài giỏi hay kẻng trai chi nữa. Sao? Thật đúng như là chửi vào mặt ngài Nichiren không bằng! Này ông thử nói cho tôi biết những cái hay cái đẹp của cái phái Tịnh Độ tối tăm này đi. Dám cả gan đi hỏi cưới con tôi khi chúng tôi theo phái Pháp Hoa từ bao năm nay. Cứ nhiøn đến cái mặt ông đã khiến tôi lộn cả ruột. Thôi , xin ông đi khỏi đây ngay!"

Denroku túng thế phải thối lui, mang tin buồn về cho Jiroemon. Anh chàng bình thản, nói: "Chuyện đạo giáo thì có chi mà bực mình. Gia đình tôi có thể đổi đạo dễ dàng. Từ mấy đời nay chúng tôi không có tín ngưỡng gì cả. Pháp Hoa hay Tịnh Độ, với chúng tôi đều như nhau". Rồi

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 407

chẳng mất thì giờ, Jiroemon tay cầm tràng hạt, và bắt đầu tụng kinh sáng chiều. Khi chàng ta xin cha mẹ hãy làm như mình, ông bà cũng không hỏi lý do. Vì chiều con trai, cả hai tuy mắt cứ liếc dọc liếc ngang nhưng cũng bắt đầu vừa ngáp vừa tụng kinh Liên Hoa Diệu Pháp.

Sau đó ít lâu, Denroku lại đến nhà Tokuzaemon. Với vẻ mặt tươi rói, lão tuyên bố rằng chàng Kuwamori cùng toàn gia đã đổi sang phái Nichiren, và đã tụng kinh Pháp Hoa. NhưngTokuzaemon là người khó tính, lão trả lời: "Không, đức tin mà thiếu cội rễ chỉ là hời hợt ngoài mặt. Ai cũng thấy ngay là anh chàng chỉ đổi tông phái để lấy Ô-Lan". Lão còn thêm: "Thái độ như vậy thật xấu hổ, ngài Nichiren khó mà chấp nhận thái độ này, vì chỉ thoáng qua là ai cũng thấy rõ ngay cái kế này". Lão đã quyết định trong đầu: "Không, ta sẽ gả con gái cho một gia điønh quen biết, cùng theo phái Pháp Hoa".

Nghe được câu chuyện, Jiroemon kinh hoàng, vội viết thư cho Ô-Lan : "Họ nói bố đòi gả em cho một người mà gia đình theo phái Pháp Hoa. Ta tụng cái thứ kinh chán ngấy, đánh trống đến phồng cả tay để mong được em, thật là bực mình! Cái lão Denroku chẳng được tích sự gí cả. Chắc tên ta có cái gì trục trặc không ổn. Jiroemon nghe từa tựa nhưJirozaemon(4), cái tên này làm ta thật khó chịu. Sano Jirozaemon, cái lão ở miền Đông đã bị hết người này đến người khác bỏ rơi. Nếu chuyện này xẩy ra với ta, ta sẽ tuốt gươm và lấy một trăm cái đầu, như lão đã làm. Một nam nhi như ta, chỉ có một lời. Đừng coi ta là ngốc".

Viết xong lá thư, Jiroemon gửi đi ngay, nước mắt chảy dài trên má.

Ô-Lan trả lời : "Thiếp không hiểu thư chàng muốn nói gì. Xin chàng đừng hành động nguy hiểm, tỉ như vung kiếm hay gì chăng nữa. Trước khi chàng lấy đầu một trăm người, ngay cả một người, thiø đầu chàng đã bị cắt mất. Nếu có chuyện chi xẩy ra tới cho chàng, thiếp sẽ ra sao? Xin đừng làm thiếp sợ như vậy nữa. Đấy là chàng cho biết chứ thiếp chưa từng nghe có ai cầu hôn cả. Chàng lúc nào cũng mặc cảm về cái mũi và đôi mắt quặp - chính vì vậy khiến chàng mất tự tín mà đâm ra nghi ngờ thiếp. Chuyện thiếp lấy ai, xin chàng đừng lo lắng bây giờ. Nếu phụ thân ép lấy người nào khác, thiếp sẽ chạy trốn. Khi đó dặm trường thân gái,

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 408

không đi một miønh được, thiếp sẽ tới với chàng. Xin chàng nhớ lấy điều này".

Đọc xong, Jiroemon có mỉm cười chút ít, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bình tâm. Bây giờ chàng ta hoàn toàn tin vào phật Nichiren và kinh Pháp Hoa. Nhăn mặt, nhíu mày, chàng ta bắt đầu hét to "Nam Mô diệu Pháp liên Hoa Kinh", tay đánh trống loạn xạ.

Ngày sau đó, Tokuzaemon gọi Ô-Lan tới phòng, và nghiêm nghị bảo - với ngài Nichiren sắp đặt, nàng sẽ được gả cho Hirosaku, một ngưới buôn giấy tại phố Honmachi. Lão ta tiếp: mối liên hệ này sẽ bền chặt đời đời, và nàng phải hoan hỷ nghe theo.

Ô-Lan kinh hoàng, nhưng nén nỗi cảm xúc khi cúi đầu chào phụ thân và lui ra. Nàng tức khắc lên lầu hai, viết vội lời nhắn : "Thiếp phải vắn tắt. Ngày quyết định đã tới. Thiếp sẽ đi trốn. Thiếp van chàng, tối nay hãy tới đây gặp thiếp". Viết xong, Ô-Lan nhờ một người làm công tức tốc mang đi.

Jiroemon liếc nhìn lời nhắn, tứ chi run lẩy bẩy. Anh ta đi tới bếp, uống một ngụm nước để trấn tĩnh rồi trở về phòng khách, ngồi xếp chân bằng tròn giữa phòng, nghĩ phải hành động tức khắc, nhưng không biết phải làm sao. Lát sau đành đứng dậy, thay quần áo, đi tới phòng kế toán mở mấy cáingăn kéo. Thấy người giúp việc đưa mắt dò hỏi, chàng lẩm bẩm: Ồ, cần một món tiền nhỏ thôi ! Chàng ném vài đồng vào trong tay áo khoác ngoài, rồi nhắm mắt chạy ra khỏi tiệm.

Trên đường, Jiroemon mới hay là đôi guốc đang đi không tiện chút nào, nhưng lại không dám trở về, đành tới một tiệm gần đó mua một đôi dép rơm. Tất cả gia sản chỉ vỏn vẹn món tiền trong túi, viø vậy chàng phải chọn đôi dép rẻ tiền nhất, đế dép mỏng dính đến nỗi chàng có cảm tưởng là đi chân không, vừa đi vừa lo lắng và ấm ức khóc. Khi tới sau nhàTokuzaemon, Ô-Lan chạy ra, không thốt lời nào, cầm tay chàng và giục chạy ngay. Lê chân trên đôi dép rơm, miệng thổn thức, Jiroemon để nàng dắt đi như môt người mù.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 409

(Ờ mà cái câu chuyện của một cặp trai gái ngu ngốc, trẻ người non dạ , đúng ra cũng chẳng có chi là quan trọng. Thật ra nó đã xong đâu, nỗi gian truân dường như còn đang chờ họ ở phía đằng trước.)

Đêm đó hai người đi được non ba mươi cây số, biển Hakata trải dài phía trái, họ nhìn mãi làn nước xám nhạt như trong một giấc mơ . Đói và khát, lại lo bị đuổi theo, cả hai thấy thật sợ hãi, bụng như thắt lại mỗi lần nghe có tiếng chân người phía sau. Khập khễnh bước đi như hai cái xác, họ đặt chân tới một doi đất tên là Kanegasaki - giống như địa danhKanegasaki gắn liền với lời kinh nhà Phật thường dạy - "Thịnh tất suy, và Thị Sinh Diệt Pháp" ( 5 ). Sau đó cả hai băng qua cánh đồng dưới chân núi, tới nhà một người quen củaJiroemon. Người chủ có vẻ lạnh nhạt, nhưng Jiroemon cũng đã đoán được. Anh gói một ít tiền trong mảnh giấy, đưa cho người chủ và khẩn khoản: "Thật là quá quấy quả, xin ông�"

Ở trong một chỗ nhỏ như cái kho, Ô-Lan và Jiroemon bắt đầu hiểu là cuộc sống kham khổ đang chờ đợi họ. Cả hai nhiøn nhau, thở dài, hốc hác và tái mét. Ô-Lan sụt sịt, cố giữ không cho nước mắt trào ra. Nàng vuốt ve bộ lông của Kichibei, con khỉ nàng nuôi từ lúc còn bé. Kichibei quấn quýt với nàng đến nỗi có trực giác biết chạy theo khi thấy chủ vội vàng bỏ đi trong bóng đêm, với một người đàn ông mà nó chưa khi nào thấy. Lúc đó, đi đã được mấy dặm thiø Ô-Lan mới biết có Kichibei đang theo. Nàng mắng hét, và lấy cả đá ném, nhưng Kichibei vẫn cứ lết theo cho đến khi Jiroemon động lòng thấy con vật đã chịu khó theo xa đến như vậy. Jiroemon bàn nên để nó đi cùng. Ô-Lan vẫy tay, con khỉ liền chạy gấp tới. Khi đã được ẵm trong tay, nó chớp chớp mắt nhìn hai người với vẻ mặt thật là tội nghiệp.

Giờ đây Kichibei làm 1 kẻ hầu tin cẩn. Nó mang thức ăn lại cái nhà kho, và ngồi đuổi ruồi cho hai vợ chồng. Nó biết cả việc cầm lược gỡ tóc rối cho cô chủ. Tuy chỉ là con vật, khỉ ta cũng cố an ủi hai người, khi thì làm cả những chuyện không cần thiết.

Dù đã chọn một cuộc đời lén lút, nhưng hai người không thể sống suốt đời trong cái kho chật hẹp. Jiroemon đưa tất cả tiền còn lại cho người bà

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 410

con bạc bẽo để xin cất một cái nhà tranh gần đó. Nhà cất xong, cả hai bắt đầu trồng một mảnh vườn để tự cung cấp rau cỏ hàng ngày. Khi rảnh rỗi, Jiroemon đi ra ngoài hái thuốc lá, để Ô-Lan ở nhà đánh bông gòn thành cuộn chỉ. Bây giờ cuộc sống khó khăn nên giấc mơ của tuổi trẻ bắt đầu phai nhạt dần.

Thế rồi họ đi đến chuyện kiønh chống nhau, nghinh nhau trong cảnh gia điønh nghèo khó. Mỗi lần có tiếng loảng xoảng từ trong nhà bếp, cả hai đều đứng phắt dậy với ánh mắt giận dữ. Có thể đó chỉ là tiếng động gây ra của một con chuột nhắt? Hai người không tha thứ được những hạt đậu lại bị phân chuột lấm bẩn. Trong tình huống như thế, ngay cả mùa thu mầu đỏ cỏ lá và mùa xuân hoa tím ngàn nơi cũng chẳng khiến họ lưu tâm.

Kichibei nghĩ rằng đây là lúc phải đền ơn Jiroemon nên thường đến những ngọn đồi gần đó, lượm lặt những cành bách đã mục và những lá tùng rụng. Trở về nhà, con khỉ ngồi trước lò sưởi, mặt ngoảnh tránh làn khói, quạt lia lịa bằng cái quạt thô sơ. Sau một vài phút, khỉ ta có thể mang cho hai vợ chồng một chén trà ấm, với cung cách rất khôi hài mà họ thấy cũng dễ thương. Dẫu không biết nói, Kichibei cũng lo lắng đến sự nghèo khó của gia điønh. Khỉ ta có thể bỏ bữa cơm tối, chỉ ăn rất ít, va` lăn ra ngủ như thể đã no bụng. Mỗi khiJiroemon xong bữa cơm, Kichibei tới bóp lưng và chân cho ông chủ. Sau đó khỉ ta chạy vào nhà bếp phụ Ô-Lan dọn dẹp. Mỗi lần lỡ đánh vỡ một cái điã, trên mặt khỉ ta lại thoáng hiện vẻ xấu hổ. Được chú khỉ an ủi, hai vo chong dần dần quên được cảnh đời cực khổ.

Một năm trôi qua, mùa thu lại tới. Ô-Lan sinh một đứa trai, đặt tên là Kikunosuke. Lần đầu tiên sau bao tháng trời, lại có tiếng cười vang trong gian nhà tranh. Một lần nữa , đột nhiên cả hai cảm thấy cuộc đời thật đáng sống. Họ vui đùa với đứa bé: nhiøn nó mở mắt này, nó đang ngáp này, và chú khỉ Kichibei nhẩy cỡn lên với tất cả niềm vui. Kichibei mang những hạt dẻ hoang để vào bàn tay đứa bé cho nó nắm. Dẫu bi. Ố-Lan mắng về chuyện này, Kichibei cũng không chịu để đứa trẻ một miønh. Chú ta thường ở ngay bên cạnh tò mò xem xét. Chú

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 411

nhìn chòng chọc vào khuôn mặt khi đứa bé đang ngủ, chỉ giật miønh hoảng hốt mỗi khi nghe tiếng nó thình lình khóc. Khi đó chú chạy ngay tới Ô-Lan, kéo váy nàng và lôi nàng về phía nôi, ra hiệu hãy cho bú. Rồi khi Ô-Lan cho đứa bé bú, chú nép gần đó, say sưa quan sát. Kichibei đúng là một người canh gác tuyệt vời .

Tuy hài lòng với sự chăm sóc của con khỉ, nhưng dẫu sao hai người cũng cảm thấy buồn cho Kikunosuke. Nếu ra đời vào năm ngoái tại nhà Kuwamori, đứa bé chắc đã nhận được cả chồng quần áo ấm từ những người thân, và ngủ trên tơ lụa, được cả mấy bà vú chăm sóc. Sẽ không có cả một con rận bò đến gần đứa bé, và da dẻ được giữ giøn như ngọc. Nhưng vì sinh ra một năm sau đó, nó phải ngủ trong chòi tranh, dãi dầu mưa gió, với đồ chơi là những quả cây và hạt dẻ, và được chỉ một con khỉ trông coi.

Ô-Lan và Jiroemon có bàn đến cảnh Kikunosuke khốn khó chỉ vì cuộc tình liều lĩnh của họ, nhưng rồi cũng quên chuyện này khi nhìn thấy đứa trẻ thật đáng yêu. Hai người quyết định sẽ dành dụm chút gì cho Kinunosuke khi đứa trẻ đến tuổi hiểu biết. Nếu có chút của cải, hai người có thể trở về dàn xếp thẳng với cha mẹ hai bên. Do thương đúa trẻ, Jiroemon hỏi thăm người hàng xóm xem có việc gì làm để kiếm thêm chút tiền nong.

Kikunosuke lớn dần lên, mụ mẫm. Lúc nào chú bé cũng nhoẻn miệng cười, đem nguồn sống về cho gian nhà tranh một thời đã vắng bóng cảnh nồng ấm. Đứa trẻ có tia mắt sáng ngời như bà mẹ. Kichibei thường mang những cỏ lá mùa thu từ ngoài đồng và đong đưa chơi đùa trước mặt đứa trẻ, để hai vợ chồng có thể đi ra ngoài vườn đào củ cải mà không lo lắng gì tới con. Hai nguời cảm thấy như sống lại với niềm hy vọng. Khi mùa thu gần đến, người láng giềng cho hay có mối làm ăn tốt nên một hôm đẹp trời, Ố-Lan và Jiroemon hoan hỉ tới thăm để muốn biết tường tận hơn.

Hai vợ chồng vừa rời nhà được một lát thì Kichibei đứng dậy, dáng mặt cứ như biết đă đến giờ tắm cho đứa trẻ. Chú ta theo đúng cách thức như những lần nhìn thấy Ố-Lan đã làm. Thoạt tiên, nhúm lửa dưới lò, đun

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 412

nước, và khi nước bắt đầu sủi bọt thiø đổ nước nóng vào trong chậu đầy đến mép. Kichibei cởi quần áo đứa trẻ, nhìn mặt nó như Ố-Lan làm mỗi lần, nựng lên nựng xuống mấy lần, rồi bất chợt nhúng ngay đứa bé vào trong nước.

Bé Kikunosuke hét lên một tiếng thất thanh, dãy dụa la thét rồi ngừng thở.

Nghe tiếng la khóc khác thường, hai vợ chồng nhìn nhau, vội vã trở về, thấy Kikunosuke chìm trong bồn nước, Kichibei thi` đang bồn chồn lo lắng. Ố-Lan vội lôi đứa con ra, nhưng đứa bé đã như con tôm luộc. Không kham nổi, nàng ngã ngay xuống, khóc thét lên như một người điên. Ố-Lan muốn đổi mạng sống của mình để được nhiøn đứa con thân yêu một lần nữa. Lát sau nàng đứng dậy, nắm ngay con khỉ đang đứng sững sờ, và dơ thanh củi lên định phang cho nó chết.

Jiroemon cũng điên cuồng vì đau khổ, nước mắt lã chã. Nhưng tuy đau khổ, anh nhận thấy nên tha thứ hơn là báo thù. Anh dằng thanh củi khỏi tay Ố-Lan, cố gắng giảng giải: Con mình đã chết rồi, cũng là số mạng của nó như thế. Em muốn giết con khỉ cũng phải, nhưng sát sinh bây giờ chỉ gây cho linh hồn của con mình khó được lên cực lạc. Đứa trẻ không thể trở lại được nữa, mà Kichibei cũng chỉ muốn giúp đỡ hai đứa miønh mà thôi. Hơn nữa, khỉ có khôn mấy cũng chỉ là một con vật thôi, nó chẳng biết gì hơn đâu . Giờ đây mọi sự đã quá trễ, không thể làm gì được nữa đâu. Con khỉ nước mắt chẩy dài, đứng trong một góc phòng, nhìn Jiroemon vừa khóc vừa nói, chắp hai tay cảm ơn. Hai vợ chồng nhìn con vật, càng cảm thấy đau khổ, cùng nghĩ không hiểu họ phạm phải nghiệp chướng gì đời trước mà nay gặp phải nỗi đọan trường này ?

Chôn cất Kikunosuke xong, cả hai người mất dần ý muốn sống, đâm ra bệnh nặng, nằm liệt giường. Kichibei nuôi nấng săn sóc họ tận tình, cả bao nhiêu đêm không ngủ. Con khỉ cũng không quên cả Kikunosuke. Cứ mỗi bẩy ngày sau khi đứa trẻ mất, chú ta đi thăm mộ, mang theo nhiều bông hoa để trang hoàng. Vào ngày thứ 100, khi sức khỏe của Ô-Lan vàJiroemon đã khá hơn, Kichibei buồn rầu tới thăm mộ, và yên lặng dâng nước. Rồi, nó đâm thẳng đầu lao bằng tre vào cổ họng, tự tử.

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 413

Jiroemon và Ố-Lan thấy vắng mặt Kichibei, đâm ra lo âu. Cả hai chống gậy, khập khiễng đi ra mộ. Ho. hiểu ra mọi chuyện khi thấy cái xác nằm chết thảm thương. Hai vợ chồng càng thấm thía sầu khổ nhiều hơn khi nghĩ ra rằng ít gì đi nữa chính Kichibei là kẻ muốn đem lại cho cõi đời một niềm an ủi.

Hai người dựng thêm một ngôi mộ để chôn con vật, bên cạnh mộ của con mình. Sau đó , Ố-Lan và Jiroemon dựng am bên cạnh mộ, sớm hôm hương khói, tu hành. (6)

Dịch xong ngày 19-1-06 sửa lại ngày 29-05-06.

Chú thích

[ 1] - Tịnh độ: nguyên nghiã Phạn ngữ là Phật độ, cõi Phật, cõi thanh tịnh. Trong Đại Thừa, người ta hiểu mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một vị Phật và vì có vô số chư phật nên có vô số Tịnh độ. Được nhắc nhở nhiều nhất là cõi Cực lạc của Phật A-di-đà ở phương Tây.

Tịnh độ tông: Tông phái được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam do cao tăng Trung Quốc Huệ Viễn (334-416) sáng lập và được Pháp Nhiên(Hounen 1133-1212) phát triển tại Nhật. Phép tu của Tịnh độ tông chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A-di-đà, với hy vọng sẽ được tái sinh trong Cực lạc Tịnh độ, nhờ sức cứu độ của Phật.

[ 2] - Pháp hoa tông : Pháp hoa tông còn được gọi là Thiên Thai tông, do ngài Trí Giả (150-250 T.L ?) thành lập. Thiên Thai là tên ngọn núi ở Thái Châu, miền nam Trung Hoa., nhưng đúng tên là Pháp Hoa, đặt theo tên kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh căn bản của tông này.

[ 3] - Nhật Liên (Nichiren 1222-1282): người thành lập lại tông Pháp Hoa ở Nhật. Giáo pháp của tông phái này đặt nền tảng trên bộ Diệu pháp liên hoa kinh (cũng được gọi tắt là kinh Pháp hoa) và danh hiệu phải niệm hàng ngày chính là tên của bộ kinh đó. Chỉ cần thọ trì 5 chữ này là thấy được toàn bộ những gì Phật thuyết và thấy đủ nhân hạnh quả đức

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 414

của Phật mười phương. Tông này có tính chất quốc gia cực đoan, muốn xây dựng một nền Phật giáo Nhật Bản rồi bành trướng ra ngoài.

[ 4] - Sano Jirozaemon: Một phú nông ở tỉnh Tochigi vào cuối thế kỷ 17. Trong cuộc sát hại tình nhân (tên là Yatsuhashi) ở xóm lầu xanh Yoshiwara, ông này đã làm chết và bị thương cả trăm người, sau trở thành đề tài cho tuồng Kabuki, dưới tên Kagotsurube Sato no Eizame.

[ 5] - Thịnh giả tất suy, Thị sinh diệt pháp :( Giầu sang tất tới ngày lụn bại, tất cả chúng sinh rồi cũng chết) quan niệm vô thường của Phật giáo. Trong kinh Niết Bàn quyển 4, Phật nói về vô thường như sau :

Chư hành vô thường Thị sinh diệt pháp Sinh diệt diệt dĩ Tịch diệt vi lạc.

(Các hành vô thường Là Pháp sinh diệt Sinh diệt hết rồi Tịch diệt là vui)

Nhận thức được như thế để khỏi đau khổ, lo âu , sợ hãi khi vô thường đến.

[ 6] - Đoạn chót trong truyện, dịch giả tự ý để đoạn này trong phần chú thích :Thế nhưng, khi hạ bút như vậy, người viết có hơi kẹt vì không chắc họ đã khấn đức Phật A-Di-đà của phái Tịnh Độ hay tụng kinh Pháp Hoa. Theo nguyên bản, Saikaku tả rằng, trong cái am đó, tiếng tụng kinh Pháp Hoa không bao giờ ngừng. Tokuzaemon là một lão già ngoan cố theo kinh Pháp Hoa nhưng nếu để lão ta ló mặt ở đây thiø thật là khốn khổ vì sẽ làm hỏng bét câu chuyện thương tâm của chúng ta. Nếu có sự thật còn lại thì ta chỉ có thể nói là Ô-Lan và Jiroemon, dù sống trong am mà nỗi buồn vẫn chưa nguôi lại vạch cỏ mùa thu đi ra ngoài, cất bước một lần nữa về phuơng trời vô định. 

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 415

HẾT

(Nhấn Ctrl + Bấm vào kết nối bên dưới để xem từ đầu bài )

MUC LUCBài 1: Tỏ tình với người vợ không quen- Asada Jirô (1951-…)

Bài 2 : Bức họa Núi Thu _ Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 3: Chiếc mùi-soa - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)

Bài 4 : Cháo khoai - Akutagawa Ryunosuke (1892-1927)  

Bài 5 : Địa ngục trước mắt - Akutagawa Ryunosuke   (1892-1927)  

Bài 6 : Nước dòng sông cái - Akutagawa Ryunosuke  

Bài 7 : Niềm tin - Akutagawa Ryunosuke

Bài 8 : Mối tình của vị cao tăng chùa Shiga - Mishima Yukio

Bài 9 : Hồn bướm - Mishima Yukio (1925-70)  

Bài 10 : Gào trăng trong núi - Nakajima Atsushi (1909-1943)  

Bài 11 : Người cắt lau - Tanizaki Jun. Ichirô (1886-1965)  

Bài 12 : Sắn dây núi Yoshino - Tanizaki Jun.Ichirô

Bài 13 : Xâm mình – Tanizaki Jun. Ichirô

Bài 14 : Kỳ Lân- Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 15 : Bàn chân Fumico - Tanizaki Jun.ichirô (1886- 1965)

Bài 16 : Hẹn mùa hoa cúc - Ueda Akinari (1734-1809)

Bài 17 : Đồi khỉ - Osamu Dazai  

HẾT

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 416

T P TRUY N NG N NH T B N –Nhi u tác gi - D ch: Nguy n Nam Trân-Cung Đi nẬ Ệ Ắ Ậ Ả ề ả ị ễ ề Page 417