Transcript
Page 1: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

Hiểu và Á p Dụng

Lời của Đức Chú a Trời

GIÁ O TRÌNH MÔ N

PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

Page 2: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

HIỂU VÀ Á P DỤNG

LỜI CỦA ĐỨC CHÚ A TRỜI

Tác Giả

J. Scott Duvall và J. Daniel Hays

Dịch Giả

Mục sư Phạm Văn Lộc

VAD

(BAN HỌC VỤ của VCFK)

Page 3: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

MỤC LỤC

Phần I Những Công Cụ Căn Bản

Chương 1 Hành Trình Giải Kinh ······················································································ 1

Chương 2 Cách Đọc Kinh Thánh – Câu ·········································································· 10

Chương 3 Cách Đọc Kinh Thánh - Phân Đoạn ···························································· 22

Chương 4 Cách Đọc Kinh Thánh - Đoạn ······································································· 31

Phần II Bối Cảnh - Bây Giờ và Trước Đây

Chương 5 Chúng Ta Mang Gì Đến Bản Văn? ································································· 43

Chương 6 Bối Cảnh Văn Hóa-Lịch Sử ············································································· 51

Chương 7 Bối Cảnh Văn Chương ···················································································· 66

Chương 8 Nghiên Cứu Từ ································································································ 77

Chương 9 Ai Điều Khiển Ý Nghĩa? ················································································· 83

Chương 10 Mức Độ Ý Nghĩa ··························································································· 89

Chương 11 Vai Trò Của Đức Thánh Linh ········································································ 99

Chương 12 Á p Dụng ······································································································ 106

Phần III Hành Trình Giải Kinh - Tân Ước

Chương 13 Tân Ước - Các Thư Tín ············································································ 116

Chương 14 Tân Ước - Các Sách Phúc  m ··································································· 131

Chương 15 Tân Ước - Công Vụ Các Sứ Đồ ································································· 151

Chương 16 Tân Ước - Khải Huyền ·············································································· 169

Phần IV Hành Trình Giải Kinh - Cựu Ước

Chương 17 Cựu Ước - Chuyện Kể ··············································································· 190

Chương 18 Cựu Ước - Luật Pháp ················································································· 212

Chương 19 Cựu Ước - Văn Thơ ··················································································· 229

Chương 20 Cựu Ước - Tiên Tri ···················································································· 247

Chương 21 Cựu Ước - Khôn Ngoan ············································································ 264

Page 4: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

1

PHẦN I

NHỮNG CÔ NG CỤ CĂN BẢN

Chương một giới thiệu cho chúng ta tiến trình đọc, giải nghĩa và áp dụng Kinh Thánh.

Chúng ta gọi tiến trình này là “Hành Trình Giải Nghĩa”. Hành trình này bắt đầu bằng việc đọc

cẩn thận vì đây là nơi mà chúng ta có thể xác định được bản kinh văn có nghĩa gì trong bối cảnh

nguyên thủy của nó. Trước khi chúng ta có thể sẵn sàng áp dụng ý nghĩa đó vào cuộc sống của

chúng ta, chúng ta cần phải xác định chiều rộng của con sông chia cắt chúng ta với thế giới của

bản văn. Một khi chúng ta vượt qua được dòng sông rồi, chúng ta sẽ có thể áp dụng ý nghĩa của

Kinh Thánh một cách thích hợp và đáng tin cậy.

Trong chương hai, chúng ta sẽ bắt đầu học cách đọc để tìm ý tưởng và hiểu biết nhiều

hơn. Chúng ta phải đọc nghiêm túc thay vì đọc lướt. Chúng tôi sẽ giúp bạn cách quan sát những

phân đoạn nhỏ hơn của bản văn, tìm những điều đại loại như những từ ngữ được lặp đi lặp lại

nhiều lần, những so sánh, đối chiếu, bảng liệt kê, những động từ, danh từ và từ nối quan trọng.

Tại đây chúng ta sẽ học cách đọc cẩn thận ở mức độ câu.

Trong chương ba và bốn, chúng ta sẽ chuyển sang những đơn vị phức tạp và dài hơn của

bản văn – đoạn và phân đoạn. Chúng ta sẽ xem xét những điều đại loại như đối thoại, câu hỏi và

trả lời, nhấn giọng, những liên kết giữa những chương và những chuyển đổi của những câu

chuyện. Đây là điều quan trọng để biết liệu chúng ta có thật sự muốn nghe những điều Đức Chúa

Trời muốn phán qua Lời của Ngài không. Trong bốn chương đầu này, quý vị sẽ lấm tay khi quý

vị đào sâu vào tiến trình giải kinh.

Page 5: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

2

Chương 1

Hành Trình Giải Kinh

Lời Giới Thiệu

Một cụ già trên vùng núi của Ê-thi-ô-pia vừa uống cà phê vừa đọc lại câu chuyện Đa-vít

và Gô-li-át trong thời tiết lạnh giá. Một người phụ nữ trung niên Trung Quốc đọc và suy gẫm

trong Thi-thiên 1 trên xe buýt về nhà. Một nhà quản trị trẻ Hàn Quốc đọc thư tín của sứ đồ Phao-

lô trên độ cao 40,000 mét trên máy bay từ Sing-ga-po về Seoul. Và trong căn phòng ấm cúng ở

San Diego, California, một sinh viên đại học vừa uống trà vừa đọc câu chuyện về Chúa Giê-xu

quở sóng biển yên lặng trong sách Tin Lành Mác từ máy tình xách tay của mình.

Con người trên khắp thế giới yêu thích đọc Kinh Thánh – và họ yêu thích điều đó từ

ngàn năm nay. Vì sao? Người ta đọc Kinh Thánh vì đó là một quyển sách kỳ diệu, đầy những lời

dạy dỗ hữu ích và khích lệ. Người ta đọc nó vì đó là quyển sách quan trọng, liên quan đến những

vần đề lớn trong cuộc đời – Đức Chúa Trời, sự sống, sự chết đời đời, tình yêu, tội lỗi và đạo đức.

Người ta đọc nó vì họ tin rằng trong Kinh Thánh Đức Chúa Trời phán với họ. Kinh Thánh khích

lệ chúng ta, nâng linh hồn chúng ta lên, an ủi chúng ta, chỉ dẫn chúng ta, gây dựng chúng ta, đem

cho chúng ta hi vọng, đem chúng ta đến gần với Đức Chúa Trời hằng sống.

Một vài phần trong Kinh Thánh dễ hiểu nhưng đa phần là khó hiểu. Nhưng hầu hết Cơ

Đốc Nhân mong muốn hiểu hết Lời Đức Chúa Trời chứ không chỉ những phần dễ. Nhiều người

trong chúng ta muốn đào sâu hơn vào Lời đó. Chúng ta muốn thấy nhiều hơn để hiểu nhiều hơn

Kinh Thánh. Chúng ta muốn hiểu đúng Kinh Thánh. Tức là chúng ta muốn tự tin rằng chúng ta

có thể tìm được lẽ thật thực sự từ Kinh Thánh mà không sợ phải giải nghĩa sai. Nếu quý vị là

những người như vậy thì đây là sách cho bạn.

Thông thường chúng ta muốn áp dụng trực tiếp ý nghĩa Kinh Thánh vào đời sống mình

nhưng chúng ta vấp phải nhiều vấn đề. Chúng ta bị phân cách với độc giả thời Kinh Thánh qua

văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, hoàn cảnh và một quãng thời gian diệu vợi. Những khác biệt này

tạo nên một rào cản – một dòng sông chia cách chúng ta với bản văn và ngăn cản chúng ta nắm

bắt được ý nghĩa thật của bản văn cho chúng ta.

Cựu Ước lại là dòng sông rộng hơn nữa, chia cắt chúng ta với độc giả từ ngàn xưa. Giữa

độc giả Cựu Ước và độc giả Cơ Đốc ngày nay thay đổi trong giao ước. Chúng ta, là những tín

hữu Tân Ước đang ở dưới giao ước mới và đến với Đức Chúa Trời thông qua của lễ chuộc tội

của Đấng Christ. Dân sự trong thời Cựu Ước ở dưới giao ước cũ và trọng tâm của họ là luật pháp.

Nói cách khác, hoàn cảnh thần học giữa hai nhóm này khác nhau. Có một rào cản giao ước giữa

độc giả Cựu Ước và chúng ta vì chúng ta đang ở dưới một giao ước khác.

Page 6: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

3

Do đó, dòng sông phân cách giữa bản văn Cựu Ước và chúng ta gồm văn hóa, ngôn ngữ,

hoàn cảnh, thời gian và giao ước. Chúng ta có nhiều điểm giống với độc giả thời Tân Ước hơn.

Dầu vậy, ngay cả trong thời Tân Ước, cũng có những điểm khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và

những hoàn cảnh khác biệt tạo nên những rào cản cho sự hiểu biết lời Chúa. Dòng sông thường

quá sâu, quá rộng để vượt qua.

Cơ Đốc Nhân ngày nay thường không chắc về cách họ giải kinh. Làm sao chúng ta có thể

hiểu Lê-vi-ký 19:19 về việc cấm mặc một áo có nhiều màu chỉ? Phải chăng Cơ Đốc Nhân vâng

theo Kinh Thánh thì phải mặc quần áo 100% vải cót tông sao? Trong Các Quan Xét 6:37, Ghê-

đê-ôn đặt một miếng lót chiên để xác nhận điều Đức Chúa Trời đã phán với ông. Điều này cũng

có nghĩa là chúng ta cần phải đặt một miếng lót chiên để tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa chăng?

Những phân đoạn trong Tân Ước cũng không hẳn rõ ràng hơn. Ví dụ việc Phi-e-rơ đi bộ

trên mặt nước trong Ma-thi-ơ 14:29. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta có thể cố gắng đi trên

mặt nước để vâng lời Chúa Giê-xu không? Nếu không, thì điều này có nghĩa gì và làm sao chúng

ta có thể áp dụng vào đời sống của chúng ta ngày nay. Ngay cả khi chúng ta không thể đi trên

mặt nước thì làm sao chúng ta có thể vượt qua dòng sông ngăn cách giữa chúng ta với bản văn?

Bất cứ nỗ lực giải nghĩa và áp dụng Kinh Thánh là nỗ lực vượt qua dòng sông. Chúng ta

thông thường không dùng phương pháp giải kinh rõ ràng nhưng chỉ dùng cảm giác để giải nghĩa.

Nếu phân đoạn Kinh Thánh có thể áp dụng trực tiếp, chúng ta áp dụng trực tiếp. Nếu không thể

áp dụng trực tiếp, chúng ta thường hay thiêng liêng hóa ý nghĩa. Nếu không thể làm được gì nữa

thì chỉ biết lắc đầu, nhún vai rồi mở sang phân đoạn khác.

Những phương cách như vậy không thể giúp chúng ta đáp qua bờ sông bên kia một cách

an toàn được. Những người chỉ dùng cảm giác giải kinh thì giống như người cứ băng qua sông

với hi vọng là mực nước chỉ sâu tới đầu gối. Thỉnh thoảng may mắn thì có thể gặp vài đụn cát

nhưng rồi sẽ ngụp xuống nước sâu và bị dòng sông cuốn đi. Những người thiêng liêng hóa ý

nghĩa thì giống như những người nhảy thật mạnh qua tới bờ bên kia nhưng rồi phải rơi xuống

sông và bị cuốn trôi đi. Còn những người lắc đầu và bỏ qua ý nghĩa thì không bao giờ có thể

băng qua dòng sông được.

Nhiều người ngày nay không thỏai mái với những phương pháp trên. Họ thấy cần đến

phương pháp thích hợp để giải kinh nhưng cuối cùng cũng phải dùng những phương pháp đó đơn

giản vì họ không tìm thấy phương pháp nào khác. Làm sao chúng ta có thể chuyển từ thế giới

của độc giả thời Kinh Thánh qua thế giới của chúng ta ngày nay?

Quyển sách này giúp chúng ta vượt qua dòng sông này để đến với thế giới của chúng ta

ngày nay. Chúng ta cần một phương pháp hợp lý để giải kinh, không dựa vào cảm giác của

chúng ta. Chúng ta cần một phương pháp để tìm ý nghĩa từ trong bản văn, nhưng cũng có thể đưa

nó đến với hoàn cảnh Cơ Đốc của chúng ta hiện nay.

Page 7: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

4

Chúng ta cũng cần một phương pháp nhất quán có thể áp dụng để giải nghĩa bất cứ phân

đoạn Kinh Thánh nào. Một phương pháp như vậy đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ thói quen nhảy cóc

từ đoạn này đến đoạn khác trong Kinh Thánh để tìm những đoạn có thể áp dụng được. Một

phương pháp nhất quán cho phép chúng ta đào sâu vào bất cứ phân đoạn Kinh Thánh nào với

một phương pháp để xác định ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó cho chúng ta ngày nay. Chúng ta

cần học và hiểu Kinh Thánh một cách hợp lý và chính xác. Mục tiêu của sách này là giúp quý vị

trên hành trình vượt sông, chuyển quý vị từ bản văn và thế giới của độc giả trong Kinh Thánh

đến một sự hiểu biết và áp dụng thích hợp bản văn cho Cơ Đốc Nhân ngày nay.

Những Căn Bản của Cuộc Hành Trình

Hãy luôn nhớ mục tiêu của chúng ta là nắm bắt ý nghĩa của bản kinh văn mà Đức Chúa

Trời đã dự định. Chúng ta không tạo nên ý nghĩa bên ngoài bản kinh văn mà là khám phá ý nghĩa

có sẵn trong đó. Dầu vậy, chúng ta không thể áp dụng ý nghĩa cho độc giả cổ trực tiếp cho chúng

ta ngày nay vì dòng sông ngăn cách chúng ta (văn hóa, thời gian, hoàn cảnh, giao ước…). Những

bước trong Hành Trình Giải Kinh sau đây sẽ cung cấp cho chúng ta tiến trình đem ý nghĩa cho

độc giả cổ vượt qua sông để giúp chúng ta xác định được ý nghĩa hợp lý cho chúng ta ngày nay.

Hành trình này thực hiện trên căn bản công nhận Kinh thánh là Lời của Đức Chúa Trời

về chính mình Ngài và ý chỉ của Ngài cho chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng Kinh Thánh và xem

Kinh Thánh là thánh vì đó là Lời của Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời tỏ chính mình Ngài

cho chúng ta thông qua lời này. Nhiều phân đoạn trong Kinh Thánh là những lời riêng biệt, rõ

ràng về những thực tế phổ thông và rộng rãi hay là những nguyên tắc thần học. Trong khi những

sự riêng biệt trong một đoạn Kinh Thánh nhất định chỉ có thể áp dụng cho một hoàn cảnh nhất

định cho một số độc giả nhất định, thì những nguyên tắc thần học được mặc khải trong đoạn

Kinh Thánh có thể được áp dụng cho mọi người của Đức Chúa Trời trong mọi thời điểm. Do đó,

nguyên tắc thần học có ý nghĩa và áp dụng cả cho độc giả Kinh Thánh thời cổ đại và cả cho Cơ

Đốc Nhân ngày nay.

Vì nguyên tắc thần học có ý nghĩa và áp dụng cho cả hai độc giả nên chức năng của nó là

làm cầu nối giữa hai bờ sông. Thay vì vượt sông bằng cảm giác hay nhảy qua thì chúng ta sử

dụng cây cầu nguyên tắc thần học để băng qua một cách an toàn. Xây dựng một cây cầu nguyên

tắc là một trong những bước quan trọng trong Hành Trình Giải Kinh.

Do đó, hành trình của chúng ta bắt đầu bằng việc đọc Kinh Thánh cẩn thận. Đích đến

cuối cùng của chúng ta là nắm bắt ý nghĩa của bản kinh văn để nó thay đổi cuộc đời của chúng ta.

Đó là một hành trình thú vị nhưng đòi hỏi công sức. Không có con đường tắt dễ dàng.

Page 8: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

5

Hành Trình Giải Kinh bao gồm bốn bước:

Bước 1: Nắm Bắt Đoạn Kinh Thánh Trong Bối Cảnh Của Họ

Câu hỏi: Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối với độc giả thời Kinh Thánh?

Phần đầu tiên của Bước 1 là đọc cẩn thận đoạn Kinh Thánh và quan sát nó. Trong Bước 1,

cố gắng quan sát đoạn Kinh Thánh càng nhiều càng tốt. Tìm, tìm, tìm lần nữa, quan sát tất cả

những chi tiết bạn có thể tìm được. Phân tích ngữ pháp và tất cả những từ ngữ quan trọng.

Nghiên cứu bối cảnh văn chương và lịch sử. Đoạn Kinh Thánh này liên hệ với những đoạn Kinh

Thánh trước và sau như thế nào?

Sau khi hoàn tất tất cả những nghiên cứu này, tổng hợp ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho

độc giả thời Kinh Thánh vào một hay hai câu. Tức là viết lại ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó

cho cho độc giả thời đó. Dùng động từ ở thì quá khứ và liên hệ chúng với độc giả thời Kinh

Thánh.

Ví dụ:

Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên trong Giô-suê 1 đến…

Phao-lô đã khuyên tín hữu tại Ê -phê-sô là phải…

Chúa Giê-xu đã khích lệ các môn đồ bằng cách…

Bước 2: Đo Chiều Rộng Của Dòng Sông

Câu hỏi: Có sự khác biệt gì giữa độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta?

Như đã đề cập ở trên, Cơ Đốc Nhân ngày nay bị chia cách với độc giả thời Kinh Thánh

bởi sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, hoàn cảnh, thời gian và giao ước. Những khác biệt này

ngăn trở chúng ta chuyển thẳng ý nghĩa trong bối cảnh của họ đến ý nghĩa trong bối cảnh của

chúng ta. Dầu vậy, chiều rộng của dòng sông thay đổi theo phân đoạn Kinh Thánh. Thỉnh thoảng

nó rất rộng cần một cây cầu dài để bắt qua. Đôi khi rất hẹp, chỉ cần bước qua thôi. Điều quan

trọng là chúng ta cần biết chiều rộng của dòng sông để lập một cây cầu thích hợp để bước qua.

Trong bước 2, quý vị sẽ quan sát kỹ dòng sông và xác định chiều rộng của phân đoạn bạn

đang học. Trong bước này quý vị tìm những khác biệt quan trọng giữa hoàn cảnh của chúng ta

hôm nay và hoàn cảnh của độc giả thời Kinh Thánh. Nếu bạn đang nghiên cứu Cựu Ước, hãy

bảo đảm bạn nhận ra những khác biệt thần học đã ứng nghiệm trong cuộc đời và chức vụ của

Chúa Giê-xu.

Hơn nữa, dù Cựu hay Tân Ước, cố gắng nhận ra những khía cạnh độc đáo của hoàn cảnh

của phân đoạn của quý vị. Ví dụ, trong Giô-suê 1:1-9, dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị vào đất hứa.

Page 9: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

6

Môi-se đã chết và Giô-suê được chỉ định thay thế Môi-se. Trong phân đoạn này, Đức Chúa Trời

phán với Giô-suê để khích lệ ông nên mạnh mẽ và trung tín trong công cuộc chinh phục đất hứa

sắp tới. Có những khác biệt nào? Chúng ta không bước vào đất hứa. Chúng ta không phải là

người lãnh đạo mới của dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta không ở dưới giao ước cũ.

Bước 3: Vượt Qua Cây Cầu Nguyên Tắc

Câu hỏi: Có những nguyên tắc thần học nào trong phân đoạn này?

Đây có lẽ là bước thách thức nhất. Trong phần này, quý vị đang tìm nguyên tắc thần học

đã được phản ánh trong ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh mà quý vị vừa tìm thấy trong Bước 1.

Hãy nhớ rằng nguyên tắc thần học này là phần của ý nghĩa. Công việc của quý vị không phải là

tạo ra ý nghĩa mà là khám phá ý nghĩa gốc của tác giả. Khi Ngài ban cho những lời phán riêng

biệt cho một số độc giả riêng trong Kinh thánh thì Ngài cũng ban cho những sự dạy dỗ thần học

phổ thông cho tất cả mọi người qua cùng phân đoạn Kinh Thánh.

Để xác định được nguyên tắc thần học, trước hết phải tìm lại những khác biệt mà quý vị

mới tìm thấy trong Bước 2. Tiếp theo, cố gắng nhận ra những tương đồng giữa hoàn cảnh của

độc giả trong Kinh Thánh và hoàn cảnh của chúng ta. Ví dụ, xem Giô 1:1-9 lần nữa. Xem lại

những khác biệt mà chúng ta mới tìm thấy trong bước 2. Nhưng sau đó ghi lại những tương đồng

giữa hoàn cảnh trong Kinh Thánh và hoàn cảnh của chúng ta: Chúng ta cũng là dân sự của Đức

Chúa Trời, trong mối quan hệ giao ước (giao ước mới); chúng ta không phải là người lãnh đạo

của dân Y-sơ-ra-ên nhưng có thể đang ở trong vị trí lãnh đạo nào đó trong Hội Thánh; chúng ta

không chinh phục Đất Hứa nhưng chúng ta đang tìm cách để vâng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời

và hoàn thành những gì Ngài đã truyền cho chúng ta.

Sau khi ôn lại những khác biệt và nhận ra những tương đồng, hãy trở lại với ý nghĩa cho

độc giả thời Kinh Thánh mà quý vị vừa mô tả trong Bước 1. Cố gắng nhận ra một nguyên tắc

thần học rộng hơn được tìm thấy trong đoạn Kinh Thánh. Nguyên tắc thần học này cũng phải

liên hệ đến sự tương đồng giữa chúng ta và độc giả Kinh Thánh. Chúng ta sẽ dùng nguyên tắc

thần học này để làm cầu nối nguyên tắc qua đó giúp chúng ta vượt qua rào cản của dòng sông.

Thêm vào đó, trong bước này, quý vị phải bước vào phần liên kết toàn phần. Tức là, quý

vị phải đi tới đi lui giữa phân đoạn Kinh Thánh đó và những sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.

Nguyên tắc thần học mà quý vị tìm thấy không chỉ hiện diện trong phân đoạn Kinh Thánh đó mà

thôi, nhưng nó cũng phải phù hợp với phần còn lại của Kinh Thánh. Chúng ta có thể tóm tắt lại

những tiêu chuẩn để hình thành nguyên tắc thần học như sau:

Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.

Page 10: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

7

Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.

Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.

Viết lại nguyên tắc thần học đó trong một hoặc hai câu. Dùng động từ theo thì hiện tại.

Bước 4: Nắm Bắt Đoạn Kinh Thánh Trong Thời Đại của Chúng Ta

Câu hỏi: Từng Cơ Đốc Nhân ngày nay có thể áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống

của chúng ta như thế nào?

Trong bước 4 chúng ta áp dụng nguyên tắc thần học vào hoàn cảnh riêng biệt của từng

Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh ngày nay. Chúng ta không thể tìm thấy nguyên tắc thần học rồi

bỏ đó nhưng phải áp dụng nó trong hoàn cảnh của chúng ta. Làm sao áp dụng nó trong tình

huống thật trong cuộc sống của chúng ta hôm nay?

Đối với từng phân đoạn Kinh Thánh sẽ có chỉ một vài (hoặc một) nguyên tắc thần học

thích ứng cho mọi Cơ Đốc Nhân ngày nay, nhưng chúng có thể được áp dụng trong nhiều tình

huống khác nhau. Lý do là Cơ Đốc Nhân ngày nay đang sống trong nhiều hoàn cảnh khác biệt.

Mỗi chúng ta phải nắm bắt và áp dụng cùng nguyên tắc thần học trong nhiều cách khác nhau, tùy

vào hoàn cảnh sống hiện tại của mình và mức độ mối quan hệ của mỗi người với Đức Chúa Trời.

Trong phần minh họa của chúng tôi, chúng tôi đang cố gắng trình bày những áp dụng khác nhau

bằng cách trình bày từng người đi vào nhiều con đương khác nhau. (Chúng ta sẽ thảo luận điều

này kỹ hơn trong chương 12).

Do đó, Hành Trình Giải Kinh như thế này:

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối

với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh

Thánh với chúng ta?

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày

nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Page 11: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

8

Một Ví Dụ - Giô-suê 1:1-9

Chúng ta đã đề cập đến phân đoạn Kinh thánh này nhiều lần. Chúng ta hãy cùng thực

hiện một hành trình giải kinh từ phân đoạn Kinh Thánh Cựu Ước đến cuộc sống của chúng ta

ngày nay để minh họa cho Hành Trình Giải Kinh của chúng ta.

Bước 1: Đoạn Kinh thánh này có ý nghĩa gì đối với độc giả thời đó?

Chúa truyền lệnh cho Giô-suê, nhà lãnh đạo mới của dân Y-sơ-ra-ên, để thêm sức và

lòng can đảm qua sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài, để ông vâng theo luật pháp của Môi-se

và để suy gẫm luật pháp ấy hầu cho ông được thành công trong công cuộc chinh phục đất hứa.

Bước 2: Những sự khác biệt nào giữa thời Kinh thánh và thời của chúng ta?

Chúng ta không phải là nhà lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên (dầu một vài người trong chúng

ta đang là lãnh đạo trong Hội Thánh). Chúng ta cũng không phải chinh phục xứ Ca-na-an, vùng

đất hứa. Chúng ta cũng không phải ở dưới luật pháp.

Bước 3: Nguyên tắc thần học nào được tìm thấy trong phân đoạn Kinh thánh này?

Để hiệu quả trong việc phục vụ Chúa và thành công trong công tác Ngài gọi chúng ta,

chúng ta cần phải tìm sức mạnh và lòng can đảm từ trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta cũng

phải vâng lời Đức Chúa Trời và suy gẫm lời đó thường xuyên.

Bước 4: Từng Cơ Đốc Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó cho đời sống của mình

như thế nào?

Có nhiều áp dụng. Sau đây là vài gợi ý:

Dành nhiều thời gian hơn để suy gẫm lời của Chúa.

Nếu Đức Chúa Trời kêu gọi tôi vào một chức vụ mới, như đi truyền giáo, giảng dạy, tôi

cần tìm sức mạnh từ nơi Chúa. Vâng phục Ngài và tập trung vào Lời của Chúa.

Nếu tôi đang là người lãnh đạo trong Hội thánh, tôi cần phải nhận biết rằng người lãnh

đạo Cơ Đốc thành công là người tìm kiếm sức mạnh và lòng can đảm từ nơi Chúa.

Hành Trình Giải Kinh và Nắm Bắt Lời Của Đức Chúa Trời

Hành Trình Giải Kinh thật sự là trọng tâm của sách này. Trong Phần 1, chúng ta sẽ học

cách quan sát và đọc cẩn thận. Chúng ta sẽ bắt đầu với những phân đoạn ngắn hơn (chương 2)

rồi sau đó chuyển qua phân đoạn dài và phức tạp hơn (ch. 3 và 4).

Trong phần 2, chúng ta sẽ dành thời giờ thảo luận bối cảnh, cả trong thời Kinh Thánh lẫn

trong thời của chúng ta. Chúng ta sẽ đi vào phần tiền hiểu biết trong chương 5 (ví dụ, bối cảnh

của chúng ta). Sau đó chúng ta khai phá bối cảnh văn hóa/lịch sử, văn chương trong chương 6&7.

Page 12: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

9

Chúng ta cũng học cách học Kinh thánh theo từ ngữ trong những bối cảnh này (ch. 9). Tất cả

những chương này giúp cung cấp cho chúng ta những kỷ năng cần thiết để bắt đầu bước vào

Bước 1.

Phần 3 tập trung vào lý thuyết cần thiết để nhận ra và xây dựng cây cầu nguyên tắc để

vượt qua dòng sông khác biệt, đồng thời nắm bắt được ý nghĩa của phân đoạn Kinh thánh giúp

thay đổi cuộc đời chúng ta trong thế giới hiện đại. Chương 10 nói đến định nghĩa của ý nghĩa và

ai là người điều khiển ý nghĩa (độc giả hay tác giả?). Chương 11 đi vào vài vấn đề liên quan đế

nguyên tắc thần học và quan niệm về ý nghĩa. Có mức độ sâu hơn của ý nghĩa không? Có nhiều

ý nghĩa hay chỉ một ý nghĩa trong một phân đoạn Kinh Thánh. Chương 12 nói đến vai trò của

Đức Thánh Linh trong suốt tiến trình giải kinh. Bước 4 (áp dụng) trong chương 13 giúp chúng ta

chuyển từ tri thức của đầu óc xuống hành vi thực sự của chúng ta và thay đổi nó. Nói cách khác,

trong khi chương 1 giới thiệu cho quý vị về Hành Trình Giải Kinh, thì phần còn lại của phần 1

cũng như phần 2 và phần 3 mở rộng Hành trình này. Nó giải thích chi tiết hơn những vấn đề giải

kinh mà chúng ta sẽ phải đối diện trong suốt hành trình này.

Trong Phần 4, chúng ta sẽ cùng Giải Kinh phần Tân Ước. Trong phần này chúng ta sẽ

không còn học về lý thuyết như ở phần 3 nhưng chuyển qua thực hành việc giải kinh và áp dụng

Tân Ước. Chúng ta sẽ cùng thực hành nhiều thể loại văn chương khác nhau trong Tân Ước.

Chương 14-17 sẽ học cách giải kinh lần lượt các Thư Tín, Sách Phúc Âm, Công vụ và Khải

huyền. Những chương này sử dụng lại mọi điều quý vị đã được học trong phần 1-3 và giúp cho

quý vị biết cách áp dụng những kỹ năng mới vào Tân Ước.

Cuối cùng phần 5 nói đến những thách thức và cơ hội khi giải kinh và áp dụng Cựu Ước.

Trước hết trong phần giới thiệu, chúng ta đã lượt lại những bước của Hành Trình để thích hợp

với hoàn cảnh trong Cựu Ước hơn. Sau đó, như trong Phần 4, chúng tôi sẽ giúp quý vị thực hành

với nhiều thể loại văn chương khác nhau trong Cựu Ước. Chương 18-22 dẫn chúng ta đến nhiều

thể loại văn chương trong Cựu Ước, văn xuôi, luật pháp, thơ ca, tiên tri và văn chương khôn

ngoan.

Quý vị đã sẵn sàng để bước vào Hành Trình Giải Kinh và áp dụng đầy thú vị này chưa?

Có nhiều phân đoạn Kinh Thánh thú vị đang chờ quý vị. Hãy làm việc chăm chỉ! Phần thưởng sẽ

lớn lắm.

Bài Tập:

1. Mô tả bốn bước trong Hành Trình Giải Kinh

2. Những hướng dẫn trong việc phát triển những nguyên tắc thần học là gi?

3. Những khác biệt xác định chiều rộng của dòng sông là gì?

Page 13: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

10

Chương 2

Cách Đọc Kinh Thánh - Câu

Lời Giới Thiệu

Nếu có ai đó mời bạn ăn tối, bạn sẽ mong được ăn thức ăn gì? Bạn đoán mình sẽ ăn món

gì? Chúng ta thường rất dễ thoải mãn. Cho tôi một đĩa thịt bò bít tết với khoai tây là đủ rồi. Thêm

một ít rau. Trên cùng là cái bánh táo, dâu… Chúng ta cũng không đòi hỏi lắm. Chúng ta cũng

thích bách mì, pizza hay là mì Ý, sườn nướng và những loại thức uống khác.

Còn bạn thì sao? Bạn sẽ mong thức ăn nào? Nếu mong đợi của bạn không được đáp ứng

thì bạn sẽ phản ứng thế nào? Giả dụ nếu bạn đến nhà của một người bạn và người ấy đãi bạn

món cháo của trẻ em thì bạn sẽ như thế nào? Đấy là thức ăn bổ dưỡng cho trẻ em sáu tháng tuổi.

Nhưng bạn không phải trẻ em sáu tháng tuổi. Bạn mong đợi một vài loại thức ăn mà bạn nhai

thấy ngon hơn. Thức ăn trẻ em có thể làm bạn thất vọng và tình bạn cũng có thể bị sứt mẻ.

Học Kinh Thánh cũng tương tự như vậy. Nếm Lời của Đức Chúa Trời cũng giống như

thưởng thức món ăn. Chúng ta mong đợi ăn một cái gì đó bổ dưỡng, chất lượng, hợp với mức

trưởng thành của mình. Chúng ta muốn đào sâu vào món ăn. Nhưng thường chúng ta chỉ có thể

ăn được vài món của trẻ em. Điều này không có nghĩa là tại vì thịt nhưng tại vì chúng ta không

có khả năng để ăn thịt và thưởng thức nó. Chúng ta không hưởng lấy chất bổ từ lời của Chúa

không phải tại vì Kinh thánh mà tại vì chúng ta không có khả năng để thưởng thức nó. Thật sự,

nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay quá quen với thức ăn trẻ con nên không còn muốn thức ăn cứng

hơn. Còn bạn thì sao? Bạn có mong ước đào sâu vào Lời của Đức Chúa Trời không? Bạn có

mong ước những thức ăn chất lượng hơn không? Mục đích của chúng tôi trong sách này là giúp

bạn “ăn ngon”.

Vì vậy, chúng ta hãy bắt đầu!

Nếu bạn đi thẳng từ phần đọc phân đoạn Kinh thánh đến phần áp dụng phân đoạn đó, bạn

sẽ bị những hiểu biết trước đây về phần Kinh Thánh đó chi phối bạn. Bạn ít khi tìm thấy điều

mới mẻ hay thú vị trong đoạn đó và bạn sẽ chán Kinh thánh. Những kiến thức cũ của bạn qua các

bài giảng và dạy sẽ giết chết khả năng tìm kiếm những sự dạy dỗ mới từ Kinh thánh. Kinh thánh

là Lời của Đức Chúa Trời và không bao giờ làm bạn chán. Chúng ta đơn giản cần học cách đọc

nó với sự hiểu biết.

Một khi chúng ta thay vì đọc chiếu lệ nhưng đọc nghiêm túc thì phân đoạn Kinh Thánh

đó mở ra cho chúng ta và chúng ta sẽ tìm được những báu vật từ phân đoạn đó mãi mãi. Mỏ vàng

Kinh thánh vô tận. Nhưng chúng ta phải kiên nhẫn đào. Chúng ta không thể đơn giản nhảy vào

Page 14: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

11

trong mỏ, lấy chân tìm vài cục đá và cho rằng mình đã tìm được tất cả trong mỏ đó. Đó là cách

mà nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay đọc Kinh Thánh. Họ thất vọng trong việc đọc Kinh Thánh là

phải lắm. Cũng không khó hiểu sao lời giảng dạy của họ cạn cợt.

Nếu bạn muốn đào được vàng thật từ trong Kinh Thánh- nếu bạn mong ước nhận được

lời Hằng Sống làm thỏa mãn bạn, bạn phải nỗ lực. Phải nỗ lực! Chính bạn là người quyết định

bạn muốn thức ăn của trẻ em hay là thức ăn của người lớn tùy vào nỗ lực học Kinh thánh cá nhân

của bạn.

Đọc Nghiêm Túc và Những Lá Thư Tình

Đọc nghiêm túc là gì? Xem xét đọc đoạn sau về “độc giả nghiêm túc”

Cách Đọc Một Lá Thư Tình

Chàng thanh niên này vừa mới nhận được lá thư tình đầu tiên của mình. Anh ta

đọc nó ba hay bốn lần rồi, nhưng chỉ là mới khởi đầu đọc. Để đọc nó một cách hết sức

chính xác, anh ta phải dùng đến vài quyển từ điển và nhiều sách hỗ trợ từ những chuyên

gia về ngôn ngữ học và hàm nghĩa học.

Dầu vậy, anh ta có thể đọc được hết mà không cần những thứ đó.

Anh ta chăm chú vào từng nghĩa đen và bóng của từng từ và từng dấu. Đầu thư, cô ta đề,

“anh Mạnh Hà yêu dấu!” Anh ta tự hỏi mình: “Chính xác từ này quan trọng như thế nào?”

Cô ta chưa dùng từ “yêu quý nhất” vì cô ta còn e thẹn hay sao? Có phải từ “Yêu dấu” có vẻ

trang trọng quá không?

Có lẽ cô ta cũng có thể ghi “A-B yêu dấu” cho bất cứ người nào! Anh ta bắt đầu nhíu mày

lo lắng. Nhưng nỗi lo đó biến mất ngay khi anh ta nghĩ đến câu đầu tiên. Cô ta chắc chắn sẽ

không viết cho ai như vậy đâu.

Và anh ta bắt đầu đọc lá thư. Thi thoảng anh ta vui sướng như lên mây. Thi thoảng anh lại

nhăn mặt đau khổ. Hàng trăm câu hỏi đến trong đầu anh ta. Anh ta có thể thuộc lầu nó từng

câu. Thực sự anh ta còn tiếp tục đọc nó nhiều tuần sau nữa!

Chàng trai si tình này là một độc giả lý tưởng vì anh ta tập trung vào mọi chi tiết của bản

văn, ngay cả chi tiết nhỏ nhất. Một trong những kỹ năng quan trọng trong việc đọc Kinh Thánh

là khả năng nhìn thấy những chi tiết. Nhiều người trong chúng ta đọc Kinh Thánh quá nhanh và

bỏ qua nhiều chi tiết trong phân đoạn Kinh Thánh. Nhưng ý nghĩa của Kinh Thánh nằm sâu

trong những chi tiết của mỗi câu. Bước đầu tiên của chúng ta trong việc nắm bắt đoạn Kinh

Thánh là quan sát càng nhiều chi tiết càng tốt. Chúng ta muốn nhìn thấy càng nhiều càng tốt.

Trong giai đoạn đầu của phần phân tích, cố gắng tránh giải thích hay áp dụng. Những bước này

Page 15: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

12

là quan trọng nhưng đến sau, sau bước quan sát. Bước đầu của chúng ta là đọc kỹ, ghi chú lại

càng nhiều chi tiết càng tốt.

Làm sao chúng ta có thể phát triển được kỹ năng quan sát Kinh Thánh? Chúng ta đọc

phân đoạn đó nhiều lần và ghi lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Có nhiều điểm căn bản để tìm

kiếm trong phần quan sát. Những điểm này gồm: những từ lặp, so sánh, đối chiếu, bảng liệt kê,

nhân quả, cách nói, từ nối, động từ và đại từ. Đây chỉ là vài điểm bạn dùng để nghiên cứu. Quan

sát bao gồm việc tìm mọi chi tiết một cách cẩn thận trong phân đoạn.

Luôn nhớ rằng chúng ta chưa hỏi câu hỏi: “Phân đoạn này có nghĩa gì?” nhưng chỉ hỏi:

“Phân đoạn này nói về điều gì?” Chúng ta chưa bắt đầu khai phá phần ứng dụng của phần quan

sát. Cũng đừng giới hạn phần quan sát của bạn với cái gọi là ý tưởng sâu sắc hay đặc điểm quan

trọng. Trong phần quan sát, chúng ta muốn nhìn thấy mọi thứ, mọi chi tiết. Phần sau của sách

này sẽ chỉ cho chúng ta cách để tìm ý nghĩa trong những chi tiết vừa tìm được.

Một điều khác cần nhớ khi bắt đầu ấy là đọc và giải nghĩa là một sự kết hợp của việc

phân tích những mảng nhỏ và lớn của phân đoạn Kinh thánh. Chúng ta phải hiểu được những

phần nhỏ của phân đọan (từ ngữ, câu) để hiểu được những phần lớn hơn (đoạn, chương, câu

chuyện). Những mảng lớn hơn cũng cung cấp bối cảnh quan trọng để hiểu được những mảng nhỏ

hơn. Vì vậy tiến trình này đòi hỏi cả hai – đọc tổng thể để nắm lấy toàn cảnh và sau đó phân tích

từng phần để tìm ý nghĩa của chi tiết.

Chương 1, Hành Trình Giải Kinh, nói về một bức tranh tổng thể. Những chương tiếp theo

sẽ tập trung vào việc đọc và quan sát những phần nhỏ. Chương này nhấn mạnh đến việc đọc kỹ

những phần nhỏ của phân đoạn, tập trung vào mức độ câu. Chúng ta sẽ đi đến mức độ phân đoạn

trong chương 3 và nhiều phân đoạn (đoạn) trong chương 4.

Hãy làm việc chăm chỉ! Đào sâu! Yến tiệc đang chờ bạn!

Những Điều Cần Tìm Trong Câu

1. Những Từ Lặp

Tìm những từ lặp đi lặp lại nhiều lần. Trước hết, ghi lại những từ lặp đi lặp lại nhiều lần

trong câu bạn đang nghiên cứu. Sau đó, khảo sát những câu xung quanh đoạn Kinh Thánh bạn

đang đọc để tìm những từ lặp trong phân đoạn lớn hơn.

Ví dụ, xem I Giăng 2:15-17

15 Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự

kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. 16 Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê

tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến,

Page 16: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

13

nhưng từ thế gian mà ra. 17 Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý

muốn Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.

Từ nào lặp trong câu đầu? Từ này (“thế gian”) có xuất hiện trong câu tiếp theo không?

Từ “thế gian” có xuất hiện nhiều lần trong phân đoạn này không? Nó có trong mỗi câu không?

Bạn có để ý đến từ “yêu” cũng được lặp lại nhiều lần không? “Yêu” xuất hiện bao nhiêu lần? Khi

quan sát những từ lặp, chúng ta có những ý tưởng sơ khởi về nội dung của đoạn Kinh Thánh nói

về gì. Có điều gì đó cần làm với thế gian – đặc biệt, về yêu thế gian.

Chúng ta hãy cùng thử một đoạn khác. Cùng đọc cẩn thận II Cô-rinh-tô 1:3-7:

3 Chúc tạ Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức

Chúa Trời ban mọi sự yên ủi. 4 Ngài yên ủi chúng tôi trong mọi sự khốn nạn, hầu cho nhơn sự yên

ủi mà Ngài đã yên ủi chúng tôi, thì chúng tôi cũng có thể yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ

gặp! 5 Vì như những sự đau đớn của Đấng Christ chan chứa trong chúng tôi thể nào, thì sự yên ủi

của chúng tôi bởi Đấng Christ mà chứa chan cũng thể ấy. 6 Như vậy, hoặc chúng tôi gặp hoạn nạn,

ấy là cho anh em được yên ủi và được rỗi; hoặc chúng tôi được yên ủi, ấy là cho anh được em yên ủi,

mà sự yên ủi đó được hiện ra bởi anh em chịu cách nhịn nhục những sự đau đớn mà chúng tôi cùng

chịu. 7 Sự trông cậy của chúng tôi về anh em thật vững vàng; vì biết rằng bởi anh em có phần trong

sự đau đớn, thì cũng có phần trong sự yên ủi vậy.

Đọc lại câu đầu. Bao nhiêu lần từ “yên ủi” xuất hiện? Bốn lần! Trong một câu! Bạn đã

nhìn thấy rõ: đoạn này có điều gì đó cần làm với sự yên ủi. Có gì nữa không? Nhìn phần còn lại

của phân đoạn này. Bao nhiêu lần từ “yên ủi” tái xuất hiện? Có trong mỗi câu không? Từ “yên

ủi” có được dùng giống nhau trong mỗi lần xuất hiện không? Từ “yên ủi” được dùng như một

động từ ở đâu và một danh từ ở đâu? Có những trợ từ nào được dùng với từ “yên ủi” và chúng

thay đổi như thế nào (“mọi sự yên ủi”, “yên ủi chúng tôi”, “yên ủi kẻ khác”)? Ai được yên ủi? Ai

yên ủi? Cũng xem từ “khốn nạn”. Câu nào đề cập đến “khốn nạn”? Từ “khốn nạn” xuất hiện bao

nhiêu lần? Ai khốn nạn? Có liên hệ gì giữa khốn nạn và yên ủi?

Xem sự lặp lại của vài đoạn khác. Ví dụ, chú ý đến số lần những từ này được lặp lại trong

những phần sau:

Giăng 15:1-10 (tìm từ “ở trong”)

Ma-thi-ơ 6:1-18 (tìm từ “cha”)

I Cô-rinh-tô 15:50-54 (tìm từ “sự hư nát” và “sự không hay hư nát”)

Page 17: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

14

2. Đối Lập

Tìm những ý tưởng hay cá nhân đối lập nhau. Ví dụ tìm trong Châm ngôn 14:31:

Kẻ hà hiếp người nghèo khổ làm nhục Đấng Tạo hóa mình;

Còn ai thương xót người bần cùng tôn trọng Ngài.

Hai dạng người khác nhau được đối chiếu trong câu này, cả trong cách họ đối xử với

người nghèo và trong cách hành vi của họ đối với người phản ánh thái độ của họ với Đức Chúa

Trời. Một dạng người hà hiếp người nghèo, một hành động làm nhục Đức Chúa Trời, Đấng Tạo

Hóa. Một dạng người khác là thương xót người nghèo, hành động của người đó với người nghèo

là tôn trọng Đức Chúa Trời.

Còn trong Châm ngôn 15:1

Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận; Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm.

Các trước giả trong Tân Ước cũng thường dùng hình thức đối lập. Đọc Rô-ma 6:23 và

nhận ra hai đối chiếu:

Vì tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời

trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.

Đối lập trong Ê -phê-sô 5:8:

Vả, lúc trước anh em đang còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa.

Tương tự, Giăng dùng đối lập giữa sự sáng/sự tối và phát triển nó trong nhiều câu trong I

Giăng 1:5-7:

5 Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng

Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu. 6 Ví bằng chúng ta nói

mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối và

không làm theo lẽ thật. 7 Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình

Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Đức Chúa Jêsus,

Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta.

Đối lập chính trong phân đoạn này là gì? “Sự sáng” và “sự tối”. Chúng ta có thể nói chi

tiết hơn về bản chất của sự đối lập này không? Có. Hãy nhớ rằng đối lập chỉ ra hai phần: (1) bản

chất của Đức Chúa Trời (sự sáng và không có sự tối) và (2) hành động bước đi của chúng ta

(trong sự sáng đối lập với trong sự tối).

3. So Sánh

Đối lập tập trung vào sự khác biệt. Còn so sánh tập trung vào sự tương đồng. Tìm những

ý tưởng hay cá nhân được so sánh với nhau.

Page 18: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

15

Châm ngôn 25:26 là một điển hình:

Người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác, Khác nào một suối nước bị dấy đục, một

nguồn nước bị hư.

Làm thế nào người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác lại được ví như dòng suối bị

dấy đục? Bởi vì dòng suối, như con người, trước đây được sạch, tinh khiết và hữu dụng, nhưng

bây giờ bị vẫn đục và vô dụng.

Trong Gia-cơ 3:3-6 cái lưỡi được so sánh với ba điều. Điều đó là gì?

Chúng ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa, cho nó chịu phục mình, nên mới sai khiến cả và

mình nó được. 4 Hãy xem những chiếc tàu: dầu cho lớn mấy mặc lòng, và bị gió mạnh

đưa đi thây kệ, một bánh lái rất nhỏ cùng đủ cạy bát nó, tùy theo ý người cầm lái. 5 Cũng

vậy, cái lưỡi là một quan thể nhỏ, mà khoe được những việc lớn. Thử xem cái rừng lớn

chừng nào mà một chút lửa có thể đốt cháy lên! 6 Cái lưỡi cũng như lửa; ấy là nơi đô hội

của tội ác ở giữa các quan thể chúng ta, làm ô uế cả mình, đốt cháy cả đời người, chính

mình nó đã bị lửa địa ngục đốt cháy.

Cuối cùng một so sánh tuyệt vời trong Ê-sai 40:31. Sự phục hồi sức lực từ việc đặt hi

vọng vào Chúa được so sánh với chim ưng:

Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng;

chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.

4. Bảng Liệt Kê

Bất cứ khi nào bạn gặp hơn hai điểm thì bạn có thể xem chúng như là một bảng liệt kê.

Viết bảng liệt kê xuống và khám phá tầm quan trọng của chúng. Có thứ tự nào không? Có những

điểm nào được nhóm lại trong một cách nào đó không? Ví dụ, ba điều nào được liệt kê trong I

Giăng 2:16?

Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo

của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra.

5. Nhân Quả

Thông thường tác giả Kinh thánh nói đến nguyên nhân trước rồi đề cập đến kết quả sau.

Chúng ta đã xem Châm ngôn 15:1 ở trên và thấy câu này có sự đối lập. Nó cũng có hai quan hệ

nhân-quả. Hãy cùng nhìn lại:

Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận; Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm.

Nguyên nhân đầu tiên là “lời đáp êm dịu”. Kết quả của nguyên nhân này là gì? “Làm

nguôi cơn giận”. Nguyên nhân thứ hai là “lời xẳng xớm”. Hậu quả là gì? “trêu thạnh nộ thêm”.

Page 19: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

16

Chúng ta cùng xem Rô-ma 6:23 lần nữa:

Vì tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời

trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.

Trong phân đoạn này “tội lỗi” là nguyên nhân, còn “sự chết” là hậu quả. Tương tự, đọc

Rô-ma 12:2:

Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho

biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.

Nguyên nhân là gì? “Biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình”. Hiệu quả liên

quan? Khả năng nhận biết ý muốn của Chúa.

Nhân quả trong Giăng 3:16 là gì? Có nhiều hơn một mối quan hệ nhân-quả:

Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai

tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.

Mối quan hệ nhân-quả đóng vai trò quan trọng trong Kinh Thánh. Hãy chú ý đến nó.

6. Cách Ngôn

Cách ngôn là những hình ảnh trong đó những từ ngữ được dùng theo một ý nghĩa khác

hơn nghĩa đen và thông thường. Ví dụ nghĩ về hình ảnh đèn trong Thi thiên 119:105:

Lời Chúa là ngọn đèn cho chơn tôi

Ánh sáng cho đường lối tôi.

Lời Đức Chúa Trời không phải là một “cây đèn” theo nghĩa đen để xua tan bóng tối.

Nhưng nó là một cây đèn theo nghĩa bóng, giúp chúng ta nhìn thấy con đường của cuộc đời

(chân, đường lối) một cách rõ ràng. Nên nhớ rằng cả “đèn” và “chân/ đường lối” là cách ngôn.

Khi bạn quan sát đoạn Kinh Thánh, hãy chú ý đến cách ngôn. Cố gắng nhận ra cách ngôn.

Tự hỏi chính mình: “Tác giả đang cố gắng chuyển tải đến chúng ta bằng cách ngôn qua hình ảnh

nào?” Ví dụ, cùng xem Ê-sai 40:31 lần nữa”

Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va

thì chắc được sức mới,

cất cánh bay cao như chim ưng;

chạy mà không mệt nhọc,

đi mà không mòn mỏi.

“Cất cánh bay cao như chim ưng” là hình thức cách ngôn. Bạn có nhìn thấy hình ảnh cất cánh

bay cao… trên bầu trời ấm áp…bay vô hạn chưa?

Page 20: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

17

Cách ngôn là những hình thức văn chương mạnh mẽ vì chúng vẽ lên những hình ảnh mà

chúng ta có thể liên hệ đến cảm xúc. Những hình ảnh này có thể là những phước hạnh, như cánh

chim ưng trong Ê-sai 40, nhưng cũng có thể là những hình ảnh phán xét. Ví dụ, xem hình ảnh

trong Ma-thi-ơ 23:27 và mô tả cảm xúc của mình khi phản ứng lại với hình ảnh này:

Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi giống như

mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy.

Kinh Thánh có nhiều cách ngôn, cả trong Cựu Ước và Tân Ước. Hãy đọc những phân

đoạn sau. Sau khi đọc xong từng phân đoạn và nhận ra những hình thức cách ngôn. Sau đó dừng

lại ở từng cách ngôn. Cố gắng hình dung ra hình ảnh này. Bạn nhìn thấy gì?

Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi; Đức Chúa Trời là hòn đá tôi,

nơi Ngài tôi sẽ nương náu mình; Ngài cũng là cái khiên tôi, sừng cứu rỗi tôi, và là nơi náu

ẩn cao của tôi. (Thi thiên 18:2)

Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên. (I Cô.3:6)

Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các tiên tri, và quăng đá các đấng chịu sai

đến cùng ngươi, bao phen ta muốn nhóm họp con cái ngươi, như gà mái túc và ấp con

mình dưới cánh, mà các ngươi chẳng muốn! (Luca 13:34)

Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi

của hết thảy chúng ta đều chất trên người. (Ê -sai 53:6)

7. Từ Nối

Hãy tưởng tượng đoạn Kinh Thánh giống như một cái nhà bằng gạch và những từ nối là

chất keo dính những viên gạch (ngữ, câu) lại với nhau. Một thao tác quan trọng của việc đọc kỹ

là ghi lại tất cả những từ nối (“và”, “vì”, “nhưng”, “do đó”, “bởi vì”…). Chúng ta thường hay bỏ

qua những từ đó. Không có chất keo, những viên gạch sẽ đổ ra thành một đống ngỗn ngang. Do

đó, luôn ghi lại những từ nối và nhận ra mục đích và chức năng của nó. Tức là cố gắng xác định

xem thử những từ nối này đang kết nối những điều gì.

Ví dụ, nếu bạn gặp từ “nhưng” bạn sẽ nghĩ ngay đến sự đối lập. Hãy xem trong phân

đoạn đó có những đối lập gì. Xem lại Rô-ma 6:23:

Vì tiền công của tội lỗi là sự chết,nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời

trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.

Từ nối “nhưng” xác định một sự đối lập giữa tiền công của tội lỗi (sự chết) và sự ban cho

của Đức Chúa Trời (sự sống đời đời).

Page 21: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

18

“Do đó” hay “vì vậy” thường là một kết luận dựa trên những biện luận và những lý do

phía trên. Khi bạn gặp từ “vậy”, hãy đọc lại phần Kinh Thánh phía trên và xác định những lý do

trên là gì. Thỉnh thoảng lý do dễ thấy, nằm rõ ràng trong những câu trước. Dầu vậy, có những lý

do khó thấy. Nó có thể nằm ở phần biện luận lớn hơn ở vài chương phía trước.

Rô-ma 12:1 là minh họa cho dạng khó tìm này:

Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể

mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của

anh em.

Từ “vậy” ở phần đầu của đoạn 12, nối câu này với mười một đoạn phía trước. Trong

mười một đoạn đầu, Phao-lô đã bàn luận về thần học – sự kiện tuyệt vời về sựu cứu rỗi của

chúng ta bởi ân điển qua đức tin. Trong đoạn 12, ông chuyển đề tài sang hành vi. Chúng ta phải

hành động thế nào? Chúng ta phải sống ra sao? Từ “vậy” trong 12:1 nối bản chất của chúng ta

với hành vi của chúng ta. Hành vi của chúng ta được mô tả trong Rô-ma 12 (và sau đó) là kết

quả trực tiếp của ân điển của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta (được thảo luận trong

đoạn 1-11).

Từ “vậy”, “thế thì” dễ hơn được tìm thấy trong Hê-bơ-rơ 12:1:

Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta

cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi

cuộc chạy đua đã bày ra cho ta,

Lý do cho từ “thế thì” dễ dàng được tìm thấy trong đoạn trước đó, đoạn 11. Trong 12:1

nói đến “vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn”. Mà đám mây

làm chứng đó có trong bối cảnh ở đoạn 11.

Từ “vậy” trong Cô-lô-se 3:12 thì không rõ ràng:

Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của

Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại,

nhịn nhục,

Từ “vậy” nói gì trong phần trước? Đọc mười một câu trước và tìm lý do quan trọng sau

câu 12. Trong những câu trước, Phao-lô dạy người Cô-lô-se mặc lấy người mới (đặc biệt trong

câu 10). Vì họ đã mặc lấy người mới nên từ “vì vậy” họ cũng phải mặc lấy tính cách mới – lòng

thương xót, nhơn từ …

Những từ nối khác cũng quan trọng. Xem II Ti-mô-thê 1:7-8:

7.Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh

mẽ, có tình thương yêu và dè giữ. 8 Vậy con chớ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa

Page 22: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

19

chúng ta, cũng đừng lấy sự ta vì Ngài ở tù làm xấu hổ; nhưng hãy cậy quyền phép Đức

Chúa Trời mà chịu khổ với Tin Lành.

Hãy chú ý đến những từ nối trong câu 7 (“vì”, “bèn”, “và”) và trong câu 8 (“vậy”,

“nhưng”). Hai điều này được đối lập qua từ nối “nhưng” trong câu 7? Từ “vậy” trong câu tiếp

theo liên quan gì với câu 7? Tương tự, từ “nhưng” trong câu 8 đối lập điều gì?

Từ nối “nhưng” trong Sáng Thế Ký 6:8 quan trọng thế nào? Hãy để ý đến sự đối lập

trong hai câu trước đó.

5 Đức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của

lòng họ chỉ là xấu luôn; 6 thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn rầu

trong lòng. 7 Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã

dựng nên, từ loài người cho đến loài súc vật, loài côn trùng, loài chim trời; vì ta tự trách đã

dựng nên các loài đó. 8 Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va.

8. Động Từ - Tất Cả Những Hành Động

Những động từ rất quan trọng vì nó trình bày hành động của câu. Khi bạn quan sát phân

đoạn Kinh Thánh, hãy để ý đến những hành động. Cố gắng nhận ra những động từ nào được

dùng. Động từ nằm trong thì quá khứ, hiện tại, hay tương lại? Nó có diễn đạt một hành động tiếp

diễn, tức là hành động liên tục hay không? Động từ có theo thể mệnh lệnh không? (hãy, chớ).

Đặc biệt chú ý đến những động từ theo thể mệnh lệnh! Nó có thể là mệnh lệnh Đức Chúa

Trời truyền cho chúng ta. Ví dụ, hãy xem những động từ mệnh lệnh trong Ê-phê-sô 4:2-3:

2 phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu

mà chìu nhau, 3 dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh.

Một cách tìm động từ quan trọng khác là xem thử nó ở dạng chủ động hay bị động. Điều

này quan trọng trong các thư tín của Phao-lô vì nó thường liên hệ giữa những điều chúng ta làm

và những điều Đức Chúa Trời làm cho chúng ta. Động từ ở thể bị động thường nói đến những

điều Chúa làm cho chúng ta.

Chú ý những động từ chủ động và bị động sau:

Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng

Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 3:1)

Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi

tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước (Sáng – thế Ký 12:3).

Page 23: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

20

9. Đại Từ

Ghi lại tất cả những đại từ và nhớ nhận biết đại từ đó đại diện cho ai. Ví dụ, ai là “chúng

ta” trong Ê-phê-sô 1:3:

Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước

cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời

Tìm tất cả các đại từ trong phân đoạn sau (Phi-líp 1:27-30):

27 Duy anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin Lành của Đấng Christ, để hoặc

khi đến thăm anh em, hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết rằng anh em một lòng đứng vững,

đồng tâm chống cự vì đức tin của đạo Tin Lành, phàm sự chẳng để cho kẻ thù nghịch

ngăm dọa mình; 28 điều đó là một chứng nghiệm chúng nó phải hư mất, còn anh em được

cứu rỗi; và ấy là từ nơi Đức Chúa Trời, 29 Ngài nhân Đấng Christ, ban ơn cho anh em,

không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa, 30 là phải chịu cùng

một cuộc chiến tranh như anh em đã thấy ở nơi tôi và hiện nay còn nghe nói có nơi tôi.

Ví dụ: Rô-ma 12:1-2

Cho đến lúc này chúng ta đã quan sát được những đặc điểm quan trọng mà chúng ta đã

gặp trong đoạn Kinh Thánh. Chúng ta hãy cùng dùng lại tất cả những điều vừa học ở trên để áp

dụng vào một phân đoạn. Chúng ta hãy cùng xem Rô-ma 12:2. Chúng ta đã quan sát đoạn này

rồi nhưng giờ chúng ta làm rõ hơn. Hãy đọc lại phần quan sát. Hãy quan sát tất cả những gì bạn

có thể quan sát được.

Tóm Tắt

Chúng ta hãy cùng lướt lại những gì chúng ta vừa học qua:

Những từ lặp – Tìm những từ hay ngữ được lặp lại.

Đối lập – Tìm những ý tưởng, cá nhân hay phần đối lập nhau.

So sánh – Tìm những từ, ngữ hay phần so sánh với nhau. Cũng tìm những

điểm tương đồng.

Liệt kê – Để ý đến phân đoạn có đề cập nhiều hơn hai điều

Nhân Quả - Có thể có nhiều hơn một kết quả của một nguyên nhân đã được

đề cập trong đoạn văn.

Cách ngôn – Tìm những diễn đạt chuyển tải một hình ảnh, sử dụng những từ

trong một nghĩa khác hơn nghĩa đen.

Từ nối - Chú ý những từ nối những đơn vị lại với nhau, như “và”, “nhưng”,

“vì”. Để ý chúng liên kết điều gì.

Page 24: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

21

Động từ - Để ý một động từ đang ở thì quá khứ, hiện tại hay tương lai; chủ

động hay bị động, cũng tìm những mệnh lệnh.

Đại từ - Nhận ra những điều hay người mà nó đại diện cho.

Kết Luận

Bước đầu trong việc giải kinh là tìm càng nhiều quan sát càng chi tiết càng tốt. Chúng ta

muốn đào sâu và tìm càng nhiều chi tiết càng tốt. Những điều liệt kê ở trên chưa phải là tất cả

nhưng nó chỉ mới là khởi đầu. Có nhiều chi tiết đang chờ chúng ta quan sát. Hãy tìm cẩn thận

trong phân đoạn Kinh Thánh. Đọc nó nhiều lần! Quan sát. Viết xuống tất cả những quan sát của

bạn. Đọc nó lần nữa. Tìm nhiều hơn. Viết xuống nhiều hơn. Những quan sát nào bạn đã bỏ qua?

Có nhiều điều nữa mà chưa tìm thấy. Đừng bỏ cuộc! Hãy cùng đào!

Page 25: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

22

Chương 3

Cách Đọc Kinh Thánh – Phân Đoạn

Lời Giới Thiệu

Trong chương 2 bạn đã học cách để quan sát ở mức độ câu. Trong chương này bạn sẽ tiếp

tục phát triển kỹ năng quan sát nhưng ở mức độ phân đoạn. Tiếp tục tìm! Tiếp tục quan sát! Tiếp

tục đào bới Lời của Đức Chúa Trời.

Nghệ Thuật Quan Sát – Học Cách Tìm

Học cách tìm chi tiết là một kỹ năng không phải tự nhiên mà có, bèn là bởi luyện tập mà được.

Những Điều Cần Tìm Trong Phân Đoạn

I. Phép Diễn Dịch/ Phép Qui Nạp

Thỉnh thoảng một tác giả sẽ giới thiệu một ý tưởng với một ý chung – tức là một tổng

quan hay tóm tắt ý chính. Tác giả phát triển câu chủ đề đó ra những ý chi tiết hơn. Thông thường

những ý chi tiết đó giải thích rõ hơn ý chính đó. Ví dụ, một ý chung: “tôi thích món khai vị”. Sau

đó tôi bắt đầu giải thích chi tiết hơn về việc thích món khai vị: “Tôi thích bánh táo, bánh dâu,

kem sô cô la hay bánh kem.”

Tác giả Kinh Thánh thường dùng những phép diễn dịch để trình bày với chúng ta. Ví dụ,

Phao-lô nêu một ý chung trong Ga-la-ti 5:16:

Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của

xác thịt.

“Bước đi theo Thánh Linh” và “làm trọn điều ưa muốn của xác thịt” là những ý tổng thể.

Nó có tính chất chung hơn. Chúng ta, là độc giả, muốn biết chi tiết hơn và cụ thể hơn về từng cái

một. Phao-lô trình bày tiếp cho chúng ta những điều chi tiết hơn về làm trọn những điều ưa muốn

của xác thịt trong 5:19-21a:

Vả, các việc làm của xác thịt là rõ ràng lắm: ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, 20 thờ

hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng,

21 ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy.

Page 26: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

23

Rồi ông chuyển sang những cái cụ thể của việc bước theo Thánh Linh là thế nào trong

5:22-23:

22 Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục,

nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: 23 không có luật pháp nào cấm các sự đó.

Rô-ma 12 cũng là từ tổng thể đến cụ thể. Phao-lô nêu ý tổng thể trong câu 1:

Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể

mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của

anh em.

Những điều cụ thể bắt đầu ở vài câu sau trong 12:9 và tiếp tục cho đến chương 15. Rô-ma

12:9-13 được xem như là một điển hình. Chú ý những bản chất cụ thể của lời dạy

9 Lòng yêu thương phải cho thành thật. Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành. 10 Hãy lấy

lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em; hãy lấy lẽ kính nhường nhau. 11

Hãy siêng năng mà chớ làm biếng; phải có lòng sốt sắng; phải hầu việc Chúa. 12 Hãy

vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện. 13

Hãy cung cấp sự cần dùng cho các thánh đồ; hãy ân cần tiếp khách.

Cũng nhớ rằng tác giả cũng thường hay đảo ngược vị trí và đi từ cụ thể đến tổng thể. Tác

giả liệt kê những điều cụ thể trước rồi sau đó tóm lại trong một ý chung, tóm tắt điểm chính. Ta

gọi thuật này là phép qui nạp.

I Cô 13:1-12 là một điển hình:

1 Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương, thì

tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. …

Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhơn từ; tình yêu thương chẳng

ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,…

Cuối cùng ông tóm lại trong câu 13 như là ý chính của phân đoạn này:

Nhưng bây giờ còn có ba điều này: đức tin, sự trông cậy và tình yêu thương. Nhưng điều

trọng hơn trong ba điều đó là tình yêu thương.

2. Hỏi-Đáp

Thỉnh thoảng, tác giả cũng đặt ra câu hỏi tu từ rồi đưa ra câu trả lời câu hỏi đó. Phao-lô

sử dụng điều này nhiều lần trong Rô-ma. Ví dụ trong Rô-ma 6:1, ông hỏi:

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật

chăng?

Page 27: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

24

Rồi ông trả lời chính câu hỏi của mình trong câu 2:

Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?

Trong những câu tiếp theo đó, vị sứ đồ tiếp tục bàn luận câu trả lời cho câu hỏi mở đầu

của ông trong 6:1. Ô ng sử dụng hình thức hỏi-đáp này nhiều lần trong những phân đoạn Kinh

Thánh khác trong Rô-ma (3:1,5,9,27-31;4:1,9;6:15; 7:1,7,13; 8:31-35;11:1,7,11).

Không chỉ riêng Phao-lô sử dụng hình thức hỏi đáp này. Mác cũng dùng hình thức này

trong vài nơi trong câu chuyện về Chúa Giê-xu. Ví dụ trong Mác 2:1-3:6, có năm phân đoạn

xoay quanh một câu hỏi và một câu trả lời. Năm câu hỏi đó là:

1. “Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (2:7)

2. “Người cùng ăn với kẻ thâu thuế và kẻ có tội sao?” (2:16)

3. “Bởi cớ nào môn đồ của Giăng và môn đồ của người Pha-ri-si đều kiêng ăn, còn môn đồ của thầy

không kiêng ăn?” (2:18)

4. “Sao môn đồ thầy làm điều không nên làm trong ngày Sa-bát?” (2:24)

5. “Trong ngày Sa-bát, nên làm việc lành hay việc dữ, cứu người hay giết người?” (3:4)

Bốn câu hỏi cuối do những người chống đối Chúa nêu ra. Những người Pha-ri-si và

những người khác đang thách thức hành vi tôn giáo của Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài. Sau

mỗi câu hỏi, Chúa Giê-xu trả lời từng vấn đề một.

1. “Vả, để cho các ngươi biết Con người ở thế gian có quyền tha tội, thì Ngài phán cùng kẻ bại rằng:

Ta biểu ngươi, hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà.” (2:10-11)

2. “Ta chẳng phải đến gọi người công bình, nhưng gọi kẻ có tội.” (2:17b)

3. “Bạn hữu của chàng rể có kiêng ăn được trong khi chàng rể còn ở cùng mình chăng?” (2:19)

4. “Các ngươi chưa đọc đến sự vua Đa-vít làm …. Con người cũng làm chủ ngày Sa-bát.” (2:25,27b)

Câu hỏi thứ năm do Chúa Giê-xu hỏi cho người Pha-ri-si. Câu trả lời là rõ ràng vì điều

hợp pháp là làm điều tốt, như Chúa Giê-xu đã làm khi chữa lành người teo tay, không làm điều

ác và không giết người như người Pha-ri-si mưu hại Chúa Giê-xu (3:6). Tuy nhiên, dầu Chúa

Giê-xu đã trả lời câu hỏi cho họ nhưng họ lại không thể trả lời câu hỏi của Chúa Giê-xu.

Để ý rằng Mác cân bằng năm phần câu hỏi này trong phần đầu và năm trong phần cuối

của sách Phúc  m Mác (11:27-12:40). Trong mỗi phần những người chống đối cũng hỏi bốn câu

hỏi và Chúa Giê-xu hỏi câu hỏi cuối cùng.

3. Hội thoại

Hội thoại có phần trùng với phần hỏi-đáp được thảo luận ở trên. Bốn câu hỏi trong Mác

2:15-3:6 là phần của đối thoại giữa Chúa Giê-xu và người Pha-ri-si. Mới nhìn, hội thoại có vẻ

quá rõ ràng, không cần phải lo lắng gì. Trong văn xuôi, hội thoại được dùng thường xuyên và dễ

sắp xếp hơn. Nhưng đừng chỉ đọc lướt qua phần hội thoại. Hãy nhớ sự kiện mà cuộc hội thoại

Page 28: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

25

đang diễn ra. Sau đó hỏi những câu hỏi về cuộc hội thoại đó. Người tham gia là ai? Ai nói với ai?

Nói trong hoàn cảnh nào? Có người nào xung quanh đó không? Họ có lắng nghe không? Họ có

tham gia vào cuộc hội thoại đó không? Cuộc hội thoại đó có tranh luận không? Có thảo luận

không? Có thân mật không? Nội dung chính của cuộc hội thoại đó là gì? Bạn sẽ thấy hữu ích khi

tô điểm cho cuộc hội thoại đó.

Những câu chuyện trong Kinh Thánh chứa đựng rất nhiều cuộc hội thoại tuyệt diệu. Hãy

xem lại cuộc hội thoại với người đàn bà Sa-ma-ri bên giếng Gia-cốp trong Giăng 4. Một cuộc hội

thoại nổi tiếng giữa Chúa Giê-xu và Phi-e-rơ trong Giăng 13:6-10 về việc Chúa Giê-xu có nên

rửa chân cho ông hay không. Nhưng bất thường nhất là cuộc nói chuyện giữa Ba-la-am và con

lừa trong Dân Số Ký 22.

Một số cuộc hội thoại không dễ nhận ra. Những hội thoại không rõ ràng này thường

mang ý nghĩa sâu sắc cho đoạn Kinh Thánh. Ví dụ, sách Ha-ba-cúc chứa đựng nhiều cuộc hội

thoại giữa Đức Chúa Trời và nhà tiên tri. Trong 1:1-4, Ha-ba-cúc hỏi Đức Chúa Trời tại sao Ngài

cho phép bất công tiếp diễn trong Giu-đa mà không có một động thái nào để ngăn chặn. Đức

Chúa Trời trả lời trong 1:5-11 bằng lời hứa sẽ sai dân Ba-by-lôn xâm chiếm Giu-đa và hủy diệt

đất nước này. Ha-ba-cúc phản đối trong 1:12-2:1 vì sự xâm lăng là điều mà Ha-ba-cúc không hề

nghĩ đến. Dầu vậy, Đức Chúa Trời giải đáp sự phản đối của ông trong 2:2-20 rằng sự xâm lăng là

không thể tránh khỏi. Một khi bạn nhận ra được cấu trúc của hội thoại trong sách Ha-ba-cúc, sứ

điệp của sách này trở nên rõ ràng.

4. Những Câu Về Mục Đích

Phải luôn nhận ra những câu chỉ về mục đích. Những câu hay ngữ này mô tả lý do, kết

quả hay hậu quả của một vài hành động. Chúng thường xuyên được giới thiệu bằng những từ nối

chỉ về kết quả như “để”, “để mà”… nhưng cũng có thể được giới thiệu bởi một động từ đơn giản.

Những ví dụ sau đây minh họa cho câu chỉ mục đích.

vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm

việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo (Ê -phê-sô 2:10).

Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài (Giăng 3:16)

Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi

và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: lại cũng cho mọi điều các ngươi sẽ

nhân danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi (Giăng 15:16).

Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi hãy nghe lấy và cẩn thận làm theo, hầu cho ngươi được phước và

thêm lên nhiều trong xứ đượm sữa và mật, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ

ngươi đã phán hứa cùng ngươi (Phục-Truyền Luật Lệ Ký 6:3).

Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, Để tôi không phạm tội cùng Chúa (Thi-thiên 119:11).

Page 29: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

26

5. Phương Tiện (nhờ đó mà một điều gì đó có thể đạt được)

Khi một hành động, một kết quả hay một mục đích được nói đến, hãy tìm phương tiện

dẫn đến hành động, kết quả hay mục đích đó. Làm thế nào hành động hay kết quả này được

thành tựu? Làm sao đạt được mục đích đó? Ví dụ , đọc phần thứ hai của Rô-ma 8:13:

… song nếu nhờ Thánh Linh, làm cho chết các việc của thân thể, thì anh em sẽ sống.

Phương tiện làm cho chết các việc của chi thể là Thánh Linh.

Tương tự, hãy xem Thi thiên 119:9:

Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo lời Chúa.

Mục đích hay hành động được mong đợi là người trẻ tuổi phải giữ cho đường lỗi mình

được trong sạch. Phương tiện là gì? Sống theo Lời Chúa.

6. Mệnh Đề Điều Kiện

Nhận diện tất cả những mệnh đề điều kiện. Đây là những mệnh đề trình bày những điều

kiện mà qua đó những hành động, kết quả, thực tế hay hậu quả sẽ xảy ra. Mệnh đề điều kiện

thường được giới thiệu bởi từ nối “nếu”. Kết quả thì thường được giới thiệu bởi từ “thì”, nhưng

có khi không có từ nối nào. Bất cứ khi nào bạn gặp một mệnh đề điều kiện, luôn xác định chính

xác hành động điều kiện là gì (phần nếu) và kết quả là gì (phần thì).

Hãy nhận diện mệnh đề điều kiện và mệnh đề kết quả trong những câu sau:

Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là

chúng ta nói dối và không làm theo lẽ thật (I Giăng 1:6)

Điều kiện: Nếu chúng ta nói mình giao thông với Ngài mà còn bước đi trong sự tối tăm.

Kết quả: chúng ta nói dối và không sống theo lẽ thật.

Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi,

nầy mọi sự đều trở nên mới (II Cô-rinh-tô 5:17).

Điều kiện: nếu ai ở trong Đấng Christ

Kết quả: người đó được dựng nên mới, những sự cũ qua đi, mọi sự đều trở nên mới.

Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi cách trung thành,

cẩn thận làm theo mọi điều răn của Ngài, mà ta truyền cho ngươi ngày nay, thì Giê-hô-va

Đức Chúa Trời ngươi sẽ ban cho ngươi sự trổi hơn mọi dân trên đất (Phục-Truyền Luật-lệ

Ký 28:1).

Page 30: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

27

Điều kiện: nếu trung thành vâng phục Chúa và cẩn thận làm theo mọi mạng lịnh của Chúa

Kết quả: Chúa sẽ ban cho nhiều hơn mọi dân khác trên đất.

7. Hành Động/Vai trò của Con Người và Hành Động/Vai Trò của Đức Chúa Trời

Nhiều đoạn Kinh Thánh cũng nói đến hành động của con người cũng như của Đức Chúa

Trời. Hãy nhận ra những hành động này và ghi chúng riêng ra. Hỏi những câu hỏi: Đức Chúa

Trời (Chúa Cha, Chúa Con, Thánh Linh) làm gì trong phân đoạn này? Con người làm gì trong

phân đoạn này? Sau đó xem thử có liên hệ nào giữa những điều Đức Chúa Trời làm và con người

làm.

Ví dụ, đọc Ê-phê-sô 5:1-2:

Vậy anh em hãy trở nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời như con cái rất yêu dấu của Ngài;

hãy bước đi trong sự yêu thương, cũng như Đấng Christ đã yêu thương anh em, và vì

chúng ta phó chính mình Ngài cho Đức Chúa Trời làm của dâng và của tế lễ, như một

thức hương có mùi thơm.

Những hành động/ vai trò nào của con người trong đoạn Kinh Thánh này? Chúng ta phải

bắt chước Đức Chúa Trời như là con cái bắt chước cha mình vậy. Chúng ta cũng phải sống cuộc

đời đầy yêu thương như Đấng Christ đã yêu chúng ta vậy. Vai trò của Đấng Christ hay Đức

Chúa Trời trong phân đoạn này là gì? Hành động của Đấng Christ là dâng chính mình Ngài cho

Đức Chúa Trời vì chúng ta; vai trò của Đức Chúa Trời là Đấng làm kiểu mẫu cho chúng ta bắt

chước.

Hơn nữa, hãy bảo đảm chính xác khi liên hệ Đức Chúa Trời với những từ liên quan (ví dụ

như cha, chồng, vua). Ví dụ, trong Ma-thi-ơ 5:43-6:34 có 14 lần liên hệ Đức Chúa Trời như là

“Cha” (5:45,48;6:1,4,6,8,9,14,15,18,26,32). Bằng cách dùng từ “Cha” nhiều lần trong phân đoạn

này (từ Bài Giảng Trên Núi), Chúa Giê-xu rõ ràng đang muốn chuyển tải ý của Ngài về mối

quan hệ với Đức Chúa Trời như là Cha (cả của Ngài và của chúng ta).

8. Những Từ Chỉ Cảm Xúc

Kinh Thánh không phải là một quyển sách trừu tượng hay khó hiểu. Nó chủ yếu là về

mối quan hệ, mà mối quan hệ chính yếu là giữa Đức Chúa Trời và con người. Cảm xúc đóng vai

trò rất lớn trong các mối quan hệ. Khi đọc Kinh Thánh, bạn cần phải để ý đến những từ, ngữ mà

chuyển tải cảm xúc, cảm giác trong phân đoạn Kinh Thánh. Hãy đặc biệt chú ý đến những từ như

“cha”, “mẹ”, “con”, “con gái”, “con trai” hay những từ đại loại như vậy. Những từ này hàm chứa

cảm xúc.

Hãy đọc Ga-la-ti 4:12-16 và ghi lại những hàm ý chỉ cảm xúc trong những từ in nghiêng:

Hỡi anh em, tôi xin anh em hãy giống như tôi; vì tôi cũng như anh em. Anh em không làm

hại gì cho tôi. Anh em biết rằng ấy là đang lúc xác thịt yếu đuối mà tôi truyền Tin Lành

Page 31: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

28

cho anh em lần thứ nhất, vì xác thịt tôi yếu đuối sanh ra sự rèn thử cho anh em mặc dầu,

anh em cũng chẳng khinh tôi, chẳng chối tôi, mà lại tiếp rước tôi như một vị thiên sứ của

Đức Chúa Trời, thật như chính mình Đức Chúa Jêsus Christ. Vậy thì sự vui mừng của anh

em đã trở nên thể nào? Vì tôi làm chứng cho anh em rằng, lúc bấy giờ, nếu có thể được thì

anh em cũng móc con mắt mà cho tôi. Tôi lấy lẽ thật bảo anh em, lại trở nên thù nghịch

của anh em sao?

“Xin” chứa đựng nhiều cảm xúc hơn yêu cầu phải không? Phao-lô dường như chủ ý chọn

những từ cảm xúc để bày tỏ lòng mình trong phân đoạn này. Cảm giác mà Phao-lô bày tỏ ở đây

là gì? Tại sao ông gợi lại những mối quan hệ trong quá khứ, và gợi lại cách họ đã đón tiếp ông?

Câu “móc con mắt” diễn tả cảm xúc rất mạnh. Tương tự, ông có hàm ý gì khi dùng đến từ “kẻ

thù” ở đây?

Cựu Ước dùng những từ ngữ chỉ cảm xúc nhiều hơn trong Tân Ước. Chính Đức Chúa

Trời dường như muốn vỡ tung trái tim của Ngài vì dân sự cứng lòng và bội nghịch như Giê-rê-

mi 3:19-20 làm chứng:

Ta từng phán rằng: Ta sẽ đặt ngươi giữa vòng các con cái, ta sẽ cho ngươi một đất tốt, cơ

nghiệp quí giá của cơ binh các nước là dường nào! Ta từng phán: Ngươi sẽ gọi ta bằng

Cha tôi! và chớ xây lại mà không theo ta. Nhưng hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, thật như một người

đàn bà lìa chồng mình cách quỉ quyệt thể nào, thì các ngươi cũng quỉ quyệt với ta thể ấy,

Đức Giê-hô-va phán vậy.

Hãy quan sát hai sự so sánh cảm xúc mà Đức Chúa Trời dùng. Dân Y-sơ-ra-ên giống như

một đứa con trai khước từ mối quan hệ với cha mình, và nó giống như một người vợ phản bội

chồng mình để chạy theo người đàn ông khác. Hai mối quan hệ này (cha/con và vợ/chồng) là hai

mối quan hệ mang nhiều cảm xúc nhất mà con người từng trãi qua. Những mối quan hệ này

khiến vui tột đỉnh nhưng cũng đau đớn tột cùng. Trong Giê-rê-mi 3, Đức Chúa Trời muốn dân sự

của Ngài phải biết rằng họ đã làm tổn thương cảm xúc của Ngài vì đã khước từ Ngài.

9. Giọng Điệu

Cố nhận ra giọng điệu của phân đoạn Kinh Thánh. Giọng điệu thường liên quan đến

những từ chỉ cảm xúc. Dầu vậy, một khi bạn đã nhận ra được những từ chỉ cảm xúc, hãy tiếp tục

xác định giọng điệu của phân đoạn Kinh Thánh. Có giận dữ không? Âm điệu có chế diễu không?

Đau buồn không?

Ví dụ, đối chiếu giọng điệu của Cô-lô-se 3:1-4 với Ga-la-ti 3:1-4:

Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng

Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các

sự ở dưới đất; vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa

Trời. Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện

ra với Ngài trong sự vinh hiển (Cô. 3:1-4).

Page 32: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

29

Hỡi người Ga-la-ti ngu muội kia, ai bùa ếm anh em là người mà trước mắt đã được rõ bày

ra Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên thập tự giá? Tôi chỉ hỏi anh em một câu nầy:

Ấy là cậy các việc luật pháp hay là bởi nghe và tin mà anh em đã nhận được Đức Thánh

Linh? Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao

lại cậy xác thịt mà làm cho trọn? Anh em há luống công mà chịu sự khốn khó dường ấy

sao? nếu quả là luống công! (Ga-la-ti 3:1-4).

Trong Cô-lô-se 3:1-4, Phao-lô dùng giọng điệu nhẹ nhàng, giải thích. Ô ng không dùng

những từ có cảm xúc mạnh. Nhưng trong Ga-la-ti 3:1-4, giọng điệu của ông khác. Ông đang quở

trách người Ga-la-ti. Lời của ông có vẻ như ông đang giận hay thất vọng. Giọng điệu của ông là

một phần của sứ điệp và cần phải lưu ý đến giọng điệu trong mỗi phân đoạn mà bạn học.

Giọng điệu của Chúa Giê-xu trong Ma-thi-ơ 23:33-35 thế nào? Giọng điệu của Ngài có

nhẹ nhàng, yêu thương không?

Hỡi loài rắn, dòng dõi rắn lục kia, thế nào mà tránh khỏi sự đoán phạt nơi địa ngục được?

Vậy nên, nầy, ta sai những đấng tiên tri, kẻ khôn ngoan, và thầy thông giáo đến cùng các

ngươi; trong những người ấy, kẻ thì các ngươi sẽ giết và đóng đinh trên cây thập tự, kẻ thì

các ngươi sẽ đánh đập trong nhà hội mình, và các ngươi sẽ đuổi bắt họ từ thành nầy qua

thành kia, hầu cho hết thảy máu vô tội bị tràn ra trên mặt đất, đổ về các ngươi, từ máu A-

bên là người công bình cho đến máu Xa-cha-ri là con của Ba-ra-chi, mà các ngươi đã giết

ở giữa khoảng đền thờ và bàn thờ.

Hay giọng điệu đau buồn và tuyệt vọng trong Ca thương 3:1-6:

1.Ta là người đã thấy khốn khổ bởi gậy thạnh nộ của Ngài. 2 Ngài đã dắt ta và khiến ta

bước đi trong tối tăm, chẳng bước đi trong sáng láng. 3 Chắc Ngài trở tay cả ngày nghịch

cùng ta nhiều lần. 4 Ngài đã làm hao mòn thịt và da, đã bẻ gãy xương ta, 5 Đã xây đắp

nghịch cùng ta, vây ta bằng mật đắng và sự nhọc nhằn, 6 Khiến ta ở trong nơi tối tăm,

như người đã chết từ lâu đời.

Tóm Tắt

Phần này là phần tóm tắt những điều chúng ta vừa học trong chương 3.

Hỏi – Đáp – Xem thử phân đoạn có được xây dựng bằng hình thức hỏi-đáp không.

Hội Thoại – Xem phân đoạn có phần hội thoại không. Nhận ra ai đang nói và nói với ai.

Phương tiện – Xem có câu nào xác định rằng một điều gì đó được thực hiện nhờ phương

tiện của một người nào đó/ một điều gì đó (trả lời câu hỏi “như thế nào?”). Thường bạn

có thể thêm ngữ “bằng cách” vào trong câu.

Page 33: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

30

Những câu nói chỉ mục đích/kết quả - Có một dạng cụ thể hơn của “phương tiện”,

thường cho biết tại sao. Mục đích và kết quả tương tự nhau nhưng thỉnh thoảng cũng

khác nhau. Trong một câu chỉ mục đích, bạn thường có thể thêm vào từ “để”. Trong

mệnh đề chỉ kết quả, bạn thường thêm vào từ “để mà”.

Phép diễn dịch/ qui nạp - Tìm những ý tổng thể được đi theo bởi những minh họa hay

áp dụng cụ thể. Cũng tìm những ý cụ thể được tóm tắt bởi một ý tổng thể.

Mệnh đề điều kiện – Một mệnh đề có thể trình bày điều kiện mà qua đó một hành động

được kết quả. Thường những ý như vậy đi với từ “nếu…thì”.

Những hành động/ vai trò của Đức Chúa Trời – Nhận ra những hành động/vai trò của

Đức Chúa Trời.

Những hành động/vai trò của con người – Nhận ra những hành động/vai trò mà phân

đoạn chỉ về con người hay khuyến khích con người làm.

Những từ cảm xúc – Phân đoạn có dùng những từ chỉ cảm xúc, quan hệ ruột thịt không?

Giọng điệu – Có giọng điệu nào như hạnh phúc, buồn bã, khích lệ… trong phân đoạn

Kinh Thánh không?

Kết luận

Trong chương 2&3, chúng tôi đề nghị nhiều điều để tìm trong khi đọc Kinh Thánh.

Chúng tôi khuyến khích bạn đọc Kinh Thánh như một người đang yêu đọc lá thư của mối tình

đầu. Chúng tôi cũng khuyến khích bạn đọc nhiều lần, tìm càng nhiều chi tiết càng tốt, tìm những

từ nối…

Điều quan trọng là khi bạn học phải viết tất cả những chi tiết và ý tưởng xuống. Phát triển

kỹ năng quan sát của bạn. Có thể pho to phân đoạn Kinh thánh và tự do viết lên trên đó để bạn

không hủy hoại Kinh Thánh của mình.

Nên nhớ đừng bao giờ giải thích gì cả trong bước quan sát này. Bước giải nghĩa sẽ đến

sau. Đây là bước đầu tiên – rất quan trọng- là bước quan sát. Chúng ta chỉ hỏi: “đoạn Kinh

Thánh này nói gì?” Vậy bây giờ, hãy ở trong giai đoạn này. Cố gắng quan sát tất cả điều bạn có

thể thấy. Phần sau trong quyển sách này chúng ta sẽ đi đến phần giải nghĩa (phân đoạn Kinh

Thánh này có ý nghĩa gì?) và áp dụng (Tôi phải làm gì theo như lời dạy?).

Page 34: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

31

Chương 4

Cách Đọc Kinh Thánh - Đoạn

Lời giới thiệu

Cho đến bây giờ bạn đang trên đường trở thành chuyên gia đọc và quan sát Kinh Thánh.

Chúng ta đã thảo luận cách đọc câu và cách đọc phân đoạn. Chúng tôi đã đề nghị những điều cần

tìm khi đọc. Chúng tôi cũng khuyến khích bạn tìm, tìm và tìm nhiều hơn nữa. Cho đến bây giờ

chúng tôi tin bạn đã đọc kỹ và tìm kiếm nghiêm túc Lời của Đức Chúa Trời. Hãy tiếp tục làm

việc chăm chỉ! Tiến lên! Những điều tốt đẹp nhất đang đến.

Chương này tập trung vào đoạn. Chúng tôi dùng từ đoạn để nói đến đơn vị của bản văn

liên kết dài hơn phân đoạn. Có những từ khác có thể được dùng như câu chuyện, chương…

nhưng chúng tôi thích dùng từ đoạn. Một đoạn có thể một chương nhỏ hơn trong một câu chuyện

(Đavít và Gô-li-át) hay có thể câu chuyện dài hơn (những câu chuyện của Đavít). Một đoạn có

thể là hai phân đoạn liên kết trong một thư tín của Phao-lô. Chúng ta không quan trọng về thuật

ngữ trong chương này. Mục tiêu của chúng tôi là giúp bạn giải nghĩa phần dài hơn trong bảng

kinh văn.

Kinh Thánh không phải là một tập hợp của những phân đoạn ngắn, những câu tách biệt.

Kinh Thánh là một câu chuyện. Những chủ đề được đan xen với nhau từ phân đoạn này đến phân

đoạn khác. Nhiều điểm liên kết nối các phân đoạn lại với nhau. Bắt đầu với những chi tiết nhỏ ở

mức độ câu là quan trọng nhưng chúng ta cần chuyển đến mức độ đoạn. Sứ điệp của Đức Chúa

Trời không bị giới hạn trong những đơn vị nhỏ của bản văn. Nhiều sứ điệp được tìm thấy trong

những phần lớn hơn của bản văn. Khám phá những sứ điệp này đòi hỏi chúng ta phải quan sát ở

mức độ đoạn. Làm sao chúng ta có thể quan sát phần lớn hơn của bản văn?

Câu trả lời rất đơn giản. Mọi điều chúng ta đã học trong chương 2 và 3 về câu và phân

đoạn có thể được áp dụng cho đoạn. Từ lặp, nhân-quả, tổng thể đến chi tiết, từ nối… - tất cả

những điều này đều có thể áp dụng để nghiên cứu đoạn. Những bước căn bản trong phần trước

có thể được phát triển cho đoạn. Dầu vậy, trong phần này chúng tôi muốn thêm vào vài phần

được dùng để đọc ở mức độ đoạn. Chúng tôi cũng sẽ minh họa những nguyên tắc này qua những

đoạn trong Kinh Thánh.

Những Điều Cần Tìm Trong Đoạn:

1. Những Liên Kết Giữa Các Phân Đoạn và Các Chương

Page 35: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

32

Sau khi đọc và quan sát cẩn thận ở mức độ câu và phân đoạn, chúng ta cần hỏi phân đoạn

hay chương này có liên hệ gì với những phân đoạn/chương ở phía trước và sau.

Cho đến nay, chúng ta đã tập trung vào mối quan hệ giữa những ngữ, mệnh đề và câu.

Chúng ta đã tìm mối quan hệ nhân-quả, phép qui nạp, phép diễn dịch, mệnh đề điều kiện chỉ kết

quả/hiệu quả và những đặc điểm liên hệ khác trong các câu và giữa các câu. Những đặc điểm

giống nhau này cũng sẽ thường nối những phân đoạn và các chương với nhau.

Tìm những liên kết. Tìm những từ lặp và chủ đề lặp. Tìm những liên kết logic như nhân-

quả. Hãy nhớ ghi lại những từ nối giữa các phân đoạn. Trong những phần văn xuôi (kể chuyện)

chú ý đến tiến triển thời gian. Luôn nhớ - tiếp tục tìm và tiếp tục đào bới và tiếp tục đọc và tiếp

tục tìm và bất cứ điều gì bạn làm, đừng dừng lại sau khi nhìn lướt qua. Đặt mình trong đoạn đó.

Tìm những nối kết. Những nối kết này giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa.

_____________

Ví dụ Mác 8:22-26

Chúng ta hãy cùng nhìn trong Mác 8:22-26 và tìm xem chúng ta có thể xác định vài liên

kết giữa nó và những đoạn trước (8:14-21) và sau (8:27-30).

Trước hết, hãy đọc Mác 8:22-26

22 Kế đó, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đi đến làng Bết-sai-đa. Người ta đem cho Ngài

một người mù và cầu xin Ngài rờ đến người. 23 Ngài bèn nắm tay người mù, dắt ra

ngoài làng, thấm nước miếng trên mắt người, đặt tay trên người, và hỏi, có thấy chi

không? 24 Người mù ngó lên rồi thưa rằng: Tôi thấy người ta, và nhìn họ đi giống như

cây. 25 Rồi Đức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt người; người nhìn xem, được sáng mắt,

thấy rõ ràng cả thảy. 26 Đức Chúa Jêsus khiến người về nhà, và truyền rằng: Đừng trở

vào trong làng.

Nếu chỉ nhìn phân đoạn này không thôi thì chúng ta sẽ thấy nó lạ và khó hiểu. Tại sao

Chúa Giê-xu ban đầu chỉ chữa lành một phần? Ngài không có khả năng để chữa lành hoàn toàn

cùng một lúc sao? Tại sao Chúa Giê-xu hỏi người này có thấy gì không? Ngài không biết sao?

Ngài không tin vào khả năng chữa lành của Ngài sao? Ban đầu người này chẳng thấy gì hết; sau

đó ông có thể nhìn thấy một phần, nhưng không rõ ràng. Cuối cùng, Chúa Giê-xu giúp ông nhìn

thấy rõ hoàn toàn. Có điểm gì cần để ý ở đây không? Chúng ta hãy xem những phân đoạn xung

quanh và tìm một vài liên kết. Vài liên hệ có thể giúp chúng ta hiểu được phân đoạn khó này.

Phân đoạn trước là Mác 8:14-21:

14 Vả, môn đồ quên đem bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh mà thôi. 15 Ngài

răn môn đồ rằng: Hãy giữ mình cẩn thận về men người Pha-ri-si, và men đãng Hê-rốt. 16

Môn-đồ nói cùng nhau rằng: Ấy là vì chúng ta không có bánh. 17 Nhưng Đức Chúa Jêsus

Page 36: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

33

biết điều đó, thì phán rằng: Sao các ngươi nói cùng nhau rằng đó là tại các ngươi không có

bánh? Chớ các ngươi còn chưa nghe, chưa hiểu sao? Các ngươi có lòng cứng cỏi luôn ư?

18 Các ngươi có mắt mà sao không thấy? Có tai mà sao không nghe? Các ngươi lại không

nhớ hay sao? 19 Khi ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, các ngươi thâu được mấy

giỏ đầy bánh vụn? Thưa: Mười hai giỏ. 20 Còn khi ta bẻ bảy cái bánh cho bốn ngàn người,

các ngươi thâu được mấy giỏ đầy bánh vụn? Thưa: Bảy giỏ. 21 Ngài phán: Các ngươi còn

chưa hiểu sao?

Phân đoạn sau là Mác 8:27-30:

27 Đức Chúa Jêsus đi khỏi đó với môn đồ mình, đến trong các làng gần thành Sê-sa-rê

Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi môn đồ rằng: Người ta nói ta là ai? 28 Thưa rằng: Kẻ thì nói

là Giăng Báp-tít; người thì nói là Ê -li; kẻ khác thì nói là một trong các đấng tiên tri. 29

Ngài hỏi: Nhưng các ngươi thì nói ta là ai? Phi-e-rơ thưa rằng: Thầy là Đấng Christ. 30

Đức Chúa Jêsus bèn cấm ngặt môn đồ chớ nói sự mình cùng ai hết.

Bây giờ chúng ta cùng tìm những liên hệ giữa ba phân đoạn này. Để ý đến những quan

sát sau:

1. Cả ba phân đoạn này đều là đối thoại.

2. Trong cả ba phân đoạn này Chúa Giê-xu đều hỏi một câu hỏi.

3. Trong phân đoạn đầu (8:14-21), đoạn hội thoại của Chúa Giê-xu với các môn đồ. Trong

phân đoạn thứ ba (8:27-30), đoạn hội thoại của Chúa Giê-xu cũng với các môn đồ. Phân

đoạn giữa (8:22-26) thì khác: đoạn hội thoại với người mù. Nói cách khác, đoạn hội thoại

với người mù nằm lọt giữa hai đầu của đoạn hội thoại với các môn đồ. Có sự so sánh hay

đối chiếu gì ở đây không?

4. Phân đoạn giữa (8:22-26) nói đến “làng” hai lần (8:23,26). Phân đoạn thứ ba nói đến

“làng” (8:27).

5. Chúa Giê-xu kết thúc phân đoạn người mù (8:22-26) bằng việc cấm ông đi vào làng.

Chúa Giê-xu kết thúc phân đoạn thứ ba (8:27-30) bằng việc cấm các môn đồ nói cho bất

cứ ai về Ngài.

6. Phân đọan giữa (8:22-26) xoay quanh những từ liên hệ đến việc thấy. Quan sát những từ

lặp sau:

o Người mù (c. 23)

o thấm nước miếng trên mắt người (c. 23).

o có thấy chi không? (c.23)

o Người mù ngó lên (c.24).

o Tôi thấy người ta (c. 24).

o nhìn họ đi giống như cây (c.24)

o Rồi Đức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt người (c.25)

o người nhìn xem (c.25)

Page 37: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

34

o được sáng mắt, (c.25)

o thấy rõ ràng cả thảy (c.25)

7. Có nhiều từ vượt trội hơn về từ liên quan đế thấy trong phân đoạn người mù. Bây giờ

chúng ta cùng xem những từ tương tự được dùng cho các môn đồ trong phân đọan đầu

(8:14-21).:

o Chớ các ngươi còn chưa nghe, chưa hiểu (thấy) sao? (c.17)

o Các ngươi có mắt mà sao không thấy? (c.18)

Từ Hy-lạp thấy trong hai phân đoạn đầu chắc chắn là một sự liên hệ quan trọng giữa hai

phân đoạn đó.

8. Để ý từ thấy trong phân đoạn người mù được dùng theo nghĩa đen, nói đến cái nhìn thể

chất. Nhưng trong phân đoạn đầu, từ thấy được dùng theo nghĩa bóng, nói đến hiểu. Chúa

Giê-xu nói rõ rằng: “Các ngươi còn chưa hiểu sao?” (c.17). Chúa Giê-xu lặp lại hàm ý

này khi Ngài kết thúc đoạn hội thoại bằng câu hỏi giống nhau: “Các ngươi còn chưa hiểu

sao?” (c.21).

9. Phi-e-rơ xác nhận trong 8:29: “Thầy là Đấng Christ”. Điều này khẳng định rằng Phi-e-rơ

bây giờ hiểu được Chúa Giê-xu là ai, dầu những người khác có lẽ chưa hiểu. Nói cách

khác, bây giờ ông thật sự nhìn thấy rõ ràng.

Kết luận về sự liên kết. Trong phân đoạn đầu, Chúa Giê-xu hỏi các môn đồ vài câu hỏi và

nhận ra rằng họ chưa thật sự hiểu Ngài là ai. Họ chỉ thấy được một phần. Nhưng trong phân đoạn

thứ ba, họ nhìn thấy rõ ràng, nhận biết Ngài là Đấng Christ. Câu chuyện ở giữa, phân đoạn người

mù, là một minh họa cho tiến trình các môn đồ kinh nghiệm. Đây không phải chỉ đơn thuần là

một câu chuyện về sự chữa lành của Chúa Giê-xu như thể nó là về người mù được nhìn thấy.

Ô ng chỉ nhìn thấy một phần lúc đầu như các môn đồ. Sau đó ông nhìn thấy rõ ràng, giống như

các môn đồ. Do đó, phân đoạn người mù là một phần xen vào dòng chảy của phần các môn đồ

hiểu về Chúa Giê-xu. Nó tạo nên một minh họa sặc sỡ, đời thật về những gì đang xảy ra trong

cuộc đời của các môn đồ.

Ví dụ: Cô-lô-se 1:3-8 và 1:9-14

Trong chương 3, chúng ta đã học trong Cô-lô-se 1:3-8 và đã quan sát được nhiều điều

trong phân đoạn này. Bây giờ chúng ta hãy cùng quan sát phân đoạn sau đó (1:9-14) để tìm vài

liên hệ giữa hai phân đoạn. Chúng ta xem lại Cô. 1:3-8:

3 Trong khi chúng tôi cầu nguyện cho anh em không thôi, thì cảm tạ Đức Chúa Trời là

Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. 4 Vì chúng tôi đã nghe về đức tin của anh em nơi

Đức Chúa Jêsus Christ và về sự yêu thương của anh em đối với mọi thánh đồ, 5 vì cớ sự

trông cậy để dành cho anh em ở trên trời là sự trước kia anh em đã nhờ đạo Tin Lành chân

thật mà biết đến. 6 Đạo Tin Lành đó ở giữa anh em cũng như ở trong cả thế gian; lại kết

Page 38: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

35

quả và tấn bộ cũng như trong anh em, từ ngày mà anh em đã nghe rao truyền ơn Đức Chúa

Trời và đã học cho thật biết ơn đó, 7 y như Ê-pháp-ra là bạn đồng sự thiết nghĩa với

chúng tôi đã dạy anh em; người giúp đỡ chúng tôi như một kẻ giúp việc trung thành của

Đấng Christ, 8 và đã tỏ ra cho chúng tôi biết lòng yêu thương mà anh em cảm chịu bởi

Đức Thánh Linh.

Phần tiếp theo, Cô-lô-se 1:9-14:

9 Cho nên, chúng tôi cũng vậy, từ ngày nhận được tin đó, cứ cầu nguyện cho anh em

không thôi, và xin Đức Chúa Trời ban cho anh em được đầy dẫy sự hiểu biết về ý muốn

của Ngài, với mọi thứ khôn ngoan và hiểu biết thiêng liêng nữa, 10 hầu cho anh em ăn ở

cách xứng đáng với Chúa, đặng đẹp lòng Ngài mọi đường, nẩy ra đủ các việc lành, càng

thêm lên trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời, 11 nhờ quyền phép vinh hiển Ngài, được có

sức mạnh mọi bề, để nhịn nhục vui vẻ mà chịu mọi sự. 12 Hãy tạ ơn Đức Chúa Cha, Ngài

đã khiến anh em có thể dự phần cơ nghiệp của các thánh trong sự sáng láng: 13 Ngài đã

giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất

yêu dấu Ngài

Chúng ta cùng tóm tắt những liên hê như sau:

1. Trong cả hai phân đoạn, Phao-lô đều nói đến việc nghe về người Cô-lô-se qui đạo

(1:4;1:9).

2. Trong cả hai phân đoạn, Phao-lô và Ti-mô-thê đều cầu nguyện cho người Cô-lô-se

(1:3;1:9).

3. Trong phân đoạn đầu, Phao-lô và Ti-mô-thê cảm tạ Đức Chúa Trời trong khi cầu

nguyện vì họ nghe về đức tin và tình yêu của người Cô-lô-se (1:4). Trong phân đoạn

thứ hai, Phao-lô và Ti-mô-thê cầu xin Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện để được đổ

đầy sự hiểu biết ý muốn của Ngài trên người Cô-lô-se (1:9). Do đó, phân đoạn đầu là

nguyên nhân của lời cầu nguyện, trong khi đó phân đoạn thứ hai là nội dung của lời

cầu nguyện.

4. Trong phân đoạn đầu, Phao-lô và Ti-mô-thê cảm tạ Đức Chúa Trời (1:3), nhưng trong

phân đoạn thứ hai thì họ muốn người Cô-lô-se cảm tạ Đức Chúa Trời (1:12).

5. Trong phân đoạn thứ nhất Tin lành đang kết quả và phát triển (1:6). Kết quả của Tin

Lành là Hội Thánh mới Cô-lô-se. Đây là lối cách ngôn và Phao-lô dùng cùng một

hình ảnh (trái và tấn tới) trong phân đoạn thứ hai (1:10), nhưng với những liên hệ

khác. Tại đây, người Cô-lô-se kết trái và đang tấn tới. Trái của họ là “mọi việc lành”

và sự tấn tới của họ trong “sự hiểu biết Đức Chúa Trời”.

Kết luận về liên hệ này: Trong phân đoạn đầu, Phao-lô và Ti-mô-thê nghe về đức tin cứu

chuộc và tình yêu của người Cô-lô-se. Phao-lô và Ti-mô-thê cảm tạ Đức Chúa Trời về việc này.

Page 39: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

36

Tuy nhiên họ không dừng lại ở việc họ cảm tạ Đức Chúa Trời cho người mới. Trong phân đoạn

thứ hai họ tiếp tục cầu nguyện rằng những người mới này sẽ tiến tới sự trưởng thành, được đầy

dẫy sự hiểu biết ý muốn của Đức Chúa Trời, làm việc lành và tiếp tục tấn tới trong sự hiểu biết

Đức Chúa Trời.

2. Những Chuyển Đổi

Khi bạn đọc những phần lớn hơn của bản văn, tìm những nơi quan trọng mà câu chuyện

dường như đang chuyển sang một hướng mới. Trong những thư tín, điều này thường xảy ra. Tác

giả thường chuyển đề tài, thường thay đổi từ phần biện luận về giáo lý đến phần thực hành. Phải

chú ý đặc biệt đến những phần chuyển đổi quan trọng này. Những chuyển đổi này cũng có thể

gặp ở những chương văn kể chuyện, nhưng thường hay gặp nhất trong các đoạn trung tâm.

Thông thường một sự đổi hướng như vậy nằm ở một đoạn rất quan trọng, đúc kết phần vừa mới

biện luận và dẫn sang hướng mới. Chúng ta hãy cùng xem một vài ví dụ về từng cái một.

Trong ba chương đầu của thư tín Phao-lô gởi cho người Ê -phê-sô, ông giải thích giáo lý

về đời sống mới trong Đấng Christ và sự ứng dụng của đời sống mới đó, đặc biệt liên quan đến

sự hiệp nhất của người Giu-đa và người ngoại bang trong đời sống mới. Dầu vậy, Ê -phê-sô 4:1

đánh dấu một sự chuyển tiếp. Phao-lô sau đó bắt đầu dạy về sự thực hành giáo lý trong chương

1-3 trong đời sống của người Ê -phê-sô. Vì vậy, trong khi chương 1-3 trình bày chính về giáo lý

thì chương 4-6 tập trung vào đời sống thực tế.

Một cách nhận biết sự chuyển đổi là quan sát kỹ sự thay đổi trong động từ. Trong Ê-phê-

sô 1-3, Phao-lô dùng nhiều loại từ “giải thích” và “mô tả”. Có nhiều động từ chỉ mệnh lệnh trong

chương 4-6. Ví dụ:

Ngài đã xuống phước cho chúng ta (1:3).

khiến chúng ta biết sự mầu nhiệm của ý muốn Ngài (1:9)

Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình (2:1)

Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ (2:5)

ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu (2:6)

chính Ngài là sự hòa hiệp của chúng ta (2:14)

Lẽ mầu nhiệm đó tức là: Dân ngoại là kẻ đồng kế tự, là các chi của đồng một thể (3:6)

Nhưng bắt đầu trong Ê -phê-sô 4:1, những động từ mệnh lệnh chiếm đa số:

phải khiêm nhường đến điều (4:2)

dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh (4:3)

anh em chớ nên ăn ở như người ngoại đạo nữa (4:17)

Page 40: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

37

phải chừa sự nói dối (4:25)

đừng cho ma quỉ nhân dịp (4:27)

Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót (4:32)

phải đầy dẫy Đức Thánh Linh (5:18)

Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình (5:25)

Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời (6:11)

Động từ được thay đổi này báo hiệu sự chuyển đổi lớn trong sách. Nhìn chung, hai nửa

này liên kết với nhau như một mối quan hệ nhân quả. Nguyên nhân được giải thích trong chương

1-3 (những gì Đấng Christ đã làm cho chúng ta và ứng dụng của nó), trong khi kết quả được nói

đến trong chương 4-6 (sống xứng đáng với Đấng Christ và xứng đáng với tất cả những gì Ngài

đã làm cho chúng ta). Một sự chuyển đổi tương tự cũng xảy ra giữa Rô-ma 1-11 (giáo lý) và Rô-

ma 12-16 (ứng dụng thực tế).

Trong những phần câu chuyện, những chuyển đổi này thường nằm trong những chương.

Những chương này đóng vai trò trọng tâm vì câu chuyện sẽ tập trung vào chương đó và chuyển

qua diễn biến khác. Một ví dụ điển hình trong II Sa-mu-ên. Trong phần đầu của II Sa-mu-ên,

câu chuyện kể về quyền lực tăng lên của Đa-vít. Mọi thứ rất vĩ đại với Đa-vít. Ô ng dẹp yên nội

chiến và thay Sau-lơ làm vua (chương 1-15). Ô ng chinh phục Giê-ru-sa-lem, đem hòm giao ước

về thủ đô mới của mình và nhận lấy một giao ước của Chúa (chương 5-7). Ô ng chiến thắng tất cả

các trận đấu, đánh bại dân Phi-li-tin, Mô-áp, A-ram, Ê -đôm, và Am-môn (chương 8-10). Cuộc

sống tốt lành cho Đa-vít và đất nước của ông.

Dầu vậy, nửa sau của sách này hoàn toàn khác. Những sự kiện trong nửa này dường như

tất cả đều tiêu cực cho vị vua này. Con trai trưởng của Đa-vít, Am-nôn, hãm hiếp Ta-ma, em gái

của Am-nôn khiến cho Á p-sa-lôm, anh của Ta-ma giết Am-nôn (chương 13). Tiếp theo, Á p-sa-

lôm, con trai mà Đa-vít yêu mến, nổi loạn chống lại ông và tạo nên một cuộc nội chiến đẫm máu.

Đa-vít bắt buộc phải chạy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng, Á p-sa-lôm bị giết chết nhưng

lòng của Đa-vít tan vỡ (chương 14-19). Một sự dấy loạn nữa lại nổi lên (chương 20). Đa-vít kết

thúc sự nghiệp của mình bằng sự kiện chiến đấu chống lại quân Phi-li-tin lần nữa (chương 21).

Ngược lại với lần đầu đánh bại Gô-li-át, Đa-vít cảm thấy đuối sức và được quân đội giải cứu;

những người anh hùng khác giết những người khổng lồ lần này ( II Sa-mu-ên 21:15-22).

Sự khác nhau giữa phần đầu và phần thứ nhì rất quan trọng. Một Đa-vít bách chiến bách

thắng, mạnh mẽ và can đảm trong nửa đầu của sách đối lập với hình ảnh một Đa-vít bất an, yếu

đuối và thiếu quyết đoán trong nửa hiệp hai. Điều xảy ra ở giữa hai phần đó dẫn đến sự thay đổi

này? Trọng tâm nằm ở đâu và điều gì xảy ra dẫn đến điều đó?

Trọng tâm nằm ở II Sa-mu-ên 11-12. Đa-vít phạm tội ngủ với Bát-sê-ba và giết U-ri.

Trước chương này, Đa-vít là một anh hùng dân tộc, được tôn trọng và yêu quý; nhưng sau

Page 41: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

38

chương này, Đa-vít trở nên bạt nhược. Rất quan trọng để hiểu II Sa-mu-ên khi nhìn thấy trọng

tâm này và chú ý vai trò then chốt trong việc định hướng câu chuyện.

3. Liên Kết

Liên kết là một công cụ văn chương, được dùng chủ yếu trong văn xuôi hay văn kể

chuyện. Nó liên quan đến so sánh hoặc đối chiếu hai câu chuyện cùng lúc như là một phần của

sự phát triển câu chuyện chung. Thông thường chuyện kể sẽ đi tới đi lui từ câu chuyện này đến

câu chuyện khác, thường là để chỉ ra sự đối lập.

Trong những chương đầu của sách I Sa-mu-ên cho thấy đặc điểm này. Trong vài chương

đầu câu chuyện phát triển hai gia đình đối lập nhau. Hê-li, thầy tế lễ mập, lười biếng và hai con

trai gian ác, Hóp-ni và Phi-nê-a đối lập với An-ne tin kính và đứa con trai Sa-mu-ên vâng phục.

Hai câu chuyện này được ghi lại cùng một lúc, câu chuyện chuyển tới và lui từ gia đình này đến

gia đình khác. Khi bạn đọc chuyện kể, hãy tìm liên kết giữa hai câu chuyện khác nhau. Tiếp theo

tìm mục đích trong sự liên kết đó. Tại sao tác giả dùng hình thức văn chương này để kể chuyện

này? Trong I Sa-mu-ên, sự liên kết này được dùng để phát họa sự đối lập mạnh mẽ giữa Sa-mu-

ên và chức thầy tế lễ suy đồi mà ông sắp thay thế.

Lu-ca dùng hình thức liên kết này ở những chương giữa của sách Công-vụ-các-sứ-đồ để

trình bày sự chuyển tiếp những nhân vật trọng tâm từ Phi-e-rơ sang Phao-lô. Phi-e-rơ là nhân vật

trung tâm trong bảy chương đầu. Phao-lô (Sau-lơ) được giới thiệu trong Công. 7:58; 8:1-3. Phi-

e-rơ trở lại giai đoạn trung tâm trong 8:14-25. Phao-lô trở lại là tâm điểm trong 9:1-30 (qui đạo),

nhưng Phi-e-rơ có cuộc gặp gỡ quan trọng tại nhà Cọt-nây trong 10:1-11:18. Phao-lô trở lại

ngắn gọn trong 11:19-30 rồi Phi-e-rơ lại xuất hiện trong câu chuyện vượt ngục thần kỳ và hành

trình đi đến Giê-ru-sa-lem trong 12:1-19. Trong chương 13, Phao-lô được chuyển vào làm nhân

vật trung tâm cho đến cuối mười lăm chương tiếp theo.

Liên kết này có mục đích gì trong Công vụ? Lu-ca đang có ý gì khi đi qua đi lại nhiều lần?

Rõ ràng ông không đối chiếu giữa một nhân vật tiêu cực với một nhân vật tích cực như trong

trường hợp của I Sa-mu-ên. Cả Phao-lô và Phi-e-rơ đều là những nhân vật điển hình trong sách

Công vụ. Thực ra, Lu-ca dường như đang nhấn mạnh đến những tương đồng của hai vị này.

Phao-lô có thể làm được những phép lạ mà Phi-e-rơ đã làm và giảng cũng uy quyền như Phi-e-rơ

giảng. Lu-ca dùng liên kết này để chứng minh rằng Phao-lô là một vị sứ đồ uy quyền giống như

Phi-e-rơ và cho thấy rằng sứ điệp của Đấng Christ bắt đầu giảng cho người Giu-đa cũng sẽ được

giảng ra một cách thành công cho dân ngoại.

4. Đối Xứng

Hình thức đối xứng ít được dùng trong tiếng Việt nhưng được dùng rất phổ biến trong

văn chương Kinh Thánh, đặc biệt là trong Cựu Ước. Trong hình thức đối xứng, một loạt các ý

Page 42: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

39

tưởng, sự kiện được cấu trúc mà điểm đầu tiên đối xứng với điểm cuối cùng, điểm thứ hai đối

xứng với điểm thứ hai từ điểm cuối cùng và tương tự như vậy.

Ví dụ này không dùng hình thức đối xứng rõ ràng:

Tôi thức dậy sáng nay, thay đồ, lái xe đi xuống phố. Tôi làm việc vất vả cả ngày, trở về nhà, mặc đồ ngủ

và lên giường ngủ.

Để phân tích được đối xứng, chúng ta liệt kê những sự kiện và tìm những đối xứng (song song).

Chúng ta sẽ liệt kê điểm đầu tiên là a và điểm tương ứng là á.

a Tôi thức dậy sáng nay,

b thay đồ,

c lái xe đi xuống phố.

d Tôi làm việc vất vả cả ngày,

c’ trở về nhà,

b’ mặc đồ ngủ

a’ lên giường ngủ.

Tôi thức dậy sáng nay được đánh dấu là a, và nó tương ứng với sự kiện cuối cùng, lên

giường ngủ, được đánh dấu là a’. Tương tự, thay đồ tương ứng với mặc đồ ngủ và tương tự. Chú

ý sự kiện ở giữa (Tôi làm việc vất vả cả ngày) không có tương ứng. Thông thường trong cấu trúc

tương xứng, nếu sự kiện ở giữa không có tương xứng thì nó đóng vai trò như là điểm chính hay

điểm trọng tâm của tương xứng đó. Nhấn mạnh đến các hành động là làm việc vất vả cả ngày.

Dầu vậy, thường cũng không có sự kiện ở giữa trong hình thức tương xứng.

Có hình thức tương xứng ngắn và đơn giản. Ví dụ, xem Thi-thiên 76:1:

Trong Giu-đa người ta biết Đức Chúa Trời,

Danh Ngài lớn tại Y-sơ-ra-ên.

Có đặc điểm của tương xứng ở đây không? Những tương ứng giống như thế này:

a Trong Giu-đa

b người ta biết Đức Chúa Trời

b’ danh Ngài là lớn

a’ tại Y-sơ-ra-ên

Thỉnh thoảng hình thức tương xứng dài và phức tạp. Chúng có thể khó nhận ra. Thường

có bất đồng giữa các học giả về việc tác giả thật có ý dùng hình thức tương xứng hay cấu trúc

tương xứng chỉ là tưởng tượng của độc giả. Đọc câu chuyện sau trong Sáng-thế-ký 11:1-9 và

xem thử bạn có đồng ý phân đoạn này có mang cấu trúc tương xứng không.

Page 43: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

40

1 Vả, cả thiên hạ đều có một giọng nói và một thứ tiếng. 2 Nhưng khi ở Đông phương

dời đi, người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a, rồi ở tại đó. 3 Người nầy nói với

người kia rằng: Hè! chúng ta hãy làm gạch và hầm trong lửa. Lúc đó, gạch thế cho đá,

còn chai thế cho hồ. 4 Lại nói rằng: Nào! chúng ta hãy xây một cái thành và dựng lên

một cái tháp, chót cao đến tận trời; ta hãy lo làm cho rạng danh, e khi phải tản lạc khắp

trên mặt đất. 5 Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống đặng xem cái thành và tháp của con cái

loài người xây nên. 6 Đức Giê-hô-va phán rằng: Nầy, chỉ có một thứ dân, cùng đồng một

thứ tiếng; và kia kìa công việc chúng nó đang khởi làm; bây giờ chẳng còn chi ngăn

chúng nó làm các điều đã quyết định được. 7 Thôi! chúng ta, hãy xuống, làm lộn xộn

tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với người kia.

8 Rồi, từ đó Đức Giê-hô-va làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất, và họ thôi công

việc xây cất thành. 9 Bởi cớ đó đặt tên thành là Ba-bên, vì nơi đó Đức Giê-hô-va làm lộn

xộn tiếng nói của cả thế gian, và từ đây Ngài làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất.

Hãy đọc qua bản văn và tìm những từ lặp. Cũng tìm những ý tương đồng và ý đối lập.

Cũng tìm xem thử phần cuối của chương này có tương ứng với phần đầu không. Tiếp theo sắp

những điểm tương xứng lại với nhau và xem thử có một trọng tâm nào và một ý trọng tâm liên

quan nào đang được nhấn mạnh.

Có một học giả phân cấu trúc tương xứng của phân đoạn này như sau:

a Vả, cả thiên hạ

b đều có một giọng nói và một thứ tiếng.

c Si-nê-a, rồi ở tại đó.

d Hè! chúng ta hãy làm gạch

e “Nào! chúng ta hãy xây

f một cái thành và dựng lên một cái tháp

g Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống

f’ đặng xem cái thành và tháp

e’ của con cái loài người xây nên.

d’ Thôi! chúng ta, hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó

c’ Ba-bên, vì nơi đó

b’ Đức Giê-hô-va làm lộn xộn tiếng nói

a’ của cả thế gian

Bằng chứng này thuyết phục chúng ta rằng Sáng-thế Ký 11:1-9 được viết theo hình thức

văn chương tương xứng. Sáu từ hay quan niệm trong phần đầu tương ứng với phần sau. Chú ý

Page 44: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

41

rằng hình thức tương xứng tập trung vào từ ngữ trong câu 5: “Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống”.

Đây là sự kiện trọng tâm trong câu chuyện và điểm trọng tâm trong tương xứng này.

Kết Luận

Để chúng ta có thể giải nghĩa và hiểu được Kinh Thánh, chúng ta phải trước hết đọc phân

đoạn Kinh Thánh đó cẩn thận, quan sát tất cả các chi tiết. Chúng ta phải quan sát nó ở mức độ

câu, phân đoạn rồi đến mức độ đoạn. Trong chương 2 và 3, chúng tôi đã liệt kê vài đặc điểm để

tìm – nhân-quả, từ lặp, tổng thể đến chi tiết, vv...Trong chương 4 chúng tôi thêm vào bốn đặc

điểm để tìm khi đọc ở mức độ đoạn: Những liên kết giữa các phân đoạn và các chương, câu

chuyện chuyển tiếp, liên kết và hình thức tương xứng. Danh sách mở rộng này vẫn chưa hết.

Mục đích của những đặc điểm mà chúng tôi liệt kê ở đây là để giúp bạn bắt đầu đọc cẩn thận.

Chúng tôi cũng trình bày vài đặc điểm văn chương chính để tìm. Nhưng khi bạn tìm, phải đọc

cẩn thận – quan sát thật sự kỹ - tìm tất cả chi tiết và đặt nhiều câu hỏi về bản văn.

Hãy luôn ghi nhớ rằng chúng ta chỉ mới khởi đầu nắm bắt lời Chúa. Phần sau trong sách

này chúng ta sẽ khám phá ý nghĩa và áp dụng ý nghĩa đó. Dầu vậy, bốn chương đầu này hết sức

quan trọng vì nếu bạn bỏ qua phần đọc kỹ này và đi thẳng tới phần ứng dụng sau khi đọc qua loa

thì bạn chắc chắn sẽ đánh mất ý nghĩa của phân đoạn. Hơn nữa, việc đọc Kinh Thánh sẽ trở nên

nhàm chán khi bạn không bao giờ khám phá điều gì trong đó khi bạn đọc lướt qua. Ngược lại,

nếu bạn đọc cẩn thận, quan sát, quan sát, quan sát, bạn sẽ tìm đến được ý nghĩa thật của Kinh

Thánh và Kinh Thánh sẽ trở nên thú vị với bạn vì bạn tìm được những điều mới mẽ.

Vì đây là Lời của Đức Chúa Trời nên Kinh Thánh có hình thức văn chương độc đáo của

nó. Nó giống như một cái mỏ không bao giờ cạn kiệt. Một người có thể đào nó suốt cả đời mà

không bao giờ hết.

Page 45: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

42

PHẦN 2

BỐI CẢNH

BÂ Y GIỜ VÀ TRƯỚC ĐÂY

Trong phần 2, chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ bối cảnh, chìa khóa để xác định ý nghĩa của

Kinh Thánh. Chúng ta sẽ dành thời gian trong chương 5 để học về một bối cảnh thường bị nhiều

người quá nhấn mạnh – bối cảnh của chúng ta là độc giả hiện đại. Chúng ta mang gì với mình

đến bản văn? Tại đây chúng ta cùng nhìn về vấn đề gọi là định kiến – tất cả ý tưởng và kinh

nghiệm chúng ta đem đến thao tác giải nghĩa. Làm sao chúng ta có thể giải quyết vấn để định

kiến của chúng ta để nó không ngăn trở chúng ta nhận biết thật sự những điều Đức Chúa Trời

đang muốn phán với chúng ta?

Từ bối cảnh của chúng ta, chúng ta sẽ chuyển đến bối cảnh của chính Kinh Thánh. Trong

chương 6, chúng ta sẽ khai phá bối cảnh lịch sử-văn hóa của Kinh Thánh. Chúng ta sẽ quan sát

kỹ thế giới của Kinh Thánh để thấy Đức Chúa Trời đã phán với những người cổ đại đang sống

trong những văn hóa riêng, đang đối diện với những hoàn cảnh riêng. Một khi chúng ta hiểu

được điều Đức Chúa Trời đã phán với họ ngày xưa thì chúng ta cũng có thể hiểu rõ được điều

Ngài muốn phán với chúng ta ngày hôm nay. Trong chương 7, chúng ta sẽ học cách nhận ra bối

cảnh văn chương – những bản văn xung quanh đoạn Kinh Thánh chúng ta đang nghiên cứu.

Chúng ta sẽ kết thúc phần này bằng hai chủ đề liên quan mật thiết đến bối cảnh. Trong

chương 8, chúng ta sẽ học cách để học từ ngữ (word studies) đúng cách (tức là, trong bối cảnh).

Cuối phần 2, các bạn sẽ thấy được tầm quan trọng của bối cảnh, cả bối cảnh của chúng ta và của

tác giả thời Kinh Thánh.

Page 46: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

43

Chương 5

Chúng Ta Mang Gì Đến Bản Văn?

Lời Giới Thiệu

Trong vài chương tới đây chúng ta sẽ cùng thảo luận với nhau về tầm quan trọng của bối

cảnh đối với việc giải kinh. Một bối cảnh thường bị lạm dụng là bối cảnh của độc giả - tức là tiếp

cận bản văn từ thế giới của độc giả. Chúng ta, là độc giả Kinh Thánh không bao giờ trung dung

hay khách quan. Chúng ta thường đem nhiều định kiến và ảnh hưởng của chúng ta vào trong bản

văn khi chúng ta đọc. Do đó, chúng ta cần thảo luận và định giá những ảnh hưởng “định kiến”

này, e rằng chúng dẫn chúng ta đi sai lệch với ý nghĩa thật của bản văn.

Chúng ta cùng bắt đầu với một câu chuyện. Cô Gia Hân và gia đình làm giáo sĩ ở Ê -thi-ô-

pi nhiều năm. Ngay khi cô và gia đình đến đó là lúc Hội Thánh Tin Lành tại Dilla tổ chức lễ

Giáng sinh. Đây là một trải nghiệm thật lạ với Gia Hân. Chẳng có cây thông giáng sinh với đèn

màu lấp lánh, cũng chẳng có tuyết rơi như ở Hàn Quốc. Thời tiết thì ấm áp. Chuối mọc quanh

nhà thờ. Có khoảng 400 người tập trung trong một nhà thờ có sức chứa chỉ 150 người. Nếu dùng

từ ghế ngồi thì thiếu chính xác, nhưng thực ra là những tấm đòn lót dưới nền đất. Mái nhà thờ

lợp bằng tôn cũ.

Ngay khi mây che mặt trời thì nhiệt độ thay đổi và những tấm tôn trở mình gây nên

những âm thanh lạ tai. Khi mặt trời ló dạng trở lại thì nhiệt độ cũng thay đổi theo đó và những

tấm tôn lại phải giãn nở ra và âm thanh lại xuất hiện. Bên trong nhà thờ thắp hai mươi bốn cây

đèn cầy. Á nh sáng trong nhà thờ thì lấy từ các cửa sổ. Nhưng vào ngày giáng sinh thì các cửa sổ

lại quá tải và bịt kín bởi những người dân xung quanh tò mò đến xem. Họ không có chỗ ngồi nên

phải ngồi trên các cửa sổ.

Gia Hân cứ nghĩ giáng sinh chắc sẽ diễn ra giống như ở Hàn Quốc. Thật sự bất ngờ với

cô ta khi buổi lễ vượt quá trí tưởng tượng của mình. Bắt đầu giờ lễ, có một người cầm cái loa tay

đi tới đi lui trong nhà thờ hô to chiếu lệnh của hoàng đế Sê-sa về việc kiểm tra dân số trong Lu-

ca 2:1. Sau đó, gia đình Giô-sép và Ma-ri khởi hành đến Bết-lê-hem.

Tới đây, buổi diễn bắt đầu khác, Giô-sép và Ma-ri không đi một mình. Ma-ri với chiếc

bụng bầu to đi cùng với một đoàn người, gồm các dì và các chị em bạn dì. Giô-sép một mình đi

phía trước còn những người phụ nữ thì đi sau, nói chuyện vui vẻ về hài nhi sắp ra đời và về việc

sắp sinh nở. Gia-Hân nghĩ: “điều này khác với cảnh thông thường chỉ có Giô-sép, Ma-ri và con

lừa. Mấy người phụ nữ này ở đâu ra? Họ không có trong câu chuyện giáng sinh!”

Page 47: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

44

Vài phút sau, họ đến thành Bết-lê-hem ồn ào và đi thẳng đến chuồng chiên. Tại đây có

nhiều con chiên. Ma-ri bắt đầu trở dạ và đau đớn kêu la. Còn Giô-sép thì chạy tới chạy lui bối rối.

Các bà mụ và những người đi theo thì đứng quanh để đỡ đẻ. Sau một lúc, một người phụ nữ la

to sung sướng, theo lệ của người Ê -thi-ô-pi, thông báo cho cộng đồng là một hài nhi đã được

sinh hạ bình an, khỏe mạnh. Nghe tiếng la, Giô-sép chạy ngay vào chuồng chiên để xem em bé

vừa sinh. Sau đó, những người chăn chiên đến, rồi các nhà thông thái cũng đến. Buổi diễn kéo

dài trong vòng hai tiếng đồng hồ.

Điều khiến cho Gia-Hân thích thú là người Ê -thi-ô-pi đã giải nghĩa câu chuyện theo văn

hóa của họ. Họ không chủ ý bối cảnh hóa nó theo cách người Ê -thi-ô-pi. Họ cố gắng phát họa nó

theo cách họ nghĩ rằng một đứa trẻ phải được sinh ra là như vậy. Hãy để ý những điều họ làm

nhé. Họ cố gắng hiểu và tái hiện lại câu chuyện theo văn hóa của họ. Ví dụ, đối với người Ê -thi-

ô-pi, họ không thể hiểu nổi làm sao gia đình của Ma-ri lại để cho cô ta đi một mình. Cô là một

phụ nữ trẻ, sinh đứa con đầu lòng và người Ê -thi-ô-pi không thể tưởng tượng nổi làm sao cô đi

một mình mà chỉ có thanh niên Giô-sép giúp đỡ. Làm sao sinh được em bé như vậy? Chỉ người

vô trách nhiệm mới đi trong hoàn cảnh đó mà không có người dì làm người đỡ đẻ.

Nếu ở Hàn Quốc hay ở Việt Nam thì dường như không có vấn đề gì vì chúng ta đang

sống trong một thế giới với đầy đủ tiện nghi y tế, bác sĩ và bệnh viện. Chúng ta không cần người

đỡ đẻ trong câu chuyện này. Thật ra chúng ta cũng không nghĩ đến việc ai sẽ đỡ đẻ cho. Chúng

ta chỉ xem đôi vợ chồng trẻ xuất hiện rồi đóng màn. Hài Nhi Giê-xu lại xuất hiện trong vòng tay

của Ma-ri. Nhưng hãy suy nghĩ về điều đó. Chẳng lẽ Giô-sép đỡ đẻ? Người Ê -thi-ô-pi sẽ chế

nhạo chúng ta ngay. Làm sao một thanh niên chưa lần nào có con lại có thể đỡ đẻ? Điều như thế

không bao giờ có thể xảy ra ở Ê -thi-ô-pi.

Để ý điều này. Khi chúng ta ở Việt Nam, chúng ta suy nghĩ câu chuyện này theo cách

hiểu của người Việt. Trong thế giới của chúng ta, chúng ta chủ yếu sống trong gia đình hạt nhân

(tức là chỉ có cha, mẹ và con cái) cho nên chúng ta thấy Giô-sép và Ma-ri đi một mình là bình

thường. Chúng ta cũng không cần đến bà mụ. Chúng ta quen với cảnh là một thanh niên một

mình chở vợ xuống bệnh viện để đẻ. Người thanh niên này ở trong bệnh viện một lát với vợ rồi

cửa đóng lại. Đóng màn! Em bé xuất hiện. Do đó chúng ta thấy dễ chịu khi đóng lại cảnh này

đơn giản như từng thấy theo cách nghĩ của chúng ta.

Người Ê -thi-ô-pi thì ngược lại. Họ có một trải nghiệm văn hóa rất khác trong việc sinh

con. Người phụ nữ trẻ mang thai thường được những người phụ nữ bà con đến giúp đỡ vào tuần

cuối kỳ mang thai. Cô ta không bao giờ ở một mình. Việc sinh em bé không phải diễn ra ở bệnh

viện nhưng ở nhà. Đó là một gia đình nhiều thế hệ. Người bà con hoặc là người hàng xóm làm

người đỡ đẻ. Việc một người nữ trẻ mang thai gần sinh đi một mình với một thanh niên trẻ là

một điều mà người Ê -thi-ô-pi không thể tưởng tượng nổi. Vì người Việt thường hay xem những

hoạt cảnh quen thuộc như vậy nên tin rằng nó thật như vậy. Nhưng cả người Việt và người Ê -thi-

ô-pi đều tự do suy nghĩ về những tình tiết im lặng trong câu chuyện này và diễn tả nó theo văn

hóa của mỗi dân tộc. Theo bạn nghĩ thì văn hóa của ai gần với Kinh Thánh hơn?

Page 48: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

45

Định Kiến

Một ảnh hưởng lớn có thể làm lệch tiến trình giải kinh của chúng ta và dẫn chúng ta đi xa

ý nghĩa thật trong bản văn là định kiến. Định kiến nói đến tất cả những khái niệm, hiểu biết của

chúng ta được hình thành, dù vô thức hay hữu ý, được đem vào bản văn trước khi chúng ta thật

sự học chi tiết bản văn đó. Vấn đề định kiến liên quan đến vấn đề văn hóa được giới thiệu ở trên

và sẽ được giới thiệu cụ thể ở dưới. Định kiến bao gồm những từng trãi đặc biệt và sự học hỏi

bản văn trước đây. Nó có khuynh hướng khiến cho chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu bản văn đó

rồi.

Định kiến được hình thành bởi những ảnh hưởng cả tốt lẫn xấu, một số chính xác và một

số không. Nó bao gồm cả trong những điều bạn nghe ở Trường Chúa Nhật, ở nhà thờ, giờ học

Kinh Thánh, và trong giờ đọc Kinh Thánh cá nhân. Dầu vậy, định kiến về kinh văn còn được

hình thành qua những bài thánh ca, những bài hát, âm nhạc, nghệ thuật Cơ Đốc và văn phẩm

ngoài Kinh Thánh, cả Cơ Đốc lẫn ngoài đời. Tương tự, văn hóa nhanh chóng bước vào.

Để ý là thỉnh thoảng, định kiến của bạn về một đoạn Kinh Thánh nào đó có thể đúng.

Nhưng thường thì không đúng. Nếu bạn không thật sự học đoạn Kinh Thánh đó một cách

nghiêm túc thì bạn không thể biết nó có chính xác hay không. Điều này nguy hiểm cho những

người tưởng rằng định kiến của mình luôn luôn đúng. Vanhoozer cho thái độ này là kiêu ngạo.

Ô ng viết rằng loại kiêu ngạo này “khuyến khích chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã nắm được ý

nghĩa thật trước khi chúng ta cố gắng nắm bắt được. Kiêu ngạo không lắng nghe. Nó biết rồi”.1

Một khía cạnh nguy hiểm khác của định kiến là khi chúng ta đến với bản văn với một ý

tưởng thần học đã được định hình. Tức là chúng ta bước vào đoạn Kinh Thánh với một ý tưởng

có sẵn thay vì tìm ý tưởng đó trong đoạn Kinh Thánh. Chúng ta dùng đoạn Kinh Thánh đó để tìm

những chi tiết thích hợp với ý tưởng có sẵn của chúng ta. Bất cứ điều gì không thích hợp với ý

chúng ta đang có, chúng ta thường hay bỏ qua. Vanhoozer mô tả hành động này là “đứng trên”.

Tức là, chúng ta là độc giả đứng trên Lời của Đức Chúa Trời và xác định ý nghĩa của nó chứ

không phải đặt mình dưới Lời đó rồi kiên nhẫn tìm điều Đức Chúa Trời muốn nói gì qua đoạn

Kinh Thánh đó.

Một nguy hiểm liên quan là sự quen thuộc. Nếu chúng ta quá quen với một đoạn Kinh

Thánh rồi, chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng mình đã biết hết về nó rồi và thường thì

chúng ta hay bỏ qua mà không học nó một cách cẩn thận. Hi vọng bạn còn nhớ trong Phần 1

rằng hầu hết các đoạn Kinh Thánh đều có chiều sâu riêng của nó và chúng ta không thể nắm bắt

hết được trong một hoặc hai lần học nó. Sự quen thuộc một đoạn văn tạo nên định kiến. Khi

chúng ta học lại đoạn Kinh Thánh nào thì phải chiến thắng cám dỗ của sự quen thuộc khiến

1 Kevin J. Vanhoozer, Is There a Meaning in this Text? The Bible, the Reader, and the Morality of Literary Knowledge

(Grand Rapids: Xondervan, 1998), 462.

Page 49: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

46

chúng ta có kết luận trước đây. Rồi chúng ta sẽ bắt đầu học đoạn Kinh Thánh đó. Chúng ta cần

học nó mới mẻ, kẻo định kiến khiến chúng ta kiêu ngạo như được đề cập ở trên. Hơn nữa, như đã

đề cập trong Phần 1, nếu chúng ta không học một đoạn Kinh Thánh một cách mới mẻ và nghiêm

túc vì chúng ta nghĩ rằng mình đã biết rồi thì tất cả điều chúng ta có thể học được chỉ là những

điều của những lần trước. Việc học của chúng ta trở nên nhàm chán và mệt mỏi. Sự trưởng thành

và hiểu biết của chúng ta trở nên cằn cỗi.

Một trong những khía cạnh mạnh mẽ nhưng tế nhị nhất của định kiến là khía cạnh văn

hóa. Chắc chắn văn hóa của chúng ta có một ảnh hưởng lớn trên cách chúng ta đọc và giải nghĩa

Kinh Thánh. Ví dụ, mặc dầu chúng ta tin Giê-xu là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta, nhưng khi

Ngài bảo chúng ta xây má bên kia để kẻ thù tát thì một tiếng nói trong người chúng ta phản đối.

Đưa má bên kia cho kẻ thù tát thì không phải là cách của người Việt Nam. Có lẽ chúng ta có thể

đưa má cho người ta tát lần thứ hai để chứng tỏ sự kiên nhẫn của chúng ta. Nhưng chắc chắn sau

cái tát thứ hai, chúng ta sẽ đập cho gã đó một hồi. Không có hành động anh hùng nào của chúng

ta là đưa má kia cho người ta tát cả!

Do đó, khi chúng ta đọc một mạng lịnh như vậy từ Chúa Giê-xu, chúng ta ngay tức thì cố

gắng giải thích nó theo cách không mâu thuẫn với những chuẩn văn hóa, đặc biệt những văn hóa

đã được thiết lập bởi văn hóa của những anh hùng. Chúng ta gọi thiên hướng chạy theo văn hóa

này là túi văn hóa. Hãy tưởng tượng bạn sẽ đi leo núi vào một ngày nắng nóng. Bạn mang theo

giày, mũ, kính râm và gậy. Bạn có mang theo cùng ba hay bốn va li không? Thật buồn cười phải

không? Bạn có thể tưởng tượng leo núi cao mang theo nhiều va li như vậy không? Tương tự, nếu

bạn không cẩn thận, văn hóa của chúng ta sẽ trì nặng chúng ta xuống và không thể tiến nhanh

trên Hành Trình Giải Kinh. Nó cũng ngăn chúng ta không khám phá và nắm bắt được Lời của

Đức Chúa Trời cho chúng ta. Văn hóa của chúng ta có khuynh hướng làm cho chúng ta hiểu lệch

Kinh Thánh khi chúng ta đọc nó, bắt chúng ta phải đi theo thế giới văn hóa của mình.

Một minh họa về ảnh hưởng tiềm thức của văn hóa trên sự hiểu biết của chúng ta là trong

sách Giô-na. Hãy cố gắng tưởng tượng Giô-na ở trong bụng cá. Bạn thấy gì? Bạn có thấy Giô-na

đang nằm co quắp trong bụng cá chật hẹp không? Nhiều người dường như không nhìn thấy hình

ảnh đó. Nhiều người nhìn thấy Giô-na nằm trong bụng cá hình tròn và có một ít nước ở dưới đáy.

Thật sự đây không phải là những gì bên trong bụng cá.

Vậy thì tại sao chúng ta nhìn thấy hình ảnh này? Hình ảnh này đến từ đâu? Tôi nghĩ hình

ảnh này đến từ bộ phim (hay quyển sách), Pinocchio. Trong bộ phim này, Walt Disney dựng một

cảnh một con cá voi nuốt nhân vật chính, Pinocchio. Bộ phim vẽ lên cảnh Pinocchio đang ngồi

bên trong con cá voi. Bộ phim này đọng lại trong tiềm thức của chúng ta về hình ảnh một người

đang ngồi trong một con cá voi. Khi chúng ta đọc câu chuyện con cá voi nuốt Giô-na, đầu óc

chúng ta bắt đầu tìm hình ảnh trong ngân hàng trí nhớ của mình, tìm một hình ảnh có thể nhìn

thấy được sự kiện. Khi đầu óc của chúng ta tìm trong các ngăn của trí nhớ thì gặp phải ngăn

Pinocchio và một bức tranh gợi lại trong đầu mà không nhận ra hình ảnh đó bắt gặp ở đâu.

Chúng ta bắt đầu nghĩ về câu chuyện của Giô-na với hình ảnh trong phim Holiwood. Do đó,

Page 50: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

47

chúng ta thấy mình bị ảnh hưởng trong việc đọc Kinh Thánh của mình mà không nhận ra những

gì đang diễn ra.

Chính xác văn hóa có nghĩa là gì? Văn hóa của chúng ta là một sự kết hợp của những

điều mình thừa hưởng từ gia đình và dân tộc. Bạn học nó từ người mẹ vào giờ ăn sáng, từ những

đứa trẻ ở sân chơi ở trường, từ ti vi. Nó là một sự trộn lẫn giữa ngôn ngữ, phong tục, câu chuyện,

phim ảnh, chuyện cười, văn chương và thói quen dân tộc. Nó có thể khác nhau trong cùng một

thành phố. Nếu bạn lớn lên bên trong một thành phố, gia đình Công giáo cả cha mẹ, trong nhiều

khía cạnh văn hóa của bạn sẽ khác với một người lớn lên ở ngoại ô, chỉ có mẹ thôi, gia đình Tin

Lành. Dầu vậy, bạn cũng có cùng nhiều ảnh hưởng văn hóa giống nhau. Mặc dầu bạn có cùng

một số đặc điểm văn hóa chung, nhưng người miền nam, miền bắc và miền tây cũng khác nhau.

Một khi bạn đi ra khỏi Việt Nam bạn sẽ thấy người Việt ở nước ngoài cũng khác nhau.

Nền tảng gia đình của bạn cũng là một yếu tố căn bản trong thế giới văn hóa của bạn.

Bạn đã thừa hưởng nhiểu, nhiều giá trị, tư tưởng và hình ảnh (cả tốt lẫn xấu) từ gia đình của bạn.

Ví dụ, quan điểm của bạn về tiền bạc, công việc, người nghèo hay người thất nghiệp là gì? Quan

điểm của bạn chắc chắn được hình thành từ vị trí kinh tế xã hội của gia đình bạn. Nếu bạn được

sinh ra trong một gia đình trung lưu, bạn có thể đọc những đoạn Kinh Thánh về người nghèo

khác với những người được sinh ra và lớn lên trong nghèo khó ở Tây Nguyên. Cơ Đốc Nhân cần

nhận thức rằng nền tảng gia đình và tình trạng kinh tế, xã hội của gia đình tác động lớn đến việc

đọc Kinh Thánh của chúng ta.

Gia đình của bạn cũng giúp cho bạn có liên hệ tốt hơn trong các mối quan hệ. Nếu bạn

may mắn được lớn lên trong một gia đình yêu thương, chăm sóc, bạn sẽ dễ liên hệ đến hình ảnh

của một Đức Chúa Trời yêu thương. Nếu bạn có một người cha thương yêu, thì hình ảnh về Đức

Chúa Trời như người cha yêu thương dễ nắm bắt hơn. Trong trường hợp này, ảnh hưởng văn hóa

của bối cảnh gia đình của bạn giúp bạn nắm bắt lẽ thật Kinh thánh về Đức Chúa Trời.

Dầu vậy, rất tiếc không phải ai cũng có người cha yêu thương. Những người lớn lên với

những người cha vô trách nhiệm hay lạm dụng sẽ đem hết hình ảnh người cha đó vào trong Kinh

Thánh, và người đó khó hình dung ra hình ảnh người cha yêu thương trong Kinh Thánh là Đức

Chúa Trời. Điều này không có nghĩa là những người này không thể nắm bắt được khía cạnh này

trong lẽ thật của Kinh Thánh. Nhưng nó có nghĩa là những người như thế này cần phải nỗ lực

nhiều hơn để vượt qua được những hình ảnh tiêu cực thời trẻ. Những hình ảnh khác về Đức Chúa

Trời và sự chăm sóc của Ngài có thể được liên hệ tốt hơn. Khi chúng ta tìm cách để hiểu Lời

Đức Chúa Trời, việc nhận ra những ảnh hưởng văn hóa đang tác động đến suy nghĩ và cảm xúc

của chúng ta là vô cùng quan trọng.

Chúng ta nhận ra rõ ràng rằng Cơ Đốc Nhân không cố ý đọc Kinh Thánh sai văn hóa.

Nhưng như đã trình bày ở trên, tất cả chúng ta có khuynh hướng bị văn hóa ảnh hưởng chúng ta

từ trong tiềm thức. Sự chuyển tải tự động này của bản kinh văn vào thế giới văn hóa của chúng ta

được gọi là “phản xạ giải kinh”.

Page 51: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

48

Phản xạ giải kinh tác động đến việc giải kinh của chúng ta trong hai cách: (1) Như đã

đề cập ở hoạt cảnh lễ Giáng sinh, chúng ta có khuynh hướng lấp đầy tất cả những khoảng cách

và những sự khó hiểu trong bản kinh văn bằng những giải thích và bối cảnh trong văn hóa của

chúng ta. (2) Một điều tai hại hơn trong việc giải kinh của chúng ta là bối cảnh văn hóa của

chúng ta hình thành trước trong đầu chúng ta để rồi chúng ta phải giới hạn khả năng nắm bắt ý

nghĩa thật trong Kinh Thánh.

Chúng ta hãy cùng xem lại mạng lệnh của Chúa Giê-xu bảo chúng ta xây má bên kia

cho kẻ thù tát. Từ trong tiềm thức của chúng ta đang tìm cách để hợp thức hóa thế giới quan văn

hóa của chúng ta, tức là, những điều có sẵn trong văn hóa của chúng ta. Do đó, trước khi chúng

ta bắt đầu khai phá ý của Chúa Giê-xu muốn nói trong việc này, chúng ta phải hình thành giới

hạn khả năng xung quanh bản văn và loại bỏ những ý nghĩa khả dĩ mâu thuẫn văn hóa của chúng

ta. Điều này không có nghĩa là ai đó đánh bạn một cái thì hãy để cho họ đánh thêm cái nữa. Nếu

làm như vậy, chúng ta đang đặt văn hóa của chúng ta trên Kinh Thánh và đọc Kinh Thánh qua

lăng kính văn hóa. Bằng cách này, chúng ta đang lỡ mất một trong những điểm chính của Kinh

Thánh, tức là sứ điệp Kinh Thánh đến từ Đức Chúa Trời và ở trên văn hóa. Thách thức cho

chúng ta là phê bình văn hóa của mình bằng Kinh Thánh và ngược lại. Chúng ta cần phải tìm

kiếm điều Đức Chúa Trời phán chứ không phải điều văn hóa của chúng ta nói. Chúng ta phải tìm

chi tiết và trong bối cảnh lịch sử của nó để xác định giải đáp, chứ không phải bằng định kiến bị

chi phối bởi văn hóa.

Định kiến, gồm cả văn hóa, không phải là xấu, nhưng nó thường làm lệch sự hiểu biết

Kinh Thánh của chúng ta, khiến chúng ta có thể giải nghĩa sai Kinh Thánh.

Chúng ta không có ý từ bỏ tất cả định kiến của chúng ta và vứt tất cả những điều mình

học trước đây vào sọt rác. Điều chúng ta cần làm là để định kiến ở dưới bản văn Kinh Thánh hơn

là ở trên Kinh Thánh. Chúng phải có khả năng nhận ra điều đến từ định kiến và điều chỉnh nó

theo tiến trình giải kinh nghiêm túc của mình. Điều này có nghĩa là sau khi chúng ta nghiên cứu

đoạn Kinh Thánh một cách thấu đáo rồi thì chúng ta sẽ định giá định kiến của chúng ta và bổ

sung nó một cách hợp lý theo điều mình vừa tìm thấy trong Kinh Thánh.

Những Giả Định Trước (Pressuppositions)

Chúng ta không bao giờ đọc và giải nghĩa Kinh Thánh mà hoàn toàn trung dung, không

có một quan điểm giả định nào, ví dụ như đức tin. Một người đọc Kinh Thánh không thể đọc một

cách hoàn toàn khách quan được. Mục tiêu của chúng ta cũng không phải như vậy. Cố gắng tìm

kiếm tính khách quan trong việc giải kinh không có nghĩa là từ bỏ đức tin hay đi theo những

phương pháp của những người không tin. Đọc Kinh Thánh mà không có đức tin không sản sinh

ra tính khách quan được. Chúng ta định nghĩa định kiến và giả định như là hai thực thể riêng biệt

mà chúng ta sẽ nói đến trong hai cách khác nhau. Chúng ta phải để định kiến của chúng ta thay

đổi mỗi khi chúng ta học một đoạn Kinh Thánh. Chúng ta định kiến dưới bản văn và định giá nó

Page 52: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

49

trong ánh sáng của những điều chúng ta vừa học được. Ngược lại, giả định trước không thay đổi

mỗi lần đọc. Nó không liên quan đến những đoạn Kinh Thánh riêng biệt nhưng liên quan đến

tổng thể Kinh Thánh.

Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta phục sự Chúa hằng sống và có Đức Thánh Linh ngự trong

chúng ta. Mối quan hệ mà chúng ta có với Đức Chúa Trời là một khía cạnh liên lạc quan trọng

mà chúng ta có với Ngài qua việc đọc Lời của Ngài. Mối quan hệ này ảnh hưởng rất lớn đến việc

giải kinh của chúng ta. Nó không phải là điều gì đó chúng ta muốn tái thương lượng khi chúng ta

đọc từng bản văn như đối với khía cạnh định kiến. Nhưng đó là một điều gì đó mà chúng ta

muốn sử dụng. Chúng ta sẽ khai phá việc giải kinh giữa Đức Thánh Linh và sự hiểu biết của

chúng ta chi tiết hơn trong chương 11: “Vai Trò Của Đức Thánh Linh”. Là Cơ Đốc Nhân, chúng

ta cần có vài giả định trước về chính Kinh Thánh, điều phát triển mối quan hệ của chúng ta với

Đấng Christ. Chúng ta sẽ không thể phớt lờ mỗi lần chúng ta đi qua một phân đoạn, như chúng ta

làm với định kiến.

Vài giả định về Kinh Thánh mà Cơ Đốc Nhân cần phải nắm lấy:

1. Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời. Dầu Đức Chúa Trời dùng nhiều người để viết

nên nó nhưng nó là lời được linh cảm bởi Đức Thánh Linh và đó là Lời của Đức

Chúa Trời cho chúng ta.

2. Kinh Thánh đáng tin và chân thật.

3. Đức Chúa Trời bước vào lịch sử của con người, do đó những phép lạ, điều siêu nhiên

có thể xảy ra.

4. Kinh Thánh không mâu thuẫn nhau; Kinh Thánh hiệp nhất nhưng đa dạng. Dầu vậy,

Đức Chúa Trời vĩ đại hơn chúng ta nên chúng ta không phải lúc nào cũng hiểu Ngài

dễ dàng. Do đó Kinh Thánh luôn mầu nhiệm.

Có những giả định khác có thể được thêm vào, nhưng đây là những giả định chính cần

phải được đề cập trong chương này. Những giả định này xác định chúng ta nhìn tổng thể Kinh

Thánh như thế nào, và nó lập nền tảng cho phương pháp của chúng ta xây dựng trên đó.

Kết Luận - Chúng Ta Có Thể Khách Quan?

Nhiều tác giả đã chỉ ra rằng khách quan hoàn toàn trong việc giải kinh là không thể và

chúng ta công nhận điều đó. Dầu vậy hoàn toàn khách quan không phải là mục tiêu của chúng ta.

Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-xu

Christ. Chúng ta không cố gắng tìm một quan điểm khách quan, trung tính. Chúng ta không học

cách của các nhà sử học thế tục khi chúng ta nghiên cứu bản kinh văn. Chúng ta đang muốn lắng

nghe những điều Đức Chúa Trời phán với chúng ta. Do đó, chúng ta đến với bản văn bằng đức

tin và Đức Thánh Linh (xem chương 11). Vì vậy, chúng ta muốn tính khách quan bên trong

phạm vi của những giả định được nêu ở trên. Loại khách quan này là để ngăn định kiến của

Page 53: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

50

chúng ta, văn hóa của chúng ta, những sự quen thuộc của chúng ta hay sự lười biếng của chúng

ta làm lu mờ ý nghĩa mà Đức Chúa Trời dự định cho chúng ta trong bản kinh văn.

Mỗi chương trong sách này liên hệ đến vài khía cạnh sửa lại định kiến hay làm trung tính

hóa những ảnh hưởng văn hóa tiêu cực trên sự hiểu biết của chúng ta. Những công cụ quan sát

mà chúng ta đã học trong Phần 1 sẽ giúp chúng ta trở nên khách quan. Phương pháp đọc cẩn thận

được trình bày trong những chương đó đòi hỏi chúng ta phải đặt định kiến của chúng ta dưới bản

văn khi nghiên cứu bản văn chi tiết. Chỉ cần khám phá những chi tiết trong bản văn thường sửa

lại nhiều định kiến và áp dụng sai lệch văn hóa của chúng ta.

Phần 2 nhấn mạnh đến bối cảnh vì một nghiên cứu nghiêm túc bối cảnh giúp cho ý nghĩa

thật được rõ ràng và sửa lại những định kiến của chúng ta. Chương tiếp theo: “Bối Cảnh Lịch

Sử-Văn Hóa” sẽ giúp chúng ta lấp đầy khoảng trống và bối cảnh của những phân đoạn Kinh

Thánh bằng những thông tin văn hóa, lịch sử chính xác. Phần 3 sẽ thảo luận về ý nghĩa và nguồn

gốc của nó. Nó sẽ giúp chúng ta tìm cách để khám phá ý nghĩa của Đức Chúa Trời từ trong bản

văn hơn là cố tình tạo nên một sự hiểu biết lệch lạc từ trong xác thịt kiêu ngạo của chúng ta. Cuối

cùng trong phần 4 và 5 sẽ nói đến những thể loại văn chương khác nhau được tìm thấy trong

Kinh Thánh. Nếu hiểu rõ những thể loại văn chương khác nhau sẽ giúp chúng ta tránh võ đoán

của chuẩn văn chương/văn hóa hiện thời trên bản văn chương cổ đại của thời Kinh Thánh.

Page 54: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

51

Chương 6

Bối Cảnh Văn Hóa – Lịch Sử

Lời Giới Thiệu

Nếu bạn phải chọn một nhân vật ưa thích trong Kinh Thánh, thì chắc hẳn nhiều người

trong các bạn sẽ chọn sứ đồ Phao-lô. Sự nhiệt thành phục vụ Chúa Giê-xu Christ của ông tiếp tục

thách thức chúng ta. Trong Tân Ước, chúng ta có mười ba thư tín được cho là do Phao-lô viết.

Trong chương cuối của lá thư cuối cùng (II Ti-mô-thê), Phao-lô nói lên cảm xúc của mình về

ngày cuối cuộc đời ông đang đến:

6 Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. 7 Ta đã đánh trận

tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. 8 Hiện nay mão triều thiên của sự công

bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó,

không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài.

Khi Phao-lô kết luật lá thư này, ông nhắc lại một sứ điệp đơn giản cho Ti-mô-thê, người

bạn đồng lao: “Hãy cố gắng đến cùng ta cho kíp” (4:9). Sau đó trong 4:21 ông tiếp thêm: “Con

hãy cố sức đến trước mùa đông”. Chúng ta có thể hiểu rằng Phao-lô muốn Ti-mô-thê đến thăm

ông. Nhưng khi chúng ta chỉ cần hiểu về bối cảnh văn hóa-lịch sử nằm đằng sau những từ này có

thể chỉ ra sự sâu sắc và cảm xúc của lời cầu xin của Phao-lô.

Hầu hết các học giả tin lành tin rằng Ti-mô-thê đang hầu việc Chúa tại Ê -phê-sô còn

Phao-lô thì đang ở tù tại Rô-ma. Họ cách nhau hàng trăm cây số. Di chuyển bằng thuyền được

xem là nguy hiểm từ giữa tháng Chín đến cuối tháng Năm và hoàn toàn không thể đi được từ đầu

tháng Mười Một đến đầu tháng Ba. Dĩ nhiên cả Phao-lô và Ti-mô-thê biết điều này. Nếu Phao-lô

gởi lá thư II Ti-mô-thê do Ty-chi-cơ đem đến vào mùa hè thì Ti-mô-thê dường như không có kịp

thời gian để đi đến Rô-ma. Bối cảnh lịch sử trong đoạn này giúp chúng ta nhìn thấy được điều

Phao-lô thật sự muốn nói với người bạn trẻ Ti-mô-thê này: “Hãy thu xếp mọi thứ tại Ê -phê-sô và

lên tàu gấp. Nếu con không xuất hành bây giờ trước khi mùa đông đến, đường tàu sẽ đóng lại và

con không thể đến đây kịp giờ. Ti-mô-thê ơi, con hãy gắng sức đến đây trước khi người ta xử tử

ta. Hãy đến nhanh trước khi quá trễ”. Biết được bối cảnh văn hóa-lịch sử của đoạn Kinh Thánh

này giúp cho đoạn Kinh Thánh này sống động với cảm xúc và sự căng thẳng. Phao-lô không chỉ

yêu cầu Phao-lô đến thăm. Ông còn muốn hơn thế nữa như là người cha khẩn khoản con mình

đến với mình trước khi ông qua đời.

Để nắm bắt được Lời của Chúa, chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của bản kinh văn

trong bối cảnh của nó và áp dụng ý nghĩa đó vào đời sống của chúng ta. Bối cảnh có hai hình

thức chính: bối cảnh văn chương và bối cảnh lịch sử-văn hóa. Trong chương này bạn sẽ học về

Page 55: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

52

bối cảnh lịch sử-văn hóa khi chúng ta hỏi và trả lời vài câu hỏi quan trọng. Tại sao chúng ta cần

nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa của một đoạn kinh văn? Điều đó có thật sự quan trọng

không? Nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa chính xác liên quan đến những gì? Những công cụ

nào có sẵn để giúp chúng ta tìm được bối cảnh lịch sử-văn hóa? Mục tiêu của chương này là để

chỉ cho bạn cách để nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa của một phân đoạn và để khẳng định

với bạn rằng biết được bối cảnh của một đoạn kinh văn có thể giúp ý nghĩa của nó rõ ràng hơn và

áp dụng vào đời sống của mình thích ứng hơn.

Tại Sao Cần Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa?

Trong quyển giải nghĩa Bối cảnh của Kinh Thánh, Craig Keener nhắc chúng ta rằng Đức

Chúa Trời không nói về Ngài bằng ngôi thứ nhất trong đa số các đoạn Kinh Thánh. Ngài không

phán: “Vì Ta là Đức Chúa Trời, Ta sẽ phán trực tiếp với mọi người trong mọi thời đại và trong

mọi văn hóa”2. Nhưng Đức Chúa Trời (là nguồn tối thượng) phán qua những tác giả của Kinh

Thánh là con người (nguồn trung gian) để nói đến những nhu cầu thật trong cuộc sống của con

người ở một thời điểm nhất định trong một văn hóa nhất định. Đức Chúa Trời chọn phán với con

người theo cách như vậy.

Xin đừng hiểu lầm điều chúng tôi đang nói ở đây. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời ban cho

chúng ta những nguyên tắc đời đời trong Lời của Ngài. Lời này có thể áp dụng cho mọi người

trong mọi thời đại trong mọi nền văn hóa. Mục tiêu của chúng tôi trong sách này là chỉ dẫn cho

bạn biết cách khám phá và áp dụng những nguyên tắc thần học đó cho đời sống của bạn. Chúng

ta không nghi ngờ có phải Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những nguyên tắc thích hợp đời

đời này không. Nhưng đơn giản chúng ta đang tìm biết Ngài đã ban cho chúng ta những nguyên

tắc đó như thế nào. Chúng ta tin rằng cách mà chúng ta đến với Kinh Thánh (tức là cách chúng ta

lắng nghe tiếng Chúa) phải hòa hợp với cách mà Chúa ban cho chúng ta Kinh Thánh (tức là cách

Chúa đã chọn để phán). Ngược lại, chúng ta sẽ hiểu sai những gì Đức Chúa Trời đang cố phán

với chúng ta.

Vì Đức Chúa Trời đã phán sứ điệp của Ngài trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định (tức

là với những con người đang sống trong những vị trí địa lý nhất định, nói những ngôn ngữ nhất

định, chấp nhận một cách sống nhất định), nên chúng ta cần phải xem xét những hoàn cảnh lịch

sử-văn hóa cổ đại một cách nghiêm túc. Điều căn bản ở đây là chúng ta không thể bỏ qua

những người sống thời đó mà nhảy ngay đến những gì Đức Chúa Trời muốn phán với chúng ta

hôm nay. Tại sao? Một lần nữa, vì cách của chúng ta lắng nghe Đức Chúa Trời (trong cách

chúng ta giải kinh) phải tôn trọng cách Đức Chúa Trời chọn để phán. Chúng ta không nên cứng

lòng và kiêu ngạo khi nghĩ rằng Đức Chúa Trời chẳng quan tâm đến độc giả nguyên thủy mà chỉ

dùng nó làm sứ điệp cho chúng ta.

2 Craig Keener, The VIP Bible Background Commentary: New Testament (Downers rove, Ill.: InterVarsity, 1993), 24.

Page 56: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

53

Một lẽ thật căn bản rằng từng phân đọan Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời phán với

những người khác trước khi nó trở thành Lời của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Đức Chúa Trời

quan tâm sâu sắc đến những thính giả ban đầu và phán với họ trong hoàn cảnh lịch sử-văn hóa

của họ. Đức Chúa Trời cũng quan tâm sâu sắc đến chúng ta và cũng muốn phán với chúng ta. Sứ

điệp có thời gian của Kinh Thánh bao gồm những nguyên tắc thích hợp đời đời mà chúng ta có

thể khám phá và áp dụng cho đời sống của chúng ta.

Một lần nữa hãy suy nghĩ Hành Trình Giải Kinh di chuyển như thế nào từ ý nghĩa của

bản văn cho độc giả thời Kinh Thánh băng qua dòng sông khác biệt (tức là thời gian, nơi chốn,

văn hóa, hoàn cảnh) bằng phương tiện là chiếc cầu nguyên tắc để áp dụng những nguyên tắc thần

học đó cho cuộc sống của chúng ta.

Trở lại với câu hỏi của chúng ta: Tại sao cần làm quen với bối cảnh lịch sử-văn hóa gốc?

Chúng ta làm vậy vì nó mở cho chúng ta cánh cửa để dẫn vào những điều Đức Chúa Trời phán

cho độc giả thời Kinh Thánh. Vì chúng ta đang sống trong một bối cảnh rất khác, chúng ta phải

nắm bắt được ý nghĩa ban đầu của Đức Chúa Trời được phản ánh trong bản văn và được đóng

khung bằng bối cảnh lịch sử-văn hóa cổ. Một khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của bản văn trong

bối cảnh gốc của nó thì chúng ta có thể áp dụng nó cho đời sống của chúng ta theo cách thích

hợp với chúng ta. Lời của Đức Chúa Trời luôn thích hợp đời đời. Việc của chúng ta, là những

người học Kinh Thánh, là khám phá những sự thích hợp đó bằng cách bối cảnh hóa nó.

Điều này dẫn chúng ta đến một nguyên tắc giải kinh quan trọng: Để giải nghĩa một đoạn

Kinh Thánh đúng đắn, việc giải kinh đó phải nhất quán với bối cảnh lịch sử-văn hóa của phân

đoạn Kinh Thánh đó. Nếu việc giải kinh của chúng ta không liên hệ đến với bối cảnh xưa thì có

thể chúng ta đang đi sai đường. Fee và Stuart nhấn mạnh rằng ý nghĩa thật của của bản kinh văn

cho chúng ta là những gì Đức Chúa Trời có ý phán từ lúc đầu. Nó có ý nghĩa khi lần đầu được

phán.3 Trước hết chúng ta phải xác định được đoạn Kinh Thánh đó đã có ý nghĩa gì vào thời xưa

trước khi chúng ta có thể xác định được nó đang có ý nghĩa gì và làm cách nào chúng ta có thể

áp dụng ý nghĩa đó trong thời đại và văn hóa của chúng ta. Mục tiêu của chúng ta là để hiểu được

bối cảnh lịch sử-văn hóa của phân đoạn Kinh Thánh một cách rõ ràng nhất để nắm bắt được ý

nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó.

Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa Là Gì?

Bối cảnh lịch sử-văn hóa chính xác có ý nghĩa gì? Nhìn chung, loại bối cảnh này liên

quan đến tác giả Kinh Thánh, độc giả Kinh Thánh và bất cứ yếu tố lịch sử-văn hóa nào mà phân

đoạn Kinh Thánh đó động đến. Bối cảnh lịch sử-văn hóa chỉ liên quan đến những yếu tố nằm

ngoài bản kinh văn và nó giúp bạn hiểu được chính bản văn đó (ví dụ, cuộc sống của dân Y-sơ-

ra-ên như thế nào khi họ lang thang trong sa mạc, người Pha-ri-si tin gì về ngày Sa-bát, Phao-lô

đang ở đâu khi ông viết sách Rô-ma). Bối cảnh văn chương (xem chương 7) liên quan đến bối

3 Gordon Fee and Douglas Stuart, How to Read the Bible for All Its Worth: A Guide to Understanding the Bible, 3

rd

ed. (Grand Rapdis: Zondervan, 2003),30.

Page 57: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

54

cảnh bên trong sách đó (ví dụ: phân đoạn thuộc thể loại văn chương gì, dòng chảy của sự biện

luận trong sách đó, ý nghĩa của những từ và câu xung quanh phân đoạn Kinh Thánh mà bạn đang

nghiên cứu). Trong chương này chúng tôi sẽ trích những nguồn mà bạn có thể dùng để nhận ra

bối cảnh lịch sử-văn hóa, nhưng trước hết chúng tôi muốn minh họa định nghĩa trên bằng vài ví

dụ điển hình. Chúng ta bắt đầu với tác giả Kinh Thánh.

Tác Giả Kinh Thánh

Vì Đức Chúa Trời chọn hành động qua những tác giả là con người như là nguồn trung

gian của Lời được linh cảm của Ngài nên chúng ta biết càng nhiều về tác giả càng tốt. Cố gắng

khám phá càng nhiều lai lịch của tác giả càng tốt. Ví dụ, khi chúng ta học một trong những thư

tín của Phao-lô, việc biết rằng trước khi Chúa thay đổi cuộc đời của ông, ông từng xin giấy phép

từ thầy tế lễ thượng phẩm Do Thái để bắt bớ Cơ Đốc Nhân là rất hữu ích. Ô ng bắt bớ Hội Thánh

từ lòng nhiệt thành sai lệch mà tưởng là hầu việc Đức Chúa Trời. Điều này giải thích tại sao các

Cơ Đốc Nhân ban đầu rất sợ Phao-lô ngay cả thời gian đầu qui đạo của ông: “Phàm những người

nghe điều lấy làm lạ, mà nói rằng: Há chẳng phải chính người đó đã bắt bớ tại thành Giê-ru-sa-

lem những kẻ cầu khẩn danh nầy, lại đến đây để trói họ điệu về cho các thầy tế lễ cả hay sao?”

(Công vụ 9:21). Điều này lý giải tại sao Phao-lô gọi mình là “tội khôi” trong I Ti-mô-thê 1:15.

Chúng ta thường không nghĩ về Phao-lô, một người được Đức Chúa Trời dùng để thay đổi thế

giới, là người tranh chiến với những ký ức kinh khủng của thời trước khi ông gặp Đấng Christ.

Cuộc đời của Phao-lô chắc chắn là một bức tranh về ân điển của Đức Chúa Trời.

Chúng ta nghĩ về tiên tri A-mốt, một vị tiên tri phục vụ Chúa vào thời gian khoảng năm

760 T.C. Dầu A-mốt đến từ Thê-cô-a trong đất Giu-đa (vương quốc phía nam), nhưng Đức Chúa

Trời đã kêu gọi ông làm tiên tri trong Y-sơ-ra-ên, vương quốc phía bắc. A-mốt nói về mình như

thế này: “A-mốt trả lời cho A-ma-xia rằng: Ta không phải là đấng tiên tri, cũng không phải con

đấng tiên tri; nhưng ta là một kẻ chăn, sửa soạn những cây vả rừng” (A-mốt 7:14). A-mốt không

phải là tiên tri chính thức nhận lương, cũng không phải là người kế nghiệp cha mình. Công tác

tiên tri hoàn toàn mới đối với ông. Người nông dân này đáp lại tiếng gọi của Chúa rao giảng sứ

điệp của Ngài cho một dân tộc bịnh hoạn thuộc linh và đang đối diện với sự phán xét của Đức

Chúa Trời.

Cùng với hiểu biết về lai lịch của tác giả, bạn cũng có thể hỏi: ông viết khi nào và loại

chức vụ nào ông đang giữ? Trong khi chúng ta đang nói về những tiên tri của thế kỷ thứ tám

trước công nguyên, bạn có nhớ người vợ của Ô -sê, tên là Gô-me không? Bạn có suy nghĩ về

hôn nhân của ông có liên quan đến chức vụ của ông không? Hôn nhân đau lòng của ông với Gô-

me trở nên một phương tiện để hiểu và diễn tả ngoại tình thuộc linh nghịch lại với Đức Chúa

Trời. Giống như Gô-me đã khước từ Ô -sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng đã khước từ Đức Chúa Trời chân

thật, Yahweh, để thờ các thần ngoại giáo.

Cùng với hiểu biết về lai lịch và chức vụ của tác giả, bạn cũng muốn hiểu nhiều hơn về

mối quan hệ đặc biệt giữa tác giả và những người mà ông đang nói đến. Ví dụ từ giọng điệu và

Page 58: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

55

nội dung của sách Ga-la-ti, bạn có thể thấy rằng Phao-lô không vui với các Hội Thánh tại Ga-la-

ti và việc họ đi theo một tin lành khác. Ông cũng từ bỏ cách bày tỏ sự cảm tạ thông thường mà

quở trách ngay. Ngược lại, Phao-lô khen ngợi người Tê-sa-lô-ni-ca vì đức tin và sự chịu đựng

của họ dầu ông chia tay với họ khi họ chưa trưởng thành. Ô ng nhắc cho họ tình yêu thương của

người mẹ (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:7) và của người cha (2:11) đối với họ và tái khẳng định về lòng

mong ước cháy bỏng muốn gặp họ của ông.

Mối quan hệ nào Giô-na có với độc giả đầu tiên của mình, người Ni-ni-ve? Vào khoảng

cùng thời điểm đó, A-mốt và Ô -sê đang cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên về sự phán xét của Đức Chúa

Trời sẽ sớm giáng xuống bởi tay người A-si-ry thì Giô-na được sai đến cảnh cáo dân Ni-ni-ve.

Có sự khác biệt nào khi biết rằng Ni-ni-ve là thành phố thủ đô của A-si-ry? Nó giúp chúng ta

thấy rằng trọng tâm của câu chuyện nằm ở thái độ của Giô-na đối với dân Ni-ni-ve (người A-si-

ry) và ông sợ rằng Đức Chúa Trời sẽ thương xót đến kẻ thù của ông. Nhưng Đức Chúa Trời làm

ông thất vọng.

Có lẽ điều quan trọng nhất cần biết về tác giả Kinh Thánh là lý do họ viết. Tại sao tác giả

của I&II Sử ký lặp lại nhiều phần trong sách Sa-mu-ên và Các Vua? Câu trả lời nằm trong mục

đích của trước giả. Người viết Sử ký (có thể là E-xơ-ra) đang viết về dân Y-sơ-ra-ên sau thời

Lưu Đày (tức là cộng đồng đã được tái lập). Ô ng cố gắng cho họ thấy rằng Đức Chúa Trời vẫn

còn đang chăm sóc dân của Ngài sau khi đoán xét họ qua sự Lưu Đày. Ví dụ, tác giả sách Sử Ký

dường như lý tưởng hóa Đa-vít và Sa-lô-môn khi ông bỏ những lý lịch đen của họ (ví dụ Đa-vít

phạm tội cùng Bát-sê-ba). Bằng cách này, tác giả muốn tái khẳng định cho độc giả của ông rằng

dầu Đức Chúa Trời có hình phạt dân Ngài nhưng Ngài vẫn yêu họ và muốn dùng họ để hoàn tất

mục đích của Ngài.

Sách Công-vụ-các-sứ-đồ là một ví dụ khác về tầm quan trọng của việc biết mục đích của

tác giả. Nếu bạn đang học Công. 28, bạn có thể tự hỏi tại sao Lu-ca kết thúc sách này một cách

quá chóng vánh sau khi đã dùng đến hai chương dài mô tả về hành trình đến Rô-ma của Phao-lô.

Tại sao ông không đề cập gì hết về kết quả của cuộc điều trần của Phao-lô tại Rô-ma? Lý do hợp

lý nhất là trở lại với mục đích Lu-ca viết sách này. Ô ng muốn trình bày sự bành trướng mạnh mẽ

của tin lành từ Giê-ru-sa-lem, cái nôi của Hội Thánh, đến Rô-ma, trung tâm của đế chế. Một khi

ông đạt được mục đích của mình, ông nhanh chóng gói dự án của mình lại. Điều Lu-ca quan tâm

nhất là sự thành công của sứ điệp Tin Lành chứ không phải tiểu sử của sứ giả.

Chúng ta cùng ôn lại. Khi chúng ta nghĩ về bối cảnh lịch sử-văn hóa, chúng ta trước hết

cần xem xét tác giả Kinh Thánh. Lai lịch của tác giả này như thế nào? Ô ng từ đâu đến? Ô ng viết

khi nào? Ông đang làm chức vụ gì? Mối quan hệ của ông với người mà ông đang viết là gì? Cuối

cùng, tại sao ông viết? Trả lời được những loại câu hỏi này giúp chúng ta có nhiều kiến thức hơn

về hoàn cảnh của tác giả Kinh Thánh và làm rõ hơn ý nghĩa của những điều họ đang viết.

Page 59: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

56

Độc Giả Kinh Thánh

Khám phá bối cảnh lịch sử-văn hóa cũng liên quan đến việc hiểu biết điều gì đó về độc

giả Kinh Thánh và hoàn cảnh của họ. Ví dụ như trong Tin Lành Mác. Mác đang nhấn mạnh đến

thập tự giá của Đấng Christ và điều kiện để làm môn đồ của Đấng Christ xuyên suốt Tin Lành

của mình. Nhiều học giả cho rằng độc giả gốc của sách Mác là Hội Thánh trong vùng Rô-ma.

Ô ng viết điều này để chuẩn bị cho họ đối diện với bách hại họ sẽ sớm đối diện dưới tay của

hoàng đế Nê-rô vào giữa những năm 60 S.C. Để khích lệ những tín hữu này trung tín trong sự

đau khổ, Mác nhấn mạnh đến hình ảnh Chúa Giê-xu đã trung tín trong sự đau khổ của Ngài như

thế nào.

Khi bạn đọc các tiên tri Cựu Ước, bạn cần biết vài điều về những hoàn cảnh tổng quát

của độc giả Kinh Thánh để hiểu được những sứ điệp tiên tri này. Ví dụ, khi học về tiên tri Giê-

rê-mi, biết rằng chức vụ của vị tiên tri này bắt đầu vào khoảng 627 T.C và kết thúc một thời gian

ngắn sau năm 586 TC. sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Điều này có nghĩa là Giê-rê-mi chứng

kiến sự hưng thịnh dưới thời vua Giô-si-a, sự suy sụp của A-si-ry, sự nổi lên của Ba-by-lôn, sự

thất bại đầu tiên của Giê-ru-sa-lem (598/97 T.C.) và sự sụp đổ của quốc gia của ông năm 586

T.C. Giê-rê-mi giảng nghịch lại Giu-đa và báo trước về sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và cuộc lưu

đày sang Ba-by-lôn.

Dầu vậy, Giê-rê-mi cũng mạnh mẽ khuyến khích và hy vọng trong những ngày đen tối

của sự vây thành Giê-ru-sa-lem. Để ý đến Giê-rê-mi 29:11: “Đức Giê-hô-va phán: Vì ta biết ý

tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được

sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình.” Những lời này là một phần lá thư mà Giê-rê-mi viết

cho dân sự đang trải nghiệm sự sửa phạt của Chúa – những người bị lưu đày năm 597 T.C. Bối

cảnh lịch sử của câu này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta hiểu ý nghĩa của nó. Mặc

dầu kết quả tang thương vì sự bất tuân của Giu-đa, lời cuối cùng của Đức Chúa Trời không phải

là sự phán xét mà là hy vọng. Dầu vậy, sự giải cứu của Chúa là chắc chắn nhưng nó sẽ không

đến ngay (xem 29:10).

Hầu hết các lá thư trong Tân Ước mang tính hoàn cảnh, cơ hội. Điều này có nghĩa là

chúng được viết cho các Hội Thánh đang đối diện với những hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ, sách

Cô-lô-se được viết cho một nhóm tín hữu đang tranh chiến với tà giáo cho rằng Đấng Christ

không phải là tối thượng (Cô. 2:4-5,8,16). Phao-lô viết thư tín này để phản bác tà giáo này bằng

cách nhấn mạnh quyền tối thượng tuyệt đối của Đấng Christ (1:15-20;2:9-15).

Tương tự, Giăng viết thư tín thứ nhất của mình cho các tín hữu đang chiến đấu với một

hình thức tiên khởi của trí huệ giáo. Trọng tâm của tà giáo này cho rằng tinh thần là hoàn toàn tốt

còn thể xác là hoàn toàn gian ác. Sự cứu rỗi có nghĩa là thoát khỏi thân thể và đạt được bằng một

Page 60: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

57

sự hiểu biết đặc biệt. Trong trường hợp của I Giăng, biết được bối cảnh lịch sử-văn hóa sẽ hiểu

rõ được những chủ đề chính của thư tín: Sự nhập thể của Đấng Christ tức là Đức Chúa Trời thật

sự trở nên người, nhu cầu bước đi trong sự sáng hơn là trong sự vô đạo đức và nhu cầu về tình

yêu (ngược lại với sự kiêu ngạo của những người cho mình đã sở hữu được kiến thức đặc biệt).

Những Yếu Tố Lịch Sử-Văn Hóa Khác

Như đã trình bày ở trên, bối cảnh lịch sử-văn hóa liên quan đến tác giả và độc giả thời

Kinh Thánh cộng với những yếu tố lịch sử-văn hóa mà đoạn Kinh Thánh gặp phải. Thỉnh thoảng

khó biết nhiều về tác giả và độc giả thời Kinh Thánh hay những hoàn cảnh riêng của họ. Thông

thường bạn sẽ tập trung vào những yếu tố lịch sử, xã hội, tôn giáo, chính trị và kinh tế. Những

yếu tố này hình thành phân đoạn Kinh Thánh của bạn. Sau đây là vài ví dụ để thấy rằng hiểu

được những yếu tố này giúp soi sáng ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh.

Nhiều khi hiểu biết nhiều hơn về địa lý hay địa hình liên hệ trong đoạn Kinh Thánh có

thể giúp chúng ta nắm bắt được ý nghĩa của nó. Chúa Giê-xu bắt đầu ẩn dụ của mình về người

Sa-ma-ri bằng những câu sau: “Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô”

(Lu-ca 10:30). Bạn hiểu chắc rằng người này đi xuống từ thành Giê-ru-sa-lem đến thành Giê-ri-

cô, đi xuống từ độ cao khoảng 2,500 mét trên mực nước biển xuống khoảng 800 mét dưới mực

nước biển. Hơn nữa, hành trình này không giống như đi dạo công viên. Khoảng cách khoảng ba

mươi cây số và phải đi ngang qua những vùng miền quê vắng vẻ có nhiều tên cướp ẩn núp. Biết

được địa lý này giúp chúng ta hiểu rằng để băng qua quãng đường này thật khó cho người bị nạn

làm sao. Và cũng để hiểu rằng người Sa-ma-ri phải hi sinh dường nào nếu đi trên quãng đường

nguy hiểm này với một người bị nạn.

Một trong những lĩnh vực tốt nhất là học về bối cảnh liên quan đến phong tục xã hội. Ví

dụ nếu bạn đang học Ê-phê-sô 5:21-6:9, bạn cần biết vài điều về luật gia đình của người La-mã

để hiểu được đoạn Kinh Thánh này. Những luật này dạy cho người chủ hộ về cách ứng xử với

các thành viên trong gia đình mình. Sứ đồ Phao-lô sử dụng quan niệm về luật hộ gia đình này

nhưng ông chuyển nó sang những cách uy quyền hơn. Ví dụ, luật người La-mã dạy người chồng

phải làm cho người vợ phục mình, nhưng không hề nói đến người chồng phải có bổn phận yêu

vợ mình. Trong Ê -phê-sô 5:25, Phao-lô vượt ra ngoài khuôn khổ này: “hãy yêu vợ mình như

Đấng Christ yêu Hội Thánh và phó chính mình Ngài vì Hội Thánh”. Phao-lô dạy mọi thành viên

trong gia đình phải “kính sợ Đấng Christ mà vâng phục nhau” (5:21).

Thường trong Kinh Thánh những phong tục xã hội đi chung với tầm quan trọng của tôn

giáo. Chúng ta cùng trở lại với ẩn dụ người Sa-ma-ri nhơn lành. Độc giả thời đó của Chúa Giê-

xu có lẽ bị sốc và bị sỉ nhục khi Chúa Giê-xu đề cập đến hai vị lãnh đạo tôn giáo của người Giu-

đa chẳng làm gì để giúp người bị nạn, trong khi đó, người Sa-ma-ri chứng minh ông là người lân

cận của người bị hại này (và là anh hùng trong câu chuyện). Chúng ta biết điều này vì trong văn

hóa đó, người Giu-đa khinh miệt người Sa-ma-ri.

Page 61: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

58

Trong câu chuyện về người con trai hoang đàng, chúng ta chẳng nghĩ gì về người cha

chạy ra đón đứa con trở về. Nhưng chúng ta cần phải biết rằng những người Giu-đa lớn tuổi sẽ là

không đáng được tôn trọng nếu họ chạy. Khi học được điều này, chúng ta nhận thấy được cảm

xúc và sự đáp ứng của Đức Chúa Trời dành cho tội nhân lớn là dường nào khi họ quay trở về

cùng Ngài. Ngài vui mừng quá đỗi đến nỗi Ngài quên đi cái “sự tôn trọng” để đón tội nhân.

Sách Ru-tơ cũng cho chúng ta những yếu tố xã hội và tôn giáo liên kết với nhau trong

nhiều phân đoạn. Để hiểu được sách Ru-tơ, bạn cần biết vài điều về vai trò của người có quyền

chuộc sản nghiệp.

Thỉnh thoảng, bạn cũng có thể gặp những vấn đề liên quan đến kinh tế. Trong chuyến

truyền giáo thứ hai của mình (Công-vụ-các sứ đồ 15:39-18:22), Phao-lô lập Hội Thánh tại Phi-

líp. Tại đó, Phao-lô và Si-la gặp một đầy tớ gái bị quỷ ám. Cô ta cứ quấy rầy đoàn truyền giáo

cho đến khi Phao-lô đuổi con quỷ ra khỏi cô ta. Người chủ của cô này bắt Phao-lô và Si-la ra nơi

công cộng và quan tòa truyền đánh đòn hai người và bỏ vào ngục. Tất cả những điều này xảy ra

vì cô đầy tớ gái bị quỷ ám đó kiếm được nhiều tiền cho người chủ. Khi quỷ ra khỏi thì tiền cũng

rời họ và họ trả thù giáo sĩ.

Bạn cũng cần chú ý đến yếu tố chính trị có thể nổi lên trong đoạn Kinh Thánh của bạn.

Trong Công. 16, chú ý những điều xảy ra tiếp theo với Phao-lô và Si-la. Sau một thời gian ở

trong ngục, quan tòa mới truyền các giáo sĩ rời khỏi thành phố. Sau đây là phần còn lại của câu

chuyện (Công-vụ-các sứ đồ 16:36-40).

Người trình lời đó cùng Phao-lô rằng: Các thượng quan đã khiến truyền cho tôi thả các

ông; vậy, hãy ra, và xin đi cho bình yên. 37 Nhưng Phao-lô nói cùng lính rằng: Chúng ta

vốn là quốc dân Rô-ma, khi chưa định tội, họ đã đánh đòn chúng ta giữa thiên hạ, rồi bỏ

vào ngục; nay họ lại thả lén chúng ta ư! Điều đó không được. Chính các quan phải tới

đây mà thả chúng ta mới phải! 38 Các thượng quan nghe lính trình lại bấy nhiêu lời, biết

hai người đó là người Rô-ma, thì sợ hãi. 39 Họ bèn đến nói với hai người, thả đi, và xin

lìa khỏi thành. 40 Khi ra ngục rồi, hai sứ đồ vào nhà Ly-đi, thăm và khuyên bảo anh em,

rồi đi.

Vì đánh đòn và bỏ tù công khai một công dân Rô-ma, đặc biệt chưa được xét xử là bất

hợp pháp, nên những quan chức La-mã nhanh chóng xin lỗi vì những hành động của họ. Phao-lô

và Si-la yêu cầu phải công khai đưa họ ra khỏi thành phố để chứng minh cho công chúng là họ

vô tội và giải tiếng oan cho Hội Thánh Phi-líp.

Bối cảnh lịch sử-văn hóa bao gồm những thông tin về tác giả và độc giả - lai lịch, hoàn

cảnh và mối quan hệ của họ - cũng như những yếu tố địa lý, xã hội, tôn giáo, kinh tế và chính trị

có liên hệ đến đoạn Kinh Thánh đó. Khi chúng ta để thời gian hiểu được bối cảnh, đoạn Kinh

Thánh trở nên sống động và hợp lý hơn. Chúng ta có thể nhìn thấy rằng Đức Chúa Trời đang

Page 62: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

59

phán với những con người thật sự đang tranh chiến với cuộc sống thật và Ngài cũng tiếp tục còn

phán với chúng ta nữa.

Trước khi liệt kê những nguồn khác nhau mà một người có thể dùng để nghiên cứu bối

cảnh lịch sử-văn hóa, chúng tôi muốn đề cập đến một vài nguy hiểm liên quan đến việc nghiên

cứu loại tài liệu này.

Những Nguy Hiểm Liên Quan Đến Nghiên Cứu Bối Cảnh

Khi mà nguy hiểm lớn nhất là bỏ qua bối cảnh lịch sử-văn hóa thì cũng có những nguy

hiểm liên quan đến việc học bối cảnh đó. Trước hết, hãy chú ý đến những thông tin bối cảnh

không chính xác. Ví dụ trong Ma-thi-ơ 19:23-24:

Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng môn đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người giàu

vào nước thiên đàng là khó lắm. Ta lại nói cùng các ngươi, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ

hơn một người giàu vào nước Đức Chúa Trời.

Bạn có thể nghe nhiều người giải thích “lỗ kim” của lạc đà như là một cái cổng nhỏ mà

con lạc đà có thể lách qua được nếu nó bỏ hết hành lý và quỳ xuống. Vấn đề nằm ở chỗ là không

có bằng chứng cho cái loại cổng này. “Lỗ kim” phải được hiểu theo cái nghĩa nó như của ngày

nay (tức là lỗ kim may). Chúa Giê-xu đang dùng con vật lớn nhất xứ Pa-lét-tin và một cái lỗ nhỏ

nhất để nói rằng người giàu và quyền thế vào nước Đức Chúa Trời là rất khó.

Nguy hiểm thứ hai là nâng bối cảnh của đoạn Kinh Thánh lên trên ý nghĩa của đoạn

Kinh Thánh đó. Ví dụ khi bạn học về câu chuyện về người Pha-ri-si và người thâu thuế trong Lu-

ca 18:9-14, bạn thường bị cám dỗ dùng hết thời gian học về người Pha-ri-si và người thâu thuế.

Dĩ nhiên bạn cần biết vai trò và danh tiếng của hai nhóm người này trong thời Chúa Giê-xu.

Nhưng bạn quên rằng điều cần tìm là là ý nghĩa của phân đoạn đó: Đức Chúa Trời phán xét

người kiêu ngạo nhưng nhắc người khiêm nhường lên.

Cuối cùng là tập trung vào dữ liệu thông tin nhiều hơn chính bản kinh văn. Đừng đánh

mất mục tiêu của mình là giải kinh. Học bối cảnh lịch sử-văn hóa không phải là mục tiêu của

chúng ta, nhưng mục tiêu của chúng ta là biết được những công cụ để nắm bắt được ý nghĩa và

áp dụng ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh đó cho chính mình.

Nguy hiểm lớn nhất là cho rằng mình không cần biết bối cảnh để hiểu Kinh Thánh. Bạn

không thể khởi đầu Hành Trình Giải Kinh nếu bỏ qua bước thứ nhất – nắm bắt được bản kinh

văn trong bối cảnh của nó. Và bạn sẽ không nắm được bản kinh văn nếu bạn không biết bối cảnh

lịch sử-văn hóa. Bây giờ chúng ta sẽ qua những nguồn mà chúng ta sử dụng để nhận ra bối cảnh

lịch sử-văn hóa trong một phân đoạn.

Page 63: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

60

Những Công Cụ Nhận Biết Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa

Để nhận ra được bối cảnh lịch sử-văn hóa, bạn cần (1) nắm được bối cảnh lịch sử-văn

hóa của cả sách của phân đoạn Kinh Thánh đó và (2) nhận ra được bối cảnh lịch sử-văn hóa

riêng của chính phân đoạn Kinh Thánh đó.

Bối Cảnh Lịch Sử -Văn Hóa của Toàn Sách

Như đã đề cập ở trên, nắm được bối cảnh lịch sử-văn hóa của cả sách có nghĩa là khám

phá tác giả và độc giả cũng như hoàn cảnh tổng quát của sách đó. Những câu hỏi sau đây sẽ giúp

bạn khởi động:

Ai là trước giả?

Lai lịch của ông ta như thế nào?

Ô ng viết khi nào?

Bản chất của chức vụ của ông là gì?

Ô ng có quan hệ gì với độc giả?

Tại sao ông viết sách này?

Ai là độc giả thời Kinh Thánh?

Hoàn cảnh của họ như thế nào?

Mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời như thế nào?

Họ có quan hệ gì với nhau?

Điều gì xảy ra khi ông viết sách này?

Có những yếu tố lịch sử-văn hóa khác soi sáng sách này không?

Để trả lời được những câu hỏi này, bạn cần phải làm quen với một số công cụ căn bản. Vì

chúng tôi không thể liệt kê tất cả những nguồn có sẵn nên chúng tôi chỉ đề cập đến vài công cụ

đáng tin nhất cho sinh viên ở cấp độ này. Để hiểu được bối cảnh lịch sử-văn hóa của cả sách,

chúng tôi đề nghị bạn tham khảo những sách cẩm nan Kinh Thánh, Tân & Cựu Ước lược khảo

và đặc biệt là những sách giải kinh.

Cẩm Nam Kinh Thánh

CẨM NAN Kinh Thánh thường bắt đầu với những bài viết tổng quát về Kinh Thánh và

thế giới của Kinh Thánh (ví dụ: bản chất của Kinh Thánh, cuộc sống trong thời đại Kinh Thánh).

Cẩm nan này thường bao gồm một phần giới thiệu ngắn cho từng sách của Kinh Thánh và một

phần giải nghĩa chung cho cả sách. Cẩm nan Kinh Thánh giúp bạn làm quen với bối cảnh lịch

sử-văn hóa của sách mà bạn đang học.

Ví dụ, nếu bạn đang học sách Gia-cơ và quyết định tham khảo cẩm nan Kinh Thánh, bạn

mong tìm được điều gì? Phần giới thiệu sách Gia-cơ có thể bao gồm một phần thảo luận ngắn về

quyền tác giả, ngày viết, người nhận và những chủ đề chính. Chúng ta cùng xem ví dụ sau:

Page 64: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

61

3:1-12 Cai Trị Lưỡi

Những người muốn trở thành giáo sư trong Hội Thánh trước hết phải biết điều khiển lưỡi

của mình. Nếu điều khiển được chi thể bất trị này là một người hoàn hảo. Một chút lửa có thể

làm cháy một khu rừng. Một lời nói có thể làm hủy họa thân mình. Cùng một cái lưỡi có thể

chúc phước và rủa sả, làm điều tốt và hãm hại. Gia-cơ cho rằng sự không đồng nhất này ngược

lại với tất cả các luật tự nhiên.

Chúng ta có thể tìm thấy vài cẩm nan Kinh Thánh hữu dụng sau đây:

Alexander, Pat and David Alexander, eds. Zondervan Handbook to the Bible. Grand

Rapids: Zondervan, 1999.

Dockery, David S., ed. Holman Bible Handbook. Nashville: Holman, 1992.

Thompson, J. A. Handbook of Life in Bible Times. Downers Grove, Ill: InterVarsity Press,

1986.

Lược Khảo Cựu & Tân Ước

Những nguồn này cung cấp những thông tin bối cảnh chi tiết của từng sách cũng như

nhìn tổng thể nội dung của sách. Thông thường, những sách này thảo luận về quyền tác giả, niên

đại, người nhận, hoàn cảnh, mục đích và hơn thế nữa. Nói chung, giới thiệu cung cấp nhiều thảo

luận chi tiết kỹ thuật về những vấn đề của bối cảnh nhưng thảo luận ít hơn về nội dung của sách.

Nếu bạn tham khảo một sách giới thiệu về Tân Ước để tìm thông tin bối cảnh của sách

Khải huyền thì sau đây là những gì bạn có thể tìm được:

Định nghĩa của từ “Khải huyền”

Thảo luận về tác giả

Thảo luận về hai luận điểm chính của niên đại

Thảo luận về người nhận và hoàn cảnh của họ

Chủ đề và mục đích của sách

Mô tả phong cách khải thị của sách Khải huyền

Giải thích bốn hướng giải nghĩa Khải huyền

Tóm tắt từng vấn đề (ví dụ, Sự cất lên, Nghìn năm bình yên)

Dàn bài chi tiết của sách

Tổng quan nội dung của sách

Sách tham khảo để đọc thêm

Page 65: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

62

Những loại sách này thông thường giải thích chi tiết hơn là sách cẩm nang Kinh Thánh.

Do đó, có rất nhiều thông tin trong một sách như vậy.

Achtemeier, Paul, Joel Green, and Marianne Meye Thompson. Introducing the New

Testament. Grand Rapids: Eerdmans, 2001.

Arnold, Bill, and Bryan Beyer. Encountering the Old Testament. Grand Rapids: Baker,

1999.

Carson A.D., and Douglas J. Moo. An Introduction to the New Testament, 2 nd edition.

Grand Rapids: Zondervan, 2005.

Dillard, Raymond B., and Tremper Longman III. An Introduction to the Old Testament.

Grand Rapids: Baker, 1994.

Sách Giải Kinh

Một sách giải kinh tốt là sách cập nhật những thông tin chi tiết về bối cảnh lịch sử-văn

hóa của sách có phân đoạn bạn đang học. Ví dụ trong sách giải kinh sách Phi-líp dài 462 trang

của Gordon Fee trong loạt New International Commentary on the New Testament, ông dành hơn

năm mươi trang để giới thiệu. Ô ng thảo luận về hình thức của một lá thư cổ, thành phố Phi-líp và

con người của nó, hoàn cảnh của Hội Thánh, hoàn cảnh của Phao-lô, biện luận hay tư tưởng

xuyên suốt lá thư và chủ đề thần học. Sau khi đọc hết những phần thảo luận đó, bạn sẽ có một cái

nhìn tổng quát cần thiết về bối cảnh lịch sử-văn hóa của thư tín của Phao-lô gởi cho Hội Thánh

Phi-líp.

Bởi vì sách giải kinh thường được viết từ một quan điểm riêng và vì chất lượng và chiều

dài khác nhau nên tốt nhất là nên tham khảo nhiều sách giải kinh khác nữa.

Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa Của Từng Phân Đoạn

Sau khi bạn đã có một cái nhìn tổng quát về bối cảnh của sách có phân đoạn bạn đang

học, bạn cần nhận ra bối cảnh lịch sử-văn hóa của chính phân đoạn đó. Điều này liên quan đến

vài yếu tố lịch sử, văn hóa trong phân đoạn đó (ví dụ như địa lý, chính trị, tôn giáo, kinh tế, đời

sống gia đình, phong tục xã hội). Để đạt điều này, bạn có thể dùng bản đồ Kinh Thánh, từ điển

Kinh Thánh, sách giải kinh, sách giải nghĩa bối cảnh, lịch sử Cựu & Tân ước và những nghiên

cứu chuyên biệt về đời sống và văn hóa cổ đại.

Page 66: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

63

Bản Đồ Kinh Thánh

Nếu bạn muốn học nhiều hơn về con người, nơi chốn và những sự kiện liên quan đền

phân đoạn Kinh Thánh đó, hãy tìm trong một bản đồ Kinh Thánh. Bạn sẽ tìm thấy những bản đồ

về vùng đất, những bức hình về nhiều cảnh quan quan trọng, những bảng thông số chính trị và

tôn giáo hữu ích, những phần thảo luận về những giai đoạn khác nhau của lịch sử Kinh thánh và

hơn thế nữa.

Ví dụ, bạn muốn nghiên cứu về tuần lễ cuối cùng trong chức vụ của Chúa Giê-xu trên đất,

thường được gọi là Tuần Lễ Khổ Nạn. Bạn cần bản đồ của thành Giê-ru-sa-lem trong thời Tân

Ước để bạn có thể tìm thấy nhiều nơi quan trọng mà những sự kiện diễn ra.

Từ Điển Kinh Thánh

Đây là nơi bạn cần đến khi bạn cần thông tin về một chủ đề nào đó được đề cập trong

phân đoạn của bạn. Ví dụ, nếu bạn muốn biết nhiều hơn về vườn Ghết-sê-ma-nê, hãy tham khảo

một thánh kinh từ điển. Những nguồn này bao gồm nhiều chủ đề trong Kinh thánh và được sắp

xếp theo thứ tự abc. Điều bạn cần làm là tìm từ “Ghết-sê-ma-nê” và đọc nó. Sau đây là một ví dụ:

Ghết-sê-ma-nê (PLACE) Khu vườn nằm ở phía đông của thung lũng Kidron tính từ

phía Giê-ru-sa-lem (Giăng 18:1), trên sườn Núi Ô -li-ve (Mat. 26:30; Lu. 22:39). Chúa

Giê-xu thường hay đến vườn Ghết-sê-ma-nê để nghỉ ngơi, cầu nguyện và thông công

với các môn đệ (Luc. 21:37,22:39; Giăng 18:2). Sau khi ăn lễ Vượt Qua với các môn đồ,

Chúa Giê-xu đi đến vườn Ghết-sê-ma-nê để cầu nguyện. Sau đó Ngài bị Giu-đa phản

bội (Mat. 26:36-56; Mác 14:32-52; Luca 22:39-53; Giăng 18:1-12).

I.Howard Marshall. A.R.Millard. J.I. Packer. D.J. Wiseman. Ed. Thánh Kinh Tân Từ Điển.

Ấn Bản Thứ Ba, Viện Thần Học Tin Lành Việt Nam xuất bản, Nhà Xuất Bản Phương Đông,

HoChiMinh city, 2009.

Sách Giải Kinh

Chúng ta đề cập đến sách giải kinh một lần nữa vì những sách giải kinh tốt sẽ cung cấp

cho chúng ta bối cảnh hữu ích cho đoạn Kinh Thánh bạn đang học. Bạn có nhớ những lời của

Phao-lô cho các Cơ Đốc Nhân Hội Thánh Cô-rinh-tô về việc giữ lễ Tiệc Thánh không? Đây là

một phần của những điều Phao-lô nói trong I Cô. 11:17-22.

G.J. Wenham. J.A. Motyer. D.A.Carson. R.T. France. Ed. Giải Nghĩa Kinh Thánh.

Viện Thần Học Việt Nam xuất bản, 2001.

Page 67: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

64

Warren W. Wiersbe. Giải Nghĩa Kinh Thánh. Văn Phẩm Nguồn Sống, Chariot

Victor Publishing House, CO, 2005.

Sách Giải Nghĩa Bối Cảnh

Loại sách giải kinh này không tập trung vào ý nghĩa của từng đoạn nhưng tập trung vào

bối cảnh lịch sử-văn hóa quan trọng để nắm bắt được ý nghĩa. Những sách giải kinh bối cảnh rất

là hữu ích vì chúng cung cấp nhiều thông tin được sắp xếp thuận tiện theo hình thức từng câu

một.

Sách Lịch Sử Cựu &Tân Ước

Những sách lịch sử là hữu dụng nhất khi bạn muốn thông tin bối cảnh chi tiết về những

chủ đề riêng biệt trong phân đoạn của bạn. Bạn cũng có thể tìm thấy những từ khóa trong bảng

chú dẫn. Ví dụ, nếu bạn muốn kiểm tra I Phi-e-rơ 4:9 (“Người nầy người khác phải tiếp đãi nhau,

chớ có cằn rằn”), bạn có thể tham khảo một sách lịch sử Tân Ước để biết nhiều hơn về sự hiếu

khách trong thế giới của thế kỷ thứ nhất.

Những Nghiên Cứu Đặc Biệt về Cuộc Đời và Văn Hóa Cổ Đại

Những nguồn này thường cung cấp những phần biện luận chi tiết về những chủ đề đã

được chọn. Chúng hữu ích khi bạn muốn học sâu về một chủ đề nào đó. Bạn có thể tìm thấy

những bài viết về những thành phố trong Kinh Thánh, cuộc sống xã hội, những vấn đề pháp lý,

những tôn giáo, chiến tranh, đời sống kinh tế và hàng loạt những chủ đề khác. Những chủ đề đặc

biệt này gần giống với Thánh Kinh Từ Điển nhưng tập trung hơn. Tìm những chủ đề này ở phần

chú dẫn.

Phần Mềm Vi Tính và Internet

Bạn có thể tìm những nguồn mà chúng tôi đề cập trên phần mềm điện tử. Chúng tôi

khích lệ bạn sử dụng tối đa phần mềm vi tính gồm những nguồn tốt nhất.

Dầu vậy bạn cũng cần cảnh giác với các nguồn trên máy tính. Giữa nhiều trường phái học

thuật khác nhau, để tìm những nguồn tài liệu đáng tin cậy không phải dễ. Hãy cẩn thận.

http://vietbible.software.informer.com/3.0/

Page 68: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

65

Kết Luận

Chúng ta nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa của Kinh Thánh vì Đức Chúa Trời chọn

phán trước hết cho những người cổ đại đang sống trong những nền văn hóa hoàn toàn khác với

văn hóa của chúng ta. Khi chúng ta nắm được bối cảnh gốc của Lời Đức Chúa Trời rồi thì chúng

ta có thể nắm bắt được ý nghĩa của nó và áp dụng vào đời sống của chúng ta. Hãy nhớ rằng, bất

cứ một sự giải nghĩa chính xác nào phải thống nhất với bối cảnh lịch sử-văn hóa của bản văn đó.

Trong chương này chúng ta đã thảo luận về những công cụ mà bạn cần để nhận ra bối

cảnh lịch sử-văn hóa của một sách và một phân đoạn. Cẩm nan Kinh Thánh, Lược khảo Cựu &

Tân Ước, sách giải kinh là những công cụ hữu ích để nắm được bối cảnh lịch sử-văn hóa của một

sách. Những bản đồ, từ điển, sách giải kinh, sách giải kinh bối cảnh, sách lịch sử Cựu &Tân Ước

và những nghiên cứu đặc biệt để khám phá bối cảnh lịch sử-văn hóa của một đoạn Kinh Thánh.

Chúng tôi khuyến khích bạn sở hữu những công cụ này.

Page 69: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

66

Chương 7

Bối Cảnh Văn Chương

Lời Giới Thiệu

Hãy tưởng tượng bạn là một sinh viên mới, một ngày nọ bạn đến lớp và tất cả những

người trong lớp là những người lạ và bảo bạn: “hãy đi lấy nó!” Bạn phản ứng lại như thế nào?

Có phải bạn trả lời “đúng rồi!” rồi bạn đi và nghĩ mình sẽ đi lấy một thứ gì mình cần? Hay bạn

nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn phán với bạn thông qua những người đó và trả lời cho những nan đề

hay những quyết định của bạn liên quan đến ngành học hay công việc?

Để hiểu được ý nghĩa của “hãy đi và nhận lấy nó!”, hầu hết chúng ta trở lại với vài câu

hỏi: “Ý bạn thật sự muốn nói gì?” hay “hãy đi lấy cái gì?” Chúng ta đang hỏi để tìm bối cảnh cho

ý nghĩa của sáu từ trên. Không có một bối cảnh, “hãy đi và nhận lấy nó!” dường như vô nghĩa.

Khi bạn muốn giải kinh và áp dụng Kinh Thánh, bối cảnh vô cùng quan trọng. Cho đến

nay, chúng ta có thể xác định chắc chắn rằng nguyên tắc quan trọng nhất của giải kinh là bối

cảnh xác định ý nghĩa. Khi chúng ta bỏ qua bối cảnh, chúng ta coi thường Kinh Thánh và chẳng

chứng minh được điều gì. Chúng ta cùng xem một ví dụ về một cô gái trẻ đang tìm kiếm sự chỉ

dẫn từ Lời của Đức Chúa Trời về việc cô ta có nên cưới anh bạn trai của mình hay không. Cô ta

tìm mò trong Kinh Thánh và tìm được vài câu giúp trả lời thắc mắc trong đầu mình. Cô ta tìm

thấy:

I Cô-rinh-tô 7:36a: “người con gái nên lấy chồng”

Giăng 13:27: “Sự ngươi làm hãy làm mau đi”

Cô gái nhận thấy trong câu đầu là một mạng lệnh phải lấy chồng và câu thứ hai là phải

lấy chồng bây giờ! Chúa đã phán vậy!

Điều gì giúp chúng ta không lặp lại ví dụ buồn cười như vậy? Bối cảnh! Rõ ràng cô này

không đọc hết phần bối cảnh của I Cổ-rinh-tô 7:36c. Tại đây Phao-lô khuyên những người đã

đính hôn trong hoàn cảnh ở Cô-rinh-tô.

36 Nếu có ai tưởng chẳng nên cho con gái đồng trinh mình lỡ thì, và phải gả đi, thì người

đó có thể tùy ý mình mà làm, không phạm tội gì; trong cơn đó, người con gái nên lấy chồng.

37 Song có ai được tự chủ về việc mình làm, không bị sự gì bắt buộc, mà trong lòng đã

quyết định cách vững vàng giữ con gái mình đồng trinh, thì nấy làm phải lẽ mà cứ theo như

mình đã quyết chí. 38 Thế thì kẻ gả con gái mình làm phải lẽ; song kẻ không gả, còn làm

phải lẽ hơn nữa.

Page 70: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

67

Theo tình huống này, ý Phao-lô muốn nói là tốt hơn thì đừng kết hôn. Trong câu thứ hai

(Giăng 13:27), câu “sự ngươi làm hãy làm mau đi” nói đến sự phản bội của Giu-đa và chằng có

một chút nào liên quan đến hôn nhân. Trong ánh sáng của bối cảnh, chúng ta thấy rằng hai câu

này chẳng cung cấp cho cô gái này một nền tảng Kinh Thánh cho việc kết hôn.

Để có thể hiểu và áp dụng Kinh Thánh, chúng ta cần phải chú ý đến hai loại bối cảnh

chính: lịch sử và văn chương. Bối cảnh lịch sử là bối cảnh lịch sử-văn hóa mà chúng ta đã học

trong chương 6. Bối cảnh văn chương liên quan đến hình thức đặc biệt của một phân đoạn (thể

loại văn chương) và những từ ngữ, câu và phân đọan xoay quanh đoạn Kinh Thánh mà bạn đang

học (bối cảnh xung quanh). Bối cảnh văn chương là chủ đề của chương này.

Thể Loại Văn Chương Là Gì?

Trong mỗi đoạn Kinh Thánh, chúng ta trước hết phải để ý đến hình thức mà nó đang có

(ví dụ nó có nghĩa như thế nào?) trước khi chúng ta tìm nội dung (ví dụ: điều đó có nghĩa gì?).

Khi được áp dụng vào việc giải kinh, từ thể loại văn chương đơn giản nói đến những phạm trù

hay loại văn chương được tìm thấy trong Kinh Thánh. Trong Cựu Ước bạn sẽ gặp thể loại

chuyện kể, luật pháp, thơ ca, tiên tri và văn chương khôn ngoan. Tân ước gồm Phúc âm, lịch sử,

thư tín và văn chương khải thị. Cả trong Cựu và Tân Ước đều có những sắc thái của một văn thể

loại phụ (như ẩn dụ, câu đố, bài giảng). Chúng ta sẽ bàn về thể loại văn chương trong phần cuối

của sách này. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm xem tại sao chúng ta cần nhận biết thể loại văn chương để

đọc một phân đoạn “trong bối cảnh”.

Một phép liên tưởng mà những nhà ngôn ngữ học dùng để mô tả thể loại văn chương là

liên tưởng đến một trò chơi. Bạn có thể suy nghĩ mỗi thể loại giống như một loại trò chơi khác

nhau và phải tuân theo luật của nó. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta là độc giả phải chơi

theo luật khi chúng ta nhận ra thể loại văn chương.

Hãy suy nghĩ về môt người hâm mộ bóng đó ở châu  u lần đầu chơi bóng bầu dục

và bóng rổ. Trong bóng bầu dục, tiền đạo và hậu vệ đều có thể dùng tay để đẩy đối

thủ. Trong bóng rỗ và bóng đá thì không được. Trong bóng rổ, cầu thủ không được

phép đá bóng, nhưng họ có thể dùng tay để chơi bóng. Trong bóng đá thì ngược lại.

Trong bóng bầu dục, mọi người có thể giữ bóng bằng tay nhưng chỉ có một người

được phép đá bằng chân. Trong bóng đá, mọi người đều có thể đá quả bóng bằng

chân nhưng chỉ có một người bắt bóng bằng tay. Nếu chúng ta không hiểu được

luật chơi thì chúng ta sẽ nhầm lẫn.

Tương tự như vậy, có những luật “chơi” khác nhau trong việc giải nghĩa những thể

loại văn chương khác nhau. Trước giả đã “chơi trò chơi của mình”, tức là cố gắng

chuyển tải ý nghĩa của mình bằng những luật theo từng hình thức văn chương mà

trước giả sử dụng. Nếu chúng ta không biết những luật này, chúng ta chắc chắn sẽ

giải nghĩa sai ý nghĩa của nó.

Page 71: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

68

Để hiểu được ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh, độc giả phải đứng chung với tác giả

trong thể loại đó. Khi người lạ nói “hãy đi nhận lấy nó!” thì bạn có thể phản ứng bằng nhiều câu

hỏi để làm rõ ý của người nói hơn. Nhưng làm sao chúng ta có thể làm rõ ý nghĩa của tác giả cổ

đại khi họ không ở đây với chúng ta? Câu trả lời là thể loại văn chương. Mặc dầu tác giả và độc

giả không thể đối thoại trực tiếp với nhau nhưng họ có thể gặp nhau trong đoạn kinh văn để trao

đổi bởi vì họ tuân thủ cùng một luật chơi – luật của từng thể loại.

Bằng cách này, thể loại văn chương đóng vai trò là một loại giao ước truyền thông,

một thỏa ước đã định giữa trước giả và độc giả về cách thức trao đổi thông tin. Để có thể “giữ

được giao ước”, chúng ta phải để sự lựa chọn thể loại của tác giả xác đinh những luật mà chúng

ta dùng để hiểu lời của tác giả đó. Xem thường thể loại văn chương trong Kinh Thánh là vi phạm

giao ước với tác giả Kinh Thánh và với Đức Thánh Linh, Đấng linh cảm sứ điệp của Ngài.

Chúng ta thường gặp nhiều thể loại khác nhau trong cuộc sống thường ngày. Trong

vòng một ngày, bạn đọc một tờ báo, tìm một con số trong danh bạ điện thoại, gọi một món ăn,

viết vài dòng thơ, thưởng thức lá thư tình, suy gẫm một quyển sách bồi linh. Khi bạn gặp những

thể loại khác nhau này, bạn cần phải tuân theo những qui luật thông tin của nó. Những qui luật

này được thiết lập trong chính thể loại của nó. Nếu bạn không thể tuân theo những qui luật này

thì bạn đang rất mạo hiểm trong việc đọc Kinh Thánh.

Bạn đang rất nguy hiểm nếu bạn nhầm lẫn một danh bạ điện thoại với một lá thư tình.

Rõ ràng chúng ta không thể đọc thực đơn giống như cách chúng ta đọc thư tình hay đọc báo

giống như chúng ta đọc sách bồi linh. Chúng ta biết điều này vì những thể loại khác nhau phải

được đọc theo cách khác nhau. Khi chúng ta đọc trong Kinh Thánh và nhận thấy nó ở thể loại

nào thì chúng ta phải sử dụng luật thích hợp để giải nghĩa. Khi độc giả chú ý đến những thể loại

này trong Kinh Thánh thì họ sẽ có nhiều cơ hội để tìm thấy ý nghĩa thật của đoạn Kinh Thánh đó.

Thể loại định hướng cho chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh đó. Thể loại văn chương trong Kinh

Thánh có liên hệ mật thiết với nội dung của đoạn Kinh Thánh đó. Vì lý do đó, chúng ta cần phải

học thể loại văn chương một cách nghiêm túc.

Bối Cảnh Xung Quanh Là Gì?

Bối cảnh xung quanh đơn thuần nói đến những đoạn Kinh Thánh xung quanh đoạn

Kinh Thánh mà bạn đang học. Bạn có thể nghĩ về nó như là một thế giới bản văn mà phân đoạn

Kinh Thánh của bạn đang sống trong đó. Bối cảnh này ta thường gọi là thượng hạ văn. Ví dụ, bối

cảnh xung quanh của Rô-ma 12:1-2 gồm mười một đoạn đầu của sách Rô-ma cũng như từ đoạn

12:3 đến hết sách. Theo một nghĩa rộng hơn, bối cảnh xung quanh của Rô-ma 12:1-2 là phần còn

lại của những sách trong Tân Ước và ngay cả toàn bộ Cựu Ước. Những bối cảnh khác nhau này

hình thành nên những vòng tròn xung quanh đoạn Kinh Thánh bạn đang học.

Vòng tròn bối cảnh trực tiếp là vòng tròn gần nhất với trọng tâm vì nó miêu tả những

điều ngay trước và sau phân đoạn Kinh Thánh của bạn. Bạn có nhớ câu Kinh Thánh trong I Phi-

Page 72: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

69

e-rơ 5:7: “lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” không? Bạn

có nhận ra được bối cảnh trực tiếp của nó không? Bối cảnh trực tiếp của nó gồm từ câu 5-9, hoặc

là nhiều hơn nữa.

5 Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau

phải trang sức bằng khiêm nhường; vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban

ơn cho kẻ khiêm nhường. 6 Vậy, hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức

Chúa Trời, hầu cho đến kỳ thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên; 7 lại hãy trao mọi điều

lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em. 8 Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ

thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm

người nào nó có thể nuốt được. 9 Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết

rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình.

Chúng tôi khuyến khích bạn dành ưu tiên nhất cho bối cảnh trực tiếp khi xác định ý

nghĩa của phân đoạn của bạn. Như biểu đồ vòng tròn bối cảnh minh họa ở trên, thì tầm ảnh

hưởng của nó lên ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó càng lớn.

Nhìn kỹ bối cảnh trực tiếp của I Phi-e-rơ 5:7 cho thấy rằng trao mọi điều lo lắng mình

cho Chúa kết nối với hạ mình xuống trước mặt Chúa.

Bối cảnh trực tiếp cho chúng ta thấy rằng hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời có

nghĩa là chúng ta trao phó những lo lắng của mình cho Chúa vì chúng ta biết rằng Ngài yêu

chúng ta và sẽ không để chúng ta thấp hèn. Kiêu ngạo có thể nói với Đức Chúa Trời rằng: “tự ta

có thể gánh gánh nặng này”, trong khi đó sự khiêm nhường liên quan đến việc trao mọi điều lo

lắng mình cho Ngài. Đây thật là một định nghĩa tích cực. Việc hiểu được điều này là do đọc kỹ

bối cảnh trực tiếp.

Bước tiếp theo là học cách nhận diện bối cảnh xung quanh của phân đoạn Kinh

Thánh của mình. Dầu vậy, trước khi làm điều này, chúng ta hãy cùng xem xét vài hiểm họa liên

quan đến việc phớt lờ bối cảnh này.

Những Hiểm Họa Của Việc Xem Thường Bối Cảnh Văn Chương

Bạn có lẽ đã từng nghe người ta nói rằng bạn có thể khiến Kinh Thánh nói bất cứ điều

gì bạn muốn. Điều đó chỉ đúng khi bạn xem thường bối cảnh văn chương. Khi bạn tôn trọng bối

cảnh văn chương (gồm giao ước truyền thông ám chỉ thể loại), bạn không thể khiến Kinh Thánh

nói bất cứ điều gì bạn muốn. Hầu hết những tà giáo đều nổi tiếng hiểu sai và áp đặt Kinh Thánh

vì xem thường bối cảnh văn chương. Có nhiều nguy hiểm liên quan đến việc xem thường bối

cảnh văn chương. Tại đây chúng tôi muốn nêu ra hai vấn đề phổ biến nhất – vấn đề thứ nhất liên

quan đến người giải kinh, còn vấn đề thứ hai liên quan đến người giảng kinh.

Page 73: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

70

Bỏ Qua Bối Cảnh Xung Quanh

Hiểm họa thứ nhất là bỏ qua bối cảnh xung quanh. Điều này thường xảy ra khi những

người giải kinh chỉ tập trung vào một câu duy nhất mà không để ý đến những câu xung quanh có

thể ảnh hưởng đến ý nghĩa của nó như thế nào. Ví dụ, những câu sau đây là những câu ưa thích

thường hay được trích dẫn. Bạn có biết bối cảnh của nó không?

“Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng

người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta.” (Khải –huyền 3:20)

“Vì nơi nào có hai ba người nhân danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ.” (Ma-thi-ơ

18:20)

“Cũng hãy tránh khỏi tình dục trai trẻ, mà tìm những điều công bình, đức tin, yêu

thương, hòa thuận với kẻ lấy lòng tinh sạch kêu cầu Chúa”. (II Ti-mô-thê. 2:22)

Khải huyền 2:20 thường được dùng để mô tả lời hứa của Chúa Giê-xu cho mọi người

tin nhận Ngài là Cứu Chúa và Chủ, tức là nó thường dùng trong khi truyền giảng, kêu gọi tội

nhân tiếp nhận Chúa: “Nếu quý vị mở cửa lòng mình thì Đấng Christ hứa sẽ bước vào”. Nhưng

trong bối cảnh của nó, Khải-huyền 3:20 là một lời hứa từ Đấng Christ phục sinh phán với một

hội thánh gồm những Cơ Đốc Nhân “hâm hẩm”. Ngài quả quyết với những tín hữu bất tuân này

rằng Ngài sẵn lòng và đang chờ đợi để làm mới lại mối quan hệ với họ (đứng ngoài cửa mà gõ)

nếu họ ăn năn (mở cửa cho). Câu này áp dụng trực tiếp đến những Cơ Đốc Nhân đang sống

ngoài mối quan hệ với Đấng Christ. Là một tín hữu, bạn có bao giờ lìa xa Chúa đến nỗi bạn

không chắc rằng Ngài có còn muốn cho phép bạn trở về chưa? Khải-huyền 3:20 hứa rằng Ngài

yêu bạn và mong chờ phục hồi bạn nếu bạn ăn năn.

Ma-thi-ơ 18:20 thường được trích để nhắc mọi người rằng cầu nguyện theo nhóm là

đặc biệt hiệu quả. Nhưng chúng ta ít khi dừng lại để suy nghĩ về những gì chúng ta thật sự đang

nói. Chúa Giê-xu chỉ ở với chúng ta khi chúng ta hiệp với các tín hữu khác? Bối cảnh của Mat-

thi-ơ 18:20 là bối cảnh của kỷ luật Hội Thánh. Điều này rõ ràng hơn khi đọc câu 15-17:

15 Nếu anh em ngươi phạm tội cùng ngươi, thì hãy trách người khi chỉ có ngươi với

một mình người; như người nghe lời, thì ngươi được anh em lại. 16 Ví bằng không

nghe, hãy mời một hai người đi với ngươi, hầu cứ lời hai ba người làm chứng mà mọi

việc được chắc chắn. 17 Nếu người không chịu nghe các người đó, thì hãy cáo cùng

Hội thánh, lại nếu người không chịu nghe Hội thánh, thì hãy coi người như kẻ ngoại và

kẻ thâu thuế vậy.

Nói cách khác, Chúa Giê-xu phán rằng nếu cộng đoàn nào (dù nhỏ với vài ba người)

mà đi theo sự hướng dẫn của Chúa vì kỷ luật hiệp nhất thì họ sẽ được phước.

Page 74: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

71

II Ti-mô-thê 2:22 là một câu ưa thích nói về nỗ lực chiến đấu chống lại sự cám dỗ

tình dục. Nhưng bối cảnh xung quanh định nghĩa “tình dục trai trẻ” như thế nào? Phao-lô đang

viết cho Ti-mô-thê, người đang đối diện với vấn đề của giáo sư giả bên trong các nhà lãnh đạo

Hội Thánh tại Ê -phê-sô. Phân đoạn trước (2:14-19) nói rõ rằng Ti-mô-thê phải chống trả lại các

giáo sư giả. Điều này được hỗ trợ bởi hình ảnh của gia đình (2:20-21). Tương tự, đoạn 2:23 -26

nói về tà giáo. Trong câu 22, Phao-lô khuyên Ti-mô-thê hãy tránh khỏi những sự biện luận ngu

xuẩn đó, điều mà thường thu hút những mục sư trẻ tuổi (tức là “tình dục trai trẻ”) mà đeo đuổi sự

công bình, đức tin, tình yêu thương và sự hòa thuận với những con người thật của Đức Chúa Trời.

Câu này dường như chẳng có điều gì liên quan đến cám dỗ tình dục.

Những ví dụ trên cho thấy vấn đề của việc bỏ qua bối cảnh xung quanh. Cách mà

Kinh Thánh của chúng ta được phân chia thành câu và đoạn không giúp chúng ta giải quyết vấn

đề này nhiều. Số câu và đoạn giúp chúng ta tìm các phân đoạn dễ hơn nhưng cũng khiến cho

chúng ta dễ nghĩ rằng mỗi câu, đoạn đứng riêng rẽ như là một đơn vị ý tưởng độc lập, giống như

một số điện thoại riêng rẽ trong danh bạ điện thoại. Chúng ta thường hay nhóm các số câu vào

một phân đoạn. Nhưng điều đó không có nghĩa là nếu chúng ta muốn tách nó riêng ra khỏi bối

cảnh của nó thì được mà không liên hệ gì đến những phần phía trước và phía sau.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng trong những bản gốc của Kinh Thánh không có phân

đoạn và câu, nhưng chúng được thêm vào sau đó. Khi chúng ta nói về Kinh Thánh được Đức

Thánh Linh linh cảm tức là chúng ta đang nói về chính bản kinh văn đó, không phải về con số.

Đừng để phần biên tập sau này tách chúng ta ra khỏi bối cảnh xung quanh của nó và đặt cho nó

một ý nghĩa khác với ý nghĩa mà Chúa đã định.

Giảng Theo Chủ Đề

Một hiểm họa thứ hai liên quan đến việc xem thường bối cảnh văn chương là hiểm

họa giảng theo chủ đề. Theo chủ đề là một cách giảng thích hợp khi những phân đoạn khác được

hiểu trong bối cảnh và sứ điệp tổng quát không phá vỡ những bối cảnh riêng khác. Nhưng có

nhiều lời giảng theo chủ đề bóp méo ý nghĩa của Kinh Thánh vì họ xem thường bối cảnh văn

chương.

Biểu đồ bên dưới cho thấy dòng ý tưởng của trước giả Kinh Thánh như thế nào trong

một phân đoạn Kinh Thánh riêng biệt. Giảng giải kinh (ngược lại với giảng theo chủ đề) sẽ đi

theo dòng ý tưởng của tác giả xuyên một phân đoạn riêng biệt (ví dụ, Giăng 10) để nắm bắt được

ý nghĩa gốc và truyền đạt ý nghĩa cho tín hữu.

Ngược lại, giảng theo chủ đề thường nhảy từ một phân đoạn này đến một phân đoạn

khác bằng cách nối các ý tưởng không liên quan ban đầu lại với nhau (xem biểu đồ bên dưới).

Nó giống như nhảy từ một tờ báo đến thực đơn đến bài thơ rồi đến lá thư tình, nhặt những ý

tưởng lại với nhau để tạo nên một sứ điệp mà bạn chọn. Bạn có thể thấy rằng cách giảng như thế

này rất dễ phá vỡ bối cảnh văn chương và dẫn đến nhiều kết luận không theo Kinh Thánh.

Page 75: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

72

Lấy những đoạn Kinh Thánh ra khỏi bối cảnh của nó có thể tạo nên một bài giảng hay

nhưng nó có thể sẽ che giấu ý nghĩa thật của Đức Chúa Trời. Đọc sai Kinh Thánh làm tổn

thương người nghe vì bắt họ làm tôi mọi hơn là giải phóng họ. Sẽ như thế nào nếu cô gái trẻ

được đề cập ở phần đầu thật sự tin cậy Đức Chúa Trời đã phán với cô cưới bạn trai của mình khi

mà thật sự Chúa không hề có ý như vậy? Việc cô gái trẻ này không thể nhìn thấy bối cảnh đã

khiến cô đọc sai Kinh Thánh và dẫn đến kết cuộc đau buồn. Ai muốn bước vào mối liên hệ quan

trọng như vậy mà không được Đức Chúa Trời ban phước? Dĩ nhiên người bạn trai của cô ta sẽ

nói “không” với lời cầu hôn này và khuyến khích cô ta tham dự một khóa học về giải kinh. Sau

đó tất cả sẽ ổn.

Cách Để Có Thể Nhận Diện Bối Cảnh Xung Quanh

Cho đến bây giờ chúng ta đã học cách để quan sát chi tiết và phân tích những phần

của một phân đoạn Kinh Thánh. Thật sự Kinh Thánh không phải là một bộ sưu tầm của những

phần không liên hệ. Đức Thánh Linh đã cảm động các tác giả Kinh Thánh để kết nối những từ,

câu và những phân đoạn thành một thể văn chương thống nhất theo cách sử dụng ngôn ngữ giao

tiếp của con người bình thường.

Thông thường một câu xây dựng trên những câu đi trước và dẫn đến những câu sau

để tạo thành một sứ điệp thống nhất. Khi Đức Chúa Trời phán với chúng ta, những phần của

Kinh Thánh kết nối tạo thành một tổng thể, trong khi đó phần tổng thể cung cấp những chỉ dẫn

hay giới hạn để hiểu được các phần khác. Sự hiểu biết về một phân đoạn Kinh Thánh nhất định

nào đó của chúng ta luôn luôn được xác định bởi sứ điệp tổng thể của cả sách. Nếu một độc giả

không thể nắm được ý của tác giả vừa mới nói và sắp nói thì người đó dễ đánh mất ý nghĩa của

phân đoạn Kinh Thánh đó.

Khi chúng tôi yêu cầu bạn nhận diện bối cảnh xung quanh, chúng tôi muốn bạn nhìn

thấy những câu này (những phần này) thích hợp với nhau trong một sách để thông tin cho sứ

điệp lớn hơn (tổng thể). Chúng ta không thể đọc được ý tưởng của tác giả nhưng chúng ta có thể

truy tìm ý tưởng của người đó khi đi theo dòng chảy của những câu và phân đoạn để hình thành

một tổng thể của sách. Chúng ta muốn thấy những đơn vị nhỏ hơn kết nối để tạo nên những đơn

vị lớn hơn. Điều này sẽ giúp chúng ta giải nghĩa phân đoạn riêng của mình trong ánh sáng của

phần lớn hơn (ví dụ trong bối cảnh văn chương gốc của nó). Biết được bối cảnh văn chương sẽ

giúp trả lời những câu hỏi như là:

Vai trò hay chức năng của đơn vị này trong sách này là gì?

Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bỏ phần này ra khỏi sách này?

Tại sao tác giả lại đặt phần này như là phần quan trọng trong tổng thể của sách này?

Page 76: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

73

Hơn nữa, giải nghĩa chính xác nhất một phân đoạn Kinh Thánh là tìm thấy phân đoạn

đang học thích hợp với bối cảnh xung quanh (ví dụ những đơn vị nhỏ thích hợp nhất với những

phần lớn hơn). Khi việc giải nghĩa của chúng ta mâu thuẩn với bối cảnh văn chương (gồm thể

loại văn chương và bối cảnh xung quanh) thì chúng ta đã vi phạm cách thông thường mà người

ta sử dụng để thông tin và việc giải nghĩa của chúng ta không thích hợp.

Chúng ta cùng lấy sách Phi-lê-môn là ví dụ để minh họa cho cách nhận diện bối cảnh

xung quanh của một phân đoạn. Giả sử chúng ta được giao giải nghĩa câu 4-7. Phần cần được

giải nghĩa ở trong phần in đậm.

1 Phao-lô, kẻ tù của Đức Chúa Jêsus Christ, và Ti-mô-thê, anh em chúng ta, gởi cho

Phi-lê-môn, là người rất yêu dấu và cùng làm việc với chúng ta, 2 cùng cho Á p-bi và

người chị em, A-chíp, là bạn cùng đánh trận, lại cho Hội thánh nhóm họp trong nhà anh:

3 nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha

chúng ta, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ!

4 Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời tôi, hằng ghi nhớ anh trong lời cầu nguyện, 5 vì

nghe nói anh có lòng yêu thương và đức tin trong Đức Chúa Jêsus và cùng các

thánh đồ. 6 Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được

có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được

làm trong chúng ta. 7 Vả, hỡi anh, tôi đã được vui mừng yên ủi lắm bởi lòng yêu

thương của anh, vì nhờ anh mà lòng các thánh đồ được yên ủi.

8 Vậy nên, dầu trong Đấng Christ, tôi có quyền truyền dạy anh việc nên làm, 9 song

vì lòng yêu thương của anh, nên tôi nài xin thì hơn. Tôi, Phao-lô, đã già rồi, hiện nay

lại vì Đức Chúa Jêsus Christ chịu tù nữa, 10 tôi vì con tôi đã sanh trong vòng xiềng

xích, tức là Ô -nê-sim, mà nài xin anh; 11 ngày trước người không ích gì cho anh,

nhưng bây giờ sẽ ích lắm, và cũng ích cho tôi nữa: tôi sai người về cùng anh, 12 người

như lòng dạ tôi vậy. 13 Tôi vốn muốn cầm người ở lại cùng tôi, đặng thế cho anh mà

giúp việc tôi trong cơn vì Tin Lành chịu xiềng xích. 14 Nhưng tôi không muốn làm

điều gì mà chưa được anh đồng ý, hầu cho điều lành anh sẽ làm chẳng phải bởi ép buộc,

bèn là bởi lòng thành. 15 Vả, có lẽ người đã tạm xa cách anh, cốt để anh nhận lấy

người mãi mãi, 16 không coi như tôi mọi nữa, nhưng coi hơn tôi mọi, coi như anh em

yêu dấu, nhứt là yêu dấu cho tôi, huống chi cho anh, cả về phần xác, cả về phần trong

Chúa nữa. 17 Vậy nếu anh coi tôi là bạn hữu anh, thì hãy nhận lấy người như chính

mình tôi vậy. 18 Nhược bằng người có làm hại anh hoặc mắc nợ anh điều chi, thì hãy

cứ kể cho tôi. 19 Tôi, Phao-lô, chính tay tôi viết điều nầy: sẽ trả cho anh, còn anh mắc

nợ tôi về chính mình anh thì không nhắc đến. 20 Phải, hỡi anh em, ước chi tôi được

nhận sự vui vẻ nầy bởi anh trong Chúa; anh hãy làm cho tôi được thỏa lòng trong Đấng

Christ. 21 Tôi viết cho anh, đã tin chắc anh hay vâng lời, biết anh sẽ làm quá sự tôi nói

Page 77: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

74

đây. 22 Nhân thể hãy liệu sắm nhà trọ cho tôi, vì tôi mong rằng nhờ anh em cầu

nguyện, sẽ được trở về cùng anh em. 23 Ê -pháp-ra, là bạn đồng tù trong Đức Chúa

Jêsus Christ với tôi, có lời thăm anh, 24 Mác, A-ri-tạc, Đê-ma và Lu-ca, cùng là bạn

cùng làm việc với tôi cũng vậy. 25 Nguyện xin ân điển của Đức Chúa Jêsus Christ ở

với tâm thần anh em!

Khi chúng ta đọc phân đoạn này, bạn sẽ hỏi: Tại sao Phao-lô nói điều này về Phi-lê-

môn? Ô ng chỉ cầu nguyện cho Phi-lê-môn như chúng ta cầu nguyện cho một người bạn hay là

hơn thế nữa? Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời đơn giản vì Phi-lê-môn là môt nhà lãnh đạo thuộc

linh được tôn trọng phải không? Rõ ràng, Phao-lô đang khen Phi-lê-môn về một điều gì đó. Tại

sao có sự mô tả này?

Bạn sẽ không biết câu trả lời cho đến chừng bạn biết được bối cảnh xung quanh. Để

nắm được ý của Phao-lô muốn nói trong câu 4-7, bạn cần phải kiểm tra lại những điều Phao-lô

nói trước và sau phân đoạn này. Đó là “bối cảnh xung quanh” - một phần thích hợp với phần đi

trước và đi sau. Nếu bạn không biết bối cảnh xung quanh của phân đoạn này, bạn sẽ có thể chỉ đi

trên bề mặt và đánh mất ý nghĩa thật của nó. Bạn cần khám phá bối cảnh xung quanh của câu 4-7

để nắm được sứ điệp của Phao-lô trong phần đó. Hãy nhớ, bối cảnh xác định ý nghĩa!

Tìm bối cảnh xung quanh của bất cứ đoạn nào cũng cần đến ba bước sau: (1) Nhận ra

sách đó được chia thành những phân đoạn hay phần như thế nào; (2) Tóm tắt ý chính của mỗi

phần; (3) Giải thích đoạn Kinh Thánh này có liên hệ như thế nào đến những phần xung quanh.

Chúng ta hãy cùng tiếp tục ví dụ trong Phi-lê-môn.

1. Nhận ra các sách đó được phân chia thành những phân đoạn hay phần như thế

nào.

Tham khảo vài bản dịch Kinh Thánh khác nhau để thấy các dịch giả đã chia sách này

thành những đơn vị nhỏ như thế nào.

Nhiều bản dịch không giống nhau trong cách phân chia. Hãy nhớ là những người hiệu

đính đã chia nhỏ đoạn Kinh Thánh để giúp đỡ độc giả chứ không phải được linh cảm. Nếu bạn

muốn tự mình phân chia, bạn cần tìm những thay đổi trong bản văn như là sự chuyển đổi dòng

chảy ý tưởng của tác giả. Những điểm sau đây đánh dấu sự thay đổi hay chuyển đổi gồm những

điều sau:

Từ nối (ví dụ: do đó, vậy, nhưng…)

Thay đổi thể loại (ví dụ: từ lời chào thăm đến một lời cầu nguyện)

Những thay đổi chủ đề (ý chính)

Những thay đổi về thời gian, không gian

Page 78: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

75

Những thay đổi ngữ pháp (ví dụ: chủ ngữ, tân ngữ, đại từ, thời của động từ, con người

hay con số)

Chúng ta cùng xem vài điểm chuyển đổi trong sách Phi-lê-môn. Có một sự thay đổi

chủ đề giữa câu 3 và 4 khi Phao-lô chuyển từ lời chào thăm sang lời cầu nguyện. Đừng bỏ qua từ

“vậy nên” trong câu 8 và từ “vậy” trong câu 17, cả hai bắt đầu phần mới. Bạn cũng có thể tìm

thấy vài dấu thay đổi của vài câu ở phần cuối: “nhân thể” (c.22), thay đổi thành lời chào (c.23)

và một lời chúc phước cuối cùng (c.25).

Trong ví dụ của chúng ta, đa số các bản dịch đều cho rằng câu 4-7 tạo thành một phần

và câu 8-16 tạo nên phần khác. Viết lại phần tóm tắt trong bước thứ 2 là một cách để kiểm tra

tính hợp lý của những phần phân chia của bạn trong bước 1.

2. Tóm tắt ý chính của từng phần trong khoảng trên dưới mười từ.

Trong từng tóm tắt của bạn, luôn nhớ tóm tắt điểm chính của cả phần lớn. Sau khi

viết phần tóm tắt của mình rồi, bạn có thể đọc lại phần này một lần nữa và xem thử phần tóm tắt

có phản ánh đúng toàn phần không. Coi chừng bị cuốn vào các chi tiết trong phần này. Chỉ nhắm

vào ý chính, ý tưởng lớn. Hãy cùng nhìn những tóm tắt của chúng tôi trong mỗi phần của Phi-lê-

môn:

C.1-3 – Phao-lô cho biết người gởi/người nhận lá thư và chào thăm.

C.4-7 – Phao-lô cảm tạ Đức Chúa trời về đức tin, tình yêu của Phi-lê-môn và cầu thay

cho ông.

C.8-16 – Phao-lô cầu xin Phi-lê-môn cho “con” Ô-ni-sim của mình và mở cho ông thấy

sự quan phòng của Chúa trong vấn đề này.

C. 17-20 – Phao-lô khuyên Phi-lê-môn tiếp nhận Ô -nê-sim như tiếp nhận chính mình ông.

C. 21 – Phao-lô tin rằng Phi-lê-môn có thể làm nhiều hơn điều ông cầu xin.

C.22 – Phao-lô chia xẻ hi vọng trực tiếp đến gặp và thăm ông.

C. 23-24 – Phao-lô chào thăm những người bạn đồng lao.

C. 35 – Phao-lô kết thúc lá thư bằng lời chúc phước.

Khi bạn viết một tóm tắt cho từng phân đoạn hay từng phần, bạn có thể định giá lại

quyết định phân chia của mình. Đừng sợ phải chia lại các phần đó.

3. Giải thích phân đoạn của mình liên quan đến những phần xung quanh như thế nào.

Bây giờ bạn có thể nhìn thấy được dòng tư tưởng của tác giả trong suốt sách này khi

đọc những phần tóm tắt của mình. Đây là lúc nhận thấy phân đoạn của mình thích hợp với những

phân đoạn xung quanh thế nào. Trọng tâm của việc nhận biết bối cảnh xung quanh là quan sát

phần của bạn có liên quan đến những phần trước và sau như thế nào. Chúng ta cùng nhận diện

bối cảnh xung quanh của Phi-lê-môn 4-7.

Page 79: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

76

Phần của chúng ta (c. 4-7) nằm giữa phần mở đầu của lá thư (c. 1-3) và phần chính

của lá thư (c. 8-22). Hầu hết những điều Phao-lô nói trong phân đoạn cảm tạ và cầu nguyện

chuẩn bị độc giả cho những điều ông sẽ nói trong phần chính. Trong phần này, phần cảm tạ trở

thành nền tảng cho lời đề nghị đi theo sau. Phao-lô nêu ra nhiều phẩm chất của Phi-lê-môn trong

câu 4-7, và chính những phẩm chất này sẽ giúp Phi-lê-môn đáp ứng tích cực lại lời yêu cầu của

Phao-lô sắp nói đến. Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời rằng Phi-lê-môn tin cậy Chúa và yêu thương

anh em. Phao-lô tiếp tục, tình yêu này làm “cho tôi được vui mừng và yên ủi”. Ông cũng khen

Phi-lê-môn đã làm cho nhiều tấm lòng của các thánh đồ được tươi mới. Bây giờ Phao-lô cầu xin

một ân huệ cho một vị thánh đồ, tên là Ô -nê-sim. Do đó, phần cảm tạ và cầu nguyện (c. 4-7) dọn

đường cho phần chính của lá thư. Những phẩm chất cao quý của Phi-lê-môn như được nhấn

mạnh ở trong câu 4-7 khuyến khích Phi-lê-môn làm theo điều mà Phao-lô sẽ yêu cầu trong phần

còn lại của lá thư. Khi chúng ta học Phi lê môn 4-7 với những bối cảnh xung quanh, chúng ta có

thể thật sự nắm được ý nghĩa của phân đoạn này.

Kết Luận

Chúng ta học bối cảnh văn chương vì sự giải nghĩa thích hợp nhất với bối cảnh là sự

giải nghĩa đúng nhất. Khi chúng ta xem thường bối cảnh văn chương, chúng ta đang mạo hiểm

bắt Kinh Thánh nói những điều chúng ta muốn Kinh Thánh nói. Điều này có thể đáp ứng nhu

cầu tức thì của một số người nhưng căn bản nó làm tổn thương con người và trói buộc con người

hơn là giải phóng con người. Khi chúng ta dùng bối cảnh văn chương một cách nghiêm túc,

chúng ta đang nói: “Chúng tôi muốn nghe điều Đức Chúa Trời phán với chúng tôi”.

Trong chương này chúng ta đã học về bối cảnh văn chương bao gồm cả thể loại văn

chương và bối cảnh xung quanh phân đoạn Kinh Thánh của bạn. Thể loại văn chương đóng vai

trò như là một giao ước truyền thông giữa tác giả và độc giả. Là độc giả, chúng ta cần phải trung

thành với giao ước này bằng cách nắm chắc lấy những luật giải kinh do tác giả thiết lập. Bối

cảnh xung quanh cho chúng ta thấy rằng mỗi phân đoạn sống trong một thế giới được bao quanh

bởi những phân đoạn khác. Chính chúng ta cũng thông tin với nhau bằng cách kết nối những từ,

câu và phân đoạn thành một sứ điệp thống nhất và Kinh Thánh cũng làm như vậy. Chúng ta ôn

lại hai hiểm hoạ phổ biến nhất liên quan đến việc xem thường bối cảnh văn chương và bỏ qua

bối cảnh trực tiếp của phân đoạn. Chúng tôi kết chương này bằng ba bước để nhận diện bối cảnh

xung quanh, sử dụng sách Phi-lê-môn làm ví dụ. Khi bạn thật sự tôn trọng bối cảnh văn chương

của một phân đoạn trong Kinh Thánh, bạn sẽ xác nhận rằng trên hết mọi sự bạn muốn nghe

những gì Đức Chúa Trời muốn phán với mình qua chính Lời của Ngài.

Page 80: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

77

Bài 8

Nghiên Cứu Từ

Lời Giới Thiệu

Nhiều từ ngữ được gắn với nhau tạo thành một câu chuyện hoặc một đoạn trong một

lá thư. Nếu bạn không nắm bắt được ý nghĩa của những từ đó, bạn sẽ không thể nắm bắt được ý

nghĩa của cả đoạn. Những từ vựng đem đến bức tranh rộng hơn cho cuộc sống. Từ vựng đáng

được học kỹ.

Mục tiêu của học từ là cố gắng hiểu càng rõ càng tốt điều mà tác giả muốn chuyển tải

bằng cách dùng từ này trong bối cảnh này. Là độc giả, chúng ta không quyết định được ý nghĩa

của những từ trong Kinh Thánh nhưng chúng ta có thể khám phá điều tác giả muốn nói gì khi

ông dùng một từ nào đó. Chúng ta luôn nhớ phân biệt sự khác nhau giữa quyết định ý nghĩa và

khám phá ý nghĩa.

Trong chương này chúng ta sẽ học về những từ vựng trong Kinh Thánh. Ngay cả khi

bạn không biết ngôn ngữ gốc của Kinh Thánh, Hy-lạp và Hê-bơ-rơ, bạn cũng có thể học được

cách sử dụng những công cụ giải nghĩa để học từ vựng và chúng tôi sẽ chỉ cho bạn cách học đó.

Những Sai Lầm Thường Gặp Khi Học Từ Vựng

1. Chỉ cần dùng ngôn ngữ của bản dịch mà bỏ qua tiếng gốc của Kinh Thánh (Hy-lạp và

Hê-bơ-rơ).

2. Ý nghĩa thật của một từ chỉ được tìm thấy trong cấu trúc của gốc từ của nó (tức là ngữ

nghĩa học).

3. Đọc từ vựng trong ngôn ngữ mẹ đẻ hiện đại của mình rồi sau đó mới tra nghĩa từ gốc.

4. Một từ sẽ bao gồm tất cả các nghĩa của một từ đó bất cứ khi nào được sử dụng. Hầu hết

các từ đều có nhiều nghĩa khác nhau.

5. Một từ phải có cùng nghĩa mỗi khi nó xuất hiện.

6. Một khi học một từ thì cho rằng học được cả ý tưởng (concept) của nó.

7. Chúng ta chỉ trích những bằng chứng ủng hộ việc giải kinh ưa thích của chúng ta mà bỏ

qua những bằng chứng dường như ngược lại với quan điểm của chúng ta.

Cẩn Thận Chọn Từ Nghiên Cứu

Học từ vựng một cách đúng đắn cần thời gian. Hãy thực tế và chấp nhận rằng bạn

không thể học tất cả các từ trong phân đoạn của mình. Thật ra, bạn không cần phải học tất cả các

từ vựng. Hầu hết các đoạn Kinh thánh đầy những từ có ý nghĩa đã rõ ràng cho người đọc trung

bình. Nhưng một vài từ đòi hỏi phải học sâu hơn và bạn cần phải khôn ngoan để biết nên học từ

Page 81: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

78

nào. Trong trương hợp này, bạn phải làm gì? Hãy sử dụng những hướng dẫn sau đây để giúp bạn

chọn được những từ bạn cần học:

1. Tìm những từ quan trọng đối với phân đoạn. Mọi thứ trong phân đoạn này phụ thuộc

vào những từ này. Chúng mang tầm quan trọng của lịch sử hoặc thần học. Những từ

này thường là những danh từ, động từ chủ chốt.

2. Tìm những từ lặp. Thông thường trước giả nhấn mạnh những từ chủ đề bằng cách lặp

lại chúng. Do đó, hãy lưu ý đến những từ được lặp đi lặp lại. Học chắc những từ này.

3. Tìm cách ngôn. Những từ được dùng ở đây không mang nghĩa đen mà là những từ

mang tính hình ảnh, biểu tượng. Khi bạn đọc câu nói của Chúa Giê-xu: “Ta là cái cửa”

(Giăng 10:9), bạn tìm ý nghĩa của hình ảnh này. Vì ý nghĩa của nhiều hình ảnh hay

biểu tượng không phải lúc nào cũng rõ ràng nên bạn cần phải học chúng kỹ hơn. Hình

ảnh sư tử nói về Chúa Giê-xu Christ trong Khải huyền 5:5 và chỉ về Sa-tan trong I

Phi-e-rơ 5:8.

4. Tìm những từ không rõ hay khó. Có lẽ bạn không hiểu nghĩa của một từ tiếng Việt

trong phân đoạn Kinh thánh nào đó, bạn cần phải tham khảo một bản dịch tiếng Việt

khác, hoặc bạn có khả năng ngoại ngữ thì tham khảo bản dịch trong ngôn ngữ đó.

Một tác giả cũng có thể dùng một thuật ngữ theo nghĩa đặc biệt. Một luật quan trọng

ở đây là “những từ quan trọng nhất là những từ gây khó khăn cho bạn” và nếu một từ

làm cho bạn khó hiểu, hãy để nhiều thời gian hơn cho những từ đó.

Bây giờ chúng ta hãy cùng thử nhé. Vòng tròn những từ trong Rô-ma 12:1-2 và trong

Ma-thi-ơ 28:19-20 mà bạn nghĩ bạn cần nghiên cứu kỹ hơn. Hãy nhớ tìm những từ quan trọng,

những từ lặp, những hình ảnh và những từ khó.

Xác Định Ý Nghĩa Khả Dĩ Của Từ Vựng

Tại sao chúng ta cần xác định từ đó có thể có nghĩa gì trước khi chúng ta quyết định

từ đó có nghĩa gì? Bởi vì hầu hết các từ đều có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng chỉ có một trong

nhiều nghĩa đó được dùng trong bối cảnh riêng của chúng ta đang học. Để không phải nhầm lẫn

nhiều ý nghĩa của một từ khi giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh nào đó, bạn cần phải làm rõ một từ

có thể có nghĩa gì.

Sắp Xếp Ngữ Nghĩa

Một khi chúng ta nhìn thấy được tất cả ý nghĩa khả dĩ của một từ - chúng ta gọi nó là

sự sắp xếp ý nghĩa hay ngữ nghĩa – chúng ta đang ở trong một vị trí thuận lợi hơn để quyết định

từ này thật sự có nghĩa là gì trong một bối cảnh nhất định. Ví dụ, chúng ta hãy nhìn sự sắp xếp

của từ “cánh tay” trong tiếng Việt. Để tìm được sự sắp xếp ý nghĩa của một từ, chúng ta cần tra

trong một cuốn từ điển tiếng Việt chuẩn.

Page 82: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

79

Sự sắp xếp ý nghĩa của một từ là một bảng liệt kê tất cả ý nghĩa khả dĩ của một từ -

tức là, danh sách của từ đó có thể có nghĩa là gì.

Bạn có thể nghĩ rằng, không sao, điều mình cần làm là tìm sự sắp xếp ý nghĩa của từ

của mình trong một cuốn từ điển là xong. Không hẳn như vậy. Bạn phải nhớ rằng từ của bạn

được dịch từ tiếng Hy-lạp hoặc Hê-bơ-rơ nên ý nghĩa có thay đổi. Vì ngôn ngữ gốc của Kinh

Thánh không phải bằng tiếng Việt nên việc bạn cần tìm là sự sắp xếp nghĩa theo từ Hy-lạp hay

Hê-bơ-rơ, không phải từ tiếng Việt trong bản dịch. Bạn có thể dùng từ điển tiếng Việt của mình

để tìm ý nghĩa nhưng phụ thuộc vào từ điển tiếng Việt là một sai lầm lớn.

Cả từ trong ngôn ngữ gốc (Hy-lạp hay Hê-bơ-rơ) lẫn từ tiếng Việt được dùng để dịch

từ đó sẽ có một sự sắp xếp ngữ nghĩa. Sẽ có một bài chồng chéo giữa những sự sắp xếp ngữ

nghĩa của hai từ đó. Điều đó làm cho việc dịch thuật có thể xảy ra. Dầu vậy, sự sắp xếp này sẽ

không tương xứng nhau. Chúng ta phải luôn nhớ rằng chúng là những từ khác nhau và sẽ luôn có

những sắp xếp ý nghĩa khác nhau.

Chúng ta hãy xem một từ mà Chúa Giê-xu dùng trong ẩn dụ về các ta-lâng: ‘Vả, nước

thiên đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình”

(Mat. 25:14, cũng xem câu 20,22). Nếu bạn tìm từ “giao” trong từ điển tiếng Việt, bạn sẽ thấy

một loạt nghĩa của nó.

Bây giờ hãy quay lại công việc chính: xác định từ -từ Hy-lạp hoặc từ Hê-bơ-rơ, chứ

không phải từ tiếng Việt – có thể có nghĩa gì. Làm sao chúng ta tìm được sự sắp xếp ý nghĩa cho

từ ngôn ngữ gốc? Có hai điều cần làm sau:

Thánh Kinh Đối Chiếu

Bước đầu tiên là dùng một Thánh Kinh đối chiếu để xác định được từ Hy-lạp hay Hê-

bơ-rơ gốc. Khi bạn nhìn thấy những định nghĩa của từ đó và những cách dịch từ đó khác nhau,

bạn sẽ bắt đầu có cảm giác từ đó có nghĩa là gì (tức là sự sắp xếp ngữ nghĩa của nó).

Nghiên Cứu Bối Cảnh

Chúng ta cần học từ vựng trong chính bối cảnh của nó. Bạn học được gì từ từ “cửa”

trong bối cảnh của II Cô. 2:12: “Lại khi tôi đã đến thành Trô-ách đặng giảng Tin Lành của Đấng

Christ, dầu Chúa đã mở cửa cho tôi ở đó”? Trong bối cảnh này, Phao-lô đang nói về cơ hội cho

chức vụ của ông chứ không nói về cái cửa vật chất. Trong trường hợp này, Thánh Kinh Đối

Chiếu cho bạn nhiều nghĩa của từ cửa, nhưng nó không nói đến nghĩa này. Chỉ có cách duy nhất

chúng ta xác định được ý nghĩa thật mà Phao-lô đang muốn nói đến tại đây khi bạn tìm cẩn thận

trong bối cảnh đặc biệt của nó.

Page 83: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

80

Điều này dẫn bạn đến điều thứ hai là bạn cần khám phám sự sắp xếp ý nghĩa của từ

đó. Bạn phải kiểm tra bối cảnh để thấy được từ của bạn được sử dụng như thế nào. Một qui luật

trên hết các qui luật là bối cảnh xác định ý nghĩa của từ. Nếu bạn lấy một từ ra khỏi bối cảnh,

bạn sẽ không thể tìm thấy ý nghĩa của nó. Nhất là trong tiếng Việt chúng ta có nhiều hàm ý mà

cần phải có bối cảnh mới hiểu được ý của tác giả.

Để kiểm tra bối cảnh, bạn cần biết vị trí của từ Hy-lạp hay Hê-bơ-rơ trong Kinh

Thánh. Kiểm tra bối cảnh là một bước quan trọng để xác định được từ này có thể có nghĩa là gì.

Kinh Thánh đối chiếu có thể giúp bạn.

Nói tóm lại, trước khi bạn quyết định ý nghĩa của một từ, bạn cần xác định nó có thể

có nghĩa gì. Bạn có thể dùng một bản Kinh Thánh đối chiếu để tìm từ gốc Hy-lạp hoặc Hê-bơ-rơ,

tìm định nghĩa và bản dịch của nó. Sau đó bạn phải dùng Kinh Thánh đối chiếu một lần nữa để

kiểm tra bối cảnh xung quanh từ của bạn. Bây giờ là lúc quyết định từ của bạn thật sự có nghĩa là

gì trong bối cảnh của phân đoạn Kinh Thánh đó.

Quyết Định Ý Nghĩa Của Một Từ Trong Bối Cảnh

Trong ánh sáng của bối cảnh, điều trước hết bạn phải làm là chọn từ trong những ý

nghĩa khả dĩ một ý nghĩa thích hợp nhất với từ của bạn. Cần lặp lại tầm quan trọng của bối cảnh

là: Bối cảnh xác định ý nghĩa! Bối cảnh là mọi thứ xung quanh từ của bạn, như là phân đoạn

chứa từ, chủ đề căn bản, biện luận của tác giả hay dòng ý tưởng cũng như những yếu tố ngoại

cảnh như là hoàn cảnh lịch sử của tác giả và độc giả gốc.

Một trong những cách đáng tin nhất để bối cảnh hướng dẫn quyết định của bạn là qua

ý tưởng được gọi là “những vòng tròn bối cảnh”.

Nói chung, vòng tròn càng gần với tâm thì càng có ảnh hưởng lớn hơn trong quyết

định của bạn về ý nghĩa của từ đó. Ví dụ khi cố gắng xác định ý nghĩa của một từ trong Tân Ước,

bạn thường quan tâm đến những sách cùng tác giả (và đặc biệt đối với bối cảnh trực tiếp của từ

đó) hơn là những phần khác của Tân Ước. Tât cả điều này được dựa trên một ý niệm rằng chúng

ta trước hết và trên hết tìm trước giả gốc để khám phá ý nghĩa của từ đó.

Mục tiêu của bạn khi dùng vòng tròn bối cảnh là khởi đầu với bối cảnh trực tiếp và

tiếp tục tìm kiếm cho đến khi bạn tìm được giải đáp của bạn. Hiếm khi bạn phải di chuyển ra

ngoài vòng tròn “cùng tác giả” để trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa của từ.

Bạn muốn dành nhiều thì giờ làm việc trong những vòng tròn bối cảnh nhỏ hơn (tức

là mọi điều do cùng tác giả viết). Nên nhớ là mục đích của chúng ta khi học từ là để hiểu được ý

nghĩa của từ đó một cách rõ ràng đúng với ý của tác giả dùng từ đó trong bối cảnh riêng của nó.

Chúng ta không thể ngừng phân tích khi chúng ta biết được những ý nghĩa khả dĩ của từ đó.

Page 84: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

81

Chúng ta phải tiếp tục chọn ý nghĩa thích hợp nhất. Nếu bạn phải tranh chiến để quyết định ý

nghĩa gần nhất của từ đó trong bối cảnh của nó, thì những câu hỏi gợi ý sau đây sẽ giúp bạn:

Có một so sánh hay đối lập nào để định nghĩa từ đó không?

Ví dụ, Ê -phê-sô 4:29 nói rằng: “chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi

đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến”. Đối lập trong bối

cảnh trực tiếp giữa “lời dữ” và những lời gây dựng và giúp ích. Sự đối lập này giúp chúng ta hiểu

“lời dữ” là bất cứ phát ngôn nào gây tổn hại đến các mối quan hệ.

Có chủ đề nào của phân đoạn này xác định một ý nghĩa của từ này không?

Có cách dùng cùng một từ đó ở chỗ khác trong cùng bối cảnh tương tự giúp bạn xác định

được ý nghĩa nào là gần nhất với từ đó không?

Giả sử bạn đang học từ “thế gian” trong Giăng 3:16 (“vì Đức Chúa Trời yêu thương

thế gian…”), bạn cũng phải quan tâm đến cách Giăng dùng từ này trong những phần khác của

ông. Giăng dùng từ “thế gian” nhiều cách khác nhau, nhưng ông thường dùng từ thế gian theo

nghĩa con người phản loạn chống nghich laị với Đức Chúa Trời và chống lại mục đích của Ngài.

Giăng cũng có thể đang dùng ý nghĩa này trong Giăng 3:16 nữa. Khi chúng ta đọc thấy rằng Đức

Chúa Trời yêu thương “thế gian”, chúng ta không cho rằng Ngài đang bày tỏ cảm xúc của mình

với loài thọ tạo vật chất này, nhưng nghĩ về sự sẵn lòng sai Con Một của Ngài để chết cho những

người khinh thường Ngài. Biết được cách dùng từ “thế gian” của Giăng giúp chúng ta hiểu được

tấm lòng hi sinh ban cho của Đức Chúa Trời.

Biện luận của trước giả trong sách này có gợi mở một ý nghĩa nào không?

Thông thường, biện luận của trước giả có tác dụng đến quyết định chọn ý nghĩa từ

của bạn. Trong Ga-la-ti 3:4, Phao-lô hỏi người Ga-la-ti một câu hỏi: “Anh em há luống công mà

chịu sự khốn khó dường ấy sao?” (bản dịch truyền thống). Từ “khốn khó” trong tiếng Hy-lạp

(pascho) được dịch là “đau khổ” với hai nghĩa chính: (a) trải nghiệm tiêu cực (tức là sự khốn khó)

hay (b) những trải nghiệm tích cực. Tân Ước phần nhiều dường như dùng từ này theo nghĩa tiêu

cực (đau khổ), trong đó Phao-lô dùng sáu lần (I Cô. 12:26).

Bối cảnh lịch sử có lái bằng chứng vào một hướng nhất định không?

Thông thường bối cảnh lịch sử sẽ ưu ái một chọn lựa riêng biệt. Với các tín hữu tại

Phi-líp, Phao-lô viết: “Duy anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin Lành của Đấng

Christ” (1:27). Từ khóa ở đây là “ăn ở” (politeuomai) có thể mang hàm nghĩa chính trị mà Phao-

lô dùng để liên kết với người Phi-líp. Người dân Phi-líp rất tự hào về địa vị của mình là công dân

La-mã. Cơ Đốc Nhân ở Phi-líp có lẽ cũng có cùng sự tự hào đó. Phao-lô dường như muốn bảo

các tín hữu tại đó phải bảo đảm rằng mình phải sống giống như công dân trên trời ở thành Phi-líp

Page 85: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

82

chứ không phải chỉ như công dân của La-mã. Chúa thật của họ không phải là Sê-sa mà là Giê-xu!

Biết được bối cảnh lịch sử có thể giúp bạn nhận ra được ý nghĩa của một từ.

Bây giờ sử dụng những câu hỏi này và những câu hỏi tương tự, chọn ý nghĩa thích

hợp nhất. Thỉnh thoảng bạn sẽ khám phá nhiều hơn một nghĩa. Nhưng bạn cần phải quyết định ý

nghĩa nào thích hợp nhất với bối cảnh đó. Đừng chọn ý nghĩa của một từ chỉ vì nó thú vị hơn

những từ khác hay vì nó sẽ giúp mình giảng tốt hơn những từ còn lại. Nếu tìm được ý nghĩa của

một từ mà không đúng với bối cảnh của nó là điều nguy hiểm. Khi bạn quyết định, phải nhớ là

giải nghĩa luôn luôn liên quan đến một yếu tố chủ quan. Do đó, chúng ta cần phải chọn lọc khi

giải nghĩa và phải xác tín với sự khiêm nhường. Chúng ta có thể sai.

Tóm lại, chúng ta cần xác định được từ đó có nghĩa gì (tức là sự sắp xếp ngữ nghĩa),

sau đó quyết định từ đó có nghĩa gì trong bối cảnh riêng của nó. Vì bối cảnh chứ không phải định

nghĩa trong từ điển xác đinh ý nghĩa của một từ, chúng tôi hi vọng bạn chỉ tham khảo những

nguồn căn bản như là bước cuối cùng.

Kết luận

Từ ngữ giống như những viên gạch ngôn ngữ để xây nên căn nhà lớn hơn. Khi chúng

ta nắm được ý nghĩa của những từ riêng biệt, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của toàn phân

đoạn. Như chúng ta đã học, ý nghĩa của một từ được xác định bởi bối cảnh xung quanh từ đó.

Bối cảnh xác định ý nghĩa từ cũng như ý nghĩa từ giúp xây dựng bối cảnh. Khi học từ, bạn có thể

nhìn thấy rõ ràng sự liên kết năng động giữa những phần và tổng thể.

Page 86: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

83

Chương 9

Ai Điều Khiển Ý Nghĩa?

Lời Giới thiệu

Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày những cách căn bản để đọc, giải nghĩa và áp

dụng Kinh Thánh hầu nắm Lời của Chúa. Chúng ta bắt đầu đọc cẩn thận để xác định ý nghĩa cho

độc giả thời Kinh Thánh. Tiếp theo chúng ta nhận ra được dòng sông ngăn cách chúng ta với tác

giả thời Kinh Thánh. Sau đó chúng ta thiết lập nguyên tắc thần học từ bản văn và băng qua dòng

sông trên cây cầu nguyên tắc đó. Cuối cùng chúng ta áp dụng nguyên tắc đó cho hoàn cảnh sống

riêng của chúng ta.

Tuy nhiên có một vài câu hỏi căn bản mà chúng ta cần được giải đáp trước khi chúng

ta đi xa hơn trong Hành Trình Giải Kinh. Những câu hỏi này có một hiệu quả sâu sắc trên cách

chúng ta thật ứng dụng hành trình đó. Câu hỏi quan trọng là: Ý nghĩa là gì? Ai điểu khiển nó, tác

giả hay độc giả? Trong chương này chúng ta sẽ cùng học về những vấn đề quan trọng đó.

Ai Điều Khiển Ý Nghĩa, Độc Giả hay Tác Giả?

Câu hỏi này đã gây ra tranh cãi dữ dội không chỉ trong vòng văn chương ngoài đời

mà còn giữa các sinh viên và học giả Kinh Thánh. Đầu thế kỷ hai mươi, hướng truyền thống giải

nghĩa bất cứ văn chương nào dù Kinh Thánh hay thế tục cũng đều công nhận rằng tác giả xác

định ý nghĩa và công việc của độc giả là để tìm ra ý nghĩa đó. Trong vòng các nhà phê bình văn

chương thế tục, hướng này vấp phải sự phản đối kịch liệt vào nửa sau thế kỷ hai mươi. Nhiều

nhà phê bình văn học hôm nay cho rằng chính độc giả chứ không phải tác giả xác định ý nghĩa

của bản văn.

Quan điểm này của các nhà phê bình thế tục lại xâm nhập vào lĩnh vực giải kinh.

Nhiều học giả bắt đầu đặt câu hỏi: Ý nghĩa là gì? Họ kết luận rằng từ ý nghĩa chỉ áp dụng khi

một độc giả tương tác với bản văn – tức là cả độc giả và bản văn tạo ra ý nghĩa. Tác giả không

còn liên quan gì.

Dĩ nhiên cũng có nhiều người vẫn giữ quan điểm rằng tác giả gốc vẫn điều khiển ý

nghĩa. Họ cho rằng, khi tác giả viết, ông ta có chủ ý chuyển tải một ý nghĩa nhất định nào đó

trong bản văn. Ý nghĩa chủ ý đó của tác giả là ý nghĩa thật của bản văn.

Những người nhấn mạnh tác giả xác định ý nghĩa được gọi là chủ ý của tác giả. Quan

điểm ngược lại tập trung vào độc giả là nhân vật chính trong việc xác định ý nghĩa được gọi là

đáp ứng của độc giả. Cả hai quan điểm này đều có lý do của nó. Vậy chúng ta nên theo hướng

nào?

Page 87: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

84

Truyền Thông (Communication) – Vấn Đề Trọng Tâm

Dĩ nhiên độc giả có quyền tự do trong việc giải nghĩa một bản văn theo cách người đó

chọn. Do đó, tác giả điều khiển ý nghĩa chỉ khi độc giả cho phép. Ví dụ, bạn nhận được một bài

thơ tình cũ mốc mà người yêu của bạn viết cho bạn (nhớ lại lá thư tình trong phần trước). Khi

bạn đọc từng lời, từng dòng của bài thơ, bạn sẽ cố tìm ý nghĩa mà người yêu đang gởi gắm trong

đó. Bạn muốn biết người yêu của mình muốn nói gì với bạn. Trong trường hợp này bạn đang đi

theo hướng chủ ý của tác giả vì bạn đang xem bản văn như là sự truyền thông giữa tác giả và

chính bạn. Bạn biết tác giả và bạn muốn biết tác giả đang muốn nói gì với bạn. Bạn sẽ hỏi những

câu hỏi mang tính giải thích: Tác giả có ý gì?

Giả dụ như một ngày nào đó khi bạn đang đi trong rừng, bạn nhặt được một bài thơ

tình. Bạn không nhận ra được tác giả của bài thơ đó là ai. Dầu vậy, bài thơ đó tuyệt hay và bạn

thích thú đọc nó. Trong trường hợp này, bạn không quan tâm đến ý của tác giả muốn nói gì.

Ngay cả bạn không biết tác giả đó là ai. Trong trường hợp này, bạn có quyền tự do để đọc và giải

nghĩa bài thơ đó theo đáp ứng của bạn. Câu hỏi giờ sẽ thay đổi: Điều này có nghĩa gì đối với tôi?

Với bài thơ vô danh trong rừng, bạn có quyền bỏ qua ý của tác giả.

Thỉnh thoảng chúng ta chủ động thay đổi ý nghĩa chủ ý của tác giả vì chúng ta không

thích ý nghĩa đó. Ví dụ, John Lennon của ban nhạc Beatles viết một bản nhạc vào những năm 60

có tựa đề: “Một Chút Giúp Sức Từ Những Người Bạn”. Đây là bài hát hay để hát trong mưa.

Dòng đầu đặc biệt thích hợp với chúng ta (“Bạn sẽ làm gì nếu bạn hát mà không có sáo?”). Bài

hát có giai điệu và âm tiết thật tuyệt nếu người nào đó giải nghĩa nó theo nghĩa đen khi nói đến

những người mà chúng ta gọi là bạn

Dầu vậy, nếu chúng ta học về bối cảnh lịch sử và xem chủ ý của tác giả thì chúng ta

nhận ra rằng Lennon đang có lẽ dùng từ bạn để nói đến thuốc. Dĩ nhiên sự liên hệ này làm hỏng

bài hát cho chúng ta, do đó, chúng ta cố tình thay đổi ý nghĩa của Lennon với từ bạn khi chúng ta

hát bài bài này và gọi bạn là con người. Trong trường hợp đó, chúng ta không quan tâm Lennon

đang cố gắng nói lên điều gì trong bài hát đó. Chúng ta không nhìn ông ta để tìm sự hướng dẫn

triết lý nào. Do đó bài hát không có chức năng như là sự truyền thông giữa chúng ta. Một khi bài

hát mất đi chức năng là môt phương tiện truyền thông, chúng ta, là độc giả, có quyền tự do để

giải thích theo ý chúng ta thích. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm điều này vì chúng ta không quan

tâm đến ý tưởng và nỗ lực chuyển tải chúng cho chúng ta qua bài hát của mình. Hơn nữa, không

có hậu quả tiêu cực nào của việc thay đổi ý nghĩa của Lennon. Thực tế thì kết quả là tích cực.

Dầu vậy, trong nhiều trường hợp, thật sự rất quan trọng khi chúng ta thấy chủ ý của

tác giả mang hậu quả tiêu cực vì chúng ta hiểu sai hay cố tình phớt lờ ý nghĩa chủ ý của tác giả.

Ví dụ, ở Mỹ, một trong những bản văn phổ biến nhất là từ STOP lớn được ghi ở nhiều ngã rẽ

trên cao tốc. Nếu bạn chọn, bạn có thể đi theo hướng đáp ứng của độc giả và giải nghĩa từ (bản

Page 88: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

85

văn) đó: giảm tốc độ một chút, coi chừng xe khác. Tuy nhiên cảnh sát đi theo hướng chủ ý của

tác giả để xác định ý nghĩa. Họ sẽ đáp lại sự giải nghĩa của bạn bằng hình phạt.

Tương tự, nếu bạn nhận một giấy đóng tiền điện từ công ty điện, bảo bạn phải đóng

100,000 đồng tiền điện bạn sử dụng trong tháng trước. Bạn có sự lựa chọn nào để xác định ý

nghĩa của bản văn đó (giấy đóng tiền) không? Bạn có thể cho rằng tờ giấy đó có nghĩa với tôi là

tôi nên trả mười nghìn đồng chứ không phải một trăm nghìn đồng không? Có thể bạn sẽ nói như

vậy. Nhưng bạn sẽ sớm đọc tờ giấy đó trong bóng tối vì công ty được sẽ cắt điện của bạn. Rõ

ràng một số bản văn được viết để chuyển tải thông điệp quan trọng cho độc giả của họ. Khước từ

chủ ý của tác giả có thể tạo nên những hậu quả nghiêm trọng cho độc giả.

Do đó, vấn đề truyền thông là trọng tâm của quyết định của một người trong việc giải

nghĩa một bản văn. Nếu bạn, là độc giả, thấy bản văn là một sự truyền thông giữa tác giả và

chính bạn, thì bạn nên tìm ý nghĩa gốc của tác giả. Dầu vậy, nếu bạn là độc giả không quan tâm

đến ý của tác giả thì bạn có thể đi theo hướng đáp ứng của độc giả và giải nghĩa bản văn đó mà

không cần biết ý của tác giả là gì. Dầu vậy, trong một số trường hợp có thể có những hậu quả

tiêu cực nếu đọc theo cách đó.

Vấn đề truyền thông là vấn đề quan trọng. Nó là nền tảng của hướng giải kinh của

chúng ta. Nếu bạn đọc Kinh Thánh chỉ như là một án văn chương vĩ đại, chỉ vì giá trị đạo đức

hay chỉ để hướng dẫn cách sống chứ không phải để tương giao từ Đức Chúa Trời, thì bạn có thể

giải nghĩa bản văn tùy theo cách bạn chọn. Câu hỏi giải nghĩa chính của bạn là: Bản Kinh văn

này có ý nghĩa gì đối với tôi? Dầu vậy, nếu bạn tin rằng Kinh Thánh là Lời mặc khải từ Đức

Chúa Trời cho bạn và rằng Kinh Thánh có chức năng là sự truyền đạt ý tưởng của Đức Chúa

Trời cho bạn thì bạn sẽ giải nghĩa Kinh Thánh bằng cách tìm ý nghĩa mà Đức Chúa Trời, tác giả,

đang chủ ý. Câu hỏi giải kinh của bạn sẽ là: Ý của Đức Chúa Trời trong đoạn kinh văn này là gì?

Chúng ta tin rằng Kinh Thánh là Lời mặc khải của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Mục

đích của Đức Chúa Trời là để chuyển tải chính mình Ngài và ý muốn của Ngài cho chúng ta.

Chúng ta có thể chọn bỏ qua sứ điệp của Ngài và giải nghĩa bản kinh văn theo cảm giác và ước

muốn của mình, nhưng nếu chúng ta làm như vậy chúng ta sẽ chịu hậu quả đau đớn vì sự bất

tuân. Chúng ta sẽ không thể hiểu Ngài như Ngài muốn chúng ta phải hiểu. Trong việc giải kinh,

độc giả không điều khiển ý nghĩa nhưng tác giả điều khiển ý nghĩa. Kết luận này dẫn chúng ta

đến một trong những nguyên tắc căn bản của giải kinh: Chúng ta không tạo ra ý nghĩa. Nhưng

chúng ta khám phá ý nghĩa mà tác giả đã đặt tại đó cho chúng ta.

Những Định Nghĩa

Từ đầu tiên cần định nghĩa là từ tác giả. Khi thảo luận về văn chương ngoài Kinh

Thánh thì từ tác giả chỉ về người viết án văn chương đó. Khi chúng ta nói đến từ tác giả trong

bối cảnh Kinh Thánh thì chúng ta chỉ cả tác giả con người và thiêng liêng. Trên hết, khi chúng ta

học Kinh Thánh, chúng ta tìm ý nghĩa mà Đức Chúa Trời chủ ý cho chúng ta.

Page 89: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

86

Dầu vậy, Kinh Thánh được mặc khải thiêng liêng nhưng chắc chắn có yếu tố con

người trong đó. Đức Chúa Trời chọn cách làm việc thông qua những tác giả con người để chuyển

tải thông điệp của Ngài cho chúng ta. Ngôn ngữ Ngài chọn dùng là ngôn ngữ con người. Những

yếu tố của con người và thiêng liêng trong Kinh Thánh thường khó nhận ra. Do đó, chúng tôi

dùng chung với nhau trong từ tác giả.

Chúng ta cũng cần định nghĩa từ ý nghĩa và áp dụng. Chúng ta sẽ dùng từ ý nghĩa để

nói đến điều mà tác giả muốn chuyển tải bằng những ký hiệu. Những ký hiệu đơn giản là những

cách dùng ngôn ngữ khác nhau – ngữ pháp, ngữ nghĩa, ý nghĩa của từ…. Do đó, trong giải kinh,

ý nghĩa không do độc giả xác định. Ý nghĩa là những gì tác giả chủ ý để truyền tải khi người đó

viết bản văn đó.

Điều mà độc giả đáp ứng với ý nghĩa được gọi là áp dụng. Một khi chúng ta nhận ra

được ý nghĩa trong bản văn mà Đức Chúa Trời muốn chuyển tải cho chúng ta, thì chúng ta phải

đáp ứng lại với ý nghĩa đó. Chúng ta dùng từ áp dụng để nói đến sự đáp ứng của độc giả với ý

nghĩa của bản văn. Do đó, sẽ không đúng nếu chúng ta hỏi trong khi học Kinh Thánh rằng:

“đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối với bạn?” Thay vào đó, chúng ta phải hỏi: “Đoạn Kinh

Thánh này có ý nghĩa gì? Bạn áp dụng ý nghĩa đó vào đời sống của bạn như thế nào?”

Đây là điều quan trọng chúng ta cần quan tâm. Ý nghĩa là điều không bàn cãi. Nó gắn

với bản văn với dự định của tác giả, không phải của độc giả. Do đó, ý nghĩa của bản văn là giống

nhau với mọi Cơ Đốc Nhân. Nó không chủ quan. Nó không thay đổi từ độc giả này đến độc giả

khác. Ngược lại, áp dụng phản ảnh ảnh hưởng của bản văn trên đời sống của độc giả. Nó có tính

chủ quan hơn và nó phản ảnh hoàn cảnh sống riêng của từng độc giả. Áp dụng ý nghĩa sẽ thay

đổi từ Cơ Đốc Nhân này sang Cơ Đốc Nhân khác, nhưng nó vẫn có giới hạn được ảnh hưởng bởi

ý nghĩa của tác giả (xem chương 3).

Làm sao những định nghĩa này thích hợp trong Hành Trình Giải Kinh mà chúng ta đã

thảo luận trong chương 1? Chúng ta hãy cùng ôn lại Hành Trình này trình bên dưới:

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối

với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh

Thánh với chúng ta?

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có nhưng nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày

nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Page 90: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

87

Trong Hành Trình Giải Kinh, cả hai bước 1&3 (nói về ý nghĩa cho độc giả thời Kinh

Thánh và nguyên tắc thần học) là phần của ý nghĩa của bản văn. Thông qua Kinh Thánh, Đức

Chúa Trời truyền thông cho dân sự của Ngài cả cho độc giả thời Kinh Thánh và nguyên tắc thần

học cho độc giả tương lai. Khi Đức Chúa Trời hướng dẫn các tác giả của Kinh Thánh để viết nên

những bản kinh văn thì Ngài cũng đã nghĩ về độc giả tương lai. Ví dụ khi Phao-lô viết lá thư của

mình cho người Rô-ma, thì chắc chắn Đức Thánh Linh cùng hành động với ông để cho lá thư

này có ý nghĩa cho các Cơ Đốc Nhân tương lai nữa. Chính Phao-lô, tác giả con người, có thể

nhận thức điều này nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời, tác giả thiêng liêng, cũng có thể nhận thức

điều này khi Ngài hướng dẫn Phao-lô viết lá thư này.

Do đó, cả những chi tiết riêng biệt của lá thư lẫn nguyên tắc thần học trong mỗi bản văn

đều do tác giả chủ định. Đây là ý nghĩa mà chúng ta cần tìm trong khi học Kinh Thánh. Sau khi

chúng ta nhận biết được ý nghĩa này, thì chúng ta có thể bắt đầu hỏi chúng ta nên làm gì với bản

văn này và từ đó bước vào phần áp dụng.

Xác Định Ý Nghĩa Chủ Định Của Tác Giả

Những giả định của chúng ta về chủ định tác giả sẽ ảnh hưởng đế cách học của chúng

ta. Hãy nhớ rằng ý nghĩa mà chúng ta định nghĩa là điều mà tác giả muốn chuyển tải bằng những

ký hiệu. Những ký hiệu mà chúng ta đang nói đến là những yếu tố ngôn ngữ - ngữ nghĩa, ngữ

pháp, ý nghĩa từ…. Tác giả dùng những ký hiệu này để truyền đạt thông điệp của Ngài cho

chúng ta. Mục đích của chúng ta là sử dụng những ký hiệu này như là công cụ để khám phá điều

mà tác giả muốn chuyển tải. Các bối cảnh, cả văn chương lẫn lịch sử - văn hóa, đều là những

công cụ hữu ích để khám phá ý nghĩa chủ định của tác giả.

Bạn cũng cần phải nhớ rằng bối cảnh xác định ý nghĩa chứ không phải chỉ là ngữ

pháp và định nghĩa của từ điển. Tức là bạn không thể đơn thuần tìm những từ trong từ điển và

ngữ pháp trong sách ngữ pháp và xác định ý nghĩa. Ý nghĩa gắn kết với người tạo ra ký hiệu và

với bối cảnh mà tác giả muốn tạo ra chúng trong đó. Giả dụ khi bạn hỏi một cậu bé năm tuổi có

gì dưới gầm xe. Cậu bé sẽ trả lời là có động cơ dưới gầm xe. Tuy nhiên, cầu ta không nhìn thấy

được động cơ là gì. Cậu bé có thể dùng từ này với ý là một cái gì đó lớn, ồn ào và một điều gì đó

kỳ diệu, bí ẩn mà làm cho chiếc xe có thể chạy được. Chúng ta không thể xác định ý nghĩa động

cơ trong đoạn hội thoại với cậu bé bằng cách tìm trong một từ điển. Tương tự, nếu chúng ta hỏi

một thợ máy cái gì ở dưới gầm xe, ông ta cũng sẽ nói “động cơ”, nhưng với một sự hiểu biết

khác hẳn em bé. Chúng ta sẽ hiểu sai hai người nếu chúng ta dùng định nghĩa của người thợ máy

về động cơ để giải nghĩa câu nói của em bé hay nếu chúng ta dùng định nghĩa động cơ của em bé

để hiểu được người thợ máy. Để hiểu đúng đắn, chúng ta cần phải hỏi ý của tác giả là gì khi dùng

từ đó.

Page 91: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

88

Tác giả không phải lúc nào cũng bày tỏ chính xác những gì họ muốn nói trong văn

chương. Ngôn ngữ có giới hạn của nó và một vài điều như cảm xúc chẳng hạn cũng khó chuyển

tải chính xác. Thật sự, hạn chế này tạo nên những tranh cãi về chủ định của tác giả. Tuy nhiên,

thực tế cho thấy rằng ngôn ngữ là phương tiện chính để chuyển tải ý niệm và cảm giác. Nó

không phải là phương tiện hoàn hảo nhưng hiệu quả trong việc chuyển tải ý nghĩa từ người này

đến người khác. Cả người nói lẫn người nghe (tác giả lẫn độc giả) thường nhận ra hạn chế của

ngôn ngữ và cả hai đều cố gắng vượt qua hạn chế này. Ngôn ngữ của chúng ta phức tạp đơn giản

vì chúng ta cần bày tỏ sự phong phú của những ý niệm phức tạp với nhau một cách rõ ràng nhất.

Chúng ta dùng ngữ pháp, ngữ nghĩa và ý nghĩa từ để chuyển tải cho những người khác những

điều chúng ta muốn chuyển tải. Chúng ta cũng dùng cách ngôn, thành ngữ, những câu trích dẫn

trực tiếp và hàng loạt những công cụ văn chương khác để chuyển tải ý nghĩa của mình.

Tác giả của Kinh Thánh (cả con người lẫn thiêng liêng) đều chuyển tải ý nghĩa của

mình qua ngôn ngữ thông thường. Tác giả sử dụng ngữ pháp, ngữ nghĩa, ý nghĩa từ, bối cảnh văn

chương, bối cảnh lịch sử và hàng loạt công cụ văn chương khác để chuyển tải thông điệp của

Đức Chúa Trời cho chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta dành nhiều thời gian trong Phần 1 để

nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học cách đọc cẩn thận, quan sát, quan sát và quan sát. Nếu ý

nghĩa nằm bên trong chúng ta – tức là chúng tạo ra ý nghĩa – thì việc học và đọc của chúng ta đủ

rồi. Tuy nhiên như chúng ta bàn luận ở trên, đây không phải là điều đúng. Ý nghĩa được chuyển

tải cho chúng ta qua bản văn.

Nói cách khác, Đức Chúa Trời hành động qua tác giả con người để chuyển tải ý nghĩa

của Ngài qua ngôn ngữ thông thường. Thỉnh thoảng ý nghĩa rõ ràng và đơn giản; nhưng có lúc

nó phức tạp. Chúng ta phải tìm kiếm nó với tấm lòng cầu nguyện vào bản văn và kiên nhẫn tìm

kiếm ý nghĩa mà Đức Chúa Trời đặt ở đó.

Kết Luận

Hướng của của chúng ta trong việc giải nghĩa Kinh Thánh tập trung vào chủ định của

tác giả hơn là đáp ứng của độc giả. Đức Chúa Trời chuyển tải thông điệp của Ngài qua Kinh

Thánh. Là độc giả, chúng ta không tạo nên ý nghĩa, nhưng chúng ta tìm ý nghĩa đã có sẵn trong

bản văn. Đó là lý do tại sao việc đọc cẩn thận, bối cảnh lịch sử, học từ, dịch và thể loại rất quan

trọng. Đó là những mục mà chúng ta phải nắm lấy để hiểu được ý nghĩa chủ định của tác giả.

Page 92: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

89

Chương 10

Mức Độ Ý Nghĩa

Lời Giới Thiệu

Kinh Thánh có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau sao? Tức là sau khi chúng ta đã tìm

được ý nghĩa bề mặt hay nghĩa đen, có những ý nghĩa thuộc linh sâu hơn nữa sao? Chương này

sẽ trả lời câu hỏi này. Đây không phải là vấn đề của các học giả nhưng mỗi Cơ Đốc Nhân đọc

Kinh Thánh để biết ý muốn của Chúa cho đời sống của mình sẽ gặp vấn đề này.

Hãy tưởng tượng một ngày bạn tham gia học Kinh Thánh với một nhóm sinh viên đại

học. Đây là lần đầu tiên bạn tham gia lớp học Kinh Thánh như thế này. Anh Hạnh, cao, đẹp trai

khởi đầu buổi học bằng lời cầu nguyện. Sau đó anh đọc đoạn Kinh Thánh trong Luca 15:8-10:

8 Hay là, có người đàn bà nào có mười đồng bạc, mất một đồng, mà không thắp đèn,

quét nhà, kiếm kỹ càng cho kỳ được sao? 9 Khi tìm được rồi, gọi bầu bạn và người lân

cận mình, mà rằng: Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được đồng bạc bị mất. 10 Ta nói

cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho

một kẻ có tội ăn năn.

Anh Hạnh tiếp “Bây giờ, bạn nghĩ đoạn Kinh Thánh này có nghĩa là gì? Đức Chúa

Trời muốn dạy chúng ta điều gì ở đây?”

Chị Quý phát biểu: “Mình không biết. Nhưng khi học đoạn Kinh Thánh này thì mình

thấy ngôi nhà trong những ngày đó có mái thấp và có ít cửa sổ. Do đó, khó tìm thứ gì trong đó.

Đó là lý do tại sao cô ta cần cái đèn”.

Anh Jet thì cho rằng: “Cô ta phải quét nhà vì nhà nhớp. Do đó, chúng ta có một căn

nhà tối tăm và nhớp nhúa. Căn nhà là thế gian. Ý của mình là khi chúng ta quay trở lại với thế

gian thì giống như đồng tiền đó…không thể thấy rõ được… bị mất trong bóng tối và nhớp

nhúa…không thể nhìn thấy Chúa Giê-xu. Vì vậy ngôi nhà chỉ về thế gian còn chúng ta là đồng

tiền khi chúng ta sa ngã. Dĩ nhiên Chúa Giê-xu là người đến tìm chúng ta và thấy chúng ta trong

bóng tối”. Bạn nghĩ anh Jet nói hay và đúng quá nên bạn gật đầu đồng ý.

Anh Hà phản đối: “Thế thì bạn nghĩ người phụ nữ đó là Chúa Giê-xu à? Mình không

thể nghĩ như vậy.

Jet trả lời: “Đó là một ẩn dụ. Vấn đề không phải là mô tả Chúa Giê-xu là phụ nữ”.

Page 93: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

90

Anh Thi Ô ng thì cho rằng: “Mình không thành vấn đề là Chúa Giê-xu là phụ nữ hay

không. Nhưng Jet à, Mình không cho rằng căn nhà chỉ về thế gian. Khi mình nghĩ về một nơi tối

tăm mà tại đó người ta lạc mất, thì mình nghĩ về hội thánh ngày nay. Ý của mình là chỉ nghĩ về

những hội thánh mà không thật sự theo Chúa Giê-xu và chỉ giảng tâm lý hay những thứ đại loại

như vậy. Nó giống như hội thánh trong sách Khải huyền mà Chúa Giê-xu gọi là hâm hẩm – một

hội thánh mà Ngài phải nhả ra. Hội Thánh thật sự cần ánh sáng của tin lành hôm nay. Và nhớ

rằng tất cả những hội thánh đầu tiên là hội thánh tư gia phải không? Họ gặp nhau ở nhà riêng

thay vì ở nhà thờ như chúng ta. Do đó, căn nhà có thể chỉ về hội thánh. Mình thấy có ý nghĩa đối

với mình”. Bạn thấy Thi Ông nói cũng có lý quá.

Quốc Anh hỏi: “Còn đồng tiền thì sao, Thi Ông?”

Thi Ô ng trả lời: “Có lẽ đồng tiền đại diện cho những hội thánh dường như bị lạc mất

giữa những hội thánh khác không biết phải làm gì tiếp theo. Ít nhất đó cũng có nghĩa với mình.”

Jet thêm vào: “Có lẽ người phụ nữ trong câu chuyện chỉ về vị mục sư chân thật của

một hội thánh thật. Ông ta đang cố gắng quét đi tất cả những giáo lý sai trật đang tấn công những

tín hữu thật.”

Hà thắc mắc: “Còn người phụ nữ thì sao?” Khi nãy nói là Chúa Giê-xu bây giờ lại nói

đến mục sư. Thế thì không được!”

Chị Quý cho ý kiến: “Mình chưa bao giờ nghĩ ngôi nhà là hội thánh. Nếu ngôi nhà là

tối tăm, bẩn thỉu thì có thể đó là tấm lòng của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta không phải sống

trong tối tăm và bẩn thỉu đó sao? Chúng ta nỗ lực đi theo Chúa Giê-xu nhưng chúng ta thất bại vì

tấm lòng của chúng ta chưa được rửa sạch. Dầu vậy Chúa Giê-xu đến và rửa sạch tấm lòng của

chúng ta như người phụ nữ trong câu chuyện này. Ngài quét hết tội lỗi ra khỏi đời sống của mình

và tha thứ cho chúng ta. Mình muốn nghĩ về Chúa Giê-xu giống như là một người quét sạch tấm

lòng của mình. Nhìn này, mình khám phá ra rằng ngày xưa trong Kinh Thánh cái chổi được làm

từ những cây rơm bó lại với nhau. Các bạn biết không, giống như một cọng rơm không thể làm

gì được nhưng khi chúng được bó lại với nhau thì thật sự rất chắc. Cái chổi được ví như Kinh

Thánh. Ý mình nói là giống như Chúa Giê-xu quét sạch trong tấm lòng của mình, phải không?

Ngài dùng gì để tẩy sạch chúng ta? Kinh Thánh phải không? Kinh Thánh cũng được hình thành

từ nhiều sách khác nhau, sáu mươi sáu sách. Rồi chúng được bó lại với nhau để chúng chắc chắn.

Chúa Giê-xu tẩy sạch tấm lòng của chúng ta bằng Kinh thánh.. Tuyệt vời nhỉ?”

Bạn thấy chị Quý cung cấp cho bạn những kiến thức sâu sắc không? Bạn có muốn

thấy một điều gì đó thật sự sâu sắc và thiêng liêng không? Bạn đọc trong Kinh Thánh nhưng

chẳng thấy điều gì sâu sắc và thiêng liêng về ngôi nhà hay người phụ nữ hay đồng tiền. Bạn thấy

mình bối rối. Phải chăng ngôi nhà chỉ về tất cả những thứ đó không? Nó có thể là thế gian, hội

thánh sa ngã hay tấm lòng của chúng ta chăng? Bạn tự hỏi cái nào trong số ý nghĩa này Chúa

Page 94: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

91

Giê-xu đang chủ ý muốn nói đến. Bạn có nên chọn một trong số những ý nghĩa này chăng? Bạn

nghĩ rằng chị Quý nói có nhiều ý nghĩa. Bạn đang cố gắng nhớ lại cái nào là của chị.

Thiêng Liêng Hóa

Bạn có thấy tính vỏ đoán trong việc giải kinh khác nhau trong câu chuyện trên không?

Những thành viên trong nhóm học Kinh Thánh cảm thấy tự do phát triển bất cứ ý nghĩa nào mà

họ khám phá. Không có ai quan tâm đến việc xác định ý nghĩa mà Chúa Giê-xu muốn nói đến

khi Ngài phán những lời này hay Lu-ca chủ ý khi ông viết đoạn này dưới sự hướng dẫn của Chúa

Thánh Linh.

Hơn nữa, chẳng ai trong nhóm để ý đến bối cảnh của câu chuyện. Ví dụ câu chuyện

trước đó nói về ẩn dụ của người chăn chiên mất một con chiên. Ông để chín mươi chín con kia ở

lại và đi tìm cho đến kỳ được con chiên bị mất. Khi tìm được rồi ông vui mừng vác nó trên vai.

Phân đoạn tiếp sau đó là ẩn dụ về đứa con lạc mất và người cha vui mừng khi đứa con lạc mất

trở về. Thật sự cả ba câu chuyện này đi với nhau và chúng cùng nói về niềm vui của Đức Chúa

Trời khi một người lạc mất trở về với đức tin và được cứu. Chúng cũng nhấn mạnh đến mối quan

tâm của Đức Chúa Trời trên những điều đã mất và cho thấy nỗ lực tìm và phục hồi những gì đã

mất. Thật sự câu cuối trong câu chuyện về người phụ nữ và đồng tiền nó rõ rằng: “Ta nói cùng

các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn

năn”.

Do đó, Chúa Giê-xu không dùng ngôi nhà để chỉ về bất cứ điều gì riêng biệt trong đời

sống của chúng ta. Ngài đơn giản chỉ làm phép so sánh. Người phụ nữ cố tìm đồng tiền vì đồng

tiền quan trọng với bà. Đức Chúa Trời cũng cảm thấy giống như vậy. Người phụ nữ nỗ lực để

tìm đồng tiền. Cũng vậy, Đức Chúa Trời cũng nỗ lực để đem bạn và tôi vào vương quốc của

Ngài. Cuối cùng, bà vui mừng sau khi tìm được đồng tiền. Đức Chúa Trời cũng vui mừng sau

khi Ngài “gặp” và phục hồi chúng ta. Đây dường như là ý nghĩa chủ ý của tác giả. Hãy nhớ

những bài học trong chương trước. Chúng ta không tìm cách tạo ra ý nghĩa, nhưng chúng ta tìm

cách để khám phá ý nghĩa đã có sẵn trong đó.

Tuy nhiên những sinh viên này bỏ qua ý nghĩa rõ ràng của bản văn này vì họ muốn

khám phá một ý nghĩa sâu,”thuộc linh”. Mong muốn tìm ý nghĩa sâu hơn khiến họ bỏ qua ý

nghĩa thật mà Lu-ca (và Đức Thánh Linh) chủ ý. Do đó, khi tìm ý nghĩa thuộc linh, họ đánh mất

những gì Đức Thánh Linh đang phán thông qua bản văn! Đấng Christ tìm những người lạc mất

và vui mừng khi Ngài tìm được họ. Đây là ý nghĩa thuộc linh. Tuy nhiên, ý nghĩa này được

truyền đạt qua những công cụ văn chương thông thường (ngữ pháp, bối cảnh…). Ý nghĩa đó

không phải được tạo ra qua sự tưởng tượng của con người. Kinh Thánh là quyển sách thuộc linh

liên quan đến những vấn đề thuộc linh. Chúng ta không cần phải thuộc linh hóa nó bằng trí tưởng

tượng của mình.

Page 95: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

92

Hơn nữa, khi chúng ta cố gắng tìm một ý nghĩa sâu hơn, “siêu thuộc linh”, chúng ta

thường thấy mình đang đi theo hướng phản ứng của độc giả. Tức là độc giả là người xác định ý

nghĩa hơn là bản văn. Vì quá mong muốn tìm ý nghĩa siêu thuộc linh, chúng ta thường đánh mất

hoàn toàn thông điệp mà Đức Chúa Trời đã chủ ý cho chúng ta.

Thông thường khi thảo luận về giải kinh, có một lưỡng phân giữa nghĩa đen và nghĩa

thiêng liêng. Thỉnh thoảng, độc giả được khuyên là nên tìm nghĩa đen chứ không phải nghĩa

thiêng liêng. Chúng ta thường không thấy thỏa mái với lưỡng phân này. Thật sự, chúng ta nghĩ

rằng từ nghĩa đen (literal) làm cho mình nhầm lẫn hơn là làm rõ. Nhiều người dùng từ giải nghĩa

theo nghĩa đen để nhấn mạnh rằng họ tin những chi tiết lịch sử thật sự của Kinh Thánh, đặc biệt

là các phép lạ. Chúng ta dĩ nhiên khẳng định tính lịch sử của Kinh Thánh, gồm những phép lạ.

Nhưng chúng tôi nghĩ rằng từ nghĩa đen hơi mù mờ. Như chúng ta đã đề cập ở trên, Kinh Thánh

đầy những cách ngôn và ngôn ngữ hình bóng. Việc xác định ý nghĩa phải đặc biệt được chú ý.

Những hình ảnh, biểu tượng phản ánh một cách dùng ngôn ngữ phi nghĩa đen.

Dầu vậy, chúng tôi vẫn thích dùng từ ý nghĩa đen. Nghĩa đen nói đến ý nghĩa mà tác

giả đã đặt trong bản văn. Nó phản ánh loại văn chương được dùng, bối cảnh lịch sử, ngữ pháp, ý

nghĩa từ - căn bản là mọi thứ chúng ta đã học. Nghĩa đen này không thay thế nghĩa thiêng liêng.

Vì Kinh Thánh căn bản là về Đức Chúa Trời và mối quan hệ của Ngài với chúng ta, nên nghĩa

đen này cũng sẽ mang một nghĩa thiêng liêng nữa. Nói cách khác, lưỡng phân này không phải

giữa nghĩa đen và nghĩa thiêng liêng. Lưỡng phân là giữa ý nghĩa mà tác giả chủ ý với ý nghĩa

một độc giả đặt vào bản văn. “Thiêng liêng hóa” dựa trên độc giả này là một sự nguy hiểm. Việc

“thiêng liêng hóa” như vậy xảy ra khi chúng ta “khám phá” những ý nghĩa sâu, bí mật mà tác giả

không bao giờ chủ ý. Loại “thiêng liêng hóa” này không dựa trên bản văn hay Thánh Linh của

Đức Chúa Trời. Đó là sản phẩm của trí tưởng tượng của chúng ta. Do đó, câu hỏi đặt ra là phải

chăng chúng ta tìm ý nghĩa đen do tác giả chủ ý và được linh cảm bởi Đức Thánh Linh hay là ý

nghĩa do trí tưởng tượng của con người tạo ra.

Phúng Dụ

Thảo luận về sự khác nhau giữa ý nghĩa “thiêng liêng” và nghĩa đen quay lại vài thế

kỷ đầu sau Đấng Christ. Nhiều học giả Cơ Đốc đầu tiên cảm thấy rằng Cựu Ước chỉ thích hợp

nếu nó nói trực tiếp về Đấng Christ. Do đó, họ phát triển một hệ thống giải nghĩa công nhận

nghĩa đen của bản văn, nhưng khuyến khích người giải kinh tìm ý nghĩa thuộc linh sâu hơn, đầy

đủ hơn và thiêng liêng hơn bên dưới bề mặt của bản văn. Thực tế, một số học giả ủng hộ hệ

thống hai-cấp độ (đen và thiêng liêng), trong khi những người khác mở rộng nó vào hệ thống

nhiều-cấp độ - có thể là ba (ứng với thân thể, linh hồn và tâm linh) hay bốn (nghĩa đen, nghĩa

bóng, đạo đức và tương đương).

Ví dụ, hệ thống bốn chiều sẽ thấy bốn mức độ ý nghĩa cho thành Giê-ru-sa-lem: (1)

đen: dân Y-sơ-ra-ên / Giê-bu-sít thật sự; (2) bóng: Hội thánh của Đấng Christ; (3) đạo đức: linh

Page 96: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

93

hồn của một con người; và (4) tương đương: thành phố trên trời của Đức Chúa Trời. Vào thế kỷ

thứ tư, hướng giải kinh này rất phổ biến giữa vòng nhiều học giả của Hội Thánh. Giải nghĩa theo

nghĩa bóng trở nên cách bình thường đển đọc Cựu Ước. Phong cách giải kinh này cũng tồn tại

cho đến thời Cải Chánh (thế kỷ thứ mười sáu) khi những nhà cải chánh (chủ yếu là Calvin và

Luther) dẫn Hội Thánh Tin Lành ra khỏi hướng nghĩa bóng.

Mặc dù những nhà cải chính thỉnh thoảng cũng dùng giải nghĩa theo nghĩa bóng, nói

chung họ dẫn Hội Thánh trở lại với bối cảnh văn chương của Kinh Thánh để xác định ý nghĩa.

Các học giả tin lành hiện nay cũng đã tiếp bước các nhà cải cách và nỗ lực cảnh báo hội thánh

chống lại cách giải nghĩa theo nghĩa bóng. Đây là cách giải nghĩa dựa vào trí tưởng tượng mình

nhiều hơn là dựa trên bản văn. Dầu vậy, giải kinh theo nghĩa bóng vẫn được một số diễn giả nổi

tiếng sử dụng trong suốt thế kỷ thứ hai mươi với nhiều hình thức khác nhau. Một khi tác giả

không thể điều khiển được ý nghĩa nữa, nhiều độc giả sẽ tự động thiêng liêng hóa bản văn lên

theo trí tưởng tượng theo nghĩa bóng của mình.

Phúng dụ có nghĩa là gì? Một phúng dụ là một câu chuyện dùng một số biểu tượng.

Nó tương tự như một ẩn dụ nhưng nhìn chung có một mức độ tương xứng cao hơn – tức là hầu

hết, hay nhiều chi tiết trong câu chuyện đại diện cho một điều gì đó hay mang một sắc thái ý

nghĩa riêng biệt nào đó. Phúng dụ là một thuật văn chương. Thỉnh thoảng nguyên một sách dùng

thuật phúng dụ để chuyển tải sứ điệp của nó. Thiên Lộ Lịch Trình là một sách như vậy. Do đó,

khi một người đọc Thiên Lộ Lịch Trình thì phải đọc nó theo cách phúng dụ chứ không phải như

lịch sử hay tiểu thuyết lịch sử.

Kinh Thánh thỉnh thoảng cũng dùng phúng dụ. Ê -sai 5:1-7 là một phúng dụ. Hãy đọc

phân đoạn này và để ý đến cách dùng phúng dụ:

1 Ta sẽ hát cho bạn rất yêu dấu ta một bài ca của bạn yêu dấu ta về việc vườn nho

người. Bạn rất yêu dấu ta có một vườn nho ở trên gò đất tốt. 2 Người khai phá ra; cất

bỏ những đá; trồng những gốc nho xinh tốt; dựng một cái tháp giữa vườn, và đào một

nơi ép rượu. Vả, người mong rằng sẽ sanh trái nho; nhưng nó lại sanh trái nho hoang. 3

Hỡi dân ở Giê-ru-sa-lem cùng người Giu-đa, vậy thì bây giờ ta xin các ngươi hãy đoán

xét giữa ta với vườn nho ta. 4 Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm

cho nó chăng? Cớ sao khi ta mong sanh trái nho, thì nó lại sanh trái nho hoang vậy? 5

Nầy, ta sẽ bảo các ngươi về điều ta định làm cho vườn nho ta: Ta phá rào, nó sẽ bị cắn

nuốt; ta hạ tường xuống, nó sẽ bị giày đạp. 6 Ta sẽ để nó hoang loạn, chẳng tỉa sửa,

chẳng vun xới; nhưng tại đó sẽ mọc lên những gai gốc và chà chuôm; ta lại truyền cho

mây đừng làm mưa xuống trên nó nữa. 7 Vả, vườn nho của Đức Giê-hô-va vạn quân,

ấy là nhà Y-sơ-ra-ên, và những người của Giu-đa tức là cây mà Ngài ưa thích. Ngài

trông họ được công chánh, mà nầy, có sự bạo ngược; trông được công bình, mà nầy, có

tiếng kêu la.

Page 97: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

94

Ê -sai giảng sứ điệp này cho dân Y-sơ-ra-ên để cảnh cáo họ rằng Đức Chúa Trời sẽ

đoán phạt họ vì thiếu công bằng và công bình. Ê -sai sử dụng một ẩn dụ với nhiều yếu tố tương

xứng. Trong câu 7, chính Ê -sai nhận diện ý nghĩa của phúng dụ và cho chúng biết yếu tố tương

ứng là gì. Đức Chúa Trời là chủ của vườn nho. Dân Y-sơ-ra-ên là vườn nho. Trái nho tốt. Những

trái nho tốt mà người chủ cố tìm nhưng không thấy là sự công bằng.

Do đó, phúng dụ không phải là điều xấu; nó chỉ là một công cụ văn chương khác

thỉnh thoảng được dùng trong Kinh Thánh để chuyển tải một sứ điệp theo một cách sặc sỡ hơn.

Dầu vậy, giải kinh theo phúng dụ là một phương pháp giải nghĩa hoàn toàn khác với phúng dụ và

nó sẽ dẫn chúng ta đi sai lệch hoàn toàn nếu chúng ta dùng nó để giải nghĩa một phân đoạn

không phải là phúng dụ. Một vài phân đoạn Kinh Thánh là phúng dụ. Do đó, bạn sẽ tìm được vài

cơ hội để sử dụng nó. Đừng dùng nó với chỉ Cựu Ước! Đừng có thói quen “thuộc linh hóa” Cựu

Ước thông qua giải nghĩa theo nghĩa bóng. Luôn giữ ý nghĩa của bạn gắn liền với bối cảnh văn

chương và lịch sử-văn hóa. Dùng Hành Trình Giải Kinh để tìm đến ý nghĩa và áp dụng, không

phải đi theo hướng nghĩa bóng tưởng tượng.

Có lẽ vài minh họa về giải kinh theo nghĩa phúng dụ (nghĩa bóng) không thích hợp

sau đây sẽ giúp ích cho bạn.

Martin DeHaan đã giải nghĩa Sáng-thế Ký 2:18-25 như sau:

18 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ

làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó. 19 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên

các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt A-đam đặng thử xem người

đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên

riêng cho nó. 20 A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú

đồng; nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết.

21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp

thịt thế vào. 22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam làm nên

một người nữ, đưa đến cùng A-đam. 23 A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi

xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người

nam mà có. 24 Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình,

và cả hai sẽ trở nên một thịt. 25 Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ

thẹn.

DeHaan đã giải nghĩa bóng (phúng dụ) như sau:

Trong khi A-đam ngủ, Đức Chúa Trời tạo một người vợ từ hông bị thương của ông.

Người này là phần của ông và ông phải trả giá là đổ huyết của mình để có được Ê-va….

Bây giờ, mọi thứ đều rõ ràng. A-đam là bức tranh về Chúa Giê-xu, đấng đã lìa nhà Cha

mình để sở hữu nàng dâu của Ngài bằng cái giá là chính sự sống của Ngài. Chúa Giê-

Page 98: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

95

xu, A-đam cuối cùng, giống như người đầu tiên phải ngủ để mua nàng dâu của mình là

Hội Thánh. Rồi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá và ngủ trong phần mộ ba ngày ba

đêm, hông Ngài cũng mở ra sau khi Ngài ngủ và từ hông bị thương đó sự cứu chuộc đã

tuôn chảy.

DeHaan khá tưởng tượng khi liên hệ giữa phân đoạn này và cái chết của Đấng Christ.

Dầu DeHaan cố gắng đặt Chúa Giê-xu là trọng tâm của bài giảng của mình nhưng ông phải trả

giá là ông đánh mất ý nghĩa của đoạn Kinh thánh đó.

Trong tiến trình phúng dụ hóa (nghĩa bóng), sứ điệp thật sự của nó đã bị để lại phía

sau. Đoạn Kinh Thánh này là về Đức Chúa Trời ban đầu tạo một người phối ngẫu cho người đàn

ông cô đơn. Sứ điệp của tác giả cho dân Y-sơ-ra-ên là về món quà hôn nhân tuyệt diệu từ Đức

Chúa Trời. Vì dân Y-sơ-ra-ên sống trong một văn hóa mà đa thê là điều bình thường và người

phụ nữ không được đánh giá như một người phối ngẫu đúng nghĩa, nên sứ điệp về dự định của

Đức Chúa Trời ban đầu cho hôn nhân là để dạy dân Y-sơ-ra-ên về tiêu chuẩn hôn nhân của Đức

Chúa Trời. Sứ điệp đó phải được giảng vì đó vẫn là tin mừng cho người nam và nữ ngày hôm

nay. Nó cũng được Chúa Giê-xu khuyến khích khi Ngài dạy dựa trên phân đoạn này: “Cho nên,

loài người không được phân rẽ người mà Đức Chúa Trời đã kết hiệp” (Mác 10:9).

Do đó, vì cố tìm một ý nghĩa sâu và “thuộc linh” trong Sáng Thế Ký 2 nên DeHaan

đã bỏ qua bối cảnh của đoạn này và đánh mất một lời dạy quan trọng về hôn nhân. Sứ điệp của

Đức Chúa Trời cho chúng ta về hôn nhân là môt sứ điệp thiêng liêng, và chúng ta không cần phải

tìm những liên kết trong trí tưởng tượng của chúng ta với sự chết của Đấng Christ để làm cho

phân đoạn này thích hợp. Mọi điều DeHaan nói về tầm quan trọng của Đấng Christ và sự chết

của Ngài là đúng. Đấng Christ đã chết vì nàng dâu của Ngài, là Hội Thánh và sự cứu chuộc chảy

ra từ hông Ngài. Tuy nhiên chỉ vì một người hiểu tầm quan trọng về sự chết của Đấng Christ

không có nghĩa là người đó hiểu được Sáng Thế Ký 2. Chúng ta không định giá giải nghĩa của

Sáng Thế Ký 2 chỉ dựa trên căn bản của thần học Tân Ước đúng đắn. Chúng ta định giá nó trên

căn bản phải chăng chúng ta có bằng chứng rằng đó là là ý nghĩa chủ ý mà Đức Thánh Linh đã

đặt trong phân đoạn đó. “Chúa Giê-xu đã chết trên thập tự giá để cứu tội nhân giống như tôi” là

một lẽ thật Thánh kinh quan trọng. Nhưng không phải tất cả đoạn Kinh thánh Cựu Ước đều nói

về điều đó.

Hình Bóng

Nhiều đoạn trong Cựu Ước mô tả những thứ hình bóng cho những gì Đấng Christ

ứng nghiệm. Ví dụ cả hệ thống tế lễ của dân Y-sơ-ra-ên là hình bóng về của tế lễ của Đấng

Christ. Như sách Hê-bơ-rơ cho chúng ta biết, Đấng Christ là của lễ tối cao, loại bỏ vĩnh viễn nhu

cầu cho bất cứ của lễ nào khác. Tuy nhiên, để thấy được hệ thống tế lễ trong Cựu Ước tổng thể là

một hình bóng về của tế lễ của Đấng Christ khác xa với việc giải nghĩa mọi khía cạnh của hệ

thống tế lễ theo nghĩa bóng. Hệ thống tế lễ liên quan đến bồ câu, dê, bò, lúa mì, tro, khói, lửa,

dao và nhiều thứ khác. Giải nghĩa theo nghĩa bóng (phúng dụ) trình bày tầm quan trọng của

Page 99: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

96

Đấng Christ trên từng chi tiết một. Ngược lại ý niệm về hình bóng nó đến sự liên kết tổng thể

(cái chết, huyết, không vít…) và không giải thích từng chi tiết một.

Hơn nữa, hầu hết các hình bóng về Đấng Christ được nhận thấy trong Tân Ước. Do

đó, chúng ta cần dựa vào sự hướng dẫn của Tân Ước để giúp chúng ta nhận ra được phải chăng

một đoạn Kinh Thánh là hình bóng về Đấng Christ hay không. Chúng ta đang nỗ lực để xác định

được ý nghĩa mà Chúa đã đặt trong phân đoạn Kinh Thánh. Chúng ta không được tìm cách tạo ra

ý nghĩa cũng không nên cố gắng tìm những nối kết ẩn mà chưa có ai từng nhìn thấy trước đó. Do

đó, chúng tôi khuyên bạn nên dùng Tân ước như là một kim chỉ nam để xác định được những

phân đoạn hình bóng trong Cựu Ước. Đừng gắng ép Đấng Christ vào từng phân đoạn như những

nhà giải kinh phúng dụ làm.

Do đó, chúng ta xem thể hình bóng có tính chất tiên tri – một sự kiện hay con người

lịch sử trong Cựu Ước phục vụ như là một hình ảnh tiên tri của một sự kiện hay con người trong

Tân ước. Dầu vậy, điều quan trọng là ý nghĩa tiên tri này phải là một ý nghĩa được tác giả thiêng

thượng chủ ý. Do đó, sự nhận diện phải nằm trong Kinh Thánh, không phải chỉ tưởng tượng của

chúng ta. Hơn nữa, chúng tôi không cho rằng tác giả con người luôn luôn nhận thức về sự ứng

nghiệm hoàn toàn sẽ đến mặc dù chúng ta công nhận rằng có nhiều bất đồng giữa các học giả ở

điểm này.

Thi thiên 22 cung cấp cho chúng ta một ví dụ về hình bóng rất hay. Dầu Đa-vít viết

Thi thiên này khoảng một nghìn năm trước sự đến của Đấng Christ, nhưng để ý sự tương xứng

giữa những câu được chọn bên dưới và sự đau khổ của Đấng Christ trên thập tự giá.

1 Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài

đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi? 7 Hễ kẻ nào thấy tôi đều

nhạo cười tôi. Trề môi, lắc đầu, mà rằng: 8 Người phú thác mình cho Đức Giê-hô-va,

Ngài khá giải cứu người; Ngài khá giải cứu người, vì Ngài yêu mến người! 9 Phải, ấy

là Chúa rút tôi khỏi lòng mẹ, Khiến tôi tin cậy khi nằm trên vú của mẹ tôi. 10 Từ trong

tử cung tôi đã được giao cho Chúa; Chúa là Đức Chúa Trời tôi từ khi tôi lọt lòng mẹ.

11 Xin chớ đứng xa tôi, vì sự gian truân hầu gần, Chẳng có ai tiếp cứu cho. 12 Có

nhiều bò đực bao quanh tôi, Những bò đực hung mạnh của Ba-san vây phủ tôi. 13

Chúng nó hả miệng ra cùng tôi, Khác nào sư tử hay cắn xé và gầm hét. 14 Tôi bị đổ ra

như nước, Các xương cốt tôi đều rời rã; Trái tim tôi như sáp, Tan ra trong mình tôi. 15

Sức lực tôi khô như miếng gốm, Và lưỡi tôi dính nơi ổ gà; Chúa đã để tôi nằm trong

bụi tro sự chết. 16 Vì những chó bao quanh tôi, Một lũ hung ác vây phủ tôi; Chúng nó

đâm lủng tay và chân tôi; 17 Tôi đếm được các xương tôi. Chúng nó xem và ngó chân

tôi; 18 Chúng nó chia nhau áo xống tôi, Bắt thăm về áo dài tôi.

Page 100: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

97

Đa-vít rõ ràng viết thi thiên này trong một thời điểm đau khổ của cuộc đời ông.

Chúng ta không nghĩ rằng Đa-vít có thật sự nhìn thấy được sự đóng đinh của Đấng Christ trong

tương lai. Chúng ta tin rằng Đức Thánh Linh hướng dẫn ông trong việc chọn lời khi ông viết thi

thiên đau khổ này. Đa-vít dùng cách ngôn (trong bản Hê-bơ-rơ) để mô tả sự đau khổ thể xác của

mình. Do đó, lời mô tả của ông trong Thi thiên 22 là môt bức tranh trừu tượng về một thời kỳ

đau khổ thật sự trong đời sống của ông. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu mang nhiều khía cạnh của thi

thiên này trên thập tự giá. Hơn nữa trong trường hợp của Ngài, ngôn ngữ có khuynh hướng mô

tả sự đau khổ của Ngài theo nghĩa đen hơn là nghĩa bóng.

Chúng ta thấy những yếu tố tiên tri rõ ràng trong Thi thiên 22 liên quan đến thập tự

giá. Sự đau khổ của Đa-vít trong thi thiên này là loại hình đau khổ của Đấng Christ trên thập tự

giá. Sự mô tả bóng về sự đau khổ của Đa-vít tìm được sự ứng nghiệm thật trong sự đau khổ của

Đấng Christ. Dĩ nhiên, điều xác quyết cho liên kết hình bóng này là việc Chúa Giê-xu trích Thi

thiên 22 trên thập tự giá (Mat. 27:46; Mác 15:34) và Giăng nói rõ rằng khi những người lính La-

mã bốc thăm áo của Chúa Giê-xu, họ làm ứng nghiệm Thi thiên 22:18. Do đó, Tân ước hướng

dẫn chúng ta đến sự thật rằng Thi thiên 22 được ứng nghiệm trong sự chết của Đấng Christ. Vì

nó cũng áp dụng cho hoàn cảnh lịch sử trong cuộc đời Đa-vít nên chúng ta phân loại thi thiên

này thuộc dạng hình bóng.

Theo ý của chúng tôi, một đoạn Kinh Thánh Cựu ước thường không thể được xác

nhận là hình bóng nếu Tân ước không nhận nó là như vậy. Do đó, trong khi những phân đoạn

Cựu ước khác có thể mang vài điểm tương tự với thực tế Tân ước nhưng chúng không thể được

xếp vào lọai hình bóng nếu Tân Ước không xác định ứng nghiệm của nó.

Kết Luận

Chúng ta hãy cùng trở lại với câu hỏi ban đầu: “Kinh Thánh có nhiều mức độ ý nghĩa

khác nhau không?” Chúng tôi tin là không có. Có một mức độ ý nghĩa – một ý nghĩa gắn kết với

bối cảnh lịch sử-văn hóa và văn chương. Ý nghĩa này bao gồm ý nghĩa của nó cho độc giả Kinh

thánh và những nguyên tắc thần học đằng sau ý nghĩa đó. Có thể có những khía cạnh khác nhau

của một bản văn và ngay cả nhiều nguyên tắc đằng sau những khía cạnh đó. Nhưng không có

những ý nghĩa sâu, “thuộc linh” được giấu kín trong bản văn mà không liên hệ với bối cảnh lịch

sử-văn hóa và văn chương.

Hình bóng là một hình thức duy nhất được ngoại lệ. Tuy nhiên, mặc dầu chúng ta

khẳng định khía cạnh tiên tri của thể hình bóng, chúng tôi không tin thể hình bóng mở cửa cho

việc tạo nên những mức độ ý nghĩa khác, phi lịch sử và “thuộc linh”. Hơn nữa hình bóng trong

Cựu ước bị giới hạn với những điều được nhận thấy trong Tân ước. Nó không phải là một điều gì

có thể tìm thấy hay tạo ra bằng sự thông minh của mình. Tương tự, giải kinh theo nghĩa bóng hay

phúng dụ không phải là cách tốt.

Page 101: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

98

Chúng tôi muốn khuyến khích bạn trong chương này nên tránh cám dỗ của việc

thiêng liêng hóa hay phúng dụ hóa. Cố tìm ý nghĩa trong bối cảnh văn chương và lịch sử của

phân đoạn Kinh thánh đó. Dùng Hành Trình Giải Kinh để giải nghĩa Kinh Thánh. Trong suốt

khóa học này, chúng tôi sẽ cố hết sức giúp cho các bạn những kỹ năng để đào sâu Kinh Thánh –

những kỹ năng sẽ giúp bạn năm lấy được Lời của Đức Chúa Trời cho cuộc đời của bạn. Chúng

tôi muốn bạn tìm thấy ý nghĩa thuộc linh, nhưng ý nghĩa thuộc linh đó phải nằm trong bản văn,

không phải ý nghĩa mà con người đặt vào trong bản văn.

Vai trò của Đức Thánh Linh trong tất cả điều này là gì? Đức Thánh Linh có thể dẫn

chúng ta vào một ý nghĩa sâu hơn và thiêng liêng hơn ở bên ngoài bản văn không? Chương tiếp

theo sẽ giúp giải đáp những thắc mắc trên.

Page 102: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

99

Chương 11

Vai Trò Của Đức Thánh Linh

Lời Giới Thiệu

Bạn đã từng chơi một loại nhạc cụ nào chưa – piano, kèn, hay ghi ta? Học chơi một

nhạc cụ phải tốn nhiều thời gian để nắm bắt được những căn bản. Bạn học những nốt đang nằm ở

đâu và làm sao chơi chúng cho chính xác. Bạn tập luyện nhiều lần cho đến khi bạn nắm được nó.

Khi chơi piano, thực tập với cây đàn nhiều sẽ giúp bạn thành thạo hơn là chỉ ngồi đọc bản nhạc

hay vị trí tay. Đến một lúc, bạn không còn quan tâm đến vị trí tay nữa nhưng nó là điều tự nhiên

và giai điệu bắt đầu cất cao với dòng cảm hứng dạt dào. Tương tự như vậy, khi chúng ta nói về

vai trò của Đức Thánh Linh trong việc giải kinh, chúng ta chuyển từ việc phụ thuộc vào kỹ thuật

và máy móc để đến bản chất linh hoạt của một mối quan hệ. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lời

của Ngài để tương giao với chúng ta; Ngài ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài để giúp chúng

ta hiểu được những gì Ngài phán.

Mục đích của chúng tôi trong sách này là để giúp bạn biết cách khám phá ý nghĩa của

bản kinh văn và áp dụng ý nghĩa đó vào đời sống của bạn. Chúng ta đã dành nhiều thời gian nói

về phương pháp, bước đi, tiến trình và những điều tương tự. Chúng tôi cũng khuyến khích bạn

phân tích từ, câu, phân đoạn và đoạn. Chúng tôi nhấn mạnh việc suy nghĩ, đào và tìm. Một số

bạn có lẽ sẽ hỏi: “Đó là tất cả của việc học Kinh Thánh sao? Mối quan hệ của tôi với Kinh Thánh

được rút ngắn lại bằng những bước giải kinh thế này sao?” Chúa Giê-xu trong Giăng 16:13 phán

rằng Đức Thánh Linh sẽ “dẫn ngươi vào mọi lẽ thật”. Một câu hỏi khác là: “Nếu chúng ta có

Đức Thánh Linh thì tại sao chúng ta cần những tiến trình giải kinh?” Vậy thì, vai trò của Đức

Thánh Linh trong việc giải kinh là gì? Đây là điều mà chương này sẽ trình bày.

Đức Thánh Linh là Tác Giả Thiêng Liêng

Như đã đề cập trong chương 10, khi chúng ta nói về tác giả của Kinh Thánh, chúng ta

nói về cả tác giả con người và Tác giả thiêng liêng. Từ linh cảm nói đến công việc của Đức

Thánh Linh trong đời sống của những tác giả con người của Kinh Thánh nhờ đó mà họ viết theo

điều Đức Chúa Trời muốn họ chuyển tải (tức là Lời của Đức Chúa Trời). Trong II Ti-mô-thê

3:16-17, sứ đồ Phao-lô nói rằng “cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự

dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị và dạy người trong sự công bình hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời

được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” Thánh Linh của Đức Chúa Trời hà tính cách

của Đức Chúa Trời vào Kinh Thánh.

Page 103: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

100

Từ “linh cảm” (theopneustos) trong tiếng Hy-lạp có liên hệ tới “linh” (pneuma). Kinh

Thánh có uy quyền và năng lực để uốn nắn đời sống của chúng ta vì nó đến từ chính Đức Chúa

Trời. Chúng ta nắm lấy uy quyền của Kinh Thánh vì nó được linh cảm. Câu nói của Phao-lô

trong II Ti-mô-thê cũng nhắc chúng ta rằng Đức Thánh Linh và Kinh Thánh đi với nhau – Lời

của Đức Chúa Trời xuất phát từ Thánh Linh của Đức Chúa Trời.

Công việc mặc khải của Đức Thánh Linh đã hoàn tất nhưng công việc giúp tín hữu

hiểu và nhận lãnh lẽ thật của Kinh Thánh của Ngài vẫn còn tiếp diễn. Các nhà thần học dùng từ

soi sáng để nói đến công việc tiếp diễn này của Đức Thánh Linh. Vào đêm trước khi Chúa chịu

đóng đinh, Ngài hứa với những người theo Ngài rằng Đức Thánh Linh sẽ hướng dẫn họ vào mọi

lẽ thật:

12 Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao

quá sức các ngươi. 13 Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ

thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các

ngươi những sự sẽ đến. 14 Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều

thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi. (Giăng 16:12-14).

Chú ý đến cách Chúa Giê-xu nhấn mạnh rằng công việc của Chúa Thánh Linh có liên

hệ trực tiếp đến lời dạy của Chúa Giê-xu (tức là Lời của Đức Chúa Trời),

Vì công việc linh cảm và soi dẫn của Đức Thánh Linh, chúng ta biết rằng Đức Thánh

Linh và Lời cùng hành động với nhau và không bao giờ tách rời nhau. Vì Đức Thánh Linh linh

cảm Kinh Thánh trong lần đầu nên chúng ta sẽ không sợ Ngài mâu thuẩn chính Ngài trong sự soi

dẫn. Điều này có nghĩa là chúng ta không được phép để kinh nghiệm cá nhân, truyền thống tôn

giáo hay cảm nhận cộng đồng đứng trên Lời được linh cảm của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh

không thêm ý nghĩa mới vào bản kinh văn nhưng Ngài giúp đỡ người tin hiểu và áp dụng ý nghĩa

mà Ngài đã đặt ở trong đó.

Chúng Ta Có Thể Hiểu Được Lời Của Đức Chúa Trời Mà Không Cần Đức Thánh Linh

Không?

Nhìn vai trò của Đức Thánh Linh trong việc giải kinh gợi lên thắc mắc rằng con

người có thể hiểu được lời của Đức Chúa Trời mà không cần đến Đức Thánh Linh được chăng?

Chúng ta có thể trả lời câu hỏi quan trọng này bằng nhiều cách khác nhau:

“Được”

Nếu người không tin dùng những phương pháp thích hợp họ có thể hiểu nhiều điều

trong Kinh Thánh (ví dụ, ý nghĩa của từ, luật ngữ pháp và tính hợp lý của phân đoạn Kinh

Thánh). Người có khả năng đọc văn chương một cách hiệu quả chắc chắn sẽ có thể nhận ra sự

đối lập hay một mạng lệnh hay một cách ngôn trong Kinh Thánh khi họ tìm thấy nó. Kinh thánh

Page 104: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

101

không khẳng định rằng một người không tin thì không thể hiểu gì hết về nội dung lịch sử hay

ngữ pháp căn bản của nó. Con người có thể hiểu được ý nghĩa tối thiểu của Kinh Thánh.

“Được Nhưng Chỉ Ở Một Mức Độ”

Một người không có Thánh Linh có thể hiểu được ý nghĩa của một đoạn Kinh Thánh

không? Câu trả lời là “Có, nhưng chỉ ở một mức độ”. Chúng ta có thể nói rằng sự hiểu biết của

họ có giới hạn (tức là “chỉ ở một mức độ”) với ít nhất ba lý do.

(1) Tội lỗi đã tác dụng trên cả mọi người bao gồm tư tưởng của con người. Chúng tôi

không nói rằng tội lỗi ngăn trở chúng ta không thể nhận ra những ngữ giới từ hay những ký hiệu

văn chương. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng vì tội lỗi đã làm mù khả năng nhận biết lẽ thật thuộc

linh của Kinh Thánh.

(2) Khả năng hiểu ý nghĩa của một phân đoạn Kinh Thánh của một người không tin bị

giới hạn bởi những hiệu quả của giả định “vô tín” mà người đó đem đến bản văn.

Vì Đức Thánh Linh có vai trò quan trọng trong việc giúp những nhà giải kinh Cơ Đốc

giải quyết những giả định nên một người không có Thánh Linh sẽ bóp méo lẽ thật của Kinh

Thánh.

(3) Chúng ta nói rằng một người mà không có Thánh Linh có thể hiểu ý nghĩa một

đoạn Kinh Thánh “chỉ ở một mức độ” vì sự hiểu biết liên hệ đến nhiều hơn chỉ là nhận thông tin

bằng đầu óc. Hiểu biết ý nghĩa của một đoạn Kinh Thánh liên quan đến cả con người đó –tư

tưởng, cảm xúc, thân thể…. Rõ ràng những người vô tín không chấp nhận những điều này của

Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời.

“Không”

Những người không có Đức Thánh Linh sẽ chấp nhận lẽ thật của Kinh Thánh và áp

dụng nó vào đời sống của họ không? Chính Kinh Thánh nói “không”. Trong I Cô-rinh-tô 2:14,

sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh

Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại, và không có thể hiểu

được, vì phải xem xét cách thiêng liêng.” Phao-lô không có ý nói rằng người không có Thánh

Linh là không có tri thức để hiểu được những gì Kinh Thánh nói. Nhưng ý ông nói rằng người vô

tín có thể hiểu được sứ điệp căn bản của nó nhưng khước từ sứ điệp đó. Khi Phao-lô tiếp tục nói

rằng người không có Thánh Linh “không thể hiểu” những điều của Đức Chúa Trời, ông đang nói

đến một loại hiểu biết theo cá nhân, theo kinh nghiệm. Người không có Thánh Linh không biết

những điều thuộc về Đức Chúa Trời vì họ không kinh nghiệm những điều đó. Không có Thánh

Linh, họ sẽ không được thuyết phục về lẽ thật của nó và sẽ không áp dụng nó vào đời sống của

mình. Họ có thể nắm bắt được ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh nhưng họ từ chối để đoạn Kinh

Page 105: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

102

Thánh đó nắm lấy họ. Chúng ta không thể áp dụng Lời của Đức Chúa Trời mà không có sự giúp

sức của Đức Thánh Linh.

Bạn có thể nắm bắt được lời của Đức Chúa Trời mà không có Thánh Linh chăng?

Bây giờ bạn có thể thấy tại sao chúng tôi có ba câu trả lời khác nhau cho câu hỏi quan trọng này.

Khi giải kinh, Đức Thánh Linh đến hành động một ít trong sự hiểu biết chung, nhiều hơn trong

lĩnh vực nhận biết lẽ thật và nhiều nhất trong lĩnh vực áp dụng. Vì nhiều người trong các bạn có

Thánh Linh của Đức Chúa Trời sống trong các bạn nên chúng ta hãy chú ý đến vai trò của Đức

Thánh Linh trong đời sống của các bạn khi bạn giải nghĩa Kinh Thánh.

Đức Thánh Linh và Người Giải Kinh Cơ Đốc

Là một tín hữu, bạn mong đợi Đức Thánh Linh có thể làm gì và không làm gì cho bạn

khi bạn giải kinh? Chúng tôi muốn mô tả vài cách chính yếu mà Đức Thánh Linh hành động

trong mối quan hệ với Kinh Thánh.

1.a. Khi giải kinh, có Đức Thánh Linh không có nghĩa là Đức Thánh Linh làm tất cả

điều bạn cần làm. Đức Thánh Linh không vận hành việc giải kinh một cách tự động. Thoạt nhìn

thì quan sát này nghe có vẻ không thích hợp và phản cảm nhưng chúng tôi không có ý như vậy.

Có lẽ minh họa sau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn. Khi một em bé học đi, nó thường

muốn cha mẹ mình giúp chúng có kinh nghiệm. Thường một người (cha hoặc mẹ) ngồi đối diện

với em bé, còn người kia thì bồng em bé đặt ở hướng tới người kia. Rồi người phía sau thả cho

em bé tự chạy tới người phía trước và người phía trước đưa tay ra đón. Sau vài lần tập như vậy

thì em bé có thể tự đi được. Sẽ như thế nào nếu em bé nghĩ “Vì có cha mẹ cháu ở đây nên em

không phải làm gì hết. Em không phải nhích chân này rồi chân kia rồi phải vấp ngã. Có cha, có

mẹ ở gần thì việc đi sẽ tự động đến”.

Mặc dầu minh họa này có phần phiến diện nhưng nhiều người lý giải giống như em

bé này khi nghĩ đến vai trò của Đức Thánh Linh trong việc giải kinh. Họ nói rằng: “Vì tôi là Cơ

Đốc Nhân và tôi có Đức Thánh Linh đang sống trong tôi nên tôi không cần phải làm gì để giải

nghĩa Kinh Thánh; nó sẽ tự động đến. Việc giải kinh không xảy ra theo cách như vậy. Có Đức

Thánh Linh trong đời sống mình không có nghĩa là Đức Thánh Linh làm tất cả cho sự giải kinh

của bạn.

b..Đức Thánh Linh mong chúng ta dùng tâm trí của chúng ta, những phương pháp

giải kinh thích hợp và những nghiên cứu tốt giúp chúng ta giải kinh chính xác. Việc linh cảm và

việc giải kinh có lối đi song song với nhau. Trong việc linh cảm, Thánh Linh hành động cùng với

con người và trong việc giải kinh, con người cũng tham gia nữa. Đức Chúa Trời ban cho chúng

ta tâm trí và mong chúng ta sử dụng nó để giải kinh. Ngài muốn chúng ta suy nghĩ rõ ràng và lý

giải sâu sắc. Ngài muốn chúng ta học Kinh Thánh một cách cần mẫn và trung tín. Vì Chúa tạo

dựng nên chúng ta để suy nghĩ nên việc học là “thiêng liêng” (tức là trong ý muốn của Đức

Page 106: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

103

Thánh Linh). Chúng ta cũng có thể học được nhiều điều từ những tín hữu khác bằng những trợ

giúp tốt khác như từ điển Kinh Thánh, bản đồ Kinh Thánh, sách giải kinh….Là Đấng Giúp Sức,

Đức Thánh Linh muốn nắm tay của chúng ta và hướng dẫn chúng ta khi chúng ta học đi, nhưng

Ngài sẽ không đi thế cho chúng ta.

2.a.Đức Thánh Linh không tạo nên ý nghĩa mới hay cung cấp thông tin mới. Kinh

điển đã đóng. Điều này có nghĩa là chúng ta không nên mong Đức Thánh Linh thêm vào một

sách mới trong Kinh Thánh hay một điều gì mới trong sáu mươi sáu sách mà chúng ta đang có,

nhưng Ngài giúp chúng ta hiểu sâu hơn lẽ thật có sẵn trong đó. Tương tự, chúng ta không nên

mong đợi Đức Thánh Linh phán vào tai của chúng ta những kiến thức mới mà những người giải

kinh khác không biết.

b.Chúng ta có thể nương cậy vào Đức Thánh Linh giúp chúng ta nắm bắt được ý

nghĩa của Lời của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh và Lời cùng hành động với nhau. Chắc chắn

điều này bao gồm khả năng áp dụng ý nghĩa của Kinh Thánh, nhưng nó cũng bao gồm khả năng

nhận biết thần học của một phân đoạn (điều mà chúng ta gọi là “nguyên tắc thần học”). Đức

Thánh Linh ban cho chúng ta “lỗ tai để nghe” điều Đức Chúa Trời đang phán với chúng ta trong

Lời của Ngài. Sự hiểu biết này có thể đến sau nhiều giờ học và đáp ứng hoặc nó có thể đến bất

ngờ. Cả hai cách này đều không đem đến sự mặc khải mới nhưng làm tươi mới sự hiểu biết ý

nghĩa của Kinh Thánh.

3. a. Đức Thánh Linh không thay đổi Kinh Thánh để thích hợp với mục đích của

chúng ta hay hoàn cảnh của chúng ta. Giữa môi trường linh hoạt này, chúng ta thường hay bị

cám dỗ để điều chỉnh ý nghĩa của Kinh thánh cho thích hợp với hoàn cảnh của chúng ta, mục

đích của chúng ta hay cảm giác của chúng ta. Nhiều khi chúng ta hay cảm thấy mình đang bỏ

qua hay vi phạm bối cảnh khi chúng ta quá muốn tìm một liên hệ của Kinh Thánh với hoàn cảnh

của chúng ta. Đặc biệt tân tín hữu thường rất dễ nhầm lẫn cảm giác của mình với tiếng phán của

Đức Thánh Linh. Nhưng chúng ta không thể mong đợi Đức Thánh Linh thay đổi ý nghĩa của

Kinh Thánh để thích ứng với cảm giác của chúng ta. Nhưng Đức Thánh Linh hành động cùng

với Lời để biến đổi cuộc đời của người giải kinh.

b. Đức Thánh Linh mang ý nghĩa của Kinh Thánh đặt trên độc giả. Có ba cách mà

Đức Thánh Linh hành động trong đời sống của người giải kinh. (1) Đức Thánh Linh xác quyết

cho chúng ta rằng Kinh Thánh được linh cảm thiêng liêng. Chúng ta tin rằng Kinh Thánh, Lời

của Đức Chúa Trời là nhờ công việc của Đức Thánh Linh. (2) Đức Thánh Linh hành động trong

tư tưởng của chúng ta để tỏ cho chúng ta ý nghĩa trọn vẹn của Kinh Thánh. Chúng ta hiểu rằng

một mạng lịnh thật sự là một mạng lịnh, một lời hứa thật sự là một lời hứa… và chúng ta được

ban cho quyền năng để nắm bắt tầm quan trọng của từng điều một. (3) Đức Thánh Linh hành

động trong lòng của chúng ta để chúng ta có thể nhận Lời của Đức Chúa Trời (áp dụng).

Page 107: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

104

Cách cuối này liên hệ mật thiết với điều mà các nhà thần học gọi là tiến trình thánh

hóa – Đức Thánh Linh đang tiếp tục hành động để biến đổi tính cách của chúng ta trở nên giống

như tính cách của Đức Chúa Trời (Rô. 12:1-2). Bạn có bao giờ có cảm giác khi bạn học Kinh

Thánh là trong khi bạn đang giải nghĩa đoạn Kinh Thánh, thì chính đoạn Kinh Thánh đó cũng

giải nghĩa bạn chưa? Đó là công việc của Đức Thánh Linh. Công việc của Đức Thánh Linh trong

việc giải kinh không phải là thay đổi ý nghĩa nhưng để phục hồi chúng ta trở lại với ý nghĩa đó.

Được phục hồi lại với ý nghĩa là điều quan trọng vì sự trưởng thành thuộc linh của

chúng ta tác động đến khả năng nghe tiếng của Đức Thánh Linh (Tác giả thiêng liêng) trong

Kinh Thánh. Điều thường phân biệt một người giải kinh Cơ Đốc hiệu quả và người giải kinh Cơ

Đốc không hiệu quả nằm ở mức độ trưởng thành thuộc linh của người đó. Tín hữu sốt sắng

nhưng không trưởng thành là dạng tín hữu thông thường giải nghĩa cạn cợt. Người đó yêu Chúa

và hiểu tốt nhưng cách một tín hữu giải nghĩa Kinh Thánh xác định tín hữu đó trưởng thành hay

chưa. Sự trưởng thành thuộc linh bao gồm việc học cách lắng nghe Tác Giả thiêng liêng bằng

cách vâng phục Lời của Ngài.

Đức Thánh Linh thường dùng lời cầu nguyện và giờ tĩnh nguyện suy gẫm để khích lệ

sự trưởng thành thuộc linh. Nhiều lần Phao-lô khuyên các tín hữu trưởng thành trong sự hiểu biết

qua công việc của Đức Thánh Linh (vd. Phi-líp 1:9-11; Cô-lô-se 1:9-14). Chú ý đến mối quan hệ

giữa sự cầu nguyện, Đức Thánh Linh và sự hiểu biết trong Ê-phê-sô 1:17-19:

17 Tôi cầu Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban

thần trí của sự khôn sáng và của sự tỏ ra cho anh em, để nhận biết Ngài, 18 lại soi sáng

con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào,

sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, 19 và biết quyền

vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng

của năng lực mình,

Khi bạn ngồi với Kinh Thánh của mình và lắng nghe Chúa phán với mình bằng cả

tấm lòng tức là bạn đang đọc suy gẫm. Trọng tâm ít phân tích và nghiên cứu hơn nhưng quan

tâm đến mối quan hệ cá nhân, thân mật với Chúa. Trong những lúc đó, Đức Thánh Linh dùng

Lời để đổi mới linh hồn của bạn. Cả cầu nguyện và đọc tĩnh nguyện có mối liên hệ chặt chẽ với

sự suy gẫm Kinh Thánh. Đừng nghĩ rằng khi bạn cầm Kinh Thánh lên là bạn phải học sâu về từ

ngữ hay phải quan sát năm mươi chi tiết trong phân đoạn đó. Thỉnh thoảng bạn cần yên lặng,

bước vào trong sự hiện diện sống động của Đức Chúa Trời. Tại đó, bạn có thể ăn nuốt sâu Lời

của Ngài và đáp ứng với cả tấm lòng trong sự thờ phượng.

Tóm lại, khi chúng ta giải kinh, có Đức Thánh Linh không có nghĩa là Đức Thánh

Linh làm tất cả điều chúng ta cần vì Ngài sẽ không khiến cho việc giải kinh diễn ra tự động. Ngài

mong chúng ta sử dụng tâm trí của mình, những phương pháp giải kinh hợp lý và những trợ giúp

hữu ích khác. Đức Thánh Linh không tạo nên ý nghĩa mới hay là cung cấp thông tin mới nhưng

Page 108: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

105

Ngài giúp chúng ta chấp nhận Kinh Thánh như là Lời của Đức Chúa Trời và nắm bắt được ý

nghĩa của nó. Đức Thánh Linh cũng sẽ không thay đổi Kinh Thánh để thích ứng với mục đích và

hoàn cảnh của chúng ta nhưng Ngài sẽ hành động trong đời sống của chúng ta, là người giải kinh.

Ngài phục hồi chúng ta theo ý nghĩa của Lời Ngài và giúp chúng ta trưởng thành thuộc linh để

chúng ta có thể nghe tiếng phán của Ngài trong Kinh Thánh rõ ràng hơn.

Kết Luận

Tiến trình và phương pháp giải kinh cần thiết để hiểu được Kinh Thánh luôn là điều

quan trọng. Không hề có khái niệm giải nghĩa tự động trong chúng ta. Chúng tôi không muốn

bạn hiểu rằng nắm được lời của Chúa chỉ liên quan đế một phương pháp áp dụng nhất định mà

thôi. Có một nguy hiểm thật sự là cố tình hiểu Tác Giả thiêng liêng qua tri thức. Công việc giải

kinh không đơn giản là một công việc tri thức, nó liên quan đến toàn thể của chúng ta và sự giúp

đỡ của Đức Thánh Linh. Do đó, sự chuẩn bị thuộc linh trở nên quan trọng cho việc nhận biết lẽ

thật của Kinh Thánh và nhận lẽ thật đó cho đời sống của mình.

Khi chúng ta thật sự nắm được Lời của Đức Chúa Trời, chúng ta vượt ra khỏi những

bước cứng nhắc để tương tác linh hoạt với Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải quăng

xa sự kiêu ngạo và lười biếng nhưng phải học tận tâm và vâng phục, không phải vì chúng ta yêu

thích việc học chỉ vì học nhưng vì chúng ta yêu Chúa. Không phải là một gánh nặng nữa nhưng

việc học Lời của Đức Chúa Trời trở thành một hành động thờ phượng vui thỏa khi chúng ta bước

vào một sự đối thoại thiêng thượng. Khi chúng ta học Kinh Thánh, hãy nhớ cầu nguyện xin Đức

Thánh Linh hành động trong lòng của bạn để bạn có lỗ tai để nghe điều Ngài đang phán.

Page 109: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

106

Chương 12

Á p Dụng

Lời Giới Thiệu

Trong cuốn sách Áp Dụng Kinh Thánh, Jack Kuhatschek kể một câu chuyện lạ lùng

về một người biết Kinh Thánh của mình:

Khi đang học ở Đất Thánh, một giáo sư chủng viện của tôi gặp một người cho rằng

mình nhớ hết Cựu Ước – bằng tiếng Hy-bá-lai. Không cần nói, vị giáo sư này muốn kiểm chứng.

Vài ngày sau, họ ngồi với nhau trong nhà của người này. Người này hỏi: “Chúng ta sẽ bắt đầu từ

đâu?” Vị giáo sư trả lời: “từ Thi thiên 1”. Người này bắt đầu đọc vanh vách từ Thi Thiên 1 trở đi

bằng tiếng Hy-bá-lai mà không hề có chút lỗi nào trong vòng hai tiếng đồng hồ. Sau khi kiểm

chứng xong, vị giáo sư này mới phát hiện ra rằng người này là một người vô thần. Đây là người

biết Kinh Thánh giỏi hơn hầu hết những Cơ Đốc Nhân khác, nhưng ông không tin Đức Chúa

Trời.4

Người này chắc chắn biết Kinh Thánh – ngay cả bằng Tiếng Hy-bá-lai – nhưng

không thật sự hiểu được Lời của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nắm được Lời của Chúa, chúng ta

không chỉ hiểu ý nghĩa của nó mà cần phải đi một bước cuối là áp dụng ý nghĩa đó cho đời sống

của chúng ta. Chúa Giê-xu phán rõ ràng rằng: “Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy đó là

kẻ yêu mến ta” (Giăng 14:21a). Tại đây chúng ta có công thức:

Có + vâng giữ = yêu

Chúng ta không thể áp dụng Kinh Thánh mà không biết ý nghĩa của nó, nhưng chúng

ta có thể biết Kinh Thánh mà không áp dụng nó. Chúng ta có thể đầu tư vào bối cảnh, phân tích

từ và ngay cả nhớ hết cả đoạn nhưng nếu chúng ta không hành động theo những gì chúng ta biết

thì chúng ta không thật sự nắm được Lời của Đức Chúa Trời. Chỉ kiến thức không là không đủ;

nó phải dẫn đến hành động.

Chúng ta bắt đầu Hành Trình Giải Kinh bằng cách khám phá ý nghĩa của đoạn kinh

văn trong thời của độc giả thời Kinh Thánh. Sau đó chúng ta đo chiều rộng của dòng sông khác

biệt và băng qua cây cầu nguyên tắc. Bây giờ là lúc chúng ta phải hỏi: “Làm sao chúng ta có thể

áp dụng ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh vào đời sống hay hoàn cảnh của chúng ta?”

Luôn nhớ rằng có một sự khác biệt vô cùng lớn giữa việc biết cách áp dụng một đoạn

Kinh Thánh và thật sự áp dụng đoạn Kinh Thánh đó trong đời sống của bạn. Một khi bạn biết

4 Jack Kuhatschek, Applying the Bible (Grand Rapids: Zondervan, 1990), 15-16.

Page 110: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

107

một đoạn Kinh Thánh có thể được áp dụng như thế nào rồi thì tùy bạn có vâng phục Thánh Linh

của Đức Chúa Trời và sống theo sự áp dụng đó. Ví dụ, trong Ê-phê-sô 4:26 dạy chúng ta không

giận cho đến khi mặt trời lặn. Chúng ta tìm thấy trong câu này, nguyên tắc thần học là giận phải

trong một khoảnh khắc ngắn thôi. Nếu cơn giận mà không được kiềm chế thì sẽ gây nên hậu quả

nghiêm trọng. Một áp dụng của nguyên tắc này là phải bảo đảm khi bạn giận với người vợ

(chồng) hay bạn cùng phòng thì phải giải quyết ngay (vd. Trước khi kết thúc một ngày).

Nhưng biết được nguyên tắc thần học và cách áp dụng nó không cùng nghĩa với việc

áp dụng vào cuộc đời của bạn. Chương này sẽ tập trung giúp bạn biết cách để áp dụng một đoạn

kinh văn. Còn việc áp dụng thật sự thì chính bạn phải thực hiện khi bạn nhờ cậy nơi Đức Thánh

Linh, trong quyền năng của sự cầu nguyện và nhận sự giúp đỡ từ những Cơ Đốc Nhân khác.

Chắc chắn Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết những nguyên tắc Kinh Thánh và áp dụng nó một

cách thích hợp, nhưng mục tiêu tối thượng của Ngài trong sự tương giao với chúng ta là biến đổi

suy nghĩ và hành động của chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống như hình ảnh của Con Ngài,

Chúa Giê-xu Christ. Khi chúng ta nắm được Lời của Chúa thì chính Lời của Chúa sẽ nắm lấy

chúng ta.

Ý Nghĩa và Áp Dụng

Bạn có nhớ chúng ta định nghĩa ý nghĩa và từ áp dụng như thế nào trong chương 9

không? Ý nghĩa nói đến những điều tác giả chủ định để truyền đạt thông qua đoạn Kinh Thánh.

Bởi vì ý nghĩa của một đoạn Kinh Thánh được gắn kết với tác giả, nên đối với mọi Cơ Đốc Nhân

cũng vậy. Độc giả không xác định ý nghĩa và ý nghĩa cũng không thay đổi từ độc giả này đến

độc giả kia. Là độc giả, chúng ta cần đáp ứng lại ý nghĩa mà Đức Chúa Trời đã đặt trong đoạn

Kinh Thánh đó. Chúng ta dùng từ áp dụng để nói đến sự đáp ứng của độc giả đối với ý nghĩa của

bản văn được linh cảm. Á p dụng phản ánh hoàn cảnh sống riêng của độc giả và sẽ thay đổi từ Cơ

Đốc Nhân này qua Cơ Đốc Nhân khác, dầu nó có cùng ý nghĩa. Do đó, chúng ta nên hỏi: “Đoạn

Kinh Thánh này có ý nghĩa gì và làm thế nào tôi áp dụng ý nghĩa này vào đời sống của tôi?” thay

vì hỏi: “Đoạn Kinh Thánh này có nghĩa gì với tôi?”. Sự phân biệt giữa ý nghĩa và áp dụng là một

điều quan trọng.

Chúng ta hãy kiểm tra lại chúng ta hiểu ý nghĩa và áp dụng nằm chỗ nào trong Hành

Trình Giải Kinh.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối

với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh

Thánh với chúng ta?

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Page 111: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

108

Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày

nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Bước 1 và 3 liên quan đến ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh. Qua Kinh Thánh, Đức Chúa

Trời tương giao với con người qua cả sự dạy dỗ tức thì cho độc giả thời Kinh Thánh (bước 1) và

nguyên tắc thần học cho độc giả tương lai (bước 3). Đây là ý nghĩa mà chúng ta tìm thấy trong

việc học Kinh Thánh của chúng ta. Sau khi chúng ta nhận ra được ý nghĩa này, chúng ta có thể

bắt đầu hỏi làm sao chúng ta có thể áp dụng ý nghĩa này trên đời sống của chúng ta (bước 4).

Cách Á p Dụng Ý Nghĩa

Trong phần này chúng tôi sẽ chỉ cho bạn cách xác định sự áp dụng hợp lý theo những

nguyên tắc thần học mà bạn đã khám phá trong đoạn Kinh Thánh. Vì việc áp dụng có thể thay

đổi từ độc giả này đến độc giả kia nên chúng ta cần một phương pháp đáng tin cậy để bảo đảm

rằng việc áp dụng của chúng ta nằm trong phạm vi được thiết lập bởi ý nghĩa của tác giả. Hướng

áp dụng ý nghĩa Kinh Thánh của chúng tôi đi theo những bước trong Hành Trình Giải Kinh mà

bạn mới vừa làm quen. Chúng tôi có thể mở rộng Bước 4 ra những bước phụ:

a. Quan sát những nguyên tắc thần học trong đoạn Kinh Thánh nói gì về hoàn cảnh ban đầu.

b. Khám phá hoàn cảnh tương tự trong bối cảnh hiện tại.

c. Á p dụng một cách cụ thể.

Chúng tôi sẽ minh họa việc áp dụng những nguyên tắc Kinh thánh qua Phi-líp 4:13.

Một đoạn nhiều người thường áp dụng sai: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho

tôi”. Trong mỗi phần chúng tôi sẽ trích từng bước và thảo luận tiến trình sau đó áp dụng nó vào

ví dụ của chúng ta.

Bước 1: Nắm được đoạn Kinh Thánh trong bối cảnh thời đó bằng cách tóm tắt hoàn cảnh

gốc (bối cảnh lịch sử-văn hóa) và ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả thời Kinh

thánh.

Trong ánh sáng của bối cảnh lịch sử-văn hóa, hãy tóm tắt những điều bạn vừa khám

phá về hoàn cảnh hay vấn đề gốc. Xem tổng thể cả sách cũng như đoạn Kinh Thánh mà bạn đang

muốn áp dụng. Bạn có thể viết một phân đoạn tóm tắt hay đơn giản liệt kê những quan sát của

bạn về hoàn cảnh đó. Dù cách nào đi nữa nhưng bạn cũng phải bảo đảm nhìn thấy toàn cảnh rõ

ràng về hoàn cảnh lịch sử-văn hóa gốc.

Trong Phi-líp 4:13, chúng ta để ý rằng Phao-lô viết lá thư này trong khi đang ở tù chờ

ngày ra tòa (1:7,13-14,17). Vì trung thành trong chức vụ giảng tin lành nên ông phải ngồi tù.

Trong lá thư đầy tình bằng hữu này, ông khuyên người Phi-líp đứng vững trong cơn bách hại từ

Page 112: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

109

bên ngoài và cảnh báo những tranh chiến từ bên trong. Ô ng báo cho họ biết về hoàn cảnh của

mình và cám ơn họ vì chức vụ của họ đối với ông. Trong Phi-líp 4:10-13, Phao-lô nhận biết món

quà bằng hiện kim của họ nhờ Ép-ba-phô-đích chuyển tới. Ông cũng muốn làm rõ rằng ông rất

biết ơn họ về món quà quý giá nhưng chức vụ của ông hoàn toàn phụ thuộc vào Đấng Christ.

Là phần của bước này, hãy viết một câu về ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả

thời Kinh thánh, luôn nhớ để mọi thứ trong thì quá khứ. Từ câu trong thì quá khứ này, bạn sẽ dễ

chuyển qua nguyên tắc thần học. Trong phân đoạn Kinh thánh này, Phao-lô cho người Phi-líp

biết rằng ông học cách thỏa lòng trong mọi hoàn cảnh khó khăn khác nhau nhờ Đấng Christ,

Đấng đã ban cho ông sức mạnh.

Bước 2: Đo chiều rộng của con sông để vượt qua. Có sự khác nhau nào giữa hoàn cảnh thời

Kinh thánh và hoàn cảnh của chúng ta?

Cơ Đốc Nhân ngày nay bị chia cách với độc giả thời Kinh Thánh bằng một “dòng

sông” của sự khác biệt (vd, ngôn ngữ, văn hóa, hoàn cảnh). Dòng sông này ngăn trở chúng ta

chuyển thẳng từ ý nghĩa trong bối cảnh của họ đến ý nghĩa trong bối cảnh của chúng ta. Thỉnh

thoảng, dòng sông này rộng, đòi hỏi một cây cầu dài để đi qua. Một số nơi khác, nó hẹp và chúng

ta bước qua một cách dễ dàng. Chúng ta cần biết dòng sông này rộng bao nhiêu trước khi chúng

ta bắt đầu lập một cây cầu nguyên tắc xuyên qua đó.

Khi chúng ta giải nghĩa những thư tín trong Tân Ước, thông thường dòng sông này

không rất rộng hay sâu. Dĩ nhiên có những ngoại lệ (vd. Liên hệ đến đoạn Kinh Thánh về thịt

cúng cho thần tượng trong I Cô-rinh-tô), nhưng thông thường không quá phức tạp. Trở lại với

thơ Phi-líp, có một vài khác biệt. Phao-lô là một sứ đồ còn chúng ta không phải là sứ đồ. Phao-lô

đang ở trong tù còn hầu hết chúng ta không ở trong tù vì đức tin của mình (chúng ta có hy vọng).

Cả Phao-lô và chúng ta đều không phải là thành viên của Hội Thánh Phi-líp đã ủng hộ chức vụ

của Phao-lô bằng tài chính.

Nhưng cũng có những tương đồng. Chúng ta là những Cơ Đốc Nhân thời Tân Ước có

cùng một giao ước. Chúng ta cũng cùng là thành viên của thân thể Đấng Christ, Hội Thánh. Hơn

nữa, nhiều người trong chúng ta cũng đã trải qua những hòan cảnh khó khăn khi chúng ta quyết

sống theo đức tin của mình. Nói chung, dòng sông khác biệt này không quá rộng trong Phi-líp

4:13.

Bước 3: Băng qua cây cầu nguyên tắc. Liệt kê những nguyên tắc thần học được chuyển tải

trong đoạn Kinh Thánh.

Chỉ viết xuống những nguyên tắc mà đoạn Kinh Thánh này chuyển tải. Khi bạn nhận ra

được những lẽ thật hay nguyên tắc thần học được chuyển tải trong đoạn Kinh Thánh này, bạn

đang nhận ra những điều vượt thời gian trong đoạn này và bắt đầu lấp đầy khoảng trống giữa

đoạn Kinh Thánh và thế giới hiện tại.

Page 113: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

110

Trong trường hợp của Phi-líp 4:13, bạn có thể nói: “Tín hữu có thể học cách thỏa lòng

trong mọi hoàn cảnh nhờ Đấng Christ, Đấng ban cho họ sức mạnh”.

Bước 4: Nắm bắt đoạn Kinh Thánh trong bối cảnh của chúng ta. Làm sao từng Cơ Đốc

Nhân hôm nay áp dụng những nguyên tắc thần học trong đời sống của mình?

Bước này bao gồm nhiều bước phụ:

a.Quan sát những nguyên tắc trong đoạn Kinh Thánh phản ánh hoàn cảnh gốc như thế

nào.

Nhìn cẩn thận nguyên tắc Kinh Thánh nói gì về hoàn cảnh lịch sử-văn hóa. Những điều

bạn quan sát được trong phần giao kết giữa đoạn Kinh thánh và hoàn cảnh là trái tim và linh hồn

của tiến trình áp dụng. Chắc chắn sẽ có những yếu tố then chốt hiện diện trong phần giao kết của

đoạn Kinh thánh và hoàn cảnh.

Như nguyên tắc trong Phi-líp 4:13 giao kết với hoàn cảnh lịch sử-văn hóa, vài yếu tố then

chốt được tìm thấy:

Yếu tố 1: Một Cơ Đốc Nhân (Phao-lô)

Yếu tố 2: Một Cơ Đốc Nhân kinh nghiệm được nhiều hoàn cảnh khó khăn khác nhau vì

trung tín theo Đấng Christ (Phao-lô ở trong tù vì sự phục vụ Đấng Christ)

Yếu tố 3: Đấng Christ ban cho sức mạnh để chịu được mọi hoàn cảnh

Với những yếu tố then chốt này trong tay, chúng ta sẵn sàng liên kết chúng với thế giới

của chúng ta và áp dụng nó vào đời sống của chúng ta.

b.Khám phá một hoàn cảnh tương đương trong bối cảnh hiện tại

Trong việc áp dụng Kinh Thánh, chúng ta không chỉ là học viên của thế giới Kinh

Thánh mà còn là học viên của thế giới của chính mình. Tìm một hoàn cảnh tương tự trong cuộc

đời của bạn (hoặc thế giới của bạn) tương đương với hoàn cảnh trong Kinh thánh. Khi chúng ta

nói về một hoàn cảnh tương đương, chúng ta đang nói về một hoàn cảnh bao gồm mọi yếu tố

then chốt mà bạn mới vừa nhận ra trong bước trên. Nếu chúng ta bỏ qua một hay nhiều yếu tố

then chốt này, chúng ta không còn thật sự áp dụng nguyên tắc được tìm thấy trong đoạn Kinh

thánh.

Chúng tôi cung cấp hai ví dụ bên dưới. Cái đầu tiên chỉ là một hoàn cảnh tương đối

tương đương vì nó không gồm những yếu tố then chốt; cái thứ hai và thứ ba là những tương

đương đúng nghĩa vì bao gồm tất cả các yếu tố then chốt.

Ví dụ 1: Phi-líp 4:13 trở thành một câu chủ đề phổ biến giữa vòng các vận động viên

Cơ Đốc ở Mỹ. Câu này được gắn trên sợi dây thừng trên đấu đài trong những trận chung kết

Page 114: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

111

quyền anh. Câu: “Tôi làm được mọi sự” chắc chắn kích thích võ sĩ đánh bại đối phương hoặc là

gắng hết sức.

Giả sử cả Phao-lô và võ sĩ đều là Cơ Đốc Nhân (yếu tố 1) và cả hai đều tìm sức mạnh

từ nơi Đấng Christ (yếu tố 3), chúng ta vẫn đánh mất một yếu tố then chốt của phần giao kết giữa

hoàn cảnh gốc và bản văn (yếu tố 2). Phao-lô và võ sĩ hiểu câu: “tôi làm được mọi sự” hoàn toàn

khác nhau. Nhìn kỹ bối cảnh văn chương của Phi-líp 4:13 thì từ “mọi sự” nói đến những hoàn

cảnh khó khăn khác nhau. Vào thời điểm này trong cuộc đời của mình, Phao-lô trải nghiệm chỉ

một thử thách khó khăn thôi chứ không phải nhiều. Khi Phao-lô nói “làm được mọi sự”, ông

đang nói đến việc thỏa lòng hay chịu đựng hơn là chinh phục. Có một sự khác biệt lớn giữa sự

“thách thức” của cuộc thi thể thao và thử thách của việc bị tù đày vì đức tin.

Chúng ta áp dụng sai Kinh Thánh khi chúng ta nắm lấy một hoàn cảnh không tương

đương thật sự. Có lẽ có một vài liên kết tương đối khi một hay hai yếu tố then chốt bị bỏ lỡ.

Nhưng trên hết, khi chúng ta áp dụng sai Kinh Thánh, chúng ta làm tổn thương người nghe vì chỉ

cho họ những thực tế sai lệch. Những người đặt hi vọng vào một điều gì đó họ nghĩ là đúng

nhưng thực tế nó không đúng và chúng ta làm tổn thương họ. Ở ví dụ trong Phi-líp, nguyên tắc

thỏa lòng trong Đấng Christ trong mọi hoàn cảnh được thay thế bởi sự kêu gọi Đức Chúa Trời

giúp đỡ thắng cuộc chơi. Võ sĩ không thật sự áp dụng câu Kinh thánh này. Đức Chúa Trời sẽ xử

lý sao đây khi cả hai võ sĩ đều là Cơ Đốc Nhân và đều nương cậy vào sức mạnh của Chúa trong

Phi-líp 4:13?

Ví dụ 2: Bạn là một sinh viên Cơ Đốc đang gặp khó khăn về tài chính. Bạn có tất cả

cần dùng khi ở nhà với cha mẹ. Nhưng khi bạn vâng theo tiếng gọi của Chúa để bước vào chức

vụ, bạn bắt đầu đối diện với khó khăn tài chính. Vì cha mẹ bạn không thể trả tiền cho việc học

của bạn nên bạn phải trả tất cả. Bạn phải tranh chiến làm sao cho đủ tiền khi nó đang đến hạn

nộp. Phải đi làm vào những giờ đêm khiến giờ lên lớp của bạn mệt mỏi. Lúc nào bạn cũng mệt

mỏi và tâm linh của bạn cũng vì đó bị ảnh hưởng. Dầu vậy, bạn đang tin cậy Đấng Christ để có

sức mạnh mà tiếp tục công việc.

Ví dụ 3: Bạn là người mẹ độc thân. Người chồng không tin Chúa của bạn gần đây đã

từ bỏ bạn vì bạn dâng mình cho Chúa. Hai đứa con bé bỏng của bạn chợt nhận thấy mình không

có cha. Cảm giác thất bại cá nhận nặng nề. Á p lực từ những xung quanh về tình trạng của mình.

Bạn đối diện với gánh nặng tài chính quá lớn và lo lắng làm sao có thể kham nổi với đồng lương

ít ỏi mà lạm phát lại tăng cao. Khi cuộc sống dường như tối tối tăm với bạn thì Đức Chúa Trời

ban cho bạn một sự bình an chẳng đổi dời rằng Chúa Giê-xu Christ luôn ở với bạn. Ngài hiểu và

Ngài nhìn thấy mọi điều bạn đang trải qua.

Trong hai trường hợp cuối, mọi yếu tố then chốt đều có mặt: (1) một Cơ Đốc Nhân;

(2) người đang trải qua những hoàn cảnh khó khăn vì dâng mình cho Đấng Christ. (3) Người

đang hướng về Đấng Christ để tìm kiếm sức mạnh. Khi bạn nhận ra được hoàn cảnh hiện tại

Page 115: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

112

tương đương bạn có thể mạnh dạn áp dụng ý nghĩa của đoạn Kinh thánh hơn là tạo nên ý nghĩa

mới.

c.Á p dụng trong hoàn cảnh riêng

Một khi bạn đã nhận ra được hoàn cảnh tương đương – tương đương thật sự - bạn

nghĩ về một vài cách riêng mà nguyên tắc Kinh thánh có thể áp dụng. Người sinh viên và người

mẹ độc thân đó suy nghĩ hay làm gì khi họ quay đến Đấng Christ để tìm sức mạnh? (Chúng tôi

dùng từ suy nghĩ hay làm vì áp dụng có thể đụng đến cách nghĩ cũng như cách hành động hay

đối xử). Nếu chúng ta chưa bao giờ áp dụng vào hoàn cảnh riêng, chúng ta có lẽ không biết một

cách rõ ràng làm sao sứ điệp của Kinh Thánh giúp mình sống trong đời sống thật của mình.

Đừng ngại áp dụng riêng tư. Người ta không chỉ cần biết những gì phải làm, nhưng họ cũng cần

biết cách để thực hiện nó.

Chúng ta cùng xem một vài ví dụ trong việc áp dụng vào hoàn cảnh riêng.

Ví dụ 1:

Là một sinh viên, bạn có thể nhận được sự khích lệ và sức mạnh khi nói chuyện với

vị mục sư hay giáo sư của bạn. Họ là những người đã trãi qua những khó khăn và được tưởng

thưởng trong quá trình chuẩn bị cho chức vụ. Đấng Christ thường hành động qua những con

người để đem đến sức mạnh và bạn có thể sử dụng một cuộc nói chuyện tốt với vài người ở đó.

Hỏi họ một cách cụ thể về cách họ quản lý thời gian và những lựa chọn trong việc tạo mãi cho

giáo dục của bạn. Họ có thể đề nghị những người khác tham vấn. Bạn cũng có thể làm như Phao-

lô đã làm và tin cậy vào Đấng Christ một cách công khai bằng cách trình bày ý nghĩ của bạn

trong bài viết, trong lá thư cho một người bạn. Khi bạn xưng nhận khả năng của Đấng Christ

đang giúp sức cho bạn trong suốt thời gian tối tăm đó, đức tin của bạn sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.

Đừng ngần ngại kêu xin với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện và thành thật với

Ngài về hoàn cảnh khó khăn của bạn. Cầu nguyện hết lòng có lẽ không thay đổi hoàn cảnh của

bạn nhưng nó sẽ giúp bạn nhận thức rõ hơn về sự hiện diện quyền năng của Đức Chúa Trời. Đức

Chúa Trời đã chọn lựa bạn để chuẩn bị cho chức vụ. Công việc thì vất vả và thời gian thì dài –

nó cực khổ hơn bạn tưởng. Nhưng bạn có thể làm được vì Chúa Giê-xu Christ ở với bạn. Ngài

yêu bạn và có chương trình cho bạn. Ngài cũng sẽ ở đó trong từng phút giây mỗi ngày để ban

cho bạn sức mạnh để tiến lên. Bạn có thể làm được mọi sự nhờ Đấng Christ ban thêm sức cho

bạn.

Ví dụ 2:

Là một người mẹ độc thân, bạn có thể làm nhiều điều giống như anh sinh viên ở trên

– tìm tư vấn từ một Cơ Đốc Nhân trưởng thành, viết xuống những ý tưởng của bạn và cầu

Page 116: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

113

nguyện chân thành. Bạn cũng có thể học những phân đoạn Kinh thánh liên quan đến mối quan hệ

vợ-chồng, ly dị, tái hôn …Đức Chúa Trời sẽ ban cho bạn sự khôn ngoan khi bạn tìm kiếm Lời

của Ngài. Có những doanh nhân trong Hội Thánh có thể giúp cho bạn lập kế hoạch tài chính. Có

kế hoạch giúp cho con cái sẽ dễ chịu hơn.

Còn về người chồng của bạn? Cho đến thời điểm này, bạn là người vợ chung thủy.

Bạn đã cầu nguyện thường xuyên cho người chồng của bạn để Chúa làm dịu linh hồn lo lắng của

chồng, nhưng ông ta đã quyết định ra đi. Ô ng ta biết rằng bạn trung thành với Chúa của bạn trên

hết và đi theo Ngài trên cả ông ta. Khi ông ta ra đi, cuộc sống khó khăn hơn bạn tưởng. Bạn đã

biết ân điển và sự bình an của Chúa trong những cách mà bạn không thể giải thích được. Khi bạn

sợ phải đối diện mọi thứ một mình thì bạn không phải một mình đâu. Có một điều bạn luôn chắc

là: Chúa của bạn sẽ không bao giờ lìa bỏ bạn – không bao giờ! Ngài luôn luôn giữ lời hứa. Bạn

có thể làm được mọi sự nhờ Đấng Christ ban thêm sức cho bạn.

Hướng này có tác dụng tốt khi giải nghĩa những chuyện kể trong Kinh Thánh. Bạn kể

lại câu chuyện trong Kinh Thánh cho độc giả thời nay. Để hiện đại hóa một câu chuyện trong

Kinh Thánh, bạn kể lại câu chuyện có hiệu quả trên độc giả hiện tại tương đương với hiệu quả

của độc giả thời xưa. Chúng ta dịch ý nghĩa của câu chuyện vào bối cảnh của chúng ta tạo lại

những hiệu quả của nó trên độc giả hiện tại. Để vài phút đọc lại ẩn dụ của Chúa Giê-xu về đứa

con lạc mất trong Lu-ca 15:11-24:

11 Ngài lại phán rằng: Một người kia có hai con trai. 12 Người em nói với cha rằng:

Thưa cha, xin chia cho tôi phần của mà tôi sẽ được. Người cha liền chia của mình cho

hai con. 13 Cách ít ngày, người em tóm thâu hết, đi phương xa, ở đó, ăn chơi hoang

đàng, tiêu sạch gia tài mình. 14 Khi đã xài hết của rồi, trong xứ xảy có cơn đói lớn; nó

mới bị nghèo thiếu, 15 bèn đi làm mướn cho một người bổn xứ, thì họ sai ra đồng chăn

heo. 16 Nó muốn lấy vỏ đậu của heo ăn mà ăn cho no, nhưng chẳng ai cho. 17 Vậy nó

mới tỉnh ngộ, mà rằng: Tại nhà cha ta, biết bao người làm mướn được bánh ăn dư dật,

mà ta đây phải chết đói! 18 Ta sẽ đứng dậy trở về cùng cha, mà rằng: Thưa cha, tôi đã

đặng tội với trời và với cha, 19 không đáng gọi là con của cha nữa; xin cha đãi tôi như

đứa làm mướn của cha vậy. 20 Nó bèn đứng dậy mà về cùng cha mình. Khi còn ở

đàng xa, cha nó thấy thì động lòng thương xót, chạy ra ôm lấy cổ mà hôn. 21 Con thưa

cùng cha rằng: Cha ơi, tôi đã đặng tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con

của cha nữa. 22 nhưng người cha bảo đầy tớ rằng: Hãy mau mau lấy áo tốt nhất mặc

cho nó; đeo nhẫn vào ngón tay, mang giày vào chân. 23 Hãy bắt bò con mập làm thịt

đi. Chúng ta hãy ăn mừng, 24 vì con ta đây đã chết mà bây giờ lại sống, đã mất mà bây

giờ lại thấy được. Đoạn, họ khởi sự vui mừng.

……

Page 117: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

114

Trong khi bạn hiện thời hóa (contemporization), bạn cần nghiên cứu đoạn Kinh

Thánh cẩn thận, đặc biệt bối cảnh lịch sử-văn hóa và văn chương để bạn có thể phản ánh đúng ý

nghĩa thật của đoạn Kinh thánh.

Cách tốt nhất để giữ sự trung tín với ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh là ở gần với những

yếu tố then chốt mà bạn nhận thấy trong bước 4a. Đơn giản là sau khi bạn viết một bản thảo, bạn

tự hỏi: “câu chuyện hiện thời này có chứa đựng tất cả những yếu tố then chốt không?” Nếu

không, xem lại toàn bộ câu chuyện cho đến khi nó hội đủ tất cả các yếu tố then chốt.

Kết luận

Vì tính cách của Đức Chúa Trời và bản chất của con người không thay đổi nên Lời

Chúa vẫn luôn thích hợp. Nguyên tắc của chúng tôi cung cấp cho bạn một cách hiểu về sự thích

hợp của Kinh thánh cho mọi thế hệ - không chỉ cho chúng ta nhưng cũng cho con cái, cháu chít

của chúng ta nữa.

Một số người nghĩ rằng phương pháp này sẽ hạn chế sự tự do của bạn trong việc áp

dụng Kinh Thánh. Chúng tôi muốn nhắc lại rằng, là độc giả trung thành, công việc của chúng ta

không tạo nên ý nghĩa mới nhưng áp dụng ý nghĩa đã có sẵn trong đoạn Kinh Thánh. Đừng lo!

Bạn sẽ tìm thấy nhiều hoàn cảnh tương đương trong đời sống của bạn hay trong thế giới của bạn

gồm chứa tất cả các yếu tố then chốt. Và khi bạn tìm thấy được điểm tương đương thật rồi thì

bạn sẽ vững tin để áp dụng ý nghĩa thật của đoạn Kinh Thánh đó.

Trước khi đi tiếp, chúng tôi muốn nhắc lại mục tiêu học cách giải kinh của chúng ta

không phải để học nhiều hơn về Đức Chúa Trời nhưng biết và yêu Đức Chúa Trời nhiều hơn.

Ngài ban cho chúng ta Lời của Ngài không phải để thỏa mãn ham muốn học biết của chúng ta

nhưng để thay đổi cuộc đời của chúng ta.

Page 118: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

115

Phần III

Hành Trình Giải Kinh

Tân Ước

Trong phần này chúng ta đang học cách để áp dụng Hành Trình Giải Kinh theo các

thể loại văn chương khác nhau trong Kinh Thánh. Bạn đã học đọc cẩn thận và nhìn nhiều vấn đề

quan trọng liên quan để việc hiểu biết Kinh Thánh. Bây giờ là lúc thực tế lần nữa khi chúng ta

nhìn cách giải nghĩa và áp dụng những thể loại văn chương khác nhau trong Lời của Đức Chúa

Trời.

Phần 4 tập trung vào Tân ước. Thứ tự này khác với mong đợi của bạn. Chúng ta bắt

đầu với Tân Ước vì chúng ta quen với nó và nói chung, dòng sông khác biệt không quá rộng

trong Tân Ước.

Có bốn thể loại chính trong Tân Ước. Chúng ta sẽ học từng thể loại một. Chương 13

sẽ bàn về các thư tín, chương 14 về các sách Phúc Âm, chương 15 về sách Công vụ Các Sứ Đồ

và chương 16 với sách Khải huyền. Trong từng trường hợp, bạn sẽ học những cách thực tế và

thích hợp để đọc những thể loại văn chương khác nhau.

Page 119: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

116

Chương 13

Tân Ước – Các Thư Tín

Lời Giới Thiệu

Những Đặc Điểm Của Lá Thư Trong Tân Ước

Có Thể So Sánh Với Những Lá Thư Cổ Khác

Làm sao những thư tín trong Tân Ước lại có thể so sánh với các cổ thư khác? Thư tín

trong Tân Ước dài hơn so với các cổ thư khác. Chiều dài của các thư tín được lý giải vì nhu cầu

của các nhà lãnh đạo Cơ Đốc ban đầu để hướng dẫn công việc truyền giáo và chăn bầy từ xa.

Chúng cần chỗ để nói xin chào và tạm biệt, ngày viết, lời khuyến khích và chỉ dạy, giải quyết

những tình huống khó khăn, cảnh báo chống lại tà giáo và hơn thế nữa.

Những cổ thư có hai dạng. Nhiều lá thư riêng và thông thường – những bản hợp đồng

kinh doanh, những ghi nhận việc đời thường, những lá thư giữa các thành viên trong gia đình hay

bạn bè hay tương tự như vậy. Những lá thư như vậy thường được viết mỗi ngày và chỉ người

nhận mới được đọc. Những lá thư khác thì trang trọng, nghệ thuật, văn chương được viết để trình

bày trước công chúng. Những thư tín Tân Ước không nằm trong hai phạm trù này nhưng ở giữa

hai dạng này. Trong Tân Ước chúng ta thấy nhiều lá thư riêng như trong Phi-lê-môn, II Giăng và

III Giăng cũng như nhiều lá thư trang trọng như Rô-ma, Ê -phê-sô, Hê-bơ-rơ, Gia-cơ và I Phi-e-

rơ.

Sự Thay Thế Có Thẩm Quyền Cho Sự Hiện Diện Cá Nhân

Những người trong thế giới cổ viết thư phần nhiều có cùng lý do như chúng ta có

hôm nay. Chúng ta muốn ở với những người mà chúng ta quan tâm nhưng chúng ta không thể ở

đó, nên chúng ta viết thư thay cho sự hiện diện cá nhân của mình tại đó. Những độc giả ban đầu

đã xem lá thư của Phao-lô, Phi-e-rơ như là sự thay thế cho chính các sứ đồ vậy. Khi các sứ đồ

này và các lãnh đạo khác không thể giải quyết một vấn đề hay tình huống nào trực tiếp thì họ

viết thư. Thư tín cung cấp một cách cho các nhà lãnh đạo Cơ Đốc đầu tiên bày tỏ quan điểm và

chăm sóc mục vụ từ xa.

Nhưng những thư tín trong Tân Ước còn hơn chỉ là sự thay thế cho sự hiện diện cá

nhân. Chúng là những sự thay thế có thẩm quyền. Thường trong câu đầu tiên của lá thư, tác giả

nhận mình là sứ đồ của Chúa Giê-xu Christ.

Page 120: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

117

Phao-lô, Phi-e-rơ và Giăng viết thư của mình không đơn thuần là cho những người

bạn hay gởi những lời khuyên các nhân. Họ viết với tư cách là sứ đồ (tức là những người làm

chứng về Đấng Christ phục sinh). Thư của họ gồm lời chỉ dạy, cảnh cáo, và khuyến khích với uy

quyền vì họ viết như là đại diện thẩm quyền của Đấng Christ. Ngay cả những tác giả khác không

phải là sứ đồ theo nghĩa hẹp nhưng có liên hệ gần gũi với sứ đồ và được xem như những nhà

lãnh đạo được Chúa chỉ định cho Hội Thánh mà họ viết cho. Do đó, những lá thư này có thẩm

quyền.

Mang Tính Tình Huống

Những thư tín Tân Ước mang tính tình huống. Điều này có nghĩa là chúng được viết

để nói đến những tình huống hay vấn đề riêng có liên quan đến tác giả hay độc giả. Những người

viết thư tín Tân Ước làm như vậy để đáp ứng nhu cầu thực tế của những người nhận lá thư đó.

Họ viết để làm rõ một vấn đề nào đó (vd. Tê-sa-lô-ni-ca), hay về vấn đề giáo lý (vd. Cô-lô-se)

hay quở trách độc giả về những hành vi của họ (vd. Gia-cơ).

Những lá thư này không bao giờ có nghĩa là những từ điển hoàn hảo của giáo lý Cơ

Đốc. Thay vì viết những thần học hệ thống, tác giả dùng những lá thư để áp dụng thần học bằng

những cách thực tiễn vào từng tình huống riêng trong Hội Thánh.

Do đó, khi giải nghĩa những thư tín Tân Ước, chúng ta phải cẩn thận không kết luận

quá nhiều qua chỉ một lá thư. Thư tín của Phao-lô cho người Ga-la-ti nhấn mạnh đến sự tự do

trong Đấng Christ cho một Hội Thánh đang tranh chiến với chủ nghĩa duy luật. Trong I Cô-rinh-

tô, ông nhấn mạnh đến sự vâng lời cho một Hội Thánh đang dùng sự tự do cho sự quá độ về đạo

đức. Dầu vậy, không phải tất cả các lá thư ông đều nhấn mạnh đến cả sự tự do và sự vâng phục.

Ô ng nhấn mạnh sự tự do trong Ga-la-ti và sự vâng phục trong I Cô-rinh-tô để sửa lại những sai

trật mà mỗi hội thánh đang đối diện. Nếu chúng ta không thể nhìn thấy được tính tình huống

trong các thư tín thì chúng ta dễ bị cám dỗ kết luận quá nhiều từ một lá thư. Điều này có thể dễ

dẫn chúng ta đến việc giải nghĩa sai các thư tín.

Vì các thư tín mang tính hình huống nên chúng ta phải cố tái tạo lại tình huống trong

lá thư đó. Ví dụ những gì đang xảy ra tại Tê-sa-lô-ni-ca hay Phi-líp khiến cho Phao-lô viết I&II

Tê-sa-lô-ni-ca hay Phi-líp? Biết được tình huống gốc sẽ giúp chúng ta khi nhận định những

nguyên tắc thần học trong chính lá thư đó. Nhưng tái tạo tình huống của một lá thư thì không dễ.

Đọc một lá thư Tân Ước thì giống như nghe từ một đầu của cuộc nói chuyện trên điện thoại.

Chúng ta chỉ nghe những điều các tác giả lá thư Tân Ước như Phi-e-rơ hay Giăng đang nói.

Chúng ta không nghe những gì độc giả đang nói với họ. Chúng ta nghe phản hồi hay trả lời

nhưng chúng không biết chắc câu hỏi là gì. Dầu vậy những tác giả này đang đáp ứng lại với tình

huống thật của cuộc sống. Phần sau của chương này chúng ta sẽ nói về cách để tái tạo tình huống

gốc.

Page 121: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

118

Viết Và Gởi Một Cách Cẩn Thận

Tiến trình soạn và gởi một lá thư trong Tân Ước phức tạp hơn chúng ta tưởng. Công

việc thật sự của việc viết một lá thư thường được giao cho một thư ký. Trong Rô-ma 16:22,

người thư ký tự nhận mình là: “Tôi, Ti-tút, người viết lá thư này chào thăm anh em trong Chúa”.

Điều này không có nghĩa Ti-tút là tác giả của lá thư này nhưng ông làm thư ký cho Phao-lô trong

trường hợp này. Một vài thư ký được quyền tự do nhiều hơn nhưng một số thì ít hơn trong việc

viết thư. Cho dù trường hợp nào, tác giả (không phải thư ký) chịu trách nhiệm cho nội dung cuối

cùng của lá thư. Ở phần cuối của lá thư, thông thường tác giả cầm bút và thêm vào lời chào thăm

cuối cùng bằng chính chữ viết của mình.

Tôi là Phao-lô, chính tay tôi viết chào thăm anh em (I Cô. 16:21; Cô. 4:18).

Chính tay tôi, là Phao-lô, viết lời chào thăm nầy cho anh em: ấy đó là dấu ký của tôi trong

mọi thơ từ của tôi, tôi viết như vậy. (II Tê. 3:17)

Điều này khẳng định rằng thư ký viết tất cả trừ dòng cuối. Hầu hết các lá thư trong

Tân Ước đều viết theo cách này.

Cùng với thư ký, người đồng gởi thư đóng vai trò quan trọng trong những lá thư Tân

Ước. Khởi đầu của tám lá thư của mình, Phao-lô đề cập đến người đồng gởi. Trong sáu lá thư

ông đề cập đến Ti-mô-thê (II Cô-rinh-tô, Phi-líp, Cô-lô-se, I&II Tê-sa-lô-ni-ca, Phi-lê-môn);

Trong I&II Tê-sa-lô-ni-ca, ông còn đề cập đến cả Si-la và Ti-mô-thê. Trong Ga-la-ti ông nói đến

“hết thảy anh em ở với tôi” và trong I Cô-rinh-tô chính Phao-lô và “anh Sốt- then của chúng ta”.

Chúng ta có thể thấy rằng có lẽ Phao-lô và những cộng sự thảo luận, phát họa, hiệu đính và viết

lại một lá thư nhiều lần trước khi nó hoàn tất. Những người đồng viết thư này không chỉ được đề

cập một cách trân trọng. Cùng với Phao-lô, họ tham gia tích cực vào chức vụ giữa những người

mà lá thư này gởi đến.

Sau khi hoàn tất một lá thư, nó được gởi đi. Có hệ thống bưu chính trong thế kỷ thứ

nhất, nhưng nó chỉ được nhân viên chính phủ dùng mà thôi (báo cáo quân sự, thư ngoại giao…).

Những công dân giàu có thì dùng nô lệ hay thuê người mang thư nhưng những công dân bình

thường thì phải phụ thuộc vào những người mà họ có công việc đi về hướng mà lá thư cần đến.

Phao-lô dùng những người bạn đáng tin như Ti-chi-cơ mang thư cho mình:

Vả, muốn cho anh em cũng biết những sự thuộc về tôi và việc tôi làm, thì có Ti-chi-cơ,

anh em rất yêu dấu của chúng ta, là tôi tớ trung thành của Chúa, sẽ báo tin mọi sự cho

anh em. Tôi đã sai người đi, có ý cho anh em biết tình cảnh chúng tôi là thể nào, để yên

ủi lòng anh em. (Ê-phê-sô 6:21-22).

Page 122: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

119

Ti-chi-cơ là anh em rất yêu của chúng tôi, một người tôi tớ trung thành của Chúa và

bạn cùng làm việc với tôi, sẽ báo tin cho anh em về các việc của tôi Tôi có ý sai người

đến cùng anh em, hầu cho anh em biết tình cảnh chúng tôi là thể nào, đặng người yên

ủi lòng anh em. Kẻ cùng đi với người là Ô -nê-sim, anh em trung tín và rất yêu của

chúng tôi, tức là người đồng xứ với anh em vậy. Hai người đó sẽ nói cho biết hết mọi

điều xảy ra ở đây. (Cô. 4:7-9).

Những lá thư được những người trung tín mang đi vô cùng quan trọng vì không

những đưa thư an toàn mà còn có thể trực tiếp giải thích chi tiết.

Được Chủ Định Cho Cộng Đồng Cơ Đốc

Những thư tín Tân Ước được đọc lớn nhiều lần cho nhiều hội thánh. Khi chúng ta đọc

những thư tín Tân Ước, chúng ta thường đọc một cách yên lặng. Nhưng vì một số lý do, những

người trong thế kỷ thứ nhất thích đọc những lá thư đó lớn cho nhiều người cùng nghe. Một lý do

là những lá thư như vậy rất giá trị nên không thể cho từng gia đình mượn đem về nhà. Những Cơ

Đốc Nhân người Do Thái cũng quen nghe đọc Kinh Thánh lớn trong buổi thờ phượng trong nhà

hội. Và dĩ nhiên, cũng có một số người không biết đọc. Do đó những thư tín thường được đọc

lớn vì lợi ích chung. Chúng ta có thể thấy điều này trong sách Khải huyền. Một phước hạnh được

dành cho người đọc (lớn) và phước hạnh dành cho người nghe những lời tiên tri này:

Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ theo điều đã viết ra đây.

Vì thì giờ đã gần rồi. (Khải 1:3)

Trong phần trong lá thư của mình, Phao-lô cũng nó rõ đến việc đọc lớn thư của mình:

Anh em đọc thơ nầy rồi, hãy đưa cho Hội thánh Lao-đi-xê đọc với, anh em cũng phải

đọc thơ ở Lao-đi-xê gởi đến nữa. (Cô.4:16)

Tôi nhân Chúa nài xin anh em hãy đọc thơ nầy cho hết thảy anh em đều nghe. (I Tê. 5:27)

Hỡi anh em, vậy thì hãy đứng vững, hãy vâng giữ những điều dạy dỗ mà chúng tôi đã

truyền cho anh em, hoặc bằng lời nói, hoặc bằng thơ từ của chúng tôi. (II Tê. 2:15)

Ngay cả lá thư cá nhân Phao-lô gởi cho Phi-lê-môn không chỉ cho Phi-lê-môn đọc

mà cho Hội Thánh nhóm lại tại nhà của ông (Phi. 1-2). Mọi người trong cộng đồng Cơ Đốc được

hưởng phước từ việc nghe đọc lá thư lớn tiếng nhiều lần.

Hơn nữa, những thư tín Tân Ước còn được trao đổi cho các Hội Thánh khác. Khi viết

thư cho một số hội thánh nào đó, những tác giả thường thấy lời của họ thích hợp và ích lợi cho

cộng đồng Cơ Đốc lớn hơn. Từ Cô. 4:16, chúng ta biết Phao-lô muốn lá thư cho người Cô-lô-se

cũng được đọc cho người Lao-đi-xê và ông muốn lá thư ông gởi cho người Lao-đi-xê cũng được

đọc trong hội thánh Cô-lô-se.

Page 123: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

120

Tóm lại, thư tín Tân Ước thường dài hơn những cổ thư khác và nằm giữa hai cực của

lá thư cá nhân và lá thư văn chương trang trọng. Những lá thư có chức năng thay thế cho sự hiện

diện của tác giả. Chúng thường mang tính tình huống, có nghĩa là chúng được viết cho những

hoàn cảnh riêng nào đó trong cộng đồng nhận lá thư đó. Tác giả quan tâm đến viết áp dụng thần

học vào thực tế của đời sống nhất định. Những thư tín này được viết và gởi một cách cẩn thận

đến các Hội Thánh. Những hội thánh này thường đọc to nhiều lần và chia xẻ với các hội thánh

khác.

Hình Thức Của Thư Tín Tân Ước

Khi chúng ta viết thư, chúng ta dùng một hình thức hay cấu trúc tương tự như trong

khung bên dưới:

Ngày tháng năm

Tên

Địa chỉ

Lời chào

Phần chính

Kết luận

Ký tên

Thế giới cổ cũng có một hình thức chuẩn và hầu hết những thư tín Tân Ước đi theo

dạng này. Hình thức đó bao gồm phần giới thiệu, thân bài và kết luận. Chúng ta cùng xem từng

phần cụ thể hơn.

Phần Giới Thiệu

Có bốn yếu tố trong phần giới thiệu – tên tác giả, tên người nhận, lời chào thăm và

một lời cầu nguyện giới thiệu. Trong những lá thư của chúng ta, chúng ta thường đề cập tên của

người viết ở cuối cùng, nhưng trong những cổ thư, tên của người viết được ghi trước rồi đến tên

của người nhận. Sau đây là vài ví dụ:

Page 124: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

121

Phao-lô, làm sứ đồ, chẳng phải bởi loài người, cũng không nhờ một người nào, bèn là bởi

Đức Chúa Jêsus Christ và Đức Chúa Trời, tức là Cha, Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống

lại, cùng hết thảy anh em ở với tôi, gởi cho các Hội thánh ở xứ Ga-la-ti (Ga.1:1-2).

Thông thường người viết và người nhận được miêu tả cụ thể hơn trong phần đầu để

cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết nhiều hơn về lá thư. Ví dụ, vì quyền sứ đồ của Phao-lô bị

nghi vấn ở Ga-la-ti nên ông bắt đầu lá thư cho người Ga-la-ti bằng cách nhấn mạnh rằng chức sứ

đồ của ông xuất phát từ Đức Chúa Trời. Cũng thiếu từ ngữ tình cảm trong thư Ga-la-ti (như

“thánh đồ” hay “yêu dấu”) khiến cho lá thư có giọng điệu gay gắt. Khi viết thư cho tín hữu Phi-

líp đang tranh chiến với sự chia rẽ, Phao-lô không gọi mình là sứ đồ mà gọi mình là “đầy tớ”. Có

lẽ từ đầu ông đang muốn dạy cho người Phi-líp rằng họ cần sự khiêm nhường của một người đầy

tớ để giữ sự hiệp một.

Gia-cơ không đề cập gì về thân thế của ông là em của Chúa Giê-xu nhưng ông miêu

tả mình là một “đầy tớ của Đức Chúa Trời và của Đức Chúa Giê-xu Christ”. Uy quyền lãnh đạo

của ông đến từ thiên thượng chứ không phải vì mối quan hệ máu mủ với Chúa Giê-xu. Gia-cơ

cũng viết cho “mười hai chi phái tản lạc khắp thế gian” để khẳng định ông đang viết cho các tín

hữu người Giu-đa đang bị tản lạc vì sự bách hại.

Lời chào thăm thường đi theo lời giới thiệu của tác giả và người nhận. Hầu hết các cổ

thư đều bắt đầu với từ “chairein” (chào thăm). Cả Phao-lô và Phi-e-rơ thay thế từ chairein bằng

từ charis (ân điển) và thêm vào lời chào thăm thông thường của người Do Thái “bình an”. Bằng

cách này họ hoàn toàn thay đổi lời chào thăm chuẩn của người xưa và nó mang ý nghĩa Cơ Đốc.

“Ân điển và sự bình an cho anh em” là một lời chào thăm, nhưng nó cũng là lời cầu nguyện để

người nhận có thể tiếp tục kinh nghiệm được ân điển và sự bình an vô hạn của Đức Chúa Trời.

Yếu tố cuối cùng trong phần giới thiệu là lời cầu nguyện. Những cổ thư Hy-lạp

thường bắt đầu với lời cầu nguyện cùng các thần. Hầu hết các thư tín của Phao-lô bắt đầu với

một lời cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời vì những điều Ngài đã làm trên người nhận. Dưới đây

là lời cầu nguyện mở đầu trong I Cô-rinh-tô:

Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban

ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ; vì chưng anh em đã được dư dật về mọi điều ban cho,

cả lời nói và sự hiểu biết, như lời chứng về Đấng Christ đã được vững bền giữa anh em.

Anh em đang trông đợi kỳ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta hiện đến, cũng chẳng thiếu

một ơn nào. Ngài sẽ khiến anh em được vững bền đến cuối cùng, để khỏi bị quở trách

trong ngày của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài đã

gọi anh em được thông công với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta

(1:4-9).

Cùng với việc bày tỏ lòng biết ơn vì những gì Đức Chúa Trời đã làm, Phao-lô dùng

phần cầu nguyện để giới thiệu những chủ đề quan trọng sẽ được phát triển sau này trong lá thư.

Ví dụ, trong phân đoạn ở I Cô-rinh-tô ở trên, ông nói với độc giả rằng họ được giàu có trong mọi

Page 125: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

122

hiểu biết và “không thiếu một ân tứ thiêng liêng nào”. Phần sau trong I Cô-rinh-tô, Phao-lô sẽ

mở rộng về sự hiểu biết và ân tứ thiêng liêng – hai vấn đề của người Cô-rinh-tô.

Khi có những thay đổi trong lời cầu nguyện/cảm tạ thì chúng ta phải chú ý. Ví dụ, khi

Phao-lô bỏ lời cầu nguyện cảm tạ trong thơ Ga-la-ti và chuyển thẳng từ phần chào thăm đến sự

quở trách, ông gởi một dấu hiệu rằng ông đang rất buồn vì họ đã lìa bỏ tin lành của Đấng Christ

để đi theo chủ nghĩa giáo điều.

Phần Nội Dung Chính

Vì phần chính của lá thư là phần mà tác giả nói về những tình huống riêng mà hội

thánh đang đối diện nên nó thường là phần dài nhất trong lá thư. Không có thể thức nhất định

cho phần nội dung của thư tín Tân Ước. Những mục đích khác nhau của tác giả và những hoàn

cảnh khác nhau của độc giả tạo nên những thể thức khác nhau của lá thư. Trong nội dung chính

của một lá thư bạn sẽ thấy lời chỉ dạy, thuyết phục, quở trách, khuyên lơn và hơn thế nữa.

Phần Kết Luận

Có nhiều yếu tố khác nhau trong phần kết luận của thư tín Tân Ước

o Kế hoạch hành trình: ví dụ: Tít 3:12; Phi-lê-môn 22

o Khen người bạn đồng lao: ví dụ: Rô. 16:1-2

o Lời cầu nguyện: ví dụ: II Tê. 3:16: Hê. 13:20-21

o Xin cầu nguyện: ví dụ: I Tê. 5:25; Hê. 14:18-19

o Chào thăm: ví dụ: Rôm 16:3-16,21-23; Hê. 13:24; II Giăng 13

o Lời khuyên dạy cuối cùng: ví dụ: Cô. 4:16-17; I Tim. 6:20-21

o Cái hôn thánh: ví dụ: I Tê. 5:26; I Phi. 5:14

o Lời chúc phước: ví dụ: I Cô. 16:23-24; Ê -phê-sô 6:23-24

Không phải tất cả các yếu tố này đều có mặt trong mỗi lá thư và tác giả không đi theo

một khuôn mẫu nhất định nào. Dầu vậy, yếu tố cuối cùng thông thường là lời chúc phước ân

điển (“ân điển ở với anh em”)

Không phải mọi thư tín Tân Ước đều đi theo hình thức viết thư chuẩn như trên. Thư

Hê-bơ-rơ không bắt đầu như những lá thư thông thường khác nhưng kết thúc tương tự. Tác

giả vô danh của sách Hê-bơ-rơ nói về sách của mình như là “lời khuyên dạy” hay một bài

giảng (Hê-bơ-rơ 13:22). Gia-cơ khởi đầu lá thư của mình như là lá thư thông thường nhưng

kết thúc thì không như một lá thư. Nó được tổ chức như một sự thu thập các bài giảng ngắn

hướng đến độc giả chung hơn. I Giăng không bắt đầu và kết thúc như là một lá thư thông

thường, nhưng nó được viết cho một nhóm người nhất định (I Giăng 2:7,12-14, 19,26).

Page 126: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

123

Bây giờ bạn đã có một hiểu biết tổng quát về những đặc điểm quan trọng của những

thư tín tân Ước và những hình thức của nó. Chúng ta hãy cùng xem cách giải nghĩa những

thư tín này.

Cách Giải Nghĩa Thư Tín Tân Ước

Để giải nghĩa thư tín Tân ước, chúng ta hãy quay về với bốn bước của Hành Trình

Giải Kinh trong chương 1.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bắt đầu đọc toàn bộ lá thư một lần. Điều này tốn thời gian hơn với những lá thư dài hơn

nhưng đó là cách duy nhất có thể nhìn thấy được bức tranh tổng quát của lá thư. Trước khi bước

vào lá thư, bạn phải chịu khó nắm được những yếu tố vừa trình bày ở trên. Bạn có thể muốn ghi

lại những chủ đề chính mà bạn gặp khi đọc lá thư hoặc là bạn có thể chờ cho đến khi kết thúc và

tóm tắt ý chính của lá thư trong một hoặc hai câu.

Cả lá thư cổ và hiện đại đều phải được đọc từ đầu đến cuối. Đừng để những sự phân chia

đoạn-câu trong lá thư khiến bạn bỏ qua một vài phần mà chỉ tập trung vào những phần nhỏ một

cách tách biệt. Chúng ta bắt đầu hiểu đoạn Kinh Thánh có nghĩa gì đối với độc giả thời Kinh

Thánh bằng cách đọc toàn bộ lá thư từ đầu đến cuối.

Vì thư tín mang tính tình huống nên bước tiếp theo trong việc khám phá ý nghĩa của phân

đoạn Kinh thánh cho độc giả thời đó là tái dựng bối cảnh lịch sử-văn hóa của tác giả Kinh thánh

và độc giả của mình. Bạn có nhớ cách thức này trong chương 6 không? Dùng những trợ cụ như

thánh kinh từ điển và sách giải kinh sẽ giúp bạn trả lời được những câu hỏi sau:

Ai là tác giả?

Xuất thân của ông?

Ô ng viết khi nào?

Bản chất của chức vụ của ông là gì?

Ô ng có mối quan hệ gì với độc giả?

Tại sao ông viết thư này?

Độc giả thời Kinh thánh là ai?

Hoàn cảnh của họ như thế nào?

Mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời như thế nào?

Mối quan hệ của họ đối với tác giả và với nhau như thế nào?

Điều gì xảy ra ở thời điểm ông viết thư tín này?

Có yếu tố lịch sử-văn hóa nào giúp làm sáng tỏ thư tín này không?

Page 127: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

124

Tái dựng tình huống gốc không phải lúc nào cũng dễ dàng. Vì đọc thư tín Tân Ước giống

như nghe một chiều từ cuộc nói chuyện trên điện thoại, nên chúng ta phải tìm hiểu ẩn ý để tái

dựng tình huống gốc. Điều này có thể nguy hiểm nếu chúng ta tạo một tình huống mà không có

bằng chứng từ chính lá thư. Dầu vậy, chúng ta không có nhiều lựa chọn ngoại trừ tìm hiểu ẩn ý

của lá thư. Làm sao chúng ta có thể làm được điều này? Cách tốt nhất là đọc lá thư cẩn thận và

thu thập những mảng thông tin mà bạn có thể dùng để tái dựng lại tình huống. (Nếu bạn đang

học các thư tín của Phao-lô, bạn có thể tìm được nhiều thông tin từ sách Công vụ Các Sứ đồ).

Sau đó dùng từ điển, sách giải kinh và những học cụ khác để thấy những học giả nói gì về bối

cảnh lịch sử-văn hóa của lá thư. Tóm tắt tình huống được tái dựng của bạn thành một hoặc hai

câu.

Sau khi bạn có được một ý tưởng về hoàn cảnh của tác giả và độc giả, bạn cần nhận ra

bối cảnh văn chương của phân đoạn Kinh Thánh mà bạn đang học. Như đã học trong chương 7,

mục đích chính khi tìm bối cảnh văn chương là để truy lại dòng suy nghĩ của tác giả. Trong

trường hợp của thư tín Tân Ước, hãy nhớ suy nghĩ về phân đoạn đó. Tóm tắt ý chính trong các

phân đoạn thượng hạ và chính phân đoạn đang học. Tìm xem những phân đoạn này liên kết với

nhau như thế nào để truyền tải sứ điệp của tác giả. Đặc biệt, tìm vai trò phân đoạn Kinh Thánh

của bạn trong dòng suy nghĩ của tác giả. Tóm tắt những điều bạn đã tìm được.

Sau khi đọc toàn bộ lá thư, tái dựng hoàn cảnh lịch sử-văn hóa và tìm dòng suy nghĩ của

tác giả trong những phân đoạn xung quanh phân đoạn bạn đang học. Xác định phân đoạn đó có

ý nghĩa gì đối với độc giả thời đó. Dùng khả năng quan sát của bạn để đọc đoạn Kinh Thánh một

cách cẩn thận. Tìm chi tiết. Chú ý những nối kết quan trọng. Học những từ quan trọng. Cuối

cùng, viết một câu về ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh đó cho độc giả của thế kỷ thứ nhất.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Trong các thư tín Tân Ước, dòng sông khác biệt thường không rộng. Những thư tín được

viết cho các tín hữu (thường là cho tín hữu người Do Thái), không phải cho dân Y-sơ-ra-ên thời

Cựu Ước hay cho những nhà lãnh đạo Do Thái chống nghịch với Chúa Giê-xu và Hội Thánh đầu

tiên.

Dầu vậy, ngay cả trong các thư tín, dòng sông khác biệt cũng là một thách thức lớn. Mặc

dầu những thư tín đó được viết cho các Cơ Đốc Nhân như chúng ta nhưng thỉnh thoảng nó cũng

liên quan đến những tình huống khác với của chúng ta. Tại đây, dòng sông trở nên rộng hơn và

khó vượt qua hơn. Ví dụ, khi Phao-lô nói về vấn đề ăn thịt cúng cho thần tượng trong I Cô. 8,

dòng sông khá rộng. Lần gần nhất bạn phải tranh chiến với việc có nên ăn thịt cúng cho thần

tượng là khi nào? Nhưng khi Phao-lô viết về việc tránh xa khỏi phạm tội tà dâm (I Cô. 6:18-20)

hoặc sự nổi bật của tình yêu (I Cô. 13:1-13), dòng sông có lẽ hẹp hơn và dễ nhảy qua hơn. Sau

khi kiểm tra lại phân đoạn của bạn, viết lại một phân đoạn mô tả những sự khác biệt xác định

chiều rộng của dòng sông bạn cần vượt qua.

Page 128: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

125

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Tại đây, chúng ta tìm những nguyên tắc thần học được phản ảnh trong ý nghĩa của đoạn

Kinh Thánh mà bạn vừa nhận thấy trong bước 1. Đức Chúa Trời không chỉ bày tỏ ý nghĩa đặc

biệt cho những độc giả thời Kinh Thánh mà cũng gởi một sứ điệp thần học lớn hơn qua cùng một

đoạn Kinh Thánh cho tất cả dân sự của Ngài. Khi tìm được sự khác nhau và giống nhau của hoàn

cảnh của chúng ta với hoàn cảnh của thời Kinh Thánh rồi, chúng ta cố gắng nhận ra những

nguyên tắc thần học được phản ảnh trong đoạn Kinh Thánh. Viết xuống những nguyên tắc trong

một hoặc hai câu, dùng thì hiện tại. Ví dụ trong chương 1, chúng tôi cung cấp cho bạn một

nguyên tắc thần học như sau trong Giô-suê 1:1-9: “Để hiệu quả trong sự phục vụ Đức Chúa Trời

và thành công trong công tác mà Chúa đã giao cho chúng ta, chúng ta phải tìm sức mạnh và lòng

can đảm từ sự hiện diện của Ngài. Chúng ta cũng phải vâng phục Lời của Đức Chúa Trời, suy

gẫm nó thường xuyên.”

Trong cuốn sách Áp dụng Kinh Thánh, Jack Kyhatschek đề cập đến ba câu hỏi có thể

giúp chúng ta tìm được những nguyên tắc thần học trong một phân đoạn Kinh thánh. (1) Tác giả

có khẳng định một nguyên tắc nào không? Thông thường trong các thư tín Tân Ước, tác giả

khẳng định sứ điệp của mình trong hình thức của một nguyên tắc thần học (vd. Ê -phê-sô 6:1:

“Hỡi người là con, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa”). Khi gặp điều này, bạn vừa mới có

một nguyên tắc cho mình.

(2) Bối cảnh rộng hơn có bày tỏ một nguyên tắc thần học không? Thỉnh thoảng, tác giả

cung cấp nguyên tắc thần học trong bối cảnh xung quanh. Ví dụ, trong Ê-phê-sô 5:12, Phao-lô

viết: “Hãy kính sợ Đấng Christ mà vâng phục nhau”. Ông tiếp với nguyên tắc chung này bằng

những điển hình khác nhau về những người trong gia đình cổ vâng phục nhau (vợ/chồng, con

cái/cha mẹ, đầy tớ/chủ). Nếu bạn gặp một trong những điển hình này, bạn cần nhận thức được

nguyên tắc chung được cung cấp trong phần trước 5:21.

(3) Chúng ta nên hỏi tại sao một mạng lịnh hay lời dạy riêng biệt được chỉ bảo. Thỉnh

thoảng, khi bạn suy gẫm đằng sau mạng lịnh hay lời chỉ dẫn nào đó, bạn cũng sẽ tìm thấy nguyên

tắc thần học. Ví dụ, trong Ga-la-ti 5:2 Phao-lô viết: “Tôi là Phao-lô nói với anh em rằng, nếu anh

em chịu làm phép cắt bì, thì Đấng Christ không bổ ích chi cho anh em hết.” Khi chúng ta hỏi tại

sao sứ đồ Phao-lô cấm người Ga-la-ti cắt bì, chúng ta tìm thấy nguyên tắc thần học là con người

không đạt được sự chấp nhận của Đức Chúa Trời nhờ giữ luật pháp hay bởi công đức của con

người. Ân điển của Chúa ban cho miễn phí.

Sau khi bạn viết ra những nguyên tắc của bạn trong một hoặc hai câu trong thì hiện tại,

hãy kiểm tra thử nó có thích ứng với tiêu chuẩn được nêu trong chương 1 không (xem bên dưới).

Điều này giúp bạn xác định được bạn có thật sự tìm được nguyên tắc thần học đúng hay không:

Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.

Page 129: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

126

Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.

Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.

Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.

Những nguyên tắc thần học đóng vai trò như là chiếc cầu bắt qua dòng sông ngăn cách

của lịch sử và văn hóa. Dòng sông này chia cắt bản kinh văn cổ với độc giả thời hiện đại.

Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Trong bước cuối của việc giải nghĩa thư tín Tân Ước, chúng ta áp dụng nguyên tắc thần

học cho Cơ Đốc Nhân ngày nay. Hãy nhớ rằng khi những nguyên tắc này được xác định bằng ý

nghĩa của đoạn Kinh Thánh thì chúng có thể được áp dụng trong nhiều cách khác nhau ngày nay.

Trong chương 12, chúng ta đã học về cách để áp dụng những nguyên tắc thần học và đã dùng

một phân đoạn Kinh Thánh từ một lá thư Tân Ước để minh họa cho tiến trình đó (Phi. 4:13).

Có ba bước. (a) Chúng ta quan sát những nguyên tắc thần học trong đoạn Kinh thánh

phản ảnh hoàn cảnh gốc như thế nào. Chúng ta nhận ra những yếu tố then chốt có mặt trong phần

giao kết giữa nguyên tắc và hoàn cảnh. (b) Chúng ta tìm một hoàn cảnh trong đời sống hay thế

giới của chúng ta mà bao gồm tất cả những yếu tố then chốt này. Khi chúng ta tìm được hoàn

cảnh tương đương hiện tại, chúng ta có thể quả quyết rằng chúng ta đang áp dụng đúng ý nghĩa

của đoạn Kinh Thánh. (c) Chúng ta cần làm cho sự áp dụng của chúng ta cụ thể. Hãy nhớ là để

nắm bắt được Lời của Chúa, chúng ta cần áp dụng những điều chúng ta học.

Thực Hiện Hành Trình Giải Kinh

Trong phần trước, chúng ta đã ôn lại bốn bước của Hành Trình Giải Kinh. Những

bước này rất quan trọng cho sự hiểu biết và áp dụng các thư tín Tân Ước. Chúng ta cần một ví dụ

để minh họa cho những gì chúng ta đã nêu lên. Chúng ta hãy cùng dùng Hê. 12:1-2 để minh họa

bốn bước trong Hành Trình Giải Kinh của chúng ta. Chúng tôi hi vọng điều này sẽ làm rõ những

điều bạn cần làm trong việc giải nghĩa các thư tín Tân Ước.

Hê-bơ-rơ 12:1-2

1 Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta

cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc

chạy đua đã bày ra cho ta, 2 nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin,

tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục,

và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời.

Page 130: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

127

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Khi bạn đọc sách Hê-bơ-rơ từ đầu đến cuối, bạn sẽ để ý đến một giọng khá căng

thẳng khi Đức Chúa Trời phán mạnh mẽ qua tác giả về cái giá của một môn đệ. Đọc sách này có

phần giống với một bài giảng (13:22). Bạn cũng có thể để ý đến sự tập trung vào Chúa Giê-xu

với nhiều từ sử dụng từ Cựu ước. Khi bạn tham khảo những học cụ để tái dựng lại hoàn cảnh lịch

sử-văn hóa, bạn có thể dễ dàng nhìn thấy tại sao sách Hê-bơ-rơ nghe có vẻ khẩn cấp.

Những tín hữu được nói đến trong sách Hê-bơ-rơ có thể xuất thân từ người Do Thái

và đã thành lập hội thánh tư gia ở trong hay ở gần thành phố Rô-ma. Lá thư này được viết vào

khoảng giữa những năm sáu mươi sau Chúa, chỉ trước khoảng thời gian bị bắt bớ nghiêm trọng

dưới thời hoàng đế Nê-rô. Một nhóm tín hữu đang đối diện với cám dỗ từ bỏ Cơ Đốc giáo để trở

lại với Do Thái giáo hầu cho họ có được cuộc sống dễ chịu hơn. Cũng có sự ngã lòng cũng như

lung lạc lòng tận hiến của họ với Đấng Christ. Không ai biết chắc ai là tác giả của thư tín này

nhưng mục đích thì rõ ràng. Ông viết thư này để khuyến khích các tín hữu đang đối diện với

thách thức là sự cám dỗ từ bỏ Cơ Đốc Giáo để trở lại với Do Thái giáo và lung lạc lòng tận hiến

của họ với Đấng Christ. Thư tín này đầy những lời chỉ dạy về sự vượt trội của Đấng Christ và

cảnh báo họ phải giữ đức tin.

Bước tiếp theo để nắm bắt được ý nghĩa gốc của Hê-bơ-rơ 12:1-2 là nhận biết bối

cảnh văn chương. Ý tưởng của tác giả chạy suốt phần này của lá thư như thế nào? Từ “thế thì”

trong đoạn 12:1-2 cho chúng ta thấy rằng phân đoạn của chúng ta có liên hệ chặt chẽ với chương

trước. Hê-bơ-rơ 11 – thường được gọi là “Nhà Đức Tin” – trình bày từng hình ảnh của những vị

thánh thời xưa chịu đựng trong đức tin. Trong Hê-bơ-rơ 12:1-2 tác giả dùng hình ảnh cuộc đua

và gương mẫu của Chúa Giê-xu để dạy cho độc giả của mình chịu đựng trong đức tin. Trong

phân đoạn tiếp theo (12:3-11), tác giả dùng một liên hệ về tình yêu của người cha đối với con

mình để giải thích tại sao các tín hữu phải chịu lấy sự khó nhọc như là sự bày tở tình yêu của

mình với Đức Chúa Trời. Chủ đề về sự chịu đựng trong thời ký khó khăn nối những phân đoạn

này lại với nhau.

Sau khi chúng ta nắm được bối cảnh của phân đoạn Kinh Thánh trước khi chúng ta

tóm tắt ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả ngày xưa, chúng ta cần quan sát đoạn Kinh

thánh này một cách cẩn thận. Câu: “chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây

rất lớn” nói đến những gương mẫu đức tin được liệt kê trong Hê. 11. Những gương mẫu đức tin

này là một sự khích lệ cần thiết cho những hội thánh tư gia đang tranh chiến. Biết rằng nhiều

người đã bước đi con đường gian khó và nhận thấy Đức Chúa Trời là thành tín, độc giả thời Kinh

Thánh được kêu gọi “quăng hết” những điều ngăn trở và tội lỗi dễ vấn vương, (2) chạy cuộc đua

với sự kiên trì, (3) chăm xem Chúa Giê-xu là gương mẫu cao nhất của đức tin.

Page 131: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

128

Tác giả dùng hình ảnh của một cuộc đua để minh họa cho bản chất của cuộc đời Cơ

Đốc. Hình ảnh này áp đảo cách chúng ta hiểu được nhiều từ và ngữ then chốt trong đoạn Kinh

Thánh này. Chạy cuộc đua này đòi hỏi cả nỗ lực lẫn kiên nhẫn. Nó cũng cho chúng ta thấy rằng

ý của tác giả muốn nói đến một cuộc đua đường trường hơn là chặng đường ngắn. Người chạy

phải bỏ mọi thứ ngăn trở.

Những người chạy này được thách thức để chạy cuộc đua đã được định. Điều này có

nghĩa là người đua phải đặt đức tin vào hành trình đua và chấp nhận khó khăn. Nhưng những

người chạy như vậy không phải chạy theo sức riêng của mình. Tức là, một phần tại sao họ được

khuyên là phải chăm xem Chúa Giê-xu “là cội rễ và cuối cùng của đức tin”. Guthrie nhận định

rằng, từ “cội rễ” có thể gần với ý về người tiên phong hay người khởi xướng”. Từ người tiên

phong thích hợp với hình ảnh cuộc đua và khi được so sánh với ý tưởng “cuối cùng”, từ này dạy

rằng Chúa Giê-xu “đã dọn sạch con đường của đức tin để chúng ta có thể chạy cuộc đua. Con

đường được mở ra và mặc dầu khó khăn vẫn còn nhưng những ngăn trở đã được dọn trước rồi”.5

Chúa Giê-xu không chỉ là là gương mẫu cao cả nhất về sự chịu đựng mà Ngài còn

giúp đỡ những người đi theo Ngài trong sự chịu đựng vì chính Ngài tập trung vào phần thưởng

đặt ngoài sự ngăn trở của sự đau khổ. Niềm vui tương lai đặt trước Chúa Giê-xu giúp Ngài chịu

được thập tự giá. Hơn nữa Ngài còn “khinh” điều sỉ nhục của thập tự giá hay xem nó không quan

trọng so với những phần thưởng cao quý sắp đến. Vì chịu đựng, Ngài được ‘ngồi bên hữu ngai

của Đức Chúa Trời”.

Chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa của Hê. 12:1-2 cho độc giả thời Kinh Thánh theo

cách sau đây: Tác giả dùng hình ảnh về một cuộc đua đường trường để thách thức độc giả của

mình chịu đựng vì sự tận hiến của họ với Đấng Christ dù phải chịu chống đối. Thay vì tránh xa

khỏi Đấng Christ và trở lại với Do Thái giáo, họ cần phải chạy cuộc đua với sự kiên nhẫn. Họ

được khích lệ và thức tỉnh khi nhìn các thánh trung tín đã chịu đựng trong đức tin. Họ được

khuyến khích chăm xem Chúa Giê-xu, là gương mẫu tối cao về sự chịu đựng hơn là những hoàn

cảnh khó khăn hiện thời.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Giống như hầu hết các các tình huống trong các thư tín, dòng sông khác biệt giữa độc

giả thời Kinh Thánh với chúng ta không quá rộng. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta sống theo sự chết

và phục sinh của Đấng Christ giữa một thế giới hận thù, chúng ta cũng xem mình đang tranh đấu

trong một chặng đua trường kỳ trong sự chịu đựng. Chúng ta có nhiều gương trung tín đi trước

chúng ta và chúng ta phải nhìn xem Chúa Giê-xu, là cuối cùng và cội rễ của đức tin của chúng ta.

5 Guthrie, Hebrew, 398.

Page 132: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

129

Tuy nhiên, có một vài khác biệt mà chúng ta cần phải nhận biết khi chúng ta giải

nghĩa đoạn Kinh Thánh này. Nhiều người trong chúng ta không đối diện cùng mức độ chịu bắt

bớ như các tín hữu ban đầu. Chúng ta chịu đựng sự đau khổ ở khía cạnh khác ở thế gian này khi

chúng ta muốn sống cho Chúa và ảnh hưởng đến thế giới này. Hơn nữa hầu hết chúng ta không

bị cám dỗ để quay trở lại với Do Thái giáo hầu cho được thoải mái. Nhưng có những nhóm tà

giáo mà thế gian có thể “chấp nhận” và thường bị cám dỗ để chạy theo con đường an toàn và dễ

chịu đó. Đây có thể là những điểm tương đương.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có nhưng nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Chúng ta có thể tìm thấy ít nhất ba nguyên tắc thần học trong Hê-bơ-rơ 12:1-2:

Cuộc đời của Cơ Đốc Nhân giống như một cuộc đua đường trường gian khó, đòi hỏi phải

nỗ lực và kiên nhẫn.

Các thánh đồ đi trước chúng ta lập cho chúng ta những gương mẫu về sự hi sinh và chịu

đựng vì đức tin. Chúng ta nên tìm sự khích lệ từ nơi này.

Để chạy thành công cuộc đua, chúng ta cần từ bỏ những thứ ngăn trở sự tiến bộ của

chúng ta, và quan trọng nhất chúng ta phải tập trung chăm xem Chúa Giê-xu và mối liên

hệ của chúng ta với Ngài.

Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Để minh họa cho bước áp dụng, chúng ta hãy dùng nguyên tắc đầu tiên trong ba

nguyên tắc trên: “Cuộc đời của Cơ Đốc Nhân giống như một cuộc đua đường trường gian khó,

đòi hỏi phải nỗ lực và kiên nhẫn.” Khi chúng ta tìm cách hiểu được đoạn Kinh thánh trong thời

của chúng ta, chúng ta phải tìm những yếu tố then chốt đang hiện diện trong phần giao kết giữa

nguyên tắc thần học này và hoàn cảnh gốc. Trong trường hợp này, chúng ta tìm thấy vài yếu tố

quan trọng:

Người chạy là Cơ Đốc Nhân và cuộc đua là chính cuộc đời.

Cuộc đua khó khăn và chúng ta có khuynh hướng chạy con đường dễ hơn hoặc bỏ cuộc.

Chạy một cuộc đua thành công đòi hỏi cả nỗ lực lẫn sự chịu đựng.

Chúng ta tiếp tục Hành Trình bằng cách tìm một tình huống hiện tại bao gồm tất cả

những yếu tố then chốt. Vì những yếu tố then chốt trong trường hợp này tổng quát hơn nên

chúng ta có thể dễ tìm một tình huống tương đương. Bất cứ Cơ Đốc Nhân nào có khuynh hướng

bỏ cuộc vì trung tín theo Chúa là quá khó khăn thì cần được nhắc nhở rằng cuộc đua đòi hỏi nỗ

lực và sự chịu đựng. Để nắm được đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta, chúng ta cần phải

áp dụng một cách cụ thể.

Page 133: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

130

Trong những phần khác của Kinh Thánh, ân điển mà Đức Chúa Trời ban cho được

nhấn mạnh. Tuy nhiên đoạn Kinh Thánh này nhấn mạnh đến cách chúng ta đáp ứng lại ân điển

của Ngài. Chúng ta phải nhận ra rằng cuộc đời của chúng ta không phải là một thảm đỏ đầy hoa

hồng. Xã hội của chúng ta không xem sự nhịn nhục như là đức tính tốt, nhưng Đức Chúa Trời

kêu gọi chúng ta từ bỏ sự nóng nảy nhưng phải nhịn nhục. Ngài muốn chúng ta kiên định trước

áp lực và duy trì trong cuộc đua. Ngày nay, để chạy cuộc đua thành công có nghĩa là lựa chọn

đúng đường hôm nay, ngày mai và tuần tới, tháng tới, năm tới và còn nữa. Đức Chúa Trời kêu

gọi chúng ta trung tín duy trì tại đó luôn luôn. Chúng ta phải nhận biết rằng chạy thắng cuộc có

nghĩa là chọn Đấng Christ ngay cả khi bị chế nhạo, bị từ bỏ hay bị đối xử bất công. Chạy với sự

nhịn nhục có nghĩa là giữ thăng bằng và chăm xem Đấng Christ ngay cả khi chúng ta cảm thấy

kiệt sức.

Kết Luận

Chúng ta dùng những lá thư để chuyển tải những cảm xúc, ý nghĩ sâu thẳm của mình.

Khi chúng ta học hai mươi mốt lá thư của Tân Ước, chúng ta chứng kiến những công việc thực

tế của những người môn đồ hóa Cơ Đốc. Những lá thư này như là sự thay thế sự hiện diện của họ

khi họ phải phục vụ từ xa. Chúng được viết để nói đến những hoàn cảnh riêng và để đáp ứng

những nhu cầu thực tế của độc giả của họ. Những lá thư này được chuẩn bị cẩn thận và được đọc

lớn cho cả Hội Thánh cùng nghe.

Khi bạn đến với một thư tín Tân Ước bạn phải nhớ rằng đó là một lá thư chứ không

phải là một danh bạ điện thoại. Những lá thư có nghĩa là được đọc từ đầu đến cuối, giống như

chúng ta đọc thư ngày nay. Xem xét hoàn cảnh lịch sử-văn hóa một cách nghiêm túc và đặt ưu

tiên trong việc tìm dòng ý tưởng của tác giả (tức là bối cảnh văn chương). Sau đó, dùng cây cầu

nguyên tắc để băng qua dòng sông khác biệt và áp dụng ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó vào đời

sống của bạn.

Những thư tín của Tân Ước cho chúng ta một cái nhìn về sự tranh chiến và chiến

thắng của hội thánh đầu tiên. Chúng cung cấp những lời dạy và lời khuyên cho đời sống thánh

thiện. Chúng ta kết thúc chương này với lời kết thúc của thư tín Tân Ước: “Sự bình an ở với anh

em, Amen!”

Page 134: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

131

Chương 14

Tân Ước – Các Sách Phúc  m

Lời Giới Thiệu

Ngay chính trọng tâm của đức tin của chúng là một con người – Giê-xu Christ. Ngài

làm những phép lạ và phán chính “lời của sự sống đời đời” (Giăng 6:68). Một điều mà Chúa Giê-

xu chưa hề làm là xuất bản tiểu sử của Ngài. Không có một quyển sách về chính Chúa Giê-xu thì

làm sao chúng ta biết điều gì về Ngài?

Chắc chắn chúng ta có đủ thông tin về Chúa Giê-xu từ những nguồn bên ngoài Tân

Ước để biết rằng Ngài thật sự hiện hữu. Nhưng hầu hết những chứng nhân trực tiếp về Chúa Giê-

xu đến từ bốn sách Phúc Âm trong kinh điển: Ma-thi-ơ, Mác, Luca và Giăng. Bốn sách Phúc  m

này chứa đựng gần như một nửa của Tân Ước theo số phần trăm. Theo đó, những người theo

Chúa Giê-xu đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta những thông tin tương tự như một tiểu sử của

Chúa Giê-xu. Bốn sách Phúc  m quan trọng vì chúng kể cho chúng ta câu chuyện về Chúa Giê-

xu, con Độc sanh của Đức Chúa Trời.

Trong chương này bạn có thể học được hai điều chính. Trước hết, chúng ta sẽ trả lời

câu hỏi: “Các sách Phúc Âm là gì?” Đặc biệt loại câu chuyện nào mà các tác giả Phúc  m dự

định kể? Chúng có giống như tiểu sử hiện đại không? Nếu vậy, tại sao họ không kể cho chúng ta

mọi điều chúng ta muốn biết về Chúa Giê-xu, như là những gì xảy ra trong thời niên thiếu của

Chúa Giê-xu? Tại sao bốn sách này không đi theo cùng thứ tự thời gian? Chúng ta cần hiểu càng

nhiều càng tốt về thể loại của sách Phúc Âm để có thể đọc các sách Phúc  m.

Một khi chúng ta hiểu được bản chất của các sách Phúc  m, chúng ta có thể chuyển

qua giai đoạn tiếp theo: “Làm thế nào để giải nghĩa các sách Phúc Âm? Có cách nào để nắm bắt

được những ý nghĩa trong các sách Phúc Âm để chúng ta có thể áp dụng vào đời sống của mình

không? Chúng tôi gợi ý một cách để đọc câu chuyện của Chúa Giê-xu. Chúng ta hãy bắt đầu

xem phần quan tâm đầu tiên: thể loại của sách Phúc âm.

Các Sách Phúc  m Là Gì?

Từ phúc âm được dịch từ tiếng Hy-lạp là euangelion, có nghĩa là “tin tức tốt lành”.

Trước thời Tân Ước, từ này thường được dùng để nói về tin tốt lành của một sự đắc thắng về

quân sự hay chính trị. Trong Tân Ước, từ này chỉ về tin tốt lành được Chúa Giê-xu công bố (Mác

1:14-15) hoặc tin tốt lành về Đức Chúa Giê-xu (I Cô-rinh-tô 15:1). Điều dễ thấy là các Cơ Đốc

Nhân ban đầu gọi các sách Ma-thi-ơ, Mác, Luca và Giăng là các sách Phúc Âm. Nhưng làm sao

Page 135: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

132

Đức Thánh Linh linh cảm các tác giả Phúc Âm để trình bày tin tốt lành này? Một sự giải nghĩa

đúng tùy thuộc vào sự nhận biết đúng về thể loại truyền tải đang diễn ra.

Trước hết và trên hết, các sách Phúc  m là những câu chuyện. Mọi người đều thích

câu chuyện nhưng tại sao? Những câu chuyện có gì mà hấp dẫn người ta đến vậy? Chúng ta thấy

mình “bước” vào câu chuyện và liên hệ với các nhân vật trong đó. Bằng cách này chúng ta tham

gia vào câu chuyện. Chúng ta có thể dùng trí tưởng tượng của mình để nhìn thấy được các nhân

vật đang hoạt động trong đó. Các sách Phúc Âm có sức mạnh vì chúng là những câu chuyện.

Nhưng chúng thuộc loại chuyện gì?

Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng được xem như những câu chuyện về Chúa Giê-xu

được viết nên từ những kinh nghiệm cá nhân của các sứ đồ. Khi chúng ta đọc các sách Phúc  m

chúng ta có thể thấy ngay rằng chúng khác với những tiểu sử hiện đại. Các sách Phúc Âm dường

như khác với các tiểu sử hiện đại.

Không giống như những tiểu sử hiện đại, các sách Phúc  m không bao gồm hết cuộc

đời của Chúa Giê-xu, nhưng nhảy từ sự ra đời đến chức vụ công khai. Ma-thi-ơ và Lu-ca có ghi

lại sự giáng sinh của Chúa Giê-xu trong khi Tin lành Mác đi thẳng đến sông Giô-đanh nơi Chúa

Giê-xu chịu phép báp têm lúc đã trưởng thành (Mác 1:9). Mác không đề cập bất cứ điều gì về sự

giáng sinh hay thời trẻ của Chúa Giê-xu.

Thông thường các tác giả Phúc  m sắp xếp những công việc của Chúa Giê-xu theo

chủ đề hơn là theo thứ tự thời gian. Họ ghi lại lời dạy của Ngài bằng nhiều cách khác nhau. Một

sự khác biệt nữa giữa các sách Phúc  m và hầu hết các bản tiểu sử hiện đại là các sách Phúc  m

dành nhiều không gian cho tuần cuối cùng của cuộc đời Chúa Giê-xu. Ví dụ, trong Phúc  m

Giăng, tuần lễ cuối của cuộc đời Chúa Giê-xu bắt đầu từ chương 12. Chúng ta cũng không tìm

thấy điều gì như là sự phân tích tâm lý của Chúa Giê-xu hay những tính cách của Ngài trong các

sách Phúc Âm. Điều dễ thấy là các sách Phúc  m khác với tiểu sử hiện đại.

Nhưng chỉ vì các sách Phúc  m khác với tiểu sử hiện không có nghĩa là chúng không

phải là tiểu sử - nó đơn giản không phải là bản tiểu sử hiện đại. Các nhà viết tiểu sử cổ viết theo

một luật riêng. Những bản tiểu sử cổ thường có một dàn bài, bắt đầu với sự được sinh ra và kết

thúc với sự chết của người đó. Tài liệu giữa sự sinh ra và sự chết của nhân vật gồm những câu

chuyện và phát ngôn được tác giả chọn lọc và sắp xếp để kể cho độc giả một điều quan trọng nào

đó về nhân vật. Khi chúng ta đọc Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng, chúng ta thấy rõ có nhiều

điểm chung với thể loại tiểu sử cổ.

Nếu bạn dành thời gian đọc hết các sách Phúc  m, bạn sẽ để ý rằng trong khi cả bốn

sách đều kể cùng một câu chuyện, thì những chi tiết thay đổi từ sách Phúc Âm này đến sách

Phúc  m khác. Chúng ta thật sự có bốn bản viết về một câu chuyện của Chúa Giê-xu.

Page 136: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

133

Trên một bình diện lớn hơn, bạn thỉnh thoảng cũng thấy một sự thay đổi đáng kể

trong thứ tự của cùng sự kiện được trình bày trong ba sách Phúc Âm đầu tiên. Những sách này

thường được gọi là các sách Phúc Âm Cộng Quan vì chúng có nhiều điểm giống nhau khi đặt

gần nhau. Giăng thường được liệt vào một loại khác. Trong bản bên dưới bạn có thể thấy các tác

giả sách Phúc Âm đặt cùng sự kiện hay câu chuyện theo thứ tự tương đối khác nhau.

Sự kiện Ma-thi-ơ Mác Luca

Chữa lành người phung 8:1-4 1:40-45 5:12-16

Vị quan thành Ca-bê-na-um 8:5-13 Không có 7:1-10

Bà gia Phi-e-rơ 8:14-15 1:29-31 4:38-39

Chữa lành người bịnh 8:16-17 1:32-34 4:40-41

Đi theo Chúa Giê-xu 8:18-22 Không có 9:57-62

Quở sóng gió 8:23-27 4:35-41 8:22-25

Chữa lành người bại 9:1-8 2:1-12 5:17-26

Là người viết tiểu sử cổ, các tác giả sách Phúc  m cảm thấy tự do viết lại hay tóm tắt

những điều Chúa Giê-xu phán và sắp xếp chúng theo những sự kiện theo chủ đề riêng hơn là

theo thứ tự thời gian. Trong phần mở đầu (Luca 1:1-4), Lu-ca chấp nhận là dùng lời chứng của

những người làm chứng trực tiếp và nghiên cứu cẩn thận trong việc kể lại câu chuyện của Chúa

Giê-xu. Mục tiêu của các tác giả Phúc  m là kể câu chuyện về Chúa Giê-xu một cách trung

thành, hợp lý và thuyết phục nhất cho độc giả của mình. Thay vì nhìn những sự khác nhau giữa

các bản văn để tìm lỗi, chúng ta nên xem chúng như là những minh họa của những mục đích thần

học khác nhau và những nhấn mạnh về tác giả Phúc  m.

Một khi chúng ta nhận ra rằng những tác giả sách Phúc Âm đã viết dưới dạng văn

chương cổ thay vì những luật hiện đại thì những sự khác biệt trong các sách Phúc  m sẽ không

còn nữa. Ví dụ như thứ tự của lần cám dỗ thứ hai và ba của Chúa Giê-xu. Chủ để trọng tâm của

Phúc  m Ma-thi-ơ là vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này dễ hiểu khi Ma-thi-ơ kết thúc

câu chuyện về sự cám dỗ của mình khi nhìn thấy các nước trên thế gian (Ma. 4:8-10). Bởi trong

Phúc  m Lu-ca thành Giê-ru-sa-lem được mô tả nổi bật nên bạn có thể hiểu dễ dàng tại sao Lu-

ca muốn kết luận câu chuyện bằng việc nhảy xuống khỏi đền thờ (Luca. 4:9-12). Ma-thi-ơ và Lu-

ca thay đổi chi tiết trong việc kể chuyện về Chúa Giê-xu để tạo nên một quan điểm thần học.

Điều này dẫn chúng ta đến điểm quan trọng cuối cùng về thể loại của sách Phúc  m.

Chúng ta đã thấy các sách Phúc  m có thể loại tương tự với tiểu sử cổ. Nhưng có một

khía cạnh nữa mà chúng ta cần nhấn mạnh. Các sách Phúc  m không chỉ là tiểu sử nhưng chúng

Page 137: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

134

là tiểu sử có trọng tâm là Chúa Giê-xu. Các tác giả Phúc  m kể cho chúng ta chuyện của Chúa

Giê-xu nhưng chúng đơn thuần ghi lại những sự kiện lịch sử. Họ đang kể cho chúng ta câu

chuyện này để dạy cho độc giả một điều gì đó về con người và chức vụ của Chúa Giê-xu. Các tác

giả sách Phúc  m chọn lọc và sắp xếp tư liệu của họ về Đấng Christ để chuyển tải lẽ thật thần

học cho độc giả. Tất cả việc kể chuyện là kể chuyện với một mục đích cụ thể và mục đích của

Ma-thi-ơ, Mác, Luca và Giăng rõ ràng có trọng tâm là Đấng Christ.

Tất cả những điều này dẫn chúng ta đi đâu? Chúng ta cần nắm được thể loại của Phúc

Âm để đọc các sách Phúc Âm đúng đắn hơn. Các sách Phúc Âm tương đối giống với tiểu sử cổ,

nhưng hơn cả bản tiểu sử cổ. Bằng cách tập trung vào cuộc đời và lời dạy của Chúa Giê-xu,

chúng ta có thể mô tả các sách Phúc  m một cách chính xác là tiểu sử mang tính Đấng Christ.

Điều này dẫn chúng ta đến hai mục đích chính mà các tác giả Phúc  m chủ ý khi viết các sách

Phúc  m của mình. (1) Họ đã chọn lọc và sắp xếp tư liệu để kể câu chuyện về Chúa Giê-xu. (2)

Qua câu chuyện về Chúa Giê-xu họ nói một điều gì đó quan trọng cho những độc giả đầu tiên

(và cho chúng ta).

Cách Đọc Các Sách Phúc  m

Phương pháp đọc các sách Phúc  m phải tôn trọng phương tiện mà Đức Chúa Trời

dùng để linh cảm chúng. Các tác giả Phúc  m nói một điều gì đó về Chúa Giê-xu trong từng

chương và họ nói một điều gì đó bằng cách họ nối kết những câu chuyện nhỏ với nhau để tạo

thành một câu chuyện lớn hơn.

Để đến được một phương pháp đọc các sách Phúc  m thích hợp với phương cách

truyền đạt của Đức Chúa Trời, chúng ta hãy đổi hai mục đích trọng tâm ở trên thành hai câu hỏi

giải nghĩa đơn giản. (1) Câu chuyện nhỏ này kể cho chúng ta điều gì về Chúa Giê-xu? (2) Các

tác giả Phúc Âm đang muốn nói điều gì với độc giả của mình khi họ đặt những câu chuyện nhỏ

lại với nhau? Biểu đồ bên dưới miêu tả hai câu hỏi giải nghĩa trọng tâm này để đọc các sách

Phúc  m.

↓ Chương 1 ↓ Chương 2 ↓ Chương 3

Chương này kể cho chúng

ta điều gì về Chúa Giê-xu?

Chương này kể cho chúng

ta điều gì về Chúa Giê-xu?

Chương này kể cho chúng ta

điều gì về Chúa Giê-xu?

→ Chương 1,2 và 3

Tác giả Phúc Âm đang muốn truyền thông điệp gì cho độc giả bằng cách nối kết những câu

chuyện này lại với nhau?

Page 138: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

135

Dùng câu chuyện tương tự về Ma-ri và Ma-thê trong Luca 10:38-42 làm ví dụ. Bước

1 là đọc câu chuyện và hiểu sứ điệp của nó, thông thường một sứ điệp xoay quanh Chúa Giê-xu.

Luca 10:25-37 Luca 10:38-42 Luca 11:1-13

Ở đây chúng ta khám phá ra nguyên tắc rằng khi chúng

ta làm công việc Chúa nhiều khi có thể đánh mất chính

Chúa. Mong ước của Ma-thê dọn cho Chúa bữa ăn ngon

khiến cô ta lỡ mất điều tốt nhất: lắng nghe Chúa Giê-xu.

Trước khi đi tiếp, hãy đọc Lu-ca 10:25-37 và Lu-ca 11:1-13 và hỏi câu hỏi: ý chính

của từng câu chuyện là gì? Câu chuyện này dạy tôi điều gì về Chúa Giê-xu? Chúa Giê-xu dạy tôi

điều gì trong câu chuyện này? Tôi học được điều gì từ những hành động của Chúa Giê-xu trong

câu chuyện này? Chúng ta sẽ học nhiều hơn về cách đọc từng đoạn riêng trong chương này.

Nhưng bây giờ chúng tôi muốn bạn tóm lại ý chính. Hãy nhìn cách chúng tôi cố gắng nắm được

sứ điệp của Lu-ca.

↓ Luca 10:25-

37

↓ Luca 10:38-42 ↓ Luca 11: 1-13

Chúng ta thấy nguyên

tắc rằng yêu người lân

cận mình nên vượt trên

tất cả giới hạn của con

người như là quốc tịch,

tôn giáo hay tình trạng

kinh tế

Ở đây chúng ta khám phá ra

nguyên tắc rằng khi chúng ta làm

công việc Chúa nhiều khi có thể

đánh mất chính Chúa. Mong ước

của Ma-thê dọn cho Chúa bữa ăn

ngon khiến cô ta lỡ mất điều tốt

nhất: lắng nghe Chúa Giê-xu.

Chúa Giê-xu dạy chúng ta cách

tương giao với Đức Chúa Trời

thông qua sự cầu nguyện (11:1-

4). Tiếp theo điều này là một ẩn

dụ về sự cầu nguyện (11:5-8)

và một lời khuyên về sự cầu

nguyện (11:9-13).

Bước 1 là để hiểu được sứ điệp chính của từng câu chuyện, một sứ điệp thường tập

trung vào cuộc đời và lời dạy của Chúa Giê-xu. Trong bước 2, chúng ta cần đặt chương của Ma-

ri và Ma-thê song song với những chương xung quanh để thấy Lu-ca đang cố gắng chuyển tải

điều gì đến độc giả của mình (và cho chúng ta) theo cách ông sắp xếp tư liệu. Hãy nhìn những

tóm tắt của chúng tôi và suy nghĩ đến ba câu chuyện này có điểm gì chung. Bạn có thấy sự liên

kết nào không? Chúng tôi tóm lại trong phần ở dưới như sau:

→ Luca 10:25-37; 10:38-42;11:1-13

Chủ đề chung là các mối quan hệ. Trong câu chuyện đầu, chúng ta thấy rằng những người đi

theo Chúa Giê-xu nên là những người lân cận tốt đối với những người đang có nhu cầu. Trong

câu chuyện thứ hai, chúng ta thấy rằng lắng nghe Chúa Giê-xu nên được ưu tiên trên cả “những

hoạt động tôn giáo”. Cuối cùng Lu-ca nhấn mạnh đến mối quan hệ với Đức Chúa Trời trong

11:1-13. Những người đi theo Chúa Giê-xu cần phải biết cách để liên hệ với những người lân cận

(phục vụ), cách để liên hệ với Chúa của họ (dấn thân) và cách để liên hệ với Cha của mình.

Page 139: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

136

Chúng tôi cũng không chắc 100% là chúng tôi đã nắm được chủ định của Lu-ca tại

đây và những độc giả khác có thể thấy những liên hệ khác nhau. Đừng ép điều gì. Cố gắng nối

kết ý chính của từng phân đoạn và bạn sẽ khám phá ra vài kiến thức lớn trong các sách Phúc  m.

Cho đến điểm này, chúng ta đã nhìn thấy rằng đọc các sách Phúc  m bao gồm hỏi hai

câu hỏi chính, những câu hỏi đáp ứng lại hai mục đích trọng tâm của các tác giả Phúc  m:

Chúng ta tìm những sự dạy dỗ trong từng phân đoạn và chúng ta tìm những sự dạy dỗ qua cách

mà những phân đoạn đó được liên kết với nhau để tạo nên câu chuyện lớn hơn. Trong phần tiếp

theo của chương này, chúng tôi sẽ khám phá cả hai câu hỏi cụ thể hơn.

1. Cách Đọc Những Câu Chuyện Riêng

Có những hướng dẫn giải nghĩa căn bản để khám phá những nguyên tắc thần học

trong những câu chuyện riêng. Chúng tôi sẽ minh họa những luật này bằng cách dùng câu

chuyện Chúa Giê-xu quở sóng gió (Mác 4:35-41) và vài phân đoạn khác.

35 Đến chiều ngày ấy, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Chúng ta hãy qua bờ bên kia. 36 Khi

cho dân chúng tan về rồi, Đức Chúa Jêsus cứ ở trong thuyền, và môn đồ đưa Ngài đi; cũng

có các thuyền khác cùng đi nữa. 37 Vả, có cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt vào thuyền, đến

nỗi gần đầy nước; 38 nhưng Ngài đang ở đằng sau lái, dựa gối mà ngủ. Môn đồ thức Ngài

dậy mà thưa rằng: Thầy ôi, thầy không lo chúng ta chết sao? 39 Ngài bèn thức dậy, quở

gió và phán cùng biển rằng: Hãy êm đi, lặng đi! Gió liền dứt và đều yên lặng như tờ. 40

Đoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Sao các ngươi sợ? Chưa có đức tin sao? 41 Môn đồ

kinh hãi lắm, nói với nhau rằng: Vậy thì người nầy là ai, mà gió và biển cũng đều vâng lịnh

người?

a. Hỏi những câu hỏi chuẩn mà bạn cần phải hỏi với bất cứ câu chuyện nào: Ai? Cái gì?

Khi nào? Ở đâu? Tại sao? Và Như Thế Nào? Chúng tôi sẽ liệt kê một vài quan sát trong

phân đoạn này để minh họa cho tiến trình này.

Ai?

(nhân vật) Chúa Giê-xu (c. 35,36,38,39,40,41)

Các môn đồ (c. 35,36,38,40,41)

Đám đông (c. 36)

Cái Gì?

(Nội dung câu chuyện)

Khi băng qua biển, một cơn bão đến và sóng

đánh gần đắm con tàu (c.37)

Các Môn đồ đánh thức Chúa Giê-xu đang ngủ trên mui

(c.38)

Chúa Giê-xu quở sóng gió và quở trách các môn đồ

vì họ thiếu đức tin (c. 39-40)

Các môn đồ kinh hãi vì uy quyền của Chúa trên biển

và hỏi: “Người này là ai?” (c. 41)

Page 140: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

137

Khi Nào

(Thời điểm)

Khi trời tối, các môn đồ và Chúa Giê-xu bắt đầu

vượt qua biển (c. 35).

Trong cơn bão, Chúa Giê-xu (một người thợ mộc)

đang ngủ và các môn đồ (những ngư phủ) sợ chết (c.

38).

Sau khi Chúa Giê-xu quở sóng gió thì biển yên lặng

(c.39).

Sau khi cơn bão yên lặng, Chúa Giê-xu hỏi các môn

đồ vài câu hỏi khó (c.40).

Sau khi cơn bão yên lặng và Chúa Giê-xu hỏi, các

môn đồ kinh hãi (c. 41).

Ở Đâu?

(Địa điểm)

Chúa Giê-xu và các môn đồ đi qua bờ biển bên kia

(c. 35).

Họ ở trên thuyền (c. 36).

Sóng đang đánh vào thuyền (c. 37)

Chúa Giê-xu đang ngủ ngon trên mui thuyền (c. 38).

Tại Sao?

(Lý do)

Chúa Giê-xu đánh thức Chúa Giê-xu vì họ giận thầy

thờ ơ với sự an toàn của họ (c. 38).

Sóng và gió yên lặng vì Chúa Giê-xu quở chúng nó

(c. 39,41).

Các môn đồ kinh hãi vì họ nhận ra rằng Chúa Giê-xu

có uy quyền trên biển cả (c. 40-41).

Như Thế

Nào?

(Phương tiện)

Các môn đồ dùng một câu hỏi để quở trách Chúa

Giê-xu (c. 38).

Chúa Giê-xu làm lặng sóng gió bằng lời phán của

Ngài (c. 39).

Chúa Giê-xu dùng những câu hỏi để quở trách các

môn đồ (c. 40).

Các môn đồ thốt ra sự kinh hãi bằng một câu hỏi :”

Người này là ai?” (c. 41).

Từ những câu hỏi đơn giản này chúng ta khám phá được những điều quan trọng trong

câu chuyện. Vì Chúa Giê-xu và các môn đồ dường như xuất hiện trong mỗi câu, chúng ta biết

rằng câu chuyện này tập trung vào mối quan hệ của Chúa Giê-xu với các môn đồ của Ngài. Chúa

Giê-xu đang cố gắng dạy cho những người theo Ngài điều gì? Họ có học được bài học này không?

Bằng cách đối chiếu phản ứng của Chúa Giê-xu với cơn bão và phản ứng của các môn đồ với

cơn bão, chúng ta tìm thấy sự khác nhau giữa đức tin và sự sợ hãi. Chúa Giê-xu ngủ an bình trên

thuyền còn những người đánh cá chuyên nghiệp lại sợ chìm thuyền. Chúng ta cũng để ý đến uy

quyền của lời phán của Chúa Giê-xu. Ngay cả sóng gió cũng vâng phục Ngài. Vai trò của câu hỏi

trong đoạn này cũng khá thú vị. Các môn đồ hỏi Chúa Giê-xu vì sự thờ ơ của Ngài. Chúa Giê-xu

hỏi các môn đồ về sự thiếu đức tin của họ. Điều này khiến cho các môn đồ quay lại hỏi Chúa

Giê-xu là ai mà sóng gió cũng vâng lịnh Ngài.

Page 141: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

138

b. Tìm những lời chỉ dạy giải nghĩa từ chính tác giả.

Thông thường một tác giả Phúc Âm giúp độc giả nhìn thấy ý của mình qua những gợi

ý trong phần giới thiệu câu chuyện. Tác giả có thể nói một điều gì đó như là: “Ngài thấy những

kẻ được mời đều lựa chỗ ngồi trên, nên phán cùng họ thí dụ nầy:” (Lu. 14:7). Dù không nghe

được thí dụ nhưng bạn có thể đoán là có một điều gì đó liên quan đến sự kiêu ngạo thuộc linh

hoặc là sự khiêm nhường hay là cả hai.

Phần giới thiệu trong bài giảng trên núi cũng giống như vậy: “Đức Chúa Jêsus xem

thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. Ngài bèn mở

miệng mà truyền dạy rằng:…” (Mat. 5:1-2). Từ phần giới thiệu này chúng ta biết rằng bài giảng

trên núi dành trực tiếp cho những người đang theo Ngài chứ không phải chỉ các môn đồ của Ngài.

Thông thường những mẹo giải nghĩa của tác giả cũng xuất hiện ở phần kết luận của

câu chuyện. Trong Mác 4, câu chuyện lên đỉnh điểm bằng câu hỏi của các môn đồ trong câu cuối:

“Vậy thì người nầy là ai, mà gió và biển cũng đều vâng lịnh người?” Câu hỏi này để lại cho độc

giả một ấn tượng đặc biệt: Mác muốn độc giả của mình biết rằng Chúa Giê-xu hơn cả một ra-bi

(“thầy”). Ngài có uy quyền thiêng liêng trên cả những lực lượng mạnh mẽ của thiên nhiên.

Trong câu chuyện Chúa Giê-xu gặp người trai trẻ giàu có trong Mat. 19, câu cuối

cùng như sau: “Song có nhiều kẻ ở đầu sẽ nên rốt, và nhiều kẻ ở rốt sẽ nên đầu” (19:30). Chúa

Giê-xu đảo lộn giá trị của thế giới. Những người từ bỏ mọi sự để theo Ngài bây giờ không còn lo

lắng nữa. Bây giờ họ có trước hết là Nước của Đức Chúa Trời.

Thỉnh thoảng, tác giả sách Phúc Âm cũng thêm một phần trong dấu ngoặc đơn để làm

rõ hơn ý nghĩa chủ định của câu chuyện. Trong Mác 7:1-23 Chúa Giê-xu đối diện với người Pha-

ri-si và các thầy thông giáo về vấn đề sự tinh sạch. Mác sau đó thêm vào những từ này: “Vả, sự

đó không vào lòng người, nhưng vào bụng, rồi bị bỏ ra nơi kín đáo, như vậy làm cho mọi đồ ăn

được sạch” (7:19). Bằng lời giải thích này, Mác nói lên được ứng dụng của câu chuyện cho độc

giả của mình. Điều làm cho một người tinh sạch hay không tinh sạch nằm ở tấm lòng chứ không

phải dạ dày.

Trong câu chuyện khi Giăng và Phi-e-rơ chạy tới ngôi mộ trống, Phi-e-rơ chạy trước.

Kinh thánh nói rằng khi Giăng bước vào mộ sau, ông “thấy và tin” (Giăng 20:8). Tác giả sách

Phúc  m này giải nghĩa thêm: “Vì chưng hai người chưa hiểu lời Kinh Thánh rằng Đức Chúa

Jêsus phải từ kẻ chết sống lại” (Giăng 20:9). Câu này giải thích rằng vào thời điểm đó, đức tin

của Giăng không dựa vào việc đọc Kinh Thánh Cựu ước nhưng dựa vào việc thấy vải liệm mà

không có xác; ngôi mộ trống, Chúa Giê-xu đã sống lại, Giăng thấy và tin.

Bạn có thể tìm thấy những nguyên tắc thần học trong câu chuyện nhờ sự giúp đỡ của

chính tác giả. Thông thường bạn sẽ tìm thấy những chỉ dẫn rõ ràng như vậy trong phần giới thiệu

hay phần kết luận của câu chuyện hay là trong phần mở ngoặc của tác giả.

Page 142: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

139

c. Ghi lại bất cứ điều gì được lặp lại trong câu chuyện.

Những câu chuyện thường dùng từ lặp lại để chuyển tải lẽ thật thần học. Khi bạn đọc

những phân đoạn riêng trong các sách Phúc Âm, hãy để ý đến những từ hay điểm được lặp đi lặp

lại. Khi bạn đọc Giăng 15, bạn để ý đến từ “ở trong” được lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong Ma-thi-

ơ 23 từ “khốn thay” được lặp chuyển tải một giọng điệu không thể nhầm lẫn đâu được để cảnh

cáo độc giả. Trong Mat. 5, Chúa Giê-xu lặp lại sự độc đáo của lời dạy của Ngài bằng câu: “Các

ngươi có nghe lời phán rằng…Song ta nói cùng các ngươi…”.

Khi tác giả Phúc  m lặp lại một từ hay chủ đề hay khi một nhân vật nào đó nổi bật

thì hãy chú ý đến. Tác giả đang dùng sự lặp lại để trình bày lẽ thật quan trọng nào đó, đừng bỏ

mất nó. Bạn thấy chủ đề nào được lặp đi lặp lại trong Luca 12: 22-34 bên dưới? Gạch dưới

những từ hay ngữ lặp lại chủ đề đó).

22 Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng môn đồ rằng: Ấy vậy, ta nói cùng các ngươi, đừng vì sự

sống mà lo đồ mình ăn, cũng đừng vì thân thể mà lo đồ mình mặc. 23 Sự sống trọng hơn

đồ ăn, thân thể trọng hơn đồ mặc. 24 Hãy xem con quạ: nó không gieo, không gặt, cũng

không có hầm vựa kho tàng chi, mà Đức Chúa Trời còn nuôi nó; huống chi các ngươi quí

hơn chim chóc là dường nào! 25 Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài

thêm một khắc không? 26 Vậy nếu đến việc rất nhỏ các ngươi cũng không có thể được sao

các ngươi lo việc khác? 27 Hãy xem hoa huệ mọc lên thể nào: nó chẳng làm khó nhọc,

cũng không kéo chỉ; song ta phán cùng các ngươi, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu,

cũng không được mặc áo như một hoa nào trong giống ấy. 28 Hỡi kẻ ít đức tin, nếu loài cỏ

ngoài đồng là loài nay sống mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho mặc thể ấy, huống

chi là các ngươi! 29 Vậy các ngươi đừng kiếm đồ ăn đồ uống, cũng đừng có lòng lo lắng.

30 Vì mọi sự đó, các dân ngoại ở thế gian vẫn thường tìm, và Cha các ngươi biết các ngươi

cần dùng mọi sự đó rồi. 31 Nhưng thà các ngươi hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời, rồi

mọi sự đó sẽ được cho thêm. 32 Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng

cho các ngươi nước thiên đàng. 33 Hãy bán gia tài mình mà bố thí. Hãy sắm cho mình túi

không hư, và của báu không hề hao kém ở trên trời, là nơi kẻ trộm không đến gần, sâu mọt

không làm hư nát. 34 Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng cũng ở đó.

d. Chú ý đến những câu nói trực tiếp trong câu chuyện.

Khi nhân vật nói trực tiếp, tức là những từ họ nói được đặt trong dấu ngoặc kép, thì

phải để ý đến. Khi để riêng những câu nói trực tiếp thì bạn thường có thể thấy được trọng tâm

của câu chuyện. Chú ý đến những câu nói trực tiếp trong Mác 4:35-41:

c.35: “Chúng ta hãy đi qua bờ bên kia”.

c.38: “Thầy ơi, thầy không lo chúng ta chết sao?”

Page 143: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

140

c.39: “Hãy yên đi! Lặng đi!”

c.40: “Sao các ngươi sợ? Các ngươi không có đức tin sao?”

c.41: “Người này là ai mà sóng gió cũng vâng lệnh người?”

Trong câu chuyện Chúa Giê-xu hóa hình, chúng ta nghe tiếng phán của Đức Chúa

Trời: “Ngày là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường. Hãy nghe lời Con đó!” (Mat. 17:5).

Sau khi Chúa Giê-xu báo trước về sự chết của mình, những lời tái xác nhận của Đức Chúa Trời

có ý nghĩa rất lớn đối với các môn đồ. Họ đang tranh đấu với ý tưởng tại sao Đấng Mê-si-a phải

chết.

Một số phân đoạn khác cũng mô tả đặc biệt cuộc nói chuyện giữa các nhân vật chính.

Trong Giăng 4:4-26, chúng ta nghe cuộc nói chuyện giữa Chúa Giê-xu với người đàn bà Sa-ma-

ri. Có lẽ cuộc nói chuyện giữa một người đàn ông Do Thái với một người đàn bà Sa-ma-ri là một

cú sốc lớn về giá trị đối với nhiều người vì Giăng có ghi chú: “số là người Giu-đa không giao

thiệp với người Sa-ma-ri” (4:9). Khi học nội dung của cuộc đối thoại, bạn có thể thấy rõ điều

Giăng đang muốn chuyển tải đến độc giả của mình về Chúa Giê-xu. Những câu nói trực tiếp

thường chuyển tải sứ điệp thần học của câu chuyện.

Khi cố gắng nhận diện những nguyên tắc thần học trong những câu chuyện riêng

chúng ta phải hỏi những câu hỏi chuẩn, chú ý đến những hướng dẫn giải nghĩa của chính tác giả,

ghi lại những điều lặp lại và tập trung vào những câu nói trực tiếp bên trong câu chuyện.

2. Cách Đọc Một Loạt Câu Chuyện

Câu hỏi giải kinh thứ hai cần được hỏi khi đọc các sách Phúc Âm liên quan đến bối

cảnh xung quanh câu chuyện: “Tác giả Phúc  m muốn nói gì qua cách ông sắp xếp các câu

chuyện riêng lại với nhau?” Vì các tác giả Phúc  m không thể kể cho chúng ta mọi thứ về Chúa

Giê-xu nên họ chỉ chọn tư liệu và sắp xếp tư liệu đó để gởi cho các độc giả ban đầu (cả cho

chúng ta) một sứ điệp mạnh mẽ, thay đổi đời sống.

Có những hướng dẫn đáng tin nào để đọc một loạt câu chuyện không? Chúng tôi tin

rằng có một hướng dẫn căn bản có thể áp dụng trong nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng

nhất khi đọc một loạt câu chuyện là tìm những kết nối. Đây chính xác là điều bạn đã thực tập

trong chương 4, sử dụng Mác 8. Tìm những chủ đề chung. Tìm những kết nối hợp lý như nhân-

quả. Để ý đến cách những chương kết hợp với nhau (ví dụ, những câu nói chuyển tiếp hay những

từ nối). Để ý đến những câu chuyện thay đổi điểm chính. So sánh các nhân vật, để ý đặc biệt đến

Chúa Giê-xu, nhân vật chính của các sách Phúc  m. Tập trung vào con người, chức vụ và lời

dạy của Ngài và cách người ta phản ứng lại với Ngài. Tìm những kết nối mà tác giả dùng sẽ giúp

chúng ta nhận ra được sứ điệp chủ ý của tác giả.

Page 144: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

141

Hãy tìm những nối kết giữa Mác 4:35-41 và những câu chuyện xung quanh. Khi

chúng ta nhìn những gì xảy ra trước 4:35-41, chúng ta thấy một phần lớn các thí dụ của Chúa

Giê-xu bên bờ hồ (4:1). Hàng loạt thí dụ được thiết lập bằng từ “thí dụ” đầu tiên (4:2) và cuối

cùng (4:33-34) xác định rằng 4:1-34 có thể được xem là một đoạn thống nhất. Bắt đầu trong Mác

4:35, các thí dụ dừng lại và chúng ta thấy sự thay đổi về vị trí (từ bên cạnh bờ hồ đến chính hồ)

cũng như thính giả (từ đám đông đến các sứ đồ). Những thay đổi này cho thấy rằng Mác đang

bắt đầu một phần lớn khác trong 4:35. Do đó, chúng ta nên đọc câu chuyện về Chúa Giê-xu quở

sóng gió (4:35-41) với những cảnh theo sau hơn là những thí dụ đi trước.

Vậy thì Mác 4:35-41 kết nối với phần lớn hơn bắt đầu trong 4:35 và kết thúc trong 5:43 như thế

nào? Bảng sau tóm tắt lại sứ điệp của từng câu chuyện:

Mác 4:35-41 Mác 5:1-20 Mác 5:24b-34 Mác 5:21-24a

Mác 5:35-43

Chúa Giê-xu bày tỏ

quyền năng Ngài

trên biển và phản

ứng bằng đức tin

trong hoàn cảnh khó

khăn.

Chúa Giê-xu đuổi

một quân đội quỷ,

phục hồi một người

và sai người đó ra đi

như là một môn đệ

trung thành.

Chúa Giê-xu chữa

lành người đàn bà bị

bịnh băng huyết nhờ

tin và chạm vào Ngài,

sau đó bà đã xưng

nhận với Ngài.

Chúa Giê-xu kêu

con gái Gia-ru sống

lại từ kẻ chết trong

sự hiện diện của Phi-

e-rơ, Gia-cơ và

Giăng và cha mẹ của

cô gái.

Khi chúng ta tìm được những kết nối giữa những câu chuyện với nhau trong 4:35-

5:43, chúng ta để ý đến vào chủ đề chung.

Cuộc sống đầy khó khăn. Con người phải trải qua sự đe dọa của sự chết, sự tấn công của

sa tan, bịnh tật và sự chết.

Chúa Giê-xu thống trị trên các thế lực chống lại Đức Chúa Trời. Con người trong thế kỷ

thứ nhất sợ vài điều tương tự như chúng ta ngày nay: biển, ma quỷ, bịnh tật và sự chết.

Chúa Giê-xu có quyền trên những điều này.

Chúng ta nên tin cậy Chúa Giê-xu giữa những hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc đời. Nước

có thể nhấn chìm con thuyền, ma quỷ có thể không thối lui, băng huyết kéo dài mười hai

năm và con gái chết. Chủ đề chung đi xuyên suốt cả phần này là sự vô vọng trước nghịch

cảnh. Chúa Giê-xu kêu gọi chúng ta phải có đức tin. Ngài quở trách các môn đồ vì không

có đức tin giữa bão tố (4:40). Ngài khen người đàn bà bị băng huyết vì đã có đức tin

(5:34) và Ngài bảo Gia-rai đừng sợ những hãy tin (5:36).

Sứ điệp của Mác cho độc giả thế kỷ thứ nhất và cho chúng ta trở nên rõ ràng (xem bản

bên dưới):

Page 145: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

142

Mác 4:35-41 Mác 5:1-20 Mác 5:24b-34 Mác 5:21-24a

Mác 5:35-43

Chúa Giê-xu bày tỏ

quyền năng Ngài trên

biển và phản ứng

bằng đức tin trong

hoàn cảnh khó khăn.

Chúa Giê-xu đuổi

một quân đội quỷ,

phục hồi một người

và sai người đó ra đi

như là một môn đệ

trung thành.

Chúa Giê-xu chữa lành

người đàn bà bị bịnh

băng huyết nhờ tin và

chạm vào Ngài, sau đó

bà đã xưng nhận với

Ngài.

Chúa Giê-xu kêu con

gái Gia-ru sống lại từ

kẻ chết trong sự hiện

diện của Phi-e-rơ, Gia-

cơ và Giăng và cha mẹ

của cô gái.

Qua công việc quyền năng của Ngài, Chúa Giê-xu bày tỏ chính Ngài có uy quyền trên

những thế lực chống nghịch với Đức Chúa Trời. Ma quỷ, bịnh tật và sự chết đem sự sợ hãi và vô

vọng vào lòng người. Các độc giả thế kỷ thứ nhất của Mác đang đối diện với sự bách hại và ghen

ghét. Qua loạt chuyện này, ông bảo đảm với họ rằng Chúa Giê-xu có quyền trên mọi điều họ sợ.

Ngài có thể làm câm lặng bão tố, Ngài có thể đuổi quỷ, Ngài có thể chữa lành bịnh tật và Ngài có

thể kêu kẻ chết sống lại. Họ cần phải tin cậy vào Ngài giữa những hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc

đời.

Như Mác tiếp tục trong 6:1-6a, Chúa Giê-xu trở về quê hương mình ở Na-xa-rét. Tại

đó Ngài bị những người tưởng chừng biết Ngài rõ nhất khước từ. “Đây có phải là gã thợ mộc

không?” Mác kết luận cay đắng cho sự vô tín và lạnh nhạt của họ: “Ở đó, Ngài không làm phép

lạ nào được, chỉ đặt tay chữa lành một vài người đau ốm; và Ngài lấy làm lạ vì chúng chẳng tin”

(6:5-6a). Thật là một đối lập buồn với sứ điệp hi vọng trong bốn câu chuyện trên (4:35-5:43).

3. Á p Dụng Sứ Điệp Của Sách Phúc  m

Hầu hết những điều chúng ta học trong chương 12 được áp dụng tại đây. Một điều

quan trọng nhất cần phải nhớ khi tìm cách áp dụng những lẽ thật từ những câu chuyện này là

luôn để mắt đến bối cảnh lớn hơn. Cho rằng Chúa Giê-xu có quyền trên những thế lực thù địch

không bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn luôn giải cứu chúng ta khỏi bịnh ung thư hay tai nạn xe hơi

hay thiên tai. Chúng ta cần tin cậy Chúa Giê-xu trong mọi hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc đời,

nhưng phần còn lại của Kinh Thánh và cả lịch sử minh chứng rằng sự giải cứu của Chúa ở nhiều

hình thức khác nhau. Có khi Ngài giải cứu chúng ta khỏi nguy hiểm tức thì qua sự chữa lành hay

bảo vệ. Có khi Ngài giải cứu chúng ta khỏi nguy hiểm tức thì qua việc kêu kẻ chết sống lại. Khi

Phao-lô nói trong II Tim. 4:18 rằng: “Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào

trong nước trên trời của Ngài”, ông đang nói về sự giải cứu tối cao cuối cùng vì theo truyền

thống thì chính ông tuận đạo.

Làm sao chúng ta có thể áp dụng đúng những câu chuyện trong Mác 4-5? Trong số

những nạn nhân sóng thần tại Nhật Bản xảy ra năm 2011, chắc chắn có những Cơ Đốc Nhân.

Làm sao sứ điệp của Mác 4-5 áp dụng cho những Cơ Đốc Nhân này? Hãy nhớ những nguyên tắc

Page 146: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

143

thần học trong những câu chuyện này: (a) cuộc đời đầy khó khăn, (b) Chúa Giê-xu tể trị trên mọi

thế lực thù nghịch với Đức Chúa Trời và (c) chúng ta nên tin vào Chúa Giê-xu trong mọi hoàn

cảnh của cuộc đời.

Nguyên tắc đầu tiên dễ áp dụng: Cuộc đời đầy khó khăn! Cơ Đốc Nhân không nên

mong chờ một ngoại lệ nào đối với những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống như là bịnh tật và

sự chết.

Nguyên tắc thứ hai thì khó áp dụng hơn. Nếu Chúa Giê-xu dẹp yên cơn bão thì tại sao

Ngài không “dẹp yên cơn bão” cho những người bạn của chúng ta? Chúng ta hãy trở lại với bối

cảnh lớn hơn. Ngay khi còn trên đất, Chúa Giê-xu không chữa lành mọi kẻ đau hay kêu mọi kẻ

chết sống lại. Những độc giả đầu tiên của Mác đang đối diện với những sự ghen ghét của thế

gian vì sống trung tín ở giữa thế gian sa ngã này. Khi Mác chuyển tải rằng Chúa Giê-xu tể trị

trên các thế lực chống đối với Đức Chúa Trời thì chúng ta tin rằng ông đang có ý cho độc giả của

mình hiểu điều này theo nghĩa cao nhất. Những phép lạ của Chúa Giê-xu cho thấy trước những

gì sẽ xảy ra và nhìn thấy cuộc đời sẽ như thế nào khi Chúa trở lại.

Sứ điệp của toàn bộ Tân Ước rõ ràng đối với những người có mối quan hệ với Đức

Chúa Trời qua Chúa Giê-xu: Vào lúc đó “Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không

có sự chết ,cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi”

(Khải 21:4). Nếu bạn xem sự áp dụng này là trống rỗng và không hợp lý, bạn thấy thế nào khi

bạn đối diện với cùng khó khăn trong đời này mà không có sự giúp sức từ Đức Thánh Linh hay

thân thể của Đấng Christ và không có hi vọng trên trời?

Điều này dẫn chúng ta đến nguyên tắc thứ ba: tin cậy vào Chúa Giê-xu. Khi chúng ta

nói về đức tin, chúng ta đang nói đến sự tin cậy hoàn toàn vào Chúa Giê-xu. Đức tin có nghĩa là

nương nơi Chúa Giê-xu ngay cả những hoàn cảnh trước mắt dường như nghịch lại với chính

mình. Dù cho sự giải cứu là tức thì hay lâu dài, chúng ta cũng phải tin cậy vào Chúa Giê-xu vì

Chúa Giê-xu là thành tín.

Chúng ta hãy cùng trở lại Lu-ca 10 để làm ví dụ áp dụng. Một nguyên tắc chúng ta

tìm thấy trong Lu-ca 10: 25-37 là yêu người lân cận mình vượt qua mọi rào cản của con người.

Ngay cả trong các trường Cơ Đốc cũng xuất hiện những sự phân biệt đối xử vì điều kiện kinh tế,

sự thông minh hay những kỹ năng xã hội… Câu chuyện này kêu gọi chúng ta yêu theo cách của

Chúa để vượt qua những rào cản này – kết bạn với những người “ít hấp dẫn hơn”, giúp đỡ những

người bạn cùng lớp đang gặp khó khăn….Chúa Giê-xu dạy chúng ta trong câu chuyện này rằng

không có một công việc tôn giáo nào có thể chấp nhận nếu chúng ta khước từ yêu người lân cận

mình.

Trong câu chuyện của Ma-ri và Ma-thê trong Lu-ca 10:38-42, chúng ta khám phá ra

nguyên tắc rằng làm điều tốt cho Chúa có khi khiến chúng ta đánh mất Chúa. Á p dụng điều này

thì không khó. Hãy xem những câu hỏi này. Chúng ta có dành thời gian để lắng nghe lời Chúa

Page 147: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

144

đều đặn mỗi ngày không? Chúng ta có say mê công việc của Hội Thánh đến nỗi không có thời

gian cho Chúa không? Chúng ta có học cách để nói không với một vài điều tốt để nói có với điều

tốt nhất của Đức Chúa Trời không? Chúa Giê-xu mong muốn mối quan hệ.

Tóm lại, chúng ta học được rằng chúng ta nên đọc các sách Phúc Âm theo cách đã

được sắp xếp của tác giả. Các tác giả Phúc  m viết (1) để kể những câu chuyện về Chúa Giê-xu

và (2) để gởi một sứ điệp cho độc giả của mình (ví dụ tin cậy thay vì sợ hãi) theo cách họ đã sắp

xếp những câu chuyện nhỏ lại với nhau thành một câu chuyện lớn. Bây giờ chúng ta cùng chú ý

đến những hình thức văn chương mà chúng ta sẽ gặp khi đọc các sách Phúc  m.

Những Hình Thức Văn Chương Đặc Biệt Trong Các Sách Phúc  m

Một trong những lý do mà lời dạy của Chúa Giê-xu hấp dẫn đến lạ thường là vì Ngài

dùng những hình thức văn chương và kỹ năng văn chương để chuyển tải sứ điệp của Ngài cho

chúng ta. Chúng ta không thể thảo luận tất cả những hình thức này nhưng chúng tôi muốn cung

cấp vài hướng dẫn để hiểu cách dùng những câu hỏi tu từ, ẩn dụ, sự tương đương, hình thức nói

quá… của Chúa Giê-xu.

Hình Thức Cường Điệu

Một trong những hình thức mà Chúa Giê-xu thường dùng là hình thức cường điệu

(nói quá) để liên hệ với thính giả và chuyển tải ý của Ngài. Hình thức cường điệu xảy ra khi một

lẽ thật được nói quá để đạt được hiệu quả tối đa của mình đến một mức mà thính giả nghe đến

phải phì cười. Ví dụ như: “Tôi đói quá đến nỗi phải ăn hết một con bò”. Người này thật sự

không thể ăn hết con bò, nhưng chuyển tải sứ điệp là người này quá đói. Sau đây là vài ví dụ:

“Vậy nếu con mắt bên hữu xui cho ngươi phạm tội, thì hãy móc mà quăng nó cho xa

ngươi đi; vì thà chịu một phần thân thể ngươi phải hư, còn hơn là cả thân thể bị ném

vào địa ngục. Lại nếu tay hữu xui cho ngươi phạm tội, thì hãy chặt mà liệng nó cho xa

ngươi đi; vì thà chịu một phần thân thể ngươi phải hư, còn hơn là cả thân thể vào địa

ngục” (Mat. 5:29-30).

Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự

sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta (Lu-ca 14:26).

Hỡi các con, những kẻ cậy sự giàu có vào nước Đức Chúa Trời khó là dường nào! Con

lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời. (Mác 10:24a-

25).

Khi bạn tìm thấy tính cường điệu trong các sách Phúc  m thì đừng cố giải nghĩa theo

nghĩa đen, còn không bạn sẽ đánh mất ý nghĩa thật của đoạn Kinh Thánh. Hãy tưởng tượng làm

Page 148: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

145

sao móc con mắt của mình thì hết ham muốn. Chúng ta học Kinh Thánh nghiêm túc nhưng

không phải lúc nào cũng theo nghĩa đen. Ngôn ngữ hình bóng có thể mang ý nghĩa sống động.

Khi bạn gặp tính cường điệu, hãy hỏi câu hỏi đơn giản: “Điều mà tác giả thật sự

muốn nói là gì?” Trong Mat. 5:29-30, Chúa Giê-xu phán bảo những người theo Ngài phải có

hành động dứt khoát với tội dâm dục. Trong Lu-ca 14:26, Chúa Giê-xu nhấn mạnh đến tình yêu

của chúng ta quá lớn đến nỗi vượt trên cả tình cảm tự nhiên của mình đối với những thành viên

của gia đình mình và ngay cả chính mình. Trong Mác 10:24b-25, Chúa Giê-xu dùng hình thức

cường điệu để chỉ ra rằng người giàu vào nước trời khó là dường nào.

Phép Ẩn Dụ và Ví Von

Khi Chúa Giê-xu phán với các môn đệ của Ngài rằng: “Các người là muối của đất”

(Mat. 5:13) hay với thầy dạy luật rằng: “các người giống như mồ mả tô trắng” (Mat. 23:27), Ngài

đang dùng ẩn dụ và phép ví von. Cả hai phương tiện văn chương này thuộc thể so sánh. Theo

phép ẩn dụ, sự so sánh gián tiếp còn với phép ví von thì trực tiếp hơn khi dùng những từ “giống

như” hay “như”. Các sách Phúc Âm đầy những phép ẩn dụ và ví von. “Hãy khôn ngoan như rắn

và đơn sơ như chim bò câu” (Mat. 10:16). “Ta là bánh của sự sống” (Giăng 6:35)….

Khi giải nghĩa các ẩn dụ và ví von, đặc biệt chú ý đến điểm so sánh chủ định. Các sứ

đồ được ví như muối để nhấn mạnh đến trách nhiệm ngăn chặn sự sa đọa của xã hội. Các thầy

thông giáo được ví như là mô mả tô trắng để nói rằng bên ngoài thì có vẻ thiêng liêng nhưng bên

trong thì đầy dẫy gian tà. Bạn nắm lấy ý của tác giả. Tìm so sánh được tác giả chủ ý và bạn tìm ý

nghĩa của ẩn dụ hay ví von. Nó có thể giúp bạn nhìn thấy được những cách ngôn thường mang

ảnh hưởng cảm xúc.

Cẩn thận đừng tập trung quá mức vào các chi tiết của so sánh. Dù là gián tiếp trong

phép ẩn dụ hay trực tiếp trong phép ví von, sự so sánh thường giữa những điều khác nhau (ví dụ:

Chúa Giê-xu với bánh). Chúng được so sánh để tạo nên một ý tưởng. Khi nhấn mạnh quá mức,

sự so sánh sẽ vỡ và sẽ mất điểm chính.

Tính Khôi Hài

Tính khôi hài nằm trong nguyên tắc đối lập – đối lập giữa những gì được mong đợi và

những gì thật sự xảy ra. Bạn có thể nói rằng có một nút xoắn không mong đợi trong câu chuyện.

Một số người nghe câu chuyện của Ma-ri và Ma-thê lần đầu có thể mong đợi Chúa Giê-xu bảo

Ma-ri đứng dậy và giúp chị mình, nhưng, như bạn biết, điều đó không xảy ra. Trong Mác 4-5,

người bị quỷ ám được chữa lành trong tâm trí trong khi đó bầy heo bị quỷ ám nhào xuống biển,

cùng một biển tạo nên cơn bão.

Page 149: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

146

Bạn sẽ nhìn thấy tính khôi hài trong nhiều câu chuyện của Chúa Giê-xu. Hãy xem

những ẩn dụ sau trong Lu-ca 12:16-21:

16 Ngài lại phán cùng chúng lời ví dụ nầy: Ruộng của một người giàu kia sinh lợi

nhiều lắm, 17 người bèn tự nghĩ rằng: Ta phải làm thể nào? Vì không có đủ chỗ chứa

hết sản vật. 18 Lại nói: Nầy, việc ta sẽ làm: ta phá cả kho tàng và cất cái khác lớn hơn,

thâu trữ sản vật và gia tài vào đó; 19 rồi sẽ nói với linh hồn ta rằng: Linh hồn ơi, mầy

đã được nhiều của để dành dùng lâu năm; thôi, hãy nghỉ, ăn uống, và vui vẻ. 20 Song

Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: Hỡi kẻ dại! Chính đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị

đòi lại; vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai? 21 Hễ ai thâu trữ của cho

mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời thì cũng như vậy.

Mục đích giải kinh chính trong trường hợp khôi hài là chú ý đến nó trước hết. Sau khi

bạn tìm thấy tính khôi hài, để thời gian phát hiện ra điểm chuyển tiếp không được mong đợi của

các sự kiện. Có sự đối lập nào? Điều gì nếu những điều này xảy ra như mong đợi? Điểm xoắn

trong câu chuyện bày tỏ điều gì về những mong đợi của chúng ta?

Những Câu Hỏi Tu Từ

Chúa Giê-xu rất thích hỏi những câu hỏi tu từ. Những câu hỏi tu từ này nhấn mạnh

điểm muốn nói mà không cần phải trả lời. Ví dụ:

Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mình, thì có được thưởng gì đâu? Những kẻ thâu thuế

há chẳng làm như vậy sao? (Mat. 5:46)

Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không? (Mat.

6:27)

Sao các ngươi sợ? Chưa có đức tin sao? (Mác 4:40)

Các ngươi tưởng ta đến đem sự bình an cho thế gian sao? (Luca 12:51)

Khi bạn gặp câu hỏi tu từ thì đừng cố gắng trả lời. Cách tốt nhất để giải nghĩa những

câu hỏi tu từ là biến câu hỏi thành câu khẳng định. Hãy nhìn cách chúng tôi chuyển những ví dụ

trên thành câu khẳng định:

Các ngươi không được thưởng vì chỉ yêu những người yêu mình (Mat. 5:46)

Các người không thể làm cho đời mình dài thêm một khắc vì lo lắng (Mat. 6:27)

Các người sợ và vẫn chưa có đức tin (Mác 4:40).

Ta không đến để đem sự bình an cho thế gian (Luca 12:51)

Page 150: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

147

Bằng cách chuyển câu hỏi thành câu khẳng định, bạn có thể dễ dàng nhận thấy ý

Chúa Giê-xu muốn chuyển tải cho chúng ta.

Hình Thức Song Song

Hình thức song song trong thơ ca là một sự biểu lộ mà chúng ta sử dụng để mô tả

một mối quan hệ giữa hai dòng hay nhiều hơn trong đoạn Kinh Thánh. Cách dùng song song này

nhắc chúng ta phải đọc các dòng cùng với nhau như là một ý tưởng chung, không chia các dòng

riêng ra. Những dòng thuộc về nhau và chúng ta nên đọc cùng với nhau. Đây là đặc điểm chính

của thơ ca trong Cựu ước và chúng ta sẽ thảo luận cụ thể hơn đặc điểm này trong chương 19.

Dầu vậy, bạn cũng có thể gặp hình thức song song này trong các sách Phúc  m:

Đồng nghĩa – những dòng này nói cùng một thứ căn bản tương tự nhau:

Hãy xin sẽ được,

Hãy tìm sẽ gặp,

Hãy gõ cửa, cửa sẽ mở cho. (Mat. 7:7)

Vì chẳng có điều chi kín mà không phải lộ ra,

chẳng có điều chi giấu mà không phải rõ ràng. (Mác 4:22)

Đối lập- Dòng thứ hai đối lập với dòng thứ nhất:

Vì sẽ ban thêm cho kẻ nào có;

nhưng kẻ nào không có, sẽ bị cất lấy điều mình đã có. (Mác 4:25)

Người lành do nơi đã chứa điều thiện mà phát ra điều thiện;

nhưng kẻ dữ do nơi đã chứa điều ác mà phát ra điều ác. (Mat. 12:35)

Tăng tiến- Dòng thứ hai lặp lại dòng thứ nhất, sau đó mở rộng ý của dòng thứ nhất tới

đỉnh điểm:

Ai rước các ngươi, tức là rước ta;

ai rước ta, tức là rước Đấng đã sai ta. (Mat.10:40)

Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta,

kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu. (Giăng 6:37)

Page 151: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

148

Phúng Dụ

Một phúng dụ là một câu chuyện với hai mức độ ý nghĩa. Tại đó, những chi tiết nhất

định trong câu chuyện đại diện cho một điều khác (ví dụ: trong thí dụ về người con trai hoang

đàng, người cha đại diện cho Đức Chúa Trời). Điều khó là làm sao biết bao nhiêu chi tiết trong

câu chuyện chỉ về những điều khác.

Qua nhiều thế kỷ, một số Cơ Đốc Nhân quá tự do trong việc dùng hầu như mọi chi

tiết trong từng câu chuyện để chỉ về một điều gì đó. Có lẽ minh họa nổi tiếng nhất về phúng dụ

hóa là câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân lành do Augustine giải nghĩa:

Người đi xuống thành Giê-ri-cô = A-đam

Thành Giê-ru-sa-lem = thành trên trời mà từ đó A-đam thất bại

Thành Giê-ri-cô = mặt trăng (chỉ về sự tạm bợ của A-đam)

Những tên cướp = ma quỷ và các quỷ sứ nó

Đánh = lấy đi sự vĩnh cữu của ông

Đập = thuyết phục ông phạm tội

Để cho nửa sống nửa chết = một người đang sống nhưng chết về phần thuộc linh.

Do đó, người đó nửa sống nửa chết.

Thầy tế lễ và người Lê-vi = chức tế lễ và chức vụ của họ trong Cựu Ước

Người Sa-ma-ri = Chính Đấng Christ

Rịt lành vết thương = rịt lành vết thương tội lỗi

Rượu = lời khuyên dạy để hành động thuộc linh

Con lừa = xác thịt của sự nhập thể của Đấng Christ

Nhà quán = Hội thánh

Hai đơ-ni-ê = lừa hứa về sự sống đời này và sự sống đời sau

Người chủ quán = sứ đồ Phao-lô

Bạn có thể thấy tại sao hướng giải kinh này có vấn đề. Dường như không có nhà giải

kinh nào đồng ý với những chi tiết chính xác như vậy. Vì bỏ qua bối cảnh nên người giải kinh

Page 152: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

149

chẳng có liên hệ gì đến chủ ý của Chúa Giê-xu cho khán giả ban đầu của mình. Trong phúng dụ

hóa của Augustine, ông đánh mất điểm trọng tâm của Chúa Giê-xu là yêu người lân cận.

Kể từ cuối thế kỷ 19, phần lớn các học giả Tân ước khẳng định rằng mỗi thí dụ chỉ có

một điểm chính thôi, và nó thường đến ở phần cuối. Nhưng “qui luật một điểm” giới hạn ý nghĩa

nhiều mà Chúa Giê-xu chủ định không? Lấy ví dụ người con trai hoang đàng. Một điểm là gì?

Một điểm này đến trong đầu bạn liên quan đến đứa con phản loạn, người anh ghen tị hay người

cha tha thứ không? Bạn có thật sự muốn lấy chỉ một và nói rằng Chúa Giê-xu không có ý định

nói về hai người kia không? Hướng một điểm này không thích hợp với chúng ta.

Chúng tôi đề nghị hai nguyên tắc giải nghĩa thí dụ của Chúa Giê-xu”

(1) Tìm một điểm chính cho từng nhân vật chính hoặc một nhóm các nhân vật. Hầu hết các

thí dụ thường có một hoặc hai điểm nhưng thường không quá ba điểm chính. Tất cả

những chi tiết khác hỗ trợ trong câu chuyện. Nhìn ví dụ về người con trai hoang đàng

(Lu-ca 14:11-32), chúng ta có thể nhìn thấy được hướng dẫn giải kinh này giúp chúng ta

nhận ra ba điểm chính, mỗi điểm cho một nhân vật.

Đứa con hoang đàng Những tội nhân có thể xưng tội mình và trở về với Đức

Chúa Trời trong sự ăn năn.

Người cha tha thứ Đức Chúa Trời tha thứ cho người không xứng đáng

Người anh ghanh tị Những người xưng mình là dân sự của Đức Chúa Trời

không nên ganh tị khi Chúa mở rộng ân điển mình cho

những người không xứng đáng.

Sau đây là nguyên tắc áp dụng trong thí dụ về người Sa-ma-ri (Lu. 10:25-37):

Người bị tên cướp

đánh

Ngay cả những kẻ thù (ở đây là người Sa-ma-ri) có thể bày tỏ

tình yêu

Những nhà lãnh đạo

Do Thái

Ngay cả trách nhiệm tôn giáo cũng không thể biện hộ cho sự

thiếu yêu thương

Người Sa-ma-ri Ngay cả một “người ngoại bang đáng ghét” cũng có thể phục

vụ như là một kiểu mẫu của tình yêu.

(2) Những điểm chính mà bạn khám phá phải là những điểm mà thính giả gốc của Chúa Giê-

xu hiểu. Nếu bạn đến một điểm mà độc giả của Chúa Giê-xu không nắm được, bạn có thể

đã mất điểm đó. Điều này giúp chúng ta không đọc các thí dụ của Chúa Giê-xu mà Ngài

không có chủ định từ lúc đầu.

(3) Bất cứ khi nào chúng ta đọc các sách Phúc  m, chúng ta phải bày tỏ cách chúng ta áp

dụng sứ điệp cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta thật sự nắm bắt được lời của Ngài,

chúng ta phải phải áp dụng.

Page 153: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

150

Kết Luận

Đức Chúa Trời ban cho chúng ta bốn sách Phúc  m về Chúa Giê-xu Christ – Ma-thi-

ơ- Mác – Lu-ca và Giăng. Khi chúng ta đem những sách Phúc  m này vào Hành Trình Giải

Kinh, nhận ra rằng chúng ta đang liên quan đến tiểu sử Đấng Christ – những câu chuyện về

Chúa Giê-xu được kể với mục đích nhất định là quan trọng. Để băng qua được cây cầu nguyên

tắc, chúng ta nên hỏi hai câu hỏi quan trọng: Sứ điệp chính của từng đoạn là gì? Và Tác giả Phúc

Âm đang cố gắng chuyển tải điều gì qua cách sắp xếp những câu chuyện nhỏ lại với nhau?

Chúng ta có thể tìm thấy những nguyên tắc từ cả hai mức độ, chúng ta đã học cách đọc những

câu chuyện riêng và một loạt câu chuyện.

Chúng ta cũng học được trong chương này rằng nắm bắt được Lời của Chúa không

dừng lại khi chúng ta băng qua dòng sông cách biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh và ngày nay.

Chúng ta phải học cách làm sao chúng ta có thể áp dụng những lẽ thật vĩ đại này của Phúc  m

vào đời sống của chúng ta. Một số người áp dụng trực tiếp thì không khó nhưng đối với một số

người thì phức tạp và khó khăn. Chúng ta cảm tạ Chúa vì các sách Phúc  m được viết ra để

chúng ta có thể lấy, đọc và áp dụng chúng bất cứ lúc nào. Khi chúng ta nắm lấy Lời của Chúa,

chúng ta cũng cảm nhận chính Đức Chúa Trời cũng đang ôm lấy chúng ta và dùng chúng ta cho

sự vinh hiển của danh Ngài.

Page 154: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

151

Chương 15

Tân Ước - Công Vụ Các Sứ Đồ

Lời Giới Thiệu

Trong khi chúng ta có bốn sách Phúc  m về cuộc đời và chức vụ của Chúa Giê-xu,

chúng ta chỉ có một sách về sự ra đời và phát triển của Hội Thánh đầu tiên. Điều này khiến cho

sách Công Vụ Các Sứ Đồ độc đáo và không thể thay thế. Đây là câu chuyện về sự bành trướng

của Cơ Đốc Giáo trong thế giới thời Tân Ước. Theo truyền thống, sách này là cầu nối giữa các

sách Phúc Âm và các thư tín Tân Ước. Vì Lu-ca tập trung vào Phi-e-rơ, Phao-lô và những nhân

vật ít tiếng tăm như Ê-tiên và Phi-líp nhiều hơn là mười hai sứ đồ nên tựa đề của sách này là:

“Công Vụ Tiếp Nối Của Chúa Giê-xu Bởi Đức Thánh Linh Qua Các Sứ Đồ và Những Nhà Lãnh

Đạo Cơ Đốc Ban Đầu Khác”. Tựa đề này quá dài nên nó được rút lại thành “Công Vụ”. Sách

Công Vụ cho chúng ta biết cách Đức Chúa Trời hành động qua Hội Thánh đầu tiên để thay đổi

thế giới.

Trong sách Công Vụ, chúng ta đọc về sự giáng lâm của Chúa Thánh Linh trên các tín

hữu, về bài giảng của Phi-e-rơ trong ngày lễ Ngũ Tuần có tới hàng ngàn người được cứu, về

những dấu kỳ phép lạ, và về một cộng đồng Cơ Đốc sống động. Chúng ta đọc về Ê -tiên tuận đạo,

về Phi-líp đem tin lành đến Sa-ma-ri và về những chuyến hành trình truyền giáo nổi tiếng của

Phao-lô, cuối cùng đưa ông đến La-mã. Trong Phúc âm Lu-ca, Chúa Giê-xu phải đi đến Giê-ru-

sa-lem để hoàn tất sự cứu rỗi cho toàn thế giới. Trong sách Công Vụ, tin lành cứu rỗi đó lan từ

Giê-ru-sa-lem đến cùng thế giới. Là một ghi nhận cách Tin lành đắc thắng từ Giê-ru-sa-lem đến

La-mã, sách Công Vụ được gói trong quyền phép thiêng liêng và cuộc phiêu lưu thiêng thượng.

Ai không muốn đọc sách Công Vụ?

Cùng với sự phiêu lưu, sách Công Vụ thách thức về giải kinh. Sách Công Vụ liên

quan đến Phúc  m Lu-ca như thế nào? (hai sách này có cùng một tác giả). Sách Công Vụ chỉ là

một ghi nhận của những gì đã xảy ra (lịch sử) hay nó cũng phát huy niềm tin Cơ Đốc về Đức

Chúa Trời (thần học)? Tại sao Lu-ca viết sách Công vụ và sứ điệp của nó liên hệ với chúng ta

như thế nào? Quan trọng nhất, chúng ta nhận được sứ điệp của sách Công Vụ bằng cách nào?

Câu hỏi cuối cùng này đặc biệt vì khuynh hướng của chúng ta là lý tưởng hóa hội

thánh đầu tiên, nghĩ về nó lớn hơn cả sự sống. Chúng ta quên rằng hội thánh đầu tiên gồm những

con người có tội, yếu đuối và nhiều vấn đề - những người giống như chúng ta. Chúng ta có

khuynh hướng nhìn vào sách Công vụ như là tiêu chuẩn cho mọi thời đại. Điều này nổi lên câu

hỏi giải nghĩa trọng tâm liên quan đến việc nắm bắt được sứ điệp của Công Vụ: Chúng ta có nên

xem sách Công Vụ như là chuẩn mực để hội thánh trong mọi thời đại noi theo kinh nghiệm và

công việc của Hội thánh đầu tiên không? Hay chúng ta đọc sách Công Vụ chỉ như là bảng mô tả

những điều giá trị và linh cảm trong Hội thánh đầu tiên mà không cần thiết phải liên kết với

Page 155: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

152

chúng ta ngày nay? Trong chương này chúng ta sẽ gặp những câu hỏi giải nghĩa này và cung cấp

cho bạn hiểu biết trong việc đọc một trong những câu chuyện phiêu lưu thật của mọi thời đại.

Sách Công Vụ: Cái Hậu của Lu-ca

Hầu hết các học giả tin rằng tác giả của Phúc  m Lu-ca cũng là tác giả của sách Công

Vụ và họ tin rằng ông cố tình viết thành một tác phẩm với hai phần: Luca-Công Vụ. Ban đầu hai

sách này được lưu hành trong các hội thánh bằng một sách mà thôi, nhưng trong thế kỷ thứ hai,

Phúc  m Lu-ca kết hợp với ba sách Phúc  m khác và sách Công vụ bắt đầu lưu hành một mình.

Có những bằng chứng cho thấy Lu-ca dự định kết hợp hai sách này thành một trong khi ông kể

chuyện:

1. So sánh những câu mở đầu của cả hai sách:

1 Hỡi Thê-ô-phi-lơ quí nhân, vì có nhiều kẻ dốc lòng chép sử về những sự đã làm

nên trong chúng ta, 2 theo như các người chứng kiến từ lúc ban đầu và trở nên

người giảng đạo đã truyền lại cho chúng ta, 3 vậy, sau khi đã xét kỹ càng từ đầu

mọi sự ấy, tôi cũng tưởng nên theo thứ tự viết mà tỏ ra cho ông, 4 để ông biết

những điều mình đã học là chắc chắn. (Luca 1:1-4)

1 Hỡi Thê-ô-phi-lơ, trong sách thứ nhất ta, ta từng nói về mọi điều Đức Chúa

Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu, 2 cho đến ngày Ngài được cất lên trời, sau khi

Ngài cậy Đức Thánh Linh mà răn dạy các sứ đồ Ngài đã chọn. (Công vụ 1:1-2)

Lu-ca nói “trong sách thứ nhất ta” trong Công vụ 1:1 rõ ràng chỉ về Phúc  m Lu-ca.

Ô ng viết trong Lu-ca “ta từng nói về mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu”. Trong

sách sau này (Công vụ), Lu-ca tiếp tục câu chuyện bằng cách chỉ cho thấy Chúa Giê-xu đã hành

động như thế nào bởi Đức Thánh Linh qua hội thánh của Ngài. Hơn nữa, bạn thấy rằng Lu-ca

gởi cả hai sách này cho Thê-ô-phi-lơ.

2. Có những cầu trúc và chủ đề song song giữa hai sách.

Một số chủ đề nổi bật trong Phúc  m Lu-ca lại xảy ra trong Công vụ (ví dụ, sự cầu

nguyện, công việc của Chúa Thánh Linh, tin lành cho mọi người). Có những phép lạ trong Công

Vụ gần giống với những phép lạ trong Lu-ca (so sánh sự chữa lành Ê -nê trong Công vụ 9:32 và

sự chữa lành người bại trong Luca 5:17-26; kêu Ta-bi-tha sống lại trong Công 9:43 với kêu con

gái Giai-ru sống lại trong Lu-ca 8:40-42, 49-56). Cả Lu-ca và Công vụ đều mô tả về chủ đề hành

trình. Trong Luca, Chúa Giê-xu đi từ Giê-ru-sa-lem đến thập tự giá (Luca 9:51,33; 17:11;18:31;

19:41). Trong Công vụ Phao-lô thực hiện nhiều hành trình mà cao điểm là hành trình từ Giu-đê

đến La-mã để giải trình trước Sê-sa (Công. 27-28).

Page 156: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

153

3. Có một sự trùng khớp giữa phần kết của sách Lu-ca và phần đầu của sách Công Vụ.

Lời của Chúa Giê-xu với các sứ đồ trong Lu-ca 24:49 - “Còn về phần các ngươi, hãy

đợi trong thành cho đến khi được mặc lấy quyền phép từ trên cao” – được ứng nghiệm trong

Công 1-2. Khi Chúa Giê-xu phán về sự ăn năn và tha thứ tội lỗi được giảng ra trong danh của

Ngài cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (Lu-ca. 24:47), thì chúng ta nghĩ ngay đến Công

vụ 1:8. Có lẽ đáng để ý nhất là phần thăng thiên của Chúa Giê-xu trong cả Lu-ca ca (24:51) và

Công vụ (1:9-11). Chỉ có hai nơi trong Tân Ước mô tả lại sự kiện này.

Lu-ca kết nối sách Phúc  m và Công vụ lại với nhau như là hai phần của một sách.

Đức Chúa Trời hành động mạnh mẽ trong Cựu ước và bày tỏ chính mình Ngài trong Chúa Giê-

xu thì bây giờ đang hành động trong Đức Thánh Linh của Ngài. Lu-ca trình bày cho chúng ta câu

chuyện vĩ đại về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Do đó, chúng ta luôn nhớ khi đọc sách Công vụ,

chúng ta phải bắt đầu từ sách Lu-ca. Những điều Chúa Giê-xu đã bắt đầu làm trong chức vụ của

Ngài trên đất thì bây giờ Ngài tiếp tục hành động qua những người được đầy dẫy Đức Thánh

Linh. Trước khi đọc sách Công vụ, bạn nên dành thời gian để đọc sách Lu-ca.

Sách Công Vụ Thuộc Loại Gì?

1. Sách Công Vụ là một Câu Chuyện

Giống như các sách Phúc Âm, sách Công vụ là một câu chuyện. Bạn nhớ rằng khi

chúng tôi mô tả các sách Phúc  m là tiểu sử thần học. Các tác giả Phúc  m viết với hai mục

đích chính: (a) kể về Chúa Giê-xu và (b) gởi một sứ điệp cho các độc giả của họ theo cách họ sắp

xếp những câu chuyện riêng thành một câu chuyện lớn hơn. Vì sự liên hệ chặt chẽ này, chúng ta

có thể mong đợi hai sách này có những điểm giải kinh chung. Nhiều người cho rằng cách chúng

ta đọc các sách Phúc Âm cũng có thể áp dụng cho sách Công vụ nữa, gồm cả hai câu hỏi giải

nghĩa. Sự khác nhau là các sách Phúc  m tập trung vào một con người, Giê-xu người Na-xa-rét

còn câu chuyện trong Công vụ tập trung vào vài nhà lãnh đạo hội thánh then chốt, mà chủ yếu là

Phi-e-rơ và Phao-lô.

2. Sách Công Vụ là Lịch Sử Thần Học

Như Lu-ca mở rộng góc nhìn của mình từ Chúa Giê-xu trong các sách Phúc Âm đến

các nhà lãnh đạo hội thánh đầu tiên, ông chuyển từ tiểu sử thần học trong sách Phúc  m của

mình sang lịch sử thần học trong sách Công vụ. Lu-ca là một nhà sử học. Ông đã soạn một bảng

lịch sử đáng tin về những gì đã xảy ra trong quá trình bành trướng của tin lành. Chúng ta cũng

không nên nghĩ rằng Lu-ca chấp nhận tất cả những gì đã xảy ra. Như trong các sách lịch sử trong

Cựu ước, có lúc con người làm những điều không đẹp lòng Chúa. Khi Phao-lô mô tả một điều gì

đó xảy ra (ví dụ, Phao-lô cãi với Ba-na-ba trong Công. 15:36-40), chúng ta cần hiểu là chúng ta

không phải chấp nhận điều này.

Page 157: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

154

Lu-ca cũng là một nhà thần học. Ô ng kể câu chuyện của mình với mục đích phát triển

đức tin Cơ Đốc. Ô ng có thể vừa là nhà sử học vừa là nhà thần học được không? Chúng ta tin như

vậy. Tất cả các bản viết lịch sử đều có sự chọn lọc (tức là bạn không thể kể mọi điều) và được

viết từ nhãn quan đức tin. Các nhà sử học không phải là người quan sát trung dung mà không có

bất cứ hệ thống đức tin nào. Họ là con người và có quan điểm giống như chúng ta. Quan điểm

của họ ảnh hưởng đến cách họ giải nghĩa sự kiện, chọn lọc những điều nên cho vào và ấn định

câu chuyện. Trong Công vụ, Lu-ca cung cấp một lịch sử chính xác và đáng tin nhưng ông đã thu

thập và sắp xếp tư liệu của mình với mục đích thần học.

Ví dụ, trong các bài giảng trong Công vụ, Lu-ca kể lại những gì thật sự xảy ra với

mục đích thần học. Những bài giảng chiếm khoảng một phần tư đến một phần ba của sách. Điều

này làm cho sách Công vụ thật sự là một sự tiếp tục mọi điều Chúa Giê-xu đã làm và dạy. Chúng

ta không nên cho rằng tất cả các bài giảng của sách Công vụ được ghi lại trọn vẹn từng chữ vì (a)

Lu-ca không có mặt để nghe lại hết từng bài giảng, (b) ông chẳng có máy ghi âm và (c) Những

bài giảng quá ngắn. Ví dụ cho điểm cuối này, trong Công vụ 3, Phi-e-rơ bắt đầu giảng ngay sau

ba giờ chiều (3:1) và dừng lại cho đến buổi tối 4:3, nhưng Lu-ca chỉ dùng có mười lăm câu để

ghi lại bài giảng dài của Phi-e-rơ (3:12-26). Những bài giảng này là những tóm tắt đáng tin cậy

của những gì thật sự đã nói đến. Lu-ca không tạo nên chúng nhưng ông ghi lại bằng chính ngôn

ngữ của ông để phát triển mục đích thần học của mình về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

Làm sao chúng ta có thể nhận biết được những mục đích thần học đó khi đọc sách

Công vụ? Nói tổng quát hơn, làm sao chúng ta đặt thần học trong câu chuyện? Chúng ta sử dụng

nhiều nguyên tắc giống như chúng ta đã sử dụng để tìm nguyên tắc thần học trong các Sách Phúc

 m. Chúng ta hỏi những câu hỏi chuẩn, chú ý đến những lời chỉ dạy của tác giả, tập trung vào

những lời trích dẫn trực tiếp….

Có lẽ một hướng dẫn hữu ích nhất để nắm bắt được những lẽ thật thần học của sách

Công vụ là tìm những chủ đề được lặp lại. Trong những chủ đề chính của sách Công vụ, bạn có

thể thấy Lu-ca đang thiết kế mục đích thần học của mình. Khi bạn tìm được những mục đích thần

học của Lu-ca, bạn sẽ tìm thấy trọng tâm của sứ điệp của ông cho độc giả ban đầu của mình và

cho chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy cùng xem vài chủ đề chính trong sách Công vụ.

Tại Sao Lu-ca Viết Sách Công Vụ?

Lu-ca khẳng định mục đích viết sách Lu-ca-Công vụ của mình trong vài câu đầu của

sách Phúc  m của mình. Cả hai được viết cho Thê-ô-phi-lơ, có lẽ là một người mới qui đạo và

có địa vị trong xã hội để ông biết chắc chắn những điều đã được học. Có lẽ Thê-ô-phi-lơ không

hiểu rõ hết lời dạy của Phúc âm. Lu-ca viết sách này để khuyến khích Thê-ô-phi-lơ và những

người khác để ông hiểu trọn vẹn hơn về đức tin mới của mình.

Page 158: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

155

Chúng ta có thể nghĩ về sách Công vụ như là bảng chỉ dẫn dễ hiểu về huấn luyện môn

đồ, được dùng để làm vững đức tin của những tân tín hữu. Lu-ca đã cho họ thấy những gì Đức

Chúa Trời đã hứa trong Cựu ước được ứng nghiệm trong Chúa Giê-xu và giờ đây tiếp tục hành

động. Tóm lại, Đức Thánh Linh mặc quyền phép cho Hội Thánh (cả cho người Giu-đa lẫn người

ngoại bang) để đem Tin Lành của Chúa Giê-xu Christ cho thế giới (Công. 1:8).

Đức Thánh Linh → Hội Thánh → Tin Lành → Thế Giới

Đây là lịch sử hội thánh tốt nhất, được mô tả để khẳng định cho các Cơ Đốc Nhân

rằng họ là phần của chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể nghe Lu-ca nói rằng:

“quý vị đang đi đúng hướng. Quý vị là một phần quan trọng của những gì Đức Chúa Trời đang

thực hiện. Đừng bỏ cuộc!” Mục đích lớn của Lu-ca được chia thành những mục đích hay chủ đề

phụ: Chúng ta cùng xem những chủ đề này:

1. Đức Thánh Linh

Tất cả sự kiện bắt đầu với Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời. trong Công vụ 1

Chúa Giê-xu hứa rằng Cha sẽ sai Đức Thánh Linh xuống. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần (công 2) Đức

Thánh Linh đã giáng xuống ở trong và mặc quyền phép cho các sứ đồ của Chúa Giê-xu. Phần

còn lại của sách là phần ghi lại những hành động hay công việc của Chúa Thánh Linh qua Hội

Thánh. Đức Thánh Linh mặc lấy quyền phép cho tín hữu để làm chứng (4:8,31), hướng dẫn họ

(8:29, 39; 10:19; 16:6-7; 20:22), phá vỡ ngăn cách (10:44-46), biệt riêng tín hữu cho truyền giáo

(13:2)…. Những gì Chúa Giê-xu bắt đầu làm (sách Phúc  m) Ngài sẽ tiếp tục làm qua Đức

Thánh Linh.

2. Quyền Tể Trị của Đức Chúa Trời

Khi chúng ta đọc sách Công vụ, chúng ta có cảm nhận rõ rằng Đức Chúa Trời đang tể

trị. Kinh Thánh Cựu ước được ứng nghiệm khi Đức Chúa Trời làm thành kế hoạch của Ngài (vd,

1:16; 3:16-21,25-28,34-35; 4:24-25; 13:32-37,47). Ý muốn của Đức Chúa Trời được hoàn tất

qua Chúa Giê-xu (2:23-24) và mục đích của Ngài được hoàn thành qua dân sự Ngài. Ngài cai trị

trên việc tù đày (4: 23-31), trên kế hoạch đi lại của con người (16:6-10), trên tòa công luận Giu-

đa (23:11) và ngay cả trên những cơn bão tố dữ tợn (27:13-44) để hoàn thành công việc của Ngài.

Các sứ đồ làm những dấu kỳ phép lạ bằng quyền phép của Đức Chúa Trời. Công việc tể trị của

Ngài là vì sứ điệp tin lành, không phải lúc nào cũng dễ chịu đối với các sứ giả của Ngài.

Page 159: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

156

3. Hội Thánh

Đức Thánh Linh hành động chính yếu qua hội thánh để hoàn thành ý muốn của Ngài.

Như những phần tóm tắt sau minh họa, Đức Thánh Linh tạo nên một cộng đồng khỏe mạnh và

năng động. Tại đó người ta thờ phượng Đức Chúa Trời, chăm sóc cho nhau, phát triển tâm linh

và tham gia vào truyền giáo:

42 Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ, sự thông công của anh em,

lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện. 43 Mọi người đều kính sợ vì có nhiều sự kỳ phép lạ làm

ra bởi các sứ đồ. 44 Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm

của chung. 45 Bán hết gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùng

của từng người. 46 Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ; còn ở nhà, thì bẻ

bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà, 47 ngợi khen Đức Chúa Trời và

được đẹp lòng cả dân chúng. Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội

thánh. (Công. 2:42-47)

32 Vả, người tin theo đông lắm, cứ một lòng một ý cùng nhau. Chẳng ai kể của mình

là của riêng; nhưng kể mọi vật là của chung cho nhau. 33 Các sứ đồ lại lấy quyền phép

rất lớn mà làm chứng về sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ; và hết thảy đều được

phước lớn. 34 Vì trong tín đồ không ai thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay

nhà, đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến 35 đặt dưới chân các sứ đồ; rồi

tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phát cho. (Công 4:32-35)

4. Sự Cầu Nguyện

Như trong sách Phúc Âm Lu-ca, sự cầu nguyện là chủ đề chính trong sách Công vụ.

Các tín hữu đầu tiên được xem như là những con người cầu nguyện và bạn thấy họ cầu nguyện

trong từng chương của Công vụ. Hội thánh được khai sinh trong buổi cầu nguyện (1:14). Họ cầu

nguyện khi đối diện với sự chống đối và nguy hiểm (4:24; 12:5;16:25;18:9). Họ cầu nguyện xin

sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời (1:24;9:11;22:17,18). Họ cầu nguyện cho nhu cầu thuộc linh

của nhau (8:15;19:6). Họ chăm sóc người bịnh và người vô vọng qua sự cầu nguyện (9:40;

16:16;28:8). Họ cầu nguyện khi họ sai những người đi làm những công việc đặc biệt

(6:6;13:3;14:23). Họ cầu nguyện khi chia tay (20:36; 21:5). Họ cầu nguyện khi đối diện với sự

chết (7:59,60). Sự cầu nguyện là trọng tâm của sự sống của hội thánh đầu tiên.

Page 160: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

157

5. Sự Đau Khổ

Khi chúng ta đọc thấy những điều kỳ diệu mà Đức Chúa Trời làm trong sách Công vụ,

chúng ta thấy cái giá mà Cơ Đốc Nhân đầu tiên phải trả. Họ chịu tù đày, đánh đập và bị khước từ;

họ đối diện với những đám đông nổi loạn, với những cơn bão, với sự bách hại và ngay cả với sự

chết (vd, 5:41;7:59-60; 9:15-16;12:4;14:22;16:22-23;20:23-24;21:30-33;27:13-44). Lời của

Phao-lô cho các trưởng lão tại thành Ê-phê-sô trở thành chuẩn cho niềm tin Cơ Đốc: đau khổ là

qui luật chứ không phải là ngoại lệ:

23 duy Đức Thánh Linh đã bảo trước cho tôi rằng từ thành nầy sang thành khác dây

xích và hoạn nạn đang đợi tôi đó. 24 nhưng tôi chẳng kể sự sống mình là quí, miễn

chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm

chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời. (20:23-24)

6. Người Ngoại Bang

Trong Công vụ, Tin lành đến với người Giu-đa trước nhất nhưng nhanh chóng lan ra

“đến cùng trái đất” – đến với dân ngoại. (từ người ngoại bang chỉ về những người không thuộc

Do Thái). Dân Y-sơ-ra-ên thật của Đức Chúa Trời được cấu thành từ người Do thái và người

ngoại bang, là những người tin nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phi-

e-rơ trích tiên tri Giô-ên: “Ta sẽ đổ thần ta khắp trên mọi loài xác thịt… và hễ ai kêu cầu danh

Chúa thì sẽ được cứu” (2:17b,21). Sau đó Phi-e-rơ nhận rằng Đức Chúa Trời quan tâm đặc biệt

đến việc truyền giáo cho dân ngọai. Sau khi thấy Đức Thánh Linh giáng trên người Sa-ma-ri

(8:14-17) và dân ngoại (10:1-48), ông xưng nhận rằng: “Quả thật, ta biết Đức Chúa Trời chẳng

hề vị nể ai, nhưng trong các dân, hễ ai kính sợ Ngài và làm sự công bình, thì nấy được đẹp lòng

Chúa.” (10:34-35). Diễn tiến trong sách Công vụ là từ Giê-ru-sa-lem đển Rô-ma, từ Phi-e-rơ đến

Phao-lô, từ chỉ người Giu-đa đến người Giu-đa và ngoại bang.

7. Lời Chứng

Các sứ đồ tập trung lời chứng của họ vào sự phục sinh của Chúa Giê-xu từ trong kẻ

chết (vd. 1:8,22;2:32-36;4:2,20,33; 5:20,32,42; 10:39-41). Công vụ 3:15: “các ngươi đã giết

Chúa của sự sống, mà Đức Chúa Trời đã khiến từ kẻ chết sống lại, và chúng ta là người làm

chứng về điều đó” là tiêu biểu. Đức Thánh Linh không chỉ ban quyền phép của Ngài cho các sứ

đồ. Ê -tiên trung thành trong sự làm chứng (tuận đạo) cho đến cuối cùng (6:8-8:1; 22:20). Phi-líp

giảng về: “Tin Lành của nước Đức Chúa Trời và danh Đức Chúa Jêsus Christ” (8:12,35,40).

Phao-lô được chính Đấng Phục sinh sai đi giảng tin lành cho người ngoại (9:15) và lời chứng của

ông chiếm một nửa còn lại của sách Công vụ. Sứ điệp của Lu-ca trong sách Công vụ là rõ ràng:

Theo Chúa Giê-xu nghĩa là trung thành làm chứng cho Ngài.

Page 161: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

158

Sách Công Vụ Được Sắp Xếp Như Thế Nào?

Công vụ 1:8 là chìa khóa để hiểu được toàn sách được sắp xếp như thế nào: “Nhưng

khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng

về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.” Tin Lành của

Chúa Giê-xu trước hết được giảng cho người Giu-đa trong và quanh thành Giê-ru-sa-lem (ch. 1-

12) trước khi lan đến người ngoại bang (ch. 13-28). Dàn bài bên dưới trình bày sách Công vụ của

Lu-ca mở mang sự đắc thắng của tin lành từ Giê-ru-sa-lem (trung tâm của Y-sơ-ra-ên) đến Rô-

ma (trung tâm của đế quốc).

1-12 Truyền Giáo cho người Giu-đa

1 Chuẩn bị cho ngày lễ Ngũ Tuần Tại Giê-ru-sa-lem

2 Ngày lễ Ngũ Tuần: Đức Thánh Linh giáng lâm

3-4 Đức Thánh Linh hành động qua các sứ đồ

5-6 Những đe dọa đến Hội Thánh

6-8 Ê -tiên, người tuận đạo đầu tiên ở Giu-đê và Sa-ma-ri

8 Nhà truyền giáo Phi-líp

9 Phao-lô qui đạo

9-11 Chức vụ của Phi-e-rơ vượt ra ngoài Giê-ru-sa-lem

11 Cơ Đốc Giáo đến An-ti-ốt

12 Tin lành được lan rộng dầu có nhiều trở ngại

13-18 Truyền Giáo cho dân Ngoại

13-14 Hành trình truyền giáo thứ nhất của Phao-lô Đến cùng trái đất

15 Giáo Hội Nghị Giê-ru-sa-lem

15-18 Hành trình truyền giáo thứ hai của Phao-lô

18-21 Hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô

21-23 Lời chứng của Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem

24-26 Lời chứng của Phao-lô tại Sê-sa-rê

27-28 Lời chứng của Phao-lô tại Rô-ma

Page 162: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

159

Trong khi Phi-e-rơ là nhân vật chính trong công cuộc truyền giáo cho người Giu-đa

trong Công vụ 1-12 thì sự chú ý lại chuyển qua Phao-lô trong Công vụ 13-28 khi Tin lành được

truyền đến “cùng trái đất” (1:8). Thật sự nhân vật chính trong tất cả các nhân vật sách Công vụ là

Đức Thánh Linh, Đấng hành động qua cả Phao-lô và Phi-e-rơ. Chúng ta thấy điều này khi chúng

ta so sánh một vài điểm tương đương giữa Phi-e-rơ và Phao-lô trong sách Công vụ. (Tại đây

chúng ta có một ví dụ khác về cách một tác giả Kinh Thánh dùng kỹ năng so sánh của mình để

chuyển một câu chuyện).

Phi-e-rơ Phao-lô

Bài giảng của Phi-e-rơ trong lễ Ngũ Tuần

(2:22-29)

Bài giảng của Phao-lô tại thành An-ti-ốt,

Pi-si-đi (13:26-41)

Chữa lành người què (3:1-10) Chữa lành người què (14:8-11)

Rúng động tòa nhà qua sự cầu nguyện (4:31) Rúng động tòa nhà qua sự ngợi khen

(16:25-26)

Quở trách A-na-nia và Sa-phi-ra (5:1-11) Quở trách Ê-ly-ma (13:8-12)

Chữa lành qua bóng của Phi-e-rơ (5:15-16) Chữa lành qua chiếc khăn của Phao-lô

(19:11-12)

Đặt tay (8:17) Đặt tay (19:6)

Quở trách thầy phù thủy Si-môn (8:18-24) Quở trách thầy phù thủy Giu-đa (13:6-11)

Kêu Ta-bi-tha sống lại (9:36-42) Kêu Ơ-tích sống lại (20:7-12)

Tháo xiềng trong tù (12:5-7) Tháo xiềng trong tù (16:25-28)

Hơn nữa, Lu-ca dừng lại một chút sau mỗi câu chuyện để tóm tắt sự tiến triển của Tin

Lành và sự phát triển của cộng đồng Cơ Đốc. Có năm tóm tắt như vậy:

6:7: “Đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng tràn ra, số môn đồ tại thành Giê-ru-sa-lem thêm lên

nhiều lắm. Cũng có rất nhiều thầy tế lễ vâng theo đạo nữa.”

9:31: “Ấy vậy, Hội-thánh trong cả xứ Giu-đê, xứ Ga-li-lê và xứ Sa-ma-ri được hưởng sự bình an,

gây dựng và đi trong đường kính sợ Chúa, lại nhờ Đức Thánh Linh vùa giúp, thì số của hội được

thêm lên.”

12:24: “Bấy giờ, đạo Đức Chúa Trời tấn tới rất nhiều, càng ngày càng tràn thêm ra.”

16:5 “Ấy vậy, các Hội thánh được vững vàng trong đức tin, và số người càng ngày càng thêm lên.”

19:20: “Ấy vậy, nhờ quyền phép của Chúa, đạo bèn đồn ra, càng ngày càng được thắng”

Page 163: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

160

Trong chính những câu cuối (28:30-31) khi Phao-lô đang ở Rô-ma, Lu-ca viết:

Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp rước mọi người đến thăm

mình, giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Jêsus Christ cách tự do

trọn vẹn,chẳng ai ngăn cấm người hết.

Trong bản Hy-lạp, từ “chẳng ai ngăn cấm người hết” thật sự là từ cuối cùng của sách

này. Đây thật sự là một sự kết thúc có chủ ý. Phao-lô bây giờ có lẽ đang ở trong tù nhưng tin

lành của Chúa Giê-xu Christ tiến lên…mà không ai ngăn trở được.

Nắm Lấy Sứ Điệp Của Sách Công Vụ

Vì sách Công vụ thuộc loại văn kể chuyện nên chúng ta có thể giải nghĩa nó giống

như cách chúng ta giải nghĩa các sách Phúc  m. Hai câu hỏi giải nghĩa quan trọng: (1) sứ điệp

trọng tâm của từng đoạn là gì?(2) Lu-ca đang nói với độc giả điều gì qua cách sắp xếp những câu

chuyện và bài giảng lại với nhau để tạo thành câu chuyện lớn hơn?

Để tìm được những nguyên tắc thần học trong những đoạn riêng của sách Công vụ,

chúng ta phải tập trung vào những câu hỏi giải nghĩa chuẩn: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Tại

sao? Như thế nào? Những câu hỏi này cung cấp kế hoạch để hiểu bất cứ câu chuyện nào. Khi tìm

những nguyên tắc thần học trong nhiều đoạn liên tiếp, hãy tìm những kết nói giữa những câu

chuyện. Tại sao câu chuyện này lại được đặt ở đây? Độ dài của mỗi đoạn cho chúng ta biết Lu-

ca đang nghĩ gì? Trên hết, những chủ đề nào được lặp lại nhiều lần xuyên suốt sách Công vụ?

Khi đọc và áp dụng sách Công vụ, chúng ta đối diện với một thách thức giải kinh

chính mà chúng ta không gặp phải khi đọc các sách Phúc  m, dầu cả hai đều thuộc văn kể

chuyện. Trong các sách Phúc Âm, chúng ta đọc về Chúa Giê-xu và các sứ đồ đầu tiên mà không

mảy may nghĩ rằng mình cũng ở trong cùng hoàn cảnh như vậy. Chúng ta không bao giờ bước

vào thuyền với Chúa Giê-xu băng qua biển hay đi trên các đường phố Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên,

hoàn cảnh thì khác trong sách Công vụ. Từ các sách Phúc Âm đến sách Công vụ, có một sự

chuyển đổi lớn trong lịch sử Thánh Kinh từ giai đoạn chức vụ của Chúa Giê-xu đến giai đoạn

chức vụ của Đức Thánh Linh qua Hội thánh. Là những độc giả có đức tin, chúng ta là một phần

của Hội Thánh được Đức Thánh Linh hành động. Đây là phần hết sức quý báu!

Chúng ta có nên xem sách Công vụ như là mẫu mực để hội thánh trong mọi thời đại

noi theo kinh nghiệm và thực hành của hội thánh đầu tiên không? Hay chúng ta nên đọc sách

Công vụ chỉ là bảng mô tả những gì giá trị và cảm động trong hội thánh đầu tiên nhưng không

cần thiết phải liên hệ với chúng ta ngày nay không? Chắc chắn đây là vấn đề quan trọng nhất mà

chúng ta đối diện khi chúng ta học cách giải nghĩa sách Công vụ.

Page 164: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

161

Một mặt, nếu chúng ta đọc sách Công vụ chỉ như là bảng mô tả thì tại sao chúng ta

phải đọc nó nhiều lần? Nếu là mô tả thôi thì có đóng góp gì cho chúng ta ngày nay không? Bên

cạnh đó, Lu-ca không để lại cho chúng ta một gợi ý nào là ông ta hiểu rằng thời của hội thánh

đầu tiên hoàn toàn là độc đáo và không thể lặp lại. Mặc khác, nếu chúng ta xem sách Công vụ là

chuẩn mực, chúng ta có phải lặp lại tất cả hoạt động của hội thánh đầu tiên, như là vô đạo đức, tà

giáo không? Chúng ta có phải thống nhất quyết định bằng việc bốc thăm không? Chúng ta có

phải góp chung của cải không? Đức Chúa Trời có đoán phạt chúng ta giống như Ngài đoán phạt

A-na-nia và Sa-phi-ra không? Chúng ta nên đọc sách Công vụ như chuẩn mực hay là mô tả?

Trong việc thực hiện Hành Trình Giải Kinh trong sách Công vụ, chúng tôi tin rằng cả

hai hướng đều có thể được áp dụng (tức là, xem một số phần của sách Công vụ như chuẩn mực

và một số phần khác là mô tả). Điều này có nghĩa là băng qua cây cầu nguyên tắc trong sách

Công vụ thật sự phức tạp. Khó khăn này nằm ở chỗ biết cái nào là chuẩn mực cho hội thánh ngày

nay và cái nào là không phải. Dựa trên căn bản nào chúng ta quyết định? Nếu chúng ta không

thông suốt vấn đề này, chúng ta chắc chắn sẽ chọn dựa trên cảm giác của mình. Chúng tôi muốn

cung cấp một số hướng dẫn để xác định cái nào trong sách Công vụ là chuẩn mực cho hội thánh

ngày nay.

1. Tìm những điều Lu-ca có chủ định để chuyển tải cho độc giả.

Khi chúng ta tìm thấy sứ điệp mà Lu-ca dự định thì chúng ta có thể tìm được ý nghĩa

chuẩn của đoạn Kinh Thánh. Ví dụ trong Công. 8, chúng ta đọc về sự qui đạo và báp têm của

người Sa-ma-ri và hoạn quan Ê-thi-ô-pi trong chức vụ của Phi-líp. Sau khi đọc phân đoạn này

chúng ta hỏi nhiều câu hỏi. Bản chất phù thủy là gì? Tại sao Đức Thánh Linh không đến với

người Sa-ma-ri vào thời điểm họ tin? Si-môn có mất sự cứu rỗi hay không bao giờ được cứu

không? Thiên sứ của Đức Chúa Trời phán với Phi-líp bằng cách nào? Bao nhiêu nước cần để báp

têm? Khi đoạn Kinh Thánh cho biết: “Đức Thánh Linh của Chúa đem Phi-líp đi”, điều này có

nghĩa là gì?

Đây là những câu hỏi tốt nhưng chúng không phải là trọng tâm của những điều Lu-ca

chủ định để chuyển tải trong chương này. Chúng ta đồng ý với Klein, Blomberg và Hubbard viết

về chủ định của Lu ca trong Công. 8:

Đoạn này xảy ra trong phần dàn bài của Lu-ca, tập trung vào cách tin lành bắt đầu rời

khỏi địa phận người Giu-đa. Do đó, hai hình ảnh nổi bật trong đoạn 8 trong sứ điệp của

Phi-líp trước hết bởi người Sa-ma-ri và sau đó là hoạn quan, cả hai đều bị người Giu-đa

truyền thống xem là ô uế . Do đó, áp dụng chính của Công 8 cho đời sống Cơ Đốc ngày

nay không nên tập trung vào thời điểm Đức Thánh Linh đến và hiệu quả của việc đó,

cũng không tập trung vào chi tiết bao nhiêu nước cho việc báp têm hay sự qui đạo diễn ra

nhanh thế nào. Nhưng những phân đoạn này kêu gọi mọi Cơ Đốc nhân hôm nay xác định

ai là người Sa-ma-ri và hoạn quan trong thế giới của chúng ta. Chức vụ Cơ Đốc không

Page 165: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

162

được từ bỏ những người “thấp hèn” ngày nay – nạn nhân SIDA, người vô gia cư, những

người mẹ độc thân ….6

Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể biết được chủ định của Lu-ca, nhưng chúng

ta có thể tìm những chủ đề chung nối những câu chuyện lại với nhau. Tại đây chúng ta sẽ khám

phá sứ điệp của Lu-ca cho độc giả của ông (và cho chúng ta). Chúng ta có thể hỏi: “Người Sa-

ma-ri và vị hoạn quan có điểm gì chung?” Người Sa-ma-ri là “dân tạp” còn vị hoạn quan là

người bị khước từ; Cả hai nhóm người này đều bị xem là thấp hèn về tôn giáo và xã hội ở một

mức độ nào đó. Sứ điệp chuẩn của Lu-ca là Tin Lành của Chúa Giê-xu Christ đập tan mọi rào

cản của con người. Chính những rào cản này ngăn trở con người đến với Đức Chúa Trời. Đức

Chúa Trời chấp nhận chúng ta không phải vì chúng ta có một thân thể hoàn hảo hay được sinh ra

ở một khu vực nào trên thế giới này, nhưng vì những điều Ngài đã làm cho chúng ta thông qua

Con Ngài là Chúa Giê-xu. Chủ định của tác giả nên đi trước tất cả sự tò mò của chúng ta khi tìm

điều chuẩn trong sách Công vụ.

2. Tìm những gương tích cực và tiêu cực trong các nhân vật của câu chuyện.

Lu-ca muốn chúng ta noi theo những nhân vật tích cực giống như Ê-tiên, Ba-na-ba,

Ly-đi và Si-la, nhưng không muốn chúng ta đi vết xe đỗ của A-na-nia, Sa-phi-ra, thầy phù thủy

Si-môn và vua Ạt-ríp-ba. Lu-ca có lẽ chủ định rằng tất cả những điều mà các Cơ Đốc nhân thực

hiện trong câu chuyện của sách Công vụ nên xem là chuẩn mực cho các thế hệ Cơ Đốc tương lai.

Điều này không phải lúc nào cũng đúng (vd. Giăng Mác bỏ cuộc trong 13:13; 15:38), nhưng đó

là qui luật tốt.

Chỉ dẫn về việc làm theo vai trò kiểu mẫu tích cực và tránh những kiểu mẫu tiêu cực

này dấy lên một vấn đề quan trọng khi nói đến các sứ đồ. Chỉ có một ngoại lệ trong Công

14:4,14, nơi mà Phao-lô và Ba-na-ba được gọi là sứ đồ, Lu-ca giới hạn từ sứ đồ chỉ cho mười hai

người được Chúa Giê-xu chọn. Phi-e-rơ giải thích về điều kiện để trở thành một sứ đồ trong

Công 1. Tại đây Ma-thia được chọn để thay thế Giu-đa:

21 Vậy, nội những kẻ đã theo cùng chúng ta trọn lúc Đức Chúa Jêsus đi lại giữa chúng

ta, 22 từ khi Giăng làm phép báp-tem cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giữa chúng

ta, phải có một người làm chứng cùng chúng ta về sự Ngài sống lại.

Theo nghĩa này, chức sứ đồ là duy nhất và không phải một điều gì đó mà chúng ta có

thể lặp lại. Hãy nhớ bước trong Hành Trình Giải Kinh, chúng ta nhận ra những khác biệt giữa

độc giả thời Kinh thánh và chúng ta. Chức sứ đồ là phần của dòng sông khác biệt. Đơn giản,

chúng ta không phải là sứ đồ. Chúng ta mong đợi Chúa làm những dấu kỳ, phép lạ qua các sứ đồ

ở một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử cứu chuộc và thật đây là trường hợp, hầu hết các phép lạ

trong sách Công vụ qua tay của các sứ đồ.

6 Klein, Blomberg, and Hubbard, Biblical Interpretation, 346-47.

Page 166: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

163

Nhưng Chúa cũng giúp cho Ê-tiên (6:8), Phi-líp 8:6) và Ba-na-ba (14:3; 15:12) để

làm dấu kỳ và phép lạ và những người này không phải là thành viên của mười hai sứ đồ ban đầu

(dầu Ba-na-ba được gọi là sứ đồ theo nghĩa rộng hơn). Mục đích của chúng tôi tại đây không

phải là giới hạn công việc của Đức Thánh Linh qua một phương pháp giải kinh, nhưng chúng tôi

không thấy Lu-ca đề cập là mỗi nhân vật trong Công vụ phải bày tỏ một phép lạ “của sứ đồ” để

được gọi là những môn đồ của Đấng Christ. Có nhiều nhân vật trong Công vụ làm gương tích

cực (chúng ta xem là kiểu mẫu) mà không làm “dấu kỳ, phép lạ”. Bạn cũng có thể thấy ấn tượng

đặc biệt khi đọc sách Công vụ là Lu-ca nhìn thấy phép lạ vĩ đại nhất là công việc siêu nhiên của

Đức Thánh Linh trong lòng người khi con người đáp lại tin lành của Chúa Giê-xu.

3. Đọc những phân đoạn nhỏ trong ánh sáng của cả câu chuyện lớn của sách Công vụ và

phần còn lại của Tân Ước.

Diễn tiến của cả câu chuyện cho thấy những giới hạn để xác định điều gì là chuẩn

mực trong những phần Kinh Thánh khác nhau. Chúng ta không nên cho một lời giải nghĩa nào là

chuẩn nếu nó không tôn trọng cả diễn tiến của cả câu chuyện. Ví dụ, bạn đang học Công. 19:1-7

và không hiểu rõ về câu hỏi của Phao-lô trong câu 2: “Từ khi anh em tin, có lãnh được Đức

Thánh Linh chăng?”

1 Trong khi A-bô-lô ở thành Cô-rinh-tô, Phao-lô đã đi khắp những miền trên, rồi

xuống thành Ê-phê-sô, gặp một vài người môn đồ ở đó. 2 Người hỏi rằng: Từ khi anh

em tin, có lãnh được Đức Thánh Linh chăng! Trả lời rằng: Chúng tôi cũng chưa nghe

có Đức Thánh Linh nào. Người lại hỏi: Vậy thì anh em đã chịu phép báp-tem nào? 3

Trả lời rằng: Phép báp-tem của Giăng. 4 Phao-lô bèn nói rằng: Giăng đã làm phép báp-

tem về sự ăn năn tội, mà truyền dân phải tin Đấng sẽ đến sau mình, nghĩa là tin Đức

Chúa Jêsus. 5 Chúng nghe bấy nhiêu lời, bèn chịu phép báp-tem nhân danh Đức Chúa

Jêsus. 6 Sau khi Phao-lô đã đặt tay lên, thì có Đức Thánh Linh giáng trên chúng, cho

nói tiếng ngoại quốc và lời tiên tri. 7 Cọng hết thảy độ mười hai người.

Chúng ta có nên giải nghĩa phân đoạn này để ủng hộ một sự qui đạo có hai giai đoạn

như là chuẩn mực cho mọi Cơ Đốc Nhân không? Nói cách khác, chúng ta có nên mong đợi mọi

Cơ Đốc Nhân trước hểt tin Chúa Giê-xu (giai đoạn 1) và sau đó mới nhận lãnh Đức Thánh Linh

(giai đoạn 2) không?

Khuôn khổ của câu chuyện lớn hơn trong Công 1:8 (Giê-ru-sa-lem, Giu-đê, Sa-ma-ri

và cùng trái đất) cho thấy rằng chúng ta không nên giải nghĩa một sự qui đạo với hai giai đoạn là

chuẩn. Khi bạn nhìn biểu đồ bên dưới, câu chuyện của sách Công vụ cho thấy Đức Thánh Linh

được ban xuống trên các tín hữu trong những giai đoạn thuộc quốc gia và giống người: trước hết

người Giu-đa, sau đó cho người Sa-ma-ri và cuối cùng cho người ngoại bang. Điều đơn giản là

cách mà câu chuyện trong lịch sử Kinh thánh mở ra.

Page 167: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

164

Công vụ 2 Công vụ 8 Công vụ 10

Đức Thánh Linh đến trên Cơ

Đốc Nhân Giu-đa vào ngày lễ

Ngũ Tuần

Đức Thánh Linh đến trên Cơ

Đốc Nhân Sa-ma-ri

Đức Thánh Linh đến trên Cơ

Đốc nhân ngoại bang

Kể từ đoạn 10 trở đi, chúng ta chẳng thấy rào cản về chủng tộc nữa. Tin Chúa Giê-xu

và nhận lãnh Đức Thánh Linh là một kinh nghiệm duy nhất (Công. 11:17, Rô. 8:9b). Điều này

cũng đúng ngay cả trong Công vụ 19. Câu hỏi của Phao-lô xác định rằng “các môn đồ” ông gặp

ở thành Ê-phê-sô chưa phải là tín hữu của Chúa Giê-xu nhưng là môn đồ của Giăng Báp-tít. Họ

không nhận biết Lễ Ngũ Tuần và họ chỉ nhận phép báp têm của Giăng về sự ăn năn hơn là phép

báp têm trong danh Chúa Giê-xu. Tóm lại, họ vẫn cần xưng nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ và

nhận lãnh Đức Thánh Linh – và họ làm như vậy. Chúng tôi khích lệ bạn để toàn câu chuyện

trong sách Công vụ làm ranh giới cho những điều chuẩn trong những phân đoạn Kinh Thánh nhỏ.

4. Tìm những phần khác trong sách Công vụ để làm rõ điều nào là chuẩn.

Khi bạn đọc trong Công. 2:42-47 và 4:32-35 về hội thánh đầu tiên bán hết tài sản

mình và chia xẻ với những người khác, bạn có thể tự hỏi phải chăng sách Công vụ dạy rằng Cơ

Đốc nhân nên từ bỏ những tài sản riêng và góp vào làm của chung trong cộng đồng Cơ đốc. Có

điều gì đó về cảm nhận nhu cầu của những người khác, sự rộng rãi và tinh thần vâng phục khiến

chúng ta muốn đi theo gương của họ không? Sách Công vụ có dạy rằng sống cộng sản là chuẩn

cho một hội thánh Tân Ước thật trong mọi thời đại không? Thỉnh thoảng bạn sẽ tìm thấy câu trả

lời khi nhìn vào những phần khác của sách Công vụ.

Công vụ 5 có thể giúp giải quyết vấn đề trong đoạn 2 và 4. Trong 5:3-4, Phi-e-rơ đối

diện với A-na-nia về việc nói dối Đức Thánh Linh liên quan đến việc bán tài sản của mình:

3 Phi-e-rơ bèn nói với người rằng: Hỡi A-na-nia, sao quỉ Sa-tan đã đầy dẫy lòng ngươi,

đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh, mà bớt lại một phần giá ruộng đó? 4 Nếu

ngươi chưa bán ruộng đó, há chẳng phải là của ngươi sao? Khi bán rồi, giữ giá đó há

chẳng được sao? Điều đó nhập vào lòng ngươi thế nào? Ấy chẳng phải ngươi nói dối

loài người, bèn là nói dối Đức Chúa Trời.

Theo Phi-e-rơ, tài sản thuộc về A-na-nia trước khi bán và tiền thuộc về A-na-nia sau

khi bán. Ô ng không phải bán tài sản của mình cũng không phải dâng tiền từ việc bán đó để trở

thành một thành viên trung tín của cộng đồng. Công vụ 5 nói rõ rằng việc chia xẻ tài sản trong

cộng đồng Cơ Đốc đầu tiên là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, chúng ta không thể kết luận rằng

sống cộng sản là chuẩn cho mọi hội thánh. Điều chuẩn có thể tìm thấy ở đây là sống rộng rãi để

Page 168: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

165

đáp ứng nhu cầu của những thành viên khác trong cộng đồng Cơ Đốc. Thỉnh thoảng, chính bối

cảnh trong sách Công vụ chỉ rõ điều nào là chuẩn và điều nào là mô tả.

5. Tìm những chủ đề được lặp lại.

Có lẽ nguyên tắc quan trọng nhất để nhận ra điều nào là chuẩn cho hội thánh ngày

nay là tìm những chủ đề được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các câu chuyện trong sách Công vụ.

Trước đây chúng ta đã nhận ra một số chủ để chung trong sách Công vụ: công việc của Đức

Thánh Linh, quyền tể trị của Đức Chúa Trời, vai trò của Hội thánh, sự cầu nguyện, sự đau khổ,

tin lành cho người Giu-đa và người ngoại bang và quyền năng của lời làm chứng. Chúng ta cũng

xem một vài ví dụ về những điều liên quan đến việc tìm những chủ đề nhất quán như là một chỉ

dẫn cho điều nào là chuẩn.

Hãy xem cách các tín hữu chọn người thay thế Giu-đa trong 1:23-26:

23 Môn đồ cử ra hai người: Giô-sép tức là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giúc-tu, và Ma-thia,

24 rồi cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, Ngài biết lòng mọi người, xin tỏ ra cho chúng tôi

nội hai người nầy ai là người Chúa đã chọn, 25 đặng dự vào chức vụ sứ đồ, thay vì

Giu-đa đã bỏ đặng đi nơi của nó. 26 Đoạn bắt thăm, trúng nhằm Ma-thia; người bèn

được bổ vào mười một sứ đồ.

Chúng ta có dám nói rằng vì họ bắt thăm để chọn Ma-thia nên chúng ta cũng chọn

những người lãnh đạo hội thánh bằng cách dùng cùng phương pháp đó không? Vì phương pháp

khám phá ý muốn Đức Chúa Trời này xuất hiện trong sách Công vụ, chúng ta có nên xem nó là

chuẩn cho Cơ Đốc nhân ngày nay chăng? Theo như nguyên tắc của chúng ta, bắt thăm là một

phương pháp chuẩn để nhận biết ý của Chúa chỉ khi nào phương pháp này được dung thường

xuyên trong sách Công vụ. Thật sự đây không phải là trường hợp.

Công vụ 1:22 là nơi duy nhất trong cả sách về một người lãnh đạo hội thánh được

chọn bằng phương pháp bắt thăm. Khi câu chuyện trong sách Công vụ diễn tiến, và Đức Thánh

Linh giáng trên các môn đồ của Chúa Giê-xu, những nhà lãnh đạo được lựa chọn bằng nhiều

cách khác nhau (vd 6:1-6;13:1-3). Điều này không có nghĩa là chọn Ma-thia là một sai lầm hay

là chỉ định Phao-lô là không được Kinh Thánh hỗ trợ. Vấn đề nằm ở chỗ quyết định bằng cách

bắt thăm không xảy ra trong phần còn lại của sách Công vụ (hay là cả phần còn lại của Tân Ước).

Do đó, nó không nên được xem là phương pháp chuẩn để tìm biết ý Chúa.

Đức Chúa Trời tỏ ý muốn của Ngài như thế nào trong sách Công vụ? Có chủ đề nào

được lặp lại không? Đọc cẩn thận sách Công vụ, chúng ta thấy rằng Đức Chúa trời dùng nhiều

phương cách khác nhau để hướng dẫn dân của Ngài. Ngài dùng thiên sứ (8:26;12:7), Đức Thánh

Linh của Ngài (8:39;10:19;16:6-7), khải tượng (9:10-12;16:9-10), Kinh Thánh (1:20;8:30-35;

18:24-26), hoàn cảnh (3:1-10;8:1), sự cầu nguyện (13:1-3), thảo luận (15:1-21) và những tín hữu

Page 169: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

166

khác (6:1-6;9:17-19)….Điều chuẩn không phải là cách Chúa hướng dẫn dân Ngài mà chính

Chúa hướng dẫn dân Ngài. Chúng ta tin rằng Chúa hướng dẫn dân Ngài bằng nhiều cách khác

nhau.

Một ví dụ khác để tìm biết điều nào là chuẩn khi nhìn những người nhận lãnh Đức

Thánh Linh. Trong 2:4, sau khi nhận lãnh Đức Thánh Linh, người ta nói “các thứ tiếng khác theo

như Đức Thánh Linh cho mình nói”. Chúng ta có thể kết luận rằng một người nhận lãnh Đức

Thánh Linh thì phải nói tiếng lạ không? Nguyên tắc giải kinh của chúng ta nhắc chúng ta phải

xem xét chủ đề đó có được lặp lại trong sách Công vụ không. Tại đây chúng ta tìm thấy điều gì

xảy ra khi một người nhận lãnh Đức Thánh Linh trong sách Công vụ:

1:8: làm chứng về Chúa Giê-xu

2:4: nói các thứ tiếng khác (ngôn ngữ)

2:17-18 nói tiên tri

4:31 giảng lời của Đức Chúa Trời cách dạn dĩ

8:15-17 (không mô tả)

9:17-20 Giảng rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời

10:44-46 Nói tiếng lạ và ngợi khen Đức Chúa Trời

19:6 Nói tiếng lạ và nói tiên tri

Khi một người nhận lãnh Đức Thánh Linh, họ nói về từng trải của họ, nhưng không

phải lúc nào cũng nói tiếng lạ. Họ có thể làm chứng hay nói tiên tri hay nói lời của Đức Chúa

Trời. Điều thường xảy ra là khi họ nhận lãnh Đức Thánh Linh thì họ nói về từng trải của họ.

Chúng ta có thể nói rằng bài giảng được xức dầu bởi Thánh Linh là chuẩn ở đây. Những người

kinh nghiệm Đức Chúa Trời nói về điều này.

Một ví dụ cuối cùng về nguyên tắc tìm những chủ đề được lặp lại liên quan đến bản

chất của bài giảng truyền giảng trong sách Công vụ. Có điều gì về những bài giảng trong sách

Công vụ làm chuẩn cho việc truyền giảng Cơ Đốc của chúng ta hôm nay không? Có, chúng ta

thấy ba đặc điểm trọng tâm xuất hiện thường xuyên suốt sách Công vụ (1) Sứ điệp thường được

lan rộng. Tin lành của Chúa ảnh hưởng ra những khu vực rộng hơn. Theo sách Công vụ, chúng

ta có thể mong đợi rằng Tin lành thật của Chúa Giê-xu Christ sẽ ảnh hưởng và thay đổi xã hội và

đời sống.

(2) Tin lành của Chúa Giê-xu luôn bất biến. Sứ điệp luôn giống nhau: sự sống, chết

và phục sinh của Chúa Giê-xu Christ và lời mời tiếp nhận (2:22-24,31-33,36-39;3:13-21;8:34-35;

10:36-43;13:23-39; 17:29-31). Công vụ 10:39-43 là đặc trưng:

Page 170: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

167

39 Chúng ta từng chứng kiến về mọi điều Ngài đã làm trong xứ người Giu-đa và tại thành

Giê-ru-sa-lem. Chúng đã treo Ngài trên cây gỗ mà giết đi. 40 Nhưng ngày thứ ba, Đức

Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại, lại cho Ngài được tỏ ra, 41 chẳng hiện ra với cả dân

chúng, nhưng với những kẻ làm chứng mà Đức Chúa Trời đã chọn trước, tức là với chúng

ta, là kẻ đã ăn uống cùng Ngài, sau khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. 42 Lại Ngài đã biểu

chúng ta khá giảng dạy cho dân chúng, và chứng quyết chính Ngài là Đấng Đức Chúa Trời

đã lập lên để đoán xét kẻ sống và kẻ chết. 43 hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy

về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài.

(3) Sứ điệp thích hợp cho từng khán giả riêng. Sứ điệp tin lành không thay đổi nhưng được điều

chỉnh để cho nhiều người có thể nhận được. Trong từ xuyên văn hoá, chúng ta gọi là bối cảnh

hóa tin lành. Khi giảng cho người Giu-đa, diễn giả thường dùng Kinh Thánh và lịch sử của dân

Y-sơ-ra-ên để làm nền tảng (2:;3;13). Khi giảng cho người ngoại bang, họ lập một kết nối bằng

cách gọi Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa (14;17). Về việc giảng tin lành, chúng ta có thể nói

rằng sách Công vụ dạy chúng ta nắm chắc sứ điệp căn bản của Tin lành nhưng phải sẵn sàng

điều chỉnh sự trình bày của chúng ta cho thích hợp với từng đối tượng nghe.

Nguyên tắc tìm những chủ đề lặp để tìm điều gì là chuẩn là quan trọng nhưng có thể

bị lạm dụng. Ví dụ, một số người cho rằng vì Phao-lô liên tục di chuyển bằng tàu thủy nên tất cả

giáo sĩ phải di chuyển bằng tàu thủy chứ không được bằng máy bay. Nhưng khi nhìn kỹ thì

không phải lúc nào Phao-lô cũng di chuyển bằng tàu thủy, nhiều lần ông đi bộ. Di chuyển bằng

tàu đại diện cho phương tiện nhanh nhất, hiện đại nhất thời bấy giờ. Nguyên tắc nổi lên trong

sách Công vụ là không phải chúng ta phải đi bộ hay đi bằng tàu thủy, nhưng chúng ta phải sử

dụng phương tiện thích hợp nhất để phục vụ Chúa.

Page 171: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

168

Kết Luận

Sách Công vụ thật sự là một cuộc phiêu lưu thuộc linh. Những điều Chúa Giê-xu bắt

đầu thực hiện trên đất trong chức vụ của mình bây giờ Ngài tiếp tục thực hiện khi Thánh Linh

ban quyền năng cho Hội Thánh để đem tin lành đến khắp thế giới. Để nắm được ý nghĩa của

sách Công vụ, chúng ta trước hết phải tôn trọng rằng nó là một câu chuyện được kể với những

mục đích thần học (tức là lịch sử thần học). Điều này có nghĩa là chúng ta giải nghĩa sách Công

vụ giống như cách chúng ta giải nghĩa các sách Phúc  m. Vấn đề lớn nhất khi đọc sách Công vụ

là biết làm sao để giải quyết dòng sông khác biệt và nhận ra được điều gì là chuẩn cho hội thánh

ngày nay. Chúng tôi đề nghị những hướng dẫn sau:

Tìm những gì Lu-ca chủ định để chuyển tải cho độc giả của mình (và cho chúng ta)

Tìm những gương tích cực và tiêu cực trong các nhân vật.

Đọc từng phân đoạn trong ánh sáng của cả câu chuyện.

Tìm những phần khác của sách Công vụ để làm rõ thêm.

Tìm những chủ đề được lặp lại.

Thách thức để xác định điều gì là chuẩn và điều gì chỉ là mô tả rất phức tạp. Là tín

hữu, chúng ta muốn nắm bắt được đầy đủ sứ điệp của sách Công vụ nhưng chúng ta không muốn

nhận sai những gì Đức Chúa Trời chủ định. Để quân bình thì không phải dễ. Nếu bạn khám phá

điều gì từ sách Công vụ mà không nằm trong năm chỉ dẫn này, hãy suy nghĩ cẩn thận trước khi

bạn công bố nó là chuẩn. Chúng tôi chấp nhận là năm chỉ dẫn của chúng tôi không phải là tất cả..

Có những chỉ dẫn khác bên cạnh năm chỉ dẫn này có thể giúp bạn phân biệt được giữa điều

chuẩn và mô tả. Chúng tôi cầu nguyện rằng những gì chúng tôi chia xẻ sẻ khích lệ bạn để trở

thành một người giải kinh trung tín hơn cho câu chuyện mạnh mẽ về sự ra đời và phát triển của

hội thánh đầu tiên.

Page 172: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

169

Chương 16

Tân Ước – Khải Huyền

Lời Giới Thiệu

Bạn có nhớ lần đầu tiên bạn đọc sách Khải huyền không? Bạn có cảm giác gì? Lẫn

lộn? Khủng hoảng? Vui sướng? Thỏa mái? Bạn có thể hiểu được phần nào trong chương 1 về

khải tượng bất thường về một người “giống như một con người” ở cuối cùng. Bạn cũng có thể

cảm thấy thoải mái với những sứ điệp cho bảy hội thánh trong chương 2 và 3. Nhưng bạn hiểu

bốn con sinh vật trong chương 4 hay Chiên Con có bảy sừng và mắt trong chương 5 như thế nào?

Hay bạn nghĩ gì về mặt trăng biến thành máu hay con số 144,000 hay con phượng hoàng đang

nói hay Ba-by-lôn, người mẹ tà dâm? Nếu bạn giống như nhiều người khác, khi bạn đọc xong

trang cuối, bạn để Kinh Thánh xuống và kết luận rằng sách Khải huyền là một sách kỳ dị.

Sách cuối của Kinh Thánh tự giới thiệu mình trong 1:1 như là một “khải thị của Đức

Chúa Giê-xu Christ”. Đây là chủ đề của toàn sách. Chữ khải thị (apokalypsis trong tiếng Hy-lạp)

cho thấy rằng một điều gì đó trước đây bị giấu kín giờ được mở ra, tỏ ra (tức là từ thế hệ của

Giăng trở đi). Nói đến sách này như là một khải thị “về Chúa Giê-xu Christ” có nghĩa là nó cho

chúng ta biết một điều gì đó về Chúa Giê-xu Christ, hay nó là một sự tương giao từ Chúa Giê-xu

Christ hay có lẽ cả hai.

Trong “chương cuối” của câu chuyện về sự cứu rỗi , Đức Chúa Trời đã mở bức màn

của Ngài cho dân sự Ngài nhìn thấy được những kế hoạch của Ngài cho lịch sử nhân loại, những

kế hoạch này xoay quanh Chúa Giê-xu. Sách Khải huyền mạnh mẽ, khó, phức tạp, sặc sỡ, đau

khổ và kỳ diệu. Nó giống như một dòng sông giận dữ, một trận chiến đẫm máu, một sự huyền

diệu và một đám cưới hồi hộp cuộc trộn thành một. Bạn nên thắt dây an toàn vì Khải huyền sẽ

đưa bạn đến một Hành Trình Giải Kinh cho cuộc đời của bạn. Chúng ta cùng nhìn vào bối cảnh

lịch sử của sách Khải huyển.

Bối Cảnh Lịch Sử

Để hiểu được tại sao cần có một sự tỏ bày này, hãy tưởng tượng chính bạn đang ở

trong hoàn cảnh sau:

Các Cơ Đốc Nhân đầu tiên háo hức mong đợi sự trở lại của Đấng Christ. Nhưng sáu

mươi năm sau cái chết của Chúa Giê-xu, Ngài vẫn chưa trở lại. Trong khi đó bách hại lại càng

gia tăng và một số người bắt đầu nghi ngờ. Do đó, những lá thư trong sách Khải huyền cho các

hội thánh cũng như toàn bộ sách này cần thiết để khuyến khích họ đứng vững. Đức Chúa Trời

Page 173: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

170

vẫn đang tể trị cho dù có điều gì xảy ra đi nữa. Đấng Christ, chứ không phải hoàng đế, là Chúa

của lịch sử. Ngài cầm chìa khóa của số phận. Ngài đang trở lại để xử đoán công bình. Một tương

lai vinh hiển và tuyệt diệu đang chờ đợi mọi người trung tín và đặc biệt cho những người liều sự

sống mình vì Đấng Christ!

Chính sách Khải huyền cũng xác nhận sự bách hại dữ dội đang gia tăng mỗi ngày một

khốc liệt hơn. Chính Giăng cũng đang bị đày vì tận hiến cho Đấng Christ (1:9):

Tôi là Giăng, là anh em và bạn của các anh em về hoạn nạn, về nước, về sự nhịn nhục

trong Đức Chúa Jêsus, tôi đã ở trong đảo gọi là Bát-mô, vì cớ lời Đức Chúa Trời và

chứng của Đức Chúa Jêsus.

Chúng ta cũng thấy Hội thánh Ê-phê-sô cũng đang chịu khổ nhưng không ngã lòng

(2:3). Cũng để ý đến những điều Chúa Giê-xu đang phán với hội thánh Sy-miệc-nơ (2:9-10):

9 Ta biết sự khốn khó nghèo khổ của ngươi (dầu ngươi giàu có mặc lòng), và những

lời gièm pha của kẻ xưng mình là người Giu-đa, mà kỳ thực không phải, chúng nó vốn

thuộc về hội quỉ Sa-tan. 10 Ngươi chớ ngại điều mình sẽ chịu khổ. Nầy, ma quỉ sẽ

quăng nhiều kẻ trong các ngươi vào ngục, hầu cho các ngươi bị thử thách; các ngươi sẽ

bị hoạn nạn trong mười ngày. Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi

mũ triều thiên của sự sống.

An-ti-pa, một chứng nhân trung tín cho Đấng Christ, bị giết trong thành Pẹt-găm

(2:13). Các tín hữu tại Phi-la-đen-phi-a có ít sức mạnh nhưng đã giữ lời của Chúa Giê-xu và

không chối danh Ngài (3:8). Khi mở ấn thứ năm, Giăng nhìn thấy “những linh hồn của kẻ đã

chịu giết vì đạo Đức Chúa Trời và vì lời chứng họ đã làm” 6:9). Cũng có nhiều chỗ xác nhận

quyền lực ngoại giáo làm đổ huyết các thánh (13;16:5-6;17:6;18:24;19:2;20:4).

Phần đa những cuộc bách hại này xảy ra vào cuối thế kỷ thứ nhất trong thời trị vì của

hoàng đế Đô-mi-ti-an (SC 81-96). Những nguồn tài liệu đáng tin vào thời đó (vd. Pliny, Tacitus,

Seutonius) mô tả Đô-mi-ti-an là hoàng đế gian ác, tham lam, vô đạo, điên cuồng, tội ác.

Đô-mi-ti-an muốn những vua chư hầu và thần dân gọi ông là “chúa và thần của chúng

tôi”. Những hoàng đế La-mã thế kỷ thế nhất muốn gọi mình với những danh hiệu tương tự như

với Chúa Giê-xu. Xưng nhận trước nhất và căn bản nhất của Cơ Đốc Nhân là “Giê-xu là Chúa”.

Khi các Cơ Đốc Nhân từ chối xưng nhận “Sê-sa là Chúa” trong khi thờ phượng hoàng đế, họ bị

xem là bất trung với chính quyền và là mục tiêu để bách hại. Vào thời điểm này trong lịch sử, áp

lực để quì lạy hoàng đế trở nên phổ biến và có hệ thống.

Đừng vội quá ấn tượng rằng mọi Cơ Đốc Nhấn trong vùng Tiểu Á đều đứng vững

trong cơn bách hại. Khi đối diện với những đe dọa vì đức tin của mình, nhiều người vẫn trung tín

và chịu đau khổ nhưng cũng có những người công khai chối bỏ Đấng Christ, những người khác

Page 174: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

171

cố gắng chạy theo những quyền lực ngoại giáo. Một số Cơ Đốc Nhân quay trở lại với Do Thái

giáo, một tôn giáo hợp pháp của đế quốc La-mã để tránh rắc rối. Những người khác tham gia vào

những hiệp hội thương mại để tránh khó khăn về kinh tế. Nhưng những người thuộc hiệp hội

thương mại thời bấy giờ thường tham dự vào sự thờ hình tượng. Còn một số người khác bị dẫn

dụ bởi các giáo sư giả.

Sứ điệp cho bảy hội thánh đầy những cảnh cáo cho những người bị cám dỗ lìa xa

Đấng Christ và thỏa hiệp với hệ thống của thế gian. Hội Thánh Ê -phê-sô bỏ tình yêu ban đầu

(2:4) Một số người ở hội thánh Pẹt-găm và Thy-a-ti-rơ đi theo tà giáo (2:14-15,20). Hội Thánh

Sạt-đe có tiếng là sống mà là chết (3:1). Cuối cùng có Hội Thánh Lao-đi-xê hâm hẩm mà Chúa

sẽ nhả ra khỏi miệng Ngài (3:16).

Sách Khải huyền đầy những lời an ủi cho những người bị bách hại và cảnh cáo những

người cố gắng tránh bách hại. Theo bối cảnh lịch sử, tà giáo đã hợp tác với quyền lực chính trị

ngoại giáo. Kết quả là những người xưng mình là môn đồ Đấng Christ bắt đầu đối diện với sức

ép lớn. Họ sẽ thỏa hiệp với thế gian để tránh bách hại hay họ công khai xưng nhận Đấng Christ,

biết rằng mình phải đổi bằng sự sống của mình? Khi đọc Khải huyền trong ánh sáng của bối

cảnh lịch sử, chúng ta thấy rằng sách này đem hi vọng cho những người đang đau khổ và thách

thức những người đang thỏa hiệp.

Giải kinh chú ý nhiều đến thể loại văn chương. Giống như chơi trò chơi bằng cách lập

luật cho mình. Nếu chúng ta thật sự muốn hiểu được quyển sách mầu nhiệm này, chúng ta phải

hiểu được sách này thuộc thể loại nào mà tác giả chủ định. Chúng ta hãy cùng nhìn kỹ hơn về

thể loại văn chương của sách Khải huyền.

Thể Loại Văn Chương

Khải huyền chỉ như một sách “bình thường” của Kinh Thánh khi đọc những chương

đầu trước khi chuyển vào vùng không quen thuộc. Sách này khá lạ vì nó kết hợp cả ba thể loại

văn chương khác nhau: thư tín, tiên tri và khải thị.

1. Khải huyền là một thư tín. Đầu sách và cuối sách giống như một thư tín Tân Ước thông

thường.

4 Giăng gởi cho bảy Hội thánh ở xứ A-si: nguyền xin ân điển và sự bình an ban cho anh

em từ nơi Đấng Hiện Có, Đã Có Và Còn Đến, cùng từ nơi bảy vị thần ở trước ngôi Ngài, 5

lại từ nơi Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng thành tín, sanh đầu nhất từ trong kẻ

chết và làm Chúa của các vua trong thế gian! (1:4-5)

Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Jêsus ở với mọi người! (22:21)

Page 175: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

172

Điều này cho thấy rằng cả sách Khải huyền là một lá thư duy nhất được lưu truyền

trong số bảy Hội thánh trong cõi Tiểu á: Ê -phê-sô, Sy-miệc-nơ, Pẹt-găm, Thy-a-ty-rơ, Sạt-đe,

Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-xê. Những sứ điệp cho bảy hội thánh trong chương 2-3 không phải là

“những lá thư” tách biệt nhưng chúng là những sứ điệp riêng giới thiệu phần còn lại của sách.

Khải huyền thật sự là một lá thư được gởi đến cả bảy hội thánh.

Giống như những thư tín Tân Ước khác, Khải huyền mang tính “tình huống”. Tức là

nói lên những vấn đề hay hoàn cảnh riêng xảy ra trong các hội thánh địa phương. Chúng ta phải

đọc sách Khải huyền trong ánh sáng của hoàn cảnh gốc mà những hội thánh đó đối diện (tức là,

an ủi những người bị bắt bớ và thách thức những người thỏa hiệp). Nếu chúng ta bỏ qua hoàn

cảnh gốc, chúng ta sẽ bóp méo ý nghĩa của lá thư. Chúng ta không nên lo lắng rằng Khải huyền

không có giá trị cho những người như chúng ta vì chúng ta đang sống trong một thời gian và

không gian khác. Khi đem bất cứ thư tín Tân Ước nào vào Hành Trình Giải Kinh của mình (bao

gồm sách Khải huyền), chúng ta có thể nghe được lời vượt thời gian của Đức Chúa Trời về cách

chúng ta nên sống trong thế giới này.

Thông thường trong phần giới thiệu của một thư tín Tân ước, bạn thấy những chủ đề

chính được phát triển về sau trong toàn bộ lá thư. Khải huyền cũng giống như vậy. Nếu sứ điệp

cho bảy hội thánh thật sự là một phần giới thiệu cho Khải huyền thì chúng ta nên mong đợi điều

gì từ phần còn lại của sách? Lời hứa dành cho của người “thắng” ở mỗi cuối sứ điệp cho bảy hội

thánh có thể cung cấp những gợi ý chính (2:7,11,17,26-29;3:5-6,12-13,21-22).

Chiến thắng trở nên chủ đề chung cho cả sách. Phần giới thiệu của lá thư cho chúng

ta thấy rằng toàn bộ lá thư tập trung xung quanh việc chiến thắng. Trong phần trọng tâm của sách

này, chúng ta đọc thấy rằng những tín hữu “đã thắng nó bởi huyết Chiên Con và bởi lời làm

chứng của mình; chúng chẳng tiếc sự sống mình cho đến chết” (12:11). Ở cuối của sách này

trong khải tượng về Giê-ru-sa-lem mới, chúng ta nghe thấy lời hứa rằng “Kẻ nào thắng sẽ được

những sự ấy làm cơ nghiệp, ta sẽ làm Đức Chúa Trời người và người sẽ làm con ta” (21:7). Nói

cách khác, bắt đầu của sách Khải huyền, chúng ta được thách thức để chiến thắng; ở giữa chúng

ta thấy sự tranh chiến để chiến thắng; phần cuối chúng ta thấy cơ nghiệp mà người chiến thắng sẽ

nhận được.

2. Khải huyền cũng là một lá thư tiên tri:

“Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ theo điều đã viết ra đây.

Vì thì giờ đã gần rồi” (1:3)

6 Bấy giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời nầy là trung tín và chân thật, Chúa là

Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ

Ngài những điều kíp phải xảy ra. 7 Kìa, ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ

những lời tiên tri trong sách nầy! (22:6-7)

Page 176: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

173

Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì

thì giờ đã gần đến. (22:10)

18 Tôi ngỏ cho kẻ nào nghe lời tiên tri trong sách nầy: nếu ai thêm vào sách tiên tri

nầy điều gì, thì Đức Chúa Trời sẽ thêm cho người ấy tai nạn đã ghi chép trong sách nầy.

19 Và kẻ nào bớt điều gì trong những lời ở sách tiên tri nầy, thì Đức Chúa Trời sẽ cất

lấy phần họ về cây sự sống và thành thánh, mà đã chép ra trong sách nầy.

Lời tiên tri trong Kinh thánh bao gồm cả lời dự ngôn về tương lai và lời tuyên ngôn

về lẽ thật của Đức Chúa Trời cho hiện tại (thường nhấn mạnh đến tuyên ngôn). Trong chính

những nơi mà Khải huyền được mô tả như là một lời tiên tri, độc giả nên thực hiện những gì Đức

Chúa Trời phán (tức là tiếp nhận lời tuyên ngôn đó). Những người nghe lời tiên tri này sẽ được

phước nếu họ nhận vào lòng (1:3) và giữ lấy lời đó (22:7). Chúng ta nhớ rằng Khải huyền không

phải chỉ về tương lai; nó cũng là một sách về những điều Đức Chúa Trời muốn thấy xảy ra tại

đây ngay bây giờ. Ngay cả trong ngày của Giăng, sách này được gọi là “mở ra” và sứ điệp của

nó dành cho mọi người có tai mà nghe (22:10).

Vì là một lá thư tiên tri nên Khải huyền đứng trong truyền thống của các tiên tri Cựu

Ước. Nó đầy những lời ám chỉ và hình ảnh được các tiên tri Cựu Ước sử dụng. Ví dụ lời tiên tri

của Giăng nghịch lại với Ba-by-lôn trong Khải 18-19 gợi lại mọi chi tiết của những lời tiên tri về

Ba-by-lôn được tìm thấy trong các tiên tri Cựu Ước. Sự khác biệt chính giữa Khải huyền và các

tiên tri Cựu Ước là lá thư tiên tri của Giăng dành cho các Cơ Đốc Nhân đang sống giữa thời kỳ

thập tự giá và sự phục sinh đã qua (already) và thời kỳ chưa xảy đến (not yet) của sự trở lại vinh

hiển của Đấng Christ.

3. Khải huyền là một lá thư khải thị-tiên tri.

Như chúng ta thấy trong 1:1 rằng sách này là một khải thị đến từ Đức Chúa Trời qua

Chúa Giê-xu Christ, qua một thiên sứ và qua Giăng đến các đầy tớ của Đức Chúa Trời:

Sự mặc thị của Đức Chúa Jêsus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ

ra cùng tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên sứ đến tỏ những

điều đó cho Giăng, tôi tớ Ngài.

Từ khải thị chỉ về một nhóm văn chương bao gồm một sự mặc khải thiêng liêng,

thường qua một trung gian thiên thượng đến một con người nổi tiếng nào đó. Trong mặc khải đó,

Đức Chúa Trời hứa can thiệp vào lịch sử con người, giày đạp những thế lực tội ác và thiết lập

vương quốc của Ngài. Hầu hết các học giả cho rằng văn chương khải thị xuất phát từ lời tiên tri

Do Thái và là một hình thức tiên tri được viết trong một thời kỳ khủng hoảng. Chúng ta cũng

thấy những điển hình khác về văn chương mặc thị trong sách Ê -xê-xhi-ên, Đa-ni-ên, Xa-cha-ri

và trong những thứ kinh Do thái khác như 1 Enoch và 4 Ezra. Mặc dầu văn chương mặc thị được

những người sống trong khoảng 200 TC đến 200 SC biết đến, nhưng với chúng ta vẫn còn xa lạ.

Page 177: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

174

Chúng ta chỉ thấy những hình ảnh này trong một vài bộ phim chính trị nào đó thôi, nhưng khi

đem ra so sánh với thời chúng ta, chúng ta có thể học được nhiều điều.

Đặc điểm chính khiến cho văn chương mặc thị không quen thuộc với chúng ta là cách

dùng hình ảnh của nó. Trong việc sử dụng qua nhiều hình ảnh tượng hình, Sách Khải huyền vượt

ra xa bất cứ tác phẩm mặc thị khác. Trong khi chúng ta quen với những hình ảnh tượng hình

trong những phần khác của Kinh Thánh, văn chương mặc thị dùng những hình ảnh trong hình

thức trừu tượng hơn là thực tiễn –vd. Cào cào có đuôi của bọ cạp và đầu người (9:10), một người

đàn bà mặc mặt trời (12:1), một con thú có bảy đầu và mười sừng (13:11). Khi Chúa Giê-xu ví

chúng ta với muối và ánh sáng, chúng ta biết ý của Ngài muốn điều gì (Mat. 5:13-14). Nhưng có

ai thấy một con thú có bảy đầu và mười sừng bao giờ chưa?

Thông thường điều làm cho hình ảnh đó trừu tượng đến lạ lùng là cách những chi tiết

cấu thành nên hình ảnh đó. Ví dụ, chúng ta có thể biết về người phụ nữ và chúng ta có thể biết về

mặt trời. Nhưng ít ai trong chúng ta biết về một người phụ nữ mặc mặt trời. Là một lá thư tiên

tri-mặc thị, sách Khải huyền đầy những khải tượng lạ lùng và những hình ảnh kỳ lạ. Mục đích

của tất cả những hình ảnh và biểu tượng này là gì? Chúng ta hãy cùng xem mục đích của sách

này là gì.

Mục Đích Của Sách Khải Huyền

Mục đích của sách Khải huyền gắn liền với thể loại văn chương như là một lá thư tiên

tri-mặc thị, đặc biệt với những hình ảnh của nó. Những hình ảnh của sách Khải huyền tạo nên

một thế giới biểu tượng mà người đọc đang sống khi họ đọc hay nghe sách này. Khi họ bước vào

thế giới biểu tượng này, sứ điệp của nó tác động đến chúng và thay đổi hoàn toàn cách nhìn về

thế giới mà họ đang sống. Họ có thể nhìn thấy hoàn cảnh của chính mình trong thế giới này từ

một cái nhìn thiên thượng bằng khải tượng của sách Khải huyền đem họ vào tương lai. Tại đó họ

có thể thấy được hiện tại từ khía cạnh của kết quả cuối cùng của nó – sự đắc thắng trọn vẹn của

Đức Chúa Trời. Bằng cách này, Khải huyền cung cấp cho các tín hữu một loạt hình ảnh tiên tri

để kích thích trí tưởng tượng của quan điểm ngoại giáo về thế giới này và phục hồi nó bằng một

quan niệm về những gì là thật và thế giới này sẽ như thế nào một ngày dưới quyền cai trị của

Đức Chúa Trời. Bauckham minh họa việc dùng Khải 17:

Ví dụ trong chương 17, độc giả của Giăng chia xẻ khải tượng về một người đàn bà.

Mới nhìn, người đàn bà này có lẽ dường như là nữ thần Rô-ma trong sự vinh hiển của

mình, một sự nhân cách hóa về một nền văn minh Rô-ma, khi bà ta được nhiều người

thờ lạy trong nhiều đền thờ trong các thành phố của xứ A-si. Khi Giăng nhìn thấy

người đàn bà này, bà ta là một đại dâm phụ Rô-ma, một người quyến dụ người khác và

một mụ phù thủy gian tà và sự giàu có và rực rỡ của mình đại diện cho những lợi ích

của việc buôn bán gian trá của mình.”

Page 178: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

175

Khi các Cơ đốc nhân trong hoàn cảnh cay đắng đọc sách này nhiều lần, họ tiếp tục

được nhắc nhở rằng “những gì họ tin không phải xa lạ mà là thật sự bình thường từ nhãn quan

của Đức Chúa Trời”.

Bằng cách dùng những hình ảnh theo cách này, sách Khải huyền trả lời câu hỏi: “Ai

là Chúa?” Trong suốt những thời kỳ bị bắt bớ và chống đối, sự đau khổ, công bình và sự gian ác

dường như đang thăng tiến. Điều này nảy sinh thắc mắc liệu Đức Chúa Trời có còn ngồi trên

ngôi hay không và Ngài vẫn đang cai trị thế giới này không. Sách Khải huyền khẳng định rằng

cho dù điều gì xảy ra, Sê-sa không phải là Chúa và Sa-tan cũng không phải là Chúa. Giê-xu mới

là Chúa và Ngài đang sớm trở lại để định lại điều đúng đắn. Sách Khải huyền khẳng định rằng

lời tiên tri từ Đức Chúa Trời cần cho những người đang ở trong sự bách hại để giữ lòng trung tín

của mình với Chúa.

Đức Chúa Trời sử dụng lá thư tiên tri-mặc thị này để mở bức màn của vở sân khấu

thế gian và cho thấy những điều sẽ xảy ra trong dân của Ngài trong thì cuối cùng. Sứ điệp chính

trong sách Khải huyền là “Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng!” Những người không thỏa hiệp với thế

gian sẽ nhìn thấy tương lai của Đức Chúa Trời và đầy lòng hi vọng trong hiện tại. Những người

đang thỏa hiệp với thế gian sẽ bị sốc vì sự hư mất tâm linh của mình và cảnh báo họ cần phải ăn

năn. Là “chương cuối” của câu chuyện cứu rỗi, Khải huyền giúp dân Ngài nếm trước sự đắc

thắng tột đỉnh của Đức Chúa Trời và cho họ một nhãn quan thiên thượng và khích lệ họ để vượt

qua.

Giải Nghĩa Sách Khải Huyền

Theo những nhà giải kinh truyền thống, có bốn cách chính để giải nghĩa sách Khải

huyền. Hướng quá khứ xem bối cảnh lịch sử của sách Khải huyền là quan trọng và cố gắng để

hiểu sách này theo cách mà độc giả của Giăng đã hiểu nó. Nhiều sự kiện trong Khải huyền được

coi như đã được ứng nghiệm trong thế kỷ thứ nhất. Hướng lịch sử xem sách Khải huyền như là

một bản đồ hay một dàn ý của những gì đã và đang xảy ra trong lịch sử của Hội Thánh từ thế kỷ

thứ nhất cho đến sự trở lại của Đấng Christ. Hướng tương lai xem hầu hết sách này liên hệ đến

những sự kiện tương lai ngay trước chung kết của lịch sử. Cuối cùng, hướng lý tưởng hiểu sách

Khải huyền không liên quan đến bất cứ sự liên hệ nào với thời đại nhưng liên hệ nó với những sự

tranh chiến đang diễn ra giữa thiện và ác.

Trong chương này, chúng tôi chọn một hướng chọn lọc để đọc sách Khải huyền – một

hướng tổng hợp những điểm mạnh của vài hướng trên. Sách Khải huyền chắc chắn được gởi trực

tiếp đến các tín hữu đầu tiên. Chúng ta nên đọc sách Khải huyền giống như cách chúng ta đọc

trong những sách khác của Kinh Thánh – bằng cách xem xét bối cảnh lịch sử một cách nghiêm

túc. Sách Khải huyền cũng trình bày những lẽ thật vượt thời gian về sự tranh chiến giữa thiện và

ác. Những sự hiện thấy của sách Khải huyền khích lệ chúng ta từ bỏ sự thỏa hiệp và trung tín

trong những thời điểm bị bách hại. Chắc chắn, sách này cũng nói đến những sự kiện chưa xảy ra.

Page 179: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

176

Một số sự kiện mô tả sự chờ đợi để được ứng nghiệm trong tương lai (như là, sự trở lại của Đấng

Christ, tòa án trắng và lớn và sự đến của thành thánh).

Thêm vào những hướng tổng quát này, chúng ta cần có những nguyên tắc cụ thể để

đọc lá thư tiên tri-mặc thị này. Sau đây là bảy nguyên tắc:

1. Đọc sách Khải huyền trong sự khiêm nhường.

Đọc sách Khải huyền không phải là dễ. Những người cho rằng mình có thể giải thích

tường tận từng chi tiết của sách Khải huyền là những người chúng ta cần để ý vì họ đáng nghi

ngờ nhất. Do đó, đọc sách Khải huyền trong sự khiêm nhường có nghĩa là chúng ta sẽ sẵn lòng

chấp nhận rằng chúng ta có thể sai và sẵn lòng thay đổi quan điểm của mình khi những bằng

chứng trong Kinh Thánh chỉ cho thấy một hướng khác.

2. Cố gắng khám phá sứ điệp của những độc giả gốc.

Khám phá sứ điệp cho độc giả gốc là ưu tiên một cho bất cứ sách nào trong Kinh

Thánh, nhưng đặc biệt hơn trong trong sách Khải huyền. Khi chúng ta đọc sách Khải huyền,

chúng ta thường có khuynh hướng bỏ qua các tín hữu ban đầu và nhảy thẳng vào sứ điệp của

Đức Chúa Trời cho chúng ta. Một số người dùng thời sự như là chìa khóa để giải nghĩa sách

Khải huyền. Nhưng đây không phải là cách thích hợp với quan điểm giải nghĩa chuẩn. Hướng

dùng “thời sự” cho rằng chúng ta chắc chắn đang sống trong thời kỳ cuối cùng. Do đó, chúng ta

phải xem sứ điệp của Khải huyền là cho những thế hệ cuối cùng như chúng ta. Những điều xảy

đến trong thời sự có thể là ứng nghiệm của những điều được nói đến trong Khải huyền. Điều gì

xảy ra nếu Đấng Christ trở lại vào năm 4000 SC? Sách Khải huyền có cho chúng ta sự dạy dỗ vì

chúng ta không sống trong thời cuối cùng không? Chúng ta phải nhớ rằng các tín hữu đầu tiên

được phước vì vâng theo sách Khải huyền (1:3) và sách này được xem như là sách mở, ngay cả

cho những người đang sống trong thời kỳ của Giăng (22:10).

Cách tốt nhất để bắt đầu giải nghĩa là với câu hỏi: “Giăng đã cố gắng chuyển tải điều

gì cho độc giả của mình?” Nếu việc giải nghĩa của chúng ta không có liên quan gì đến độc giả

ban đầu thì chúng ta có thể đánh mất ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh này. Sứ điệp cho độc giả ban

đầu là vô cùng quan trọng. Như là với các thư tín, ý nghĩa chính của sách Khải huyền là những

điều mà Giăng đã chủ định cho nó, mà độc giả ban đầu có thể hiểu được ý nghĩa mà ông muốn

nói đến. Hành Trình Giải Kinh sẽ giúp chúng ta hiểu ý nghĩa trong thời kỳ của Giăng để hiểu

được nó có ý nghĩa gì trong thời đại của chúng ta.

3. Đừng cố gắng khám phá một biểu đồ thời gian cứng nhắc về các sự kiện tương lai.

Sách Khải huyền đầy những sự hiện thấy tiên tri-mặc thị giúp ảnh hưởng đến độc giả

hơn là trình bày một chuỗi thời gian nhất định cho những sự kiện tương lai. Ví dụ, chú ý rằng sáu

ấn (6:12-17) đem chúng ta đến tận cùng của thời đại.

Page 180: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

177

12 Tôi nhìn xem, khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, thì có một cơn động đất lớn; mặt trời bèn

trở nên tối tăm như túi lông đen, cả mặt trăng trở nên như huyết. 13 Các vì sao trên trời sa

xuống đất, như những trái xanh của một cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống. 14 Trời

bị dời đi như quyển sách cuốn tròn, và hết thảy các núi các đảo bị quăng ra khỏi chỗ mình;

15 các vua ở trên đất, các quan lớn, các tướng quân, các kẻ giàu, các kẻ quyền thế, các kẻ

tôi mọi, các người tự chủ đều ẩn mình trong hang hố cùng hòn đá lớn trên núi, 16 chúng

nói với núi và đá lớn rằng: Hãy rơi xuống chận trên chúng ta, đặng tránh khỏi mặt của

Đấng ngự trên ngôi, và khỏi cơn giận của Chiên Con! 17 Vì ngày thạnh nộ lớn của Ngài đã

đến, còn ai đứng nổi?

Nhưng khi ấn thứ sáu được mở ra, chúng ta lại thấy một loạt sự phán xét – tiếng kèn –

và bảy kèn (11:15-19) cũng đưa chúng ta đến tận cùng của thời đại:

15 Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước

của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời.

16 Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình,

đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, 17 mà rằng: Hỡi Chúa là Đức

Chúa Trời Toàn năng, là Đấng Hiện Có, Trước Đã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài

đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì. 18 Các dân tộc vốn giận dữ, nhưng cơn

thạnh nộ của Ngài đã đến: giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa là

các đấng tiên tri, thưởng cho các thánh và các người kính sợ danh Chúa, thưởng cho kẻ

nhỏ cùng kẻ lớn, và hủy phá những kẻ đã hủy phá thế gian. 19 Đền thờ Đức Chúa Trời

bèn mở ra ở trên trời, hòm giao ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng,

tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn.

Với bát đầu tiên trong 16:1-2 chúng ta thấy một loạt sự phán xét. Khải. 10-22 vẽ ra

một bức tranh chi tiết và sặc sỡ nhất về thời cuối cùng, nhưng như chúng ta thấy, đây không phải

là lần đầu tiên độc giả được đưa đến thời kỳ cuối cùng.

Trên một bình diện nhỏ hơn, trong Khải 6: 12-16, chúng ta nhìn thấy rằng: “Các vì

sao trên trời sa xuống đất, … Trời bị dời đi như quyển sách cuốn tròn, và hết thảy các núi các

đảo bị quăng ra khỏi chỗ mình”. Nhưng trong 7:3 bốn thiên sứ được truyền lịnh không được

“làm hại đất, biển và cây cối, cho đến chừng nào chúng ta đã đóng ấn trên trán những tôi tớ Đức

Chúa Trời chúng ta”. Cố gắng ép vào một chuỗi thời gian sẽ không có nghĩa gì. Thay vì tìm một

biểu đồ thời gian cứng nhắc về các sự kiện tương lai trong Khải huyền, chúng tôi khuyến khích

bạn nắm được sứ điệp chính trong từng sự hiện thấy cho cuộc sống bây giờ và tại đây.

4. Giải nghĩa Khải huyền một cách nghiêm túc nhưng đừng luôn luôn giải nghĩa theo nghĩa

đen.

Page 181: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

178

Một số người cho rằng giải kinh theo nghĩa bóng là khước từ thực tế của lẽ thật Kinh

Thánh hay sự kiện lịch sử. Khi họ nói rằng một điều gì đó mang tính biểu tượng hay nghĩa bóng,

họ cho rằng nó không thật hay là không bao giờ xảy ra. Đây không phải là ý của chúng tôi trong

sách này. Chúng tôi muốn khẳng định rằng ngôn ngữ tượng hình với những biểu tượng, hình ảnh

có khả năng chuyển tải lẽ thật theo nghĩa đen và mô tả những sự kiện theo nghĩa đen. Ngôn ngữ

tượng hình chỉ là một phương tiện ngôn ngữ khác, một cách khác để chuyển tải thực tế. Theo

cách nghĩ của chúng tôi, sách Khải huyền dùng ngôn ngữ tượng hình để nhấn mạnh thực tế lịch

sử hơn là từ bỏ thực tế đó.

Một trong những qui luật giải kinh căn bản của chúng ta là phương pháp giải kinh của

chúng ta phải luôn thích ứng với thể loại văn chương được tác giả dùng. Do đó, chúng ta nên

tránh dùng ngôn ngữ tượng hình theo nghĩa đen. Khi chúng ta cố gắng ép theo nghĩa đen vào thể

loại của ngôn ngữ tượng hình, chúng ta đang mạo hiểm với ý nghĩa chủ định của tác giả.

Ví dụ, điều gì xảy ra khi chúng ta cố gắng để giải nghĩa người đàn bà ngồi trên bảy

ngọn núi trong Khải. 17:9 theo nghĩa đen? Ép hình ảnh này theo nghĩa đen thì hoặc là người đàn

bà này rất lớn hoặc là bảy ngọn núi rất nhỏ. Nhưng khi chúng ta cho rằng người đàn bà trong

17:9 không phải là người đàn bà theo nghĩa đen, chúng ta không từ bỏ thực tế của Kinh thánh.

Chúng ta không giải nghĩa hình ảnh này theo nghĩa đen, nhưng chúng ta giải nghĩa nó một cách

nghiêm túc. Các tín hữu thế kỷ thứ nhất tự nhiên hiểu người đàn bà này đại diện cho Rô-ma, một

thành phố được xây trên bảy ngọn đồi. Đoạn Kinh Thánh này cũng có thể đi xa hơn Rô-ma đến

những quyền lực ngoại giáo mạnh mẽ chống lại Đức Chúa Trời. Chúng ta giải nghĩa ngôn ngữ

tượng hình một cách nghiêm túc nhưng không theo nghĩa đen.

Trong Khải. 1:1 Đức Chúa Trời “tỏ ra” sách này cho Giăng. Từ “tỏ ra” cho thấy rằng

Đức Chúa Trời chuyển tải sách này cho Giăng bằng những dấu hiệu và biểu tượng. Theo như

Beale, nguồn gốc của từ này là trong Đa-ni-ên 2. Tại đây, Đức Chúa Trời “tỏ cho” vua những gì

sẽ xảy ra trong những ngày sau bằng cách cho ông thấy một sự mặc khải bằng hình ảnh

(Đa.2:45). Khi giải nghĩa phần nhiều trong Kinh Thánh, qui luật chung là giải nghĩa theo nghĩa

đen ngoại trừ những bối cảnh rõ ràng yêu cầu phải giải nghĩa theo nghĩa bóng. Từ “tỏ ra” trong

1:1 cho thấy rằng khi chúng ta đến với sách này, chúng ta đi ngược lại với qui luật chung: Giải

nghĩa theo nghĩa bóng nếu bối cảnh không yêu cầu giải nghĩa theo nghĩa đen.7

5. Để ý khi Giăng nhận ra một hình ảnh.

Khi chính Giăng cho một gợi ý phải giải nghĩa một hình ảnh, chúng ta phải để ý. Nói

cách khác, chúng ta đặc biệt để ý khi Giăng nhận ra hay xác định những hình ảnh cho độc giả

của mình. Ví dụ, trong 1:17, Con Người là Đấng Christ, trong 1:20 chân đèn bằng vàng là hội

thánh, trong 5:5-6 Sư Tử là Chiên Con, trong 12:9 con rồng là Sa-tan và trong 21:9-10 Giê-ru-sa-

7 Beale, Revelation, 50-55.

Page 182: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

179

lem trên trời là vợ của Chiên Con hay Hội thánh. Khi những hình ảnh mà Giăng đã nhận diện

được lặp đi lặp lại phần sau trong sách, chúng ta xem chúng nói đến cùng một đối tượng.

Ví dụ, các chân đèn được nhận diện rõ ràng trong 1:20 là Hội thánh: “Bảy ngôi sao là

thiên sứ của bảy hội thánh và bảy chơn đèn là bảy hội thánh.” Khi hình ảnh của chơn đèn xảy ra

phần sau trong 11:3-4, chúng ta xem nó nói đến hội thánh ở đó nữa dựa trên sự nhận diện của

Giăng ở phần trước:

3 Ta sẽ cho hai người làm chứng ta mặc áo bao gai đi nói tiên tri trong một ngàn hai trăm

sáu mươi ngày. 4 Hai người làm chứng ấy tức là hai cây ô-li-ve và hai chân đèn đứng

trước mặt Chúa của thế gian.

Trong trường hợp này, hai người làm chứng của Khải. 11 chỉ về hội thánh làm chứng.

Bạn phải cẩn thận không lẫn lộn giữa sự nhận diện trực tiếp của Giăng về một hình

ảnh (như đề cập ở trên) với cách dùng những hình ảnh khác của Giăng. Nói cách khác, Giăng tự

do trong việc dùng cùng một hình ảnh để nói đến những điều khác nhau. Ví dụ, bảy ngôi sao là

bảy thiên sứ của bảy hội thánh (1:16,20;2:1;3:1). Nhưng Giăng cũng dùng hình ảnh của một ngôi

sao (không phải bảy ngôi sao) để nói đến những điều khác như là những công cụ phán xét của

Đức Chúa Trời (8:10-12) hay về chính Chúa Giê-xu (22:16). Tương tự, hình ảnh của một người

đàn bà có thể được dùng để chỉ về một nữ tiên tri giả (2:20), cộng đồng Mê-si (12), thành phố

hay đế quốc tà dâm(17) và nàng dâu của Đấng Christ (19:7;21:9). Dầu Giăng tự do sử dụng hình

ảnh để nói đến những điều khác nhau, nhưng khi ông nhận ra một hình ảnh nào, chúng ta phải để

ý.

6. Tham khảo Cựu Ước và bối cảnh lịch sử khi giải nghĩa những hình ảnh và biểu

tượng.

Khải huyền sử dụng ngôn ngữ với nhiều mức độ khác nhau:

Mức độ bản văn: những lời được viết trên giấy

Mức độ khải tượng: bức tranh là những lời đó vẽ nên

Mức độ liên hệ: những gì khải tượng đó nói đến trong đời sống thật

Một trong những khía cạnh khó nhất trong việc đọc sách Khải huyền là biết những

hình ảnh và biểu tượng đó chỉ về cái gì. Ngay cả khi chúng ta hiểu được những điều đang xảy ra

ở mức độ bản văn và mức độ khải tượng, nhưng chúng ta có lẽ không biết những điều đang nói

đến đang ở mức độ nào. Nói cách khác, chúng ta thường biết Khải huyền đang nói gì nhưng

chúng ta thường không chắc nó đang nói về điều gì.

Page 183: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

180

Chúng ta có thể tìm giải đáp trong hai nơi: bối cảnh lịch sử của thế kỷ thứ nhất và Cựu Ước.

Trong phần đầu của chương này, chúng ta đã thảo luận về bối cảnh lịch sử nhưng chúng ta không

nói nhiều về cách Khải huyền sử dụng Cựu Ước như thế nào. Mặc dầu không có trích trực tiếp từ

Cựu Ước trong sách Khải huyền nhưng sách này đầy những hình ảnh, ám thị của Cựu Ước. Thực

sự sách Khải huyền chứa đựng nhiều liên hệ đến Cựu Ước hơn bất cứ sách nào trong Tân Ước.

Cựu Ước chiếm gần như 70% trong số đoạn của Khải huyền. Thi thiên, Ê -sai, Đa-ni-ên và Ê -xê-

chi-ên là những đóng góp quan trọng nhất.

Giăng đã sử dụng sách Đa-ni-ên trong Cựu Ước để mô tả khải tượng của ông về Chúa Giê-xu

trong Khải huyền 1. Để ý bao nhiêu từ ngữ trong sách Đa-ni-ên mà Giăng dùng để mô tả Chúa

Giê-xu là Đấng thiêng liêng, vinh hiển (xem những từ in nghiêng bên dưới):

9 Ta nhìn xem cho đến chừng các ngôi đã đặt, và có Đấng Thượng Cổ ngồi ở trên. Á o Ngài

trắng như tuyết, và tóc trên đầu Ngài như lông chiên sạch. Ngôi Ngài là những ngọn lửa, và các

bánh xe là lửa hừng….

13 Ta lại nhìn xem trong những sự hiện thấy ban đêm, nầy, có một người giống như con người

đến với những đám mây trên trời; người tới đến Đấng Thượng Cổ và bị dẫn đến trước mặt Ngài.

14 Người được ban cho quyền thế, vinh hiển, và nước; hầu cho hết thảy các dân, các nước, các

thứ tiếng đều hầu việc người. Quyền thế người là quyền thế đời đời chẳng qua đi, và nước

người không bao giờ phải hủy” (Đa. 7:9,13-14).

5 Ta nhướng mắt nhìn xem, nầy, một người mặc vải gai, chung quanh lưng thắt đai bằng vàng

ròng U-pha. 6 Mình người như bích ngọc; mặt người như chớp, và mắt như đuốc cháy; tay và

chân như đồng đánh bóng, và tiếng nói như tiếng đám đông. (Đa. 10:5-6).

7 Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trong thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài

cùng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài. Quả thật vậy. A-

men! ….

12 Bấy giờ tôi xây lại đặng xem tiếng nói với tôi đó là gì; 13 vừa xây lại thấy bảy chân đèn

bằng vàng, và ở giữa những chân đèn có ai giống như con người, mặc áo dài, thắt đai vàng

ngang trên ngực. 14 Đầu và tóc người trắng như lông chiên trắng, như tuyết; mắt như ngọn lửa;

15 chân như đồng sáng đã luyện trong lò lửa, và tiếng như tiếng nước lớn. (khải. 1:7,12-15)

Hiểu được Đa-ni-ên giúp chúng ta hiểu được Khải huyền tại đây. Giăng thường dùng

ngôn ngữ trong Cựu Ước để mô tả những gì ông thấy và nghe. Khi chúng ta khó tìm biết khải

tượng nói về điều gì, quay trở lại tìm trong bối cảnh lịch sử và Cựu Ước.

Page 184: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

181

7. Trên hết, tập trung vào ý chính và đừng quan tâm quá nhiều đến tất cả mọi chi tiết.

Hướng dẫn giải kinh cuối cùng này có lẽ là quan trọng nhất. Trong hầu hết các thể

loại văn chương trong Kinh Thánh, chúng ta bắt đầu với những chi tiết trước rồi sau đó mới xây

dựng sự hiểu biết tổng thể qua những chi tiết đó. Tuy nhiên, với Khải huyền, chúng ta nên bắt

đầu với bức tranh lớn trước rồi sau đó mới hiểu những chi tiết. Khi chúng ta tìm cách nhận ra

những nguyên tắc thần học trong Khải huyền, chúng ta nên tập trung vào những ý chính. Thử

điều này: Đọc một phần của Khải huyền và ghi lại ý chính bằng một câu ngắn. Ví dụ, ý chính

của Khải 4-5 liên quan đến Chúa được tôn cao, duy chỉ có mình Ngài mới xứng đáng để phán xét

thiêng liêng.

Những chi tiết của bất cứ phần nào cũng sẽ ảnh hưởng để độc giả nhưng nó sẽ không

thay đổi ý chính. Đừng tập trung vào chi tiết trước và chúng ta sẽ đánh mất ý chính.

Nếu luật giải kinh trọng tâm là để nắm được ý chính của mỗi khải tượng thì chúng ta

sẽ hiểu được toàn sách. Chúng ta sẽ thấy sách này được mở ra trong bảy phân đoạn rộng trong

phần giữa của sách.

Cầu Trúc Của Khải Huyền

Phần Giới Thiệu (1:1-3:22)

Một vài câu đầu của lá thư tiên tri-mặc thị cho chúng ta thấy phước hạnh của người

nghe và tiếp nhận sứ điệp đó vào lòng. Phần còn lại của chương 1 giới thiệu về Giăng và mô tả

khải tượng của ông về “một người giống như con người” (Chúa Giê-xu) đang đi lại giữa bảy chơn

đèn vàng (các hội thánh). Giăng được chọn để viết khải thị về Chúa Giê-xu trên giấy và gởi đến

cho các hội thánh này.

Chương 2-3 là bảy sứ điệp gởi cho các hội thánh. Những sứ điệp này nhìn chung là

mô tả Đấng Christ, lời khen, lời phàn nàn, lời quở trách và lời hứa cho hội thánh. Ở cuối của

phần giới thiệu dài này, độc giả có cái nhìn rõ ràng hơn Chúa Giê-xu là ai (Chúa tể trị) và Ngài

mong đợi những người theo Ngài điều gì.

Khải Tượng Về Đức Chúa Trời và Chiên Con (4:1-5:14)

Bảy sứ điệp mô tả quan cảnh trên đất và những hiểm họa mà hội thánh đang đối diện:

sự bách hại và thỏa hiệp. Trong chương 4-5, quan cảnh này được chuyển lên trời nơi Đức Chúa

Trời đang cai trị trên ngôi trong quyền năng uy nghi. Mọi điều trên trời đều thờ phượng Đấng

Tạo Hóa. Sự khen ngợi không dứt cũng thuộc về Sư-tử-Chiên Con, chỉ mình Ngài mới có thể mở

quyển sách. Bởi sự chết chuộc tội của Ngài mà Chiên Con đã cứu chuộc một dân để thờ phượng

Đức Chúa Trời.

Page 185: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

182

Mở Bảy Ấn (6:1-8:1)

Giai đoạn này được thiết lập và mở ra sự đắc thắng tối cao của Đức Chúa Trời bắt

đầu. Phần này đánh dấu loạt đầu của ba khải tượng phán xét, mỗi cái có bảy yếu tố”

Bảy ấn (6:1-8:1)

Bảy kèn (8:2-11:19)

Bảy bát (15:1-16:21)

Trong hai loạt đầu - ấn và kèn – có một sự giới thiệu giữa yếu tố thứ sáu và bảy.

Chương 6 bắt đầu bằng việc mở bốn ấn đầu tiên – bốn người cỡi ngựa của khải thị:

chinh phục, chiến tranh, đói kém và sự chết. Ấn thứ năm gồm câu hỏi của những người tuận đạo:

“Cho đến chừng nào, hỡi Chúa?” Ấn thứ sau gồm câu hỏi: “Ai có thể đứng nổi?” khi Chiên Con

đổ rủa sả của Ngài.

Trước khi mở ấn cuối cùng này, có một đoạn ngắn trong chương 7 gồm hai khải

tượng. Trong khải tượng đầu tiên, những đầy tớ của Đức Chúa Trời, con số 144,000 được niêm

phong với sự bảo vệ thiêng liêng (7:1-8). Khải tượng thứ hai mô tả một đám đông lớn của những

người tin đang đứng trước ngai của Đức Chúa Trời (7:9-17). Ngay cả khi những ấn đó đã được

cất đi, Đức Chúa Trời cẩn thận khuyến khích và bảo đảm dân Ngài bằng cách mở ra những điều

đang chờ đợi họ trên trời. Với việc mở ấn thứ bảy trong 8:1, có một khoảng dừng trước loạt bảy

tiếng kèn tiếp theo.

Thổi Bảy Kèn (8:2-11:19)

Tiếng kèn mở ra sự phán xét của Đức Chúa Trời trên một thế giới gian ác. Chúng

được đặt trước những tai họa của xứ Ai-cập trên đường vào đất hứa. Mặc dầu sự phán xét kinh

khủng nhưng “dân cư trên đất” (một từ thông dụng trong Khải huyền chỉ về người vô tín) không

chịu ăn năn (9:20-21).

Một lần nữa trước khi yếu tố thứ bảy trong loạt này, có hai khải tượng xen vào: thiên

sứ và quyển sách nhỏ (10:1-11) và hai chứng nhân (11:1-14). Những khải tượng này một lần nữa

như là sự khích lệ và chỉ dẫn cho các thánh về những gì họ nên làm khi Đức Chúa Trời thực thi

mục đích của Ngài trong lịch sử. Với tiếng kèn thứ bảy, chúng ta trở lại lần nữa quan cảnh thờ

phượng trên trời và lời công bố rằng: “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và

Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (11:15).

Dân Của Đức Chúa Trời với Quyền Lực Của Tội Á c (12:1-14:20)

Khải huyền 12 giải thích lý do thật sự vì sao dân của Đức Chúa trời chịu ghen ghét

trong thế gian này: sự xung đột giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan (con rồng). Sa-tan cố gắng hủy

diệt Đấng Christ (con trai) nhưng bị đánh bại nhờ sự chết và phục sinh của Đấng Christ. Là một

Page 186: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

183

kẻ thù bị đánh bại còn một chút thời gian để phá hoại, Sa-tan cố hết sức để tấn công dân của Đức

Chúa Trời. Fee và Stuart nhìn thấy rằng: “chương 12 là chìa khóa thần học của sách này”.8 Biết

được lý do chịu bách hại và kết quả là sự chiến thắng khích lệ dân của Đức Chúa Trời chịu đựng

cho đến cuối cùng.

Chương 13 giới thiệu hai đầy tớ của Sa-tan phát động chiến tranh chống lại dân của

Đức Chúa Trời – con thú lên từ biển (13:1-10) và con thú ra từ đất (13:11-18). Quyền lực chính

trị ngoại giáo hợp với những lực lượng của tà giáo. Con rồng và hai con thú tạo thành ba ngôi bất

khiết để dụ dỗ và phá hủy dân của Đức Chúa Trời.

Nhưng trong chương 14, độc giả một lần nữa nhìn thấy phước hạnh của tương lai mà

Đức Chúa Trời để dành cho dân Ngài. Dầu phải bị bách hại trên thế giới này nhưng những người

đi theo Chiên Con một ngày sẽ đứng trước Ngài trên Núi Si-ôn và hát một bài ca mới về sự cứu

chuộc. Đi theo quan cảnh thiên thượng này Giăng ghi lại ba lời công bố của thiên sứ về sự phán

xét của Đức Chúa Trời và tiếp theo là hai khải tượng về sự phán xét bằng cách sử dụng hình ảnh

về mùa gặt và bàn ép rượu. Phần cuối của chương 14 nhắc chúng ta rằng sự phán xét tội ác là

điều chắc chắn và khích lệ các thánh đồ giữ vững đức tin nơi Chúa Giê-xu.

Đổ Bảy Bát (15:1-16:21)

Chương 15 mô tả bảy thiên sứ cầm bảy bát bằng vàng trong đó chứa đầy sự rủa sả của

Đức Chúa Trời. Những bát đi theo những ấn và kèn là loạt cuối cùng của loại bảy. Chương 16

mô tả việc đổ bảy bát này trên thế giới không chịu ăn năn. Những tai hoạn là những minh chứng

hủy diệt, liên tục và rộng khắp của cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời dành cho tội lỗi và tội ác.

Đức Chúa Trời sẽ khiến cho Ba-by-lôn (đế quốc La-mã ở thế kỷ thứ nhất) uống “chén rượu

thạnh nộ” (16:19). Đáp lại, dân cư trên đất không những không chịu ăn năn mà còn rủa sả Đức

Chúa Trời (16:9,11,21).

Sự Phán Xét Ba-by-lôn (17:1-19:5)

Từ điểm này trở đi trong sách Khải huyền, Giăng đặt trước mặt chúng ta “câu chuyện

của hai thành phố” – thành phố của con người (thành Ba-by-lôn trên đất bị định cho sự hủy diệt)

và thành của Đức Chúa Trời (thành Giê-ru-sa-lem trên trời nơi Đức Chúa Trời ngự giữa dân

Ngài đời đời). Chương 17-18 miêu tả cái chết của Ba-by-lôn, là mẹ của những kẻ dâm phụ. Ba-

by-lôn chắc chắn chỉ về La-mã, một quyền lực ngoại giáo “say huyết các thánh đồ và huyết

những kẻ chết vì Đức Chúa Jêsus; tôi thấy mà lấy làm lạ lắm” (17:6). Lời ca thương tang chết

của chương 18 mở ra một sự mừng rỡ trên trời khi dân của Đức Chúa Trời vui mừng trên sự sụp

đổ của Ba-by-lôn (19:1-5).

8 Fee and Stuart, How to Read the Bible, 261.

Page 187: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

184

Sự Chiến Thắng Tột Cùng Của Đức Chúa Trời (19:6-22:5)

Phần này mô tả chiến thắng tột cùng của Đức Chúa Trời trên những thế lực của tội ác

và phần thưởng cuối cùng cho dân Ngài. Quan cảnh mở ra với lời loan báo về tiệc cưới Chiên

Con (19:6-10) và Đấng Christ trở lại để gặp nàng dâu mình (19:11-16). Người Dõng Sĩ – Đấng

Christ trở lại, bắt hai con thú và đồng lõa của nó mà ném chúng vào hồ có lửa và diêm cháy bừng

bừng (19:17-21). Con rồng hay Sa-tan bị trói (20:1-3), trong thời gian đó những người trung tín

theo Chúa Giê-xu đồng trị với Đấng Christ (20:4-6). Sa-tan được thả ra khỏi ngục tạm thời chỉ để

kết hợp với hai con thú và bị hình phạt đời đời (20:7-10). Người chết được xét đoán bởi Đấng

ngồi trên tòa án trắng và lớn. Những người không có tên trong sách sự sống sẽ bị ném vào hồ lửa

(20:11-15). Lúc này, chính sự chết bị đoán xét.

Xét đoán tội lỗi, Sa-tan và sự chết, Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển đời đời của

mình. “Trời mới và đất mới” được mô tả tổng quát trong 21:1-8 và được trình bày chi tiết hơn

trong 21:9-22:5. Sẽ không còn đau đớn, than khóc hay là sự chết nữa – Đức Chúa Trời sẽ làm

mọi sự mới (21:4). Lời hứa trong Cựu Ước rằng Đức Chúa Trời sẽ sống giữa dân Ngài đã được

ứng nghiệm trọn vẹn tại đây (21:3). Không có đền thờ trong thành của Đức Chúa Trời vì Đức

Chúa Trời toàn năng và Chiên Con là đền thờ (21:22).

Sự chiến thắng toàn diện của Đức Chúa Trời được hoàn tất và sự thông công mà Ngài

mong đợi với A-đam và Ê-va bây giờ được phục hồi trong vườn Ê-đen được phục hồi hoàn toàn

với cây sự sống (22:1-2). Sự rủa sả vì tội lỗi đã được cất đi và nhân loại được chuộc một lần nữa

có thể bước đi với Đức Chúa Trời và nhìn thấy mặt Ngài (22:4).

Kết Luận (22:6-21)

Sách Khải huyền đóng lại bằng một phước hạnh trên những người giữ “lời tiên tri

trong sách này” (22:7) và lời cảnh cáo cho những người phạm tội tà dâm, thờ hình tượng và

tương tự như vậy (22:15). Sách này là một sự mặc khải uy quyền từ Đức Chúa Trời và nên đọc

một cách trung tín cho các Hội Thánh (22:6,16). Chúa Giê-xu bảo đảm cho dân Ngài rằng Ngài

sẽ trở lại mau chóng (22:7,12,20). Và Giăng đáp lại với lời cầu nguyện mà mỗi Cơ Đốc Nhân

trong mọi thời đại có thể đáp ứng như vậy – “Lạy Chúa Giê-xu, xin hãy đến”. Giăng cũng viết

rằng : “ân điển của Chúa Giê-xu ở với mọi người. Amen!” (22:21).

Khải Huyền 12:1-17 và Hành Trình Giải Kinh

Chúng tôi muốn chỉ cho bạn thấy làm sao một đoạn Kinh thánh trong Khải huyền có

thể được đem vào Hành Trình Giải Kinh. Khải 12:1-17 là một ví dụ hữu ích. Chúng tôi nhận biết

rằng không phải ai cũng đồng ý với cách giải kinh của chúng tôi trong phân đoạn này, nhưng

chúng ta đi qua tiến trình này để bạn có thể thấy những điều liên quan với Hành Trình của chúng

ta.

Page 188: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

185

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước này bao gồm việc hiểu bối cảnh chương 12 để chúng ta có thể giải nghĩa những

biểu tượng (dấu hiệu trong 12:1,3) trong ánh sáng của bối cảnh đó. Khởi đầu chương này là về

một người đàn bà sắp sinh một bé trai. Một con rồng đỏ đang chực sẵn để ăn thịt em bé đó.

Nhưng khi đứa bé được sinh ra, thì được đem lên đến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cũng

chuẩn bị cho người một nơi an toàn. Quan cảnh sau đó chuyển lên trời. Tại đó thiên sứ trưởng

Mi-chê và các thiên sứ đang chiến đấu chống lại với con rồng và các thiên sứ nó. Con rồng (rõ

ràng bây giờ gọi là “ma quỷ” hay “Sa-tan”) bị đánh bại và bị ném xuống đất. Là một kẻ thù bị

đánh bại và phải rời khỏi nơi của mình trên trời, ma-quỷ đuổi theo người đàn bà để trả thù và gây

chiến tranh chống lại phần còn lại của dòng dõi của người đàn bà.

Độc giả thế kỷ thứ nhất hiểu những nhân vật này như thế nào? Họ không xem người đàn

bà này là Ma-ri, mẹ Chúa Giê-xu (như nhiều nhà giải kinh sau này nghĩ). Nhưng họ nghĩ về

người đàn bà này như là dân Y-sơ-ra-ên thật, cộng đồng đức tin đã sinh ra cả đấng Mê-si-a và

Hội Thánh. Cả em bé trai và hậu tự (12:7) là chìa khóa để nhận diện được người đàn bà này. Chú

ý là những nhà tiên tri thường mô tả dân Y-sơ-ra-ên công bình như là một người mẹ và những

biểu tượng được dùng trong 12:1 xác nhận điều này (xem Sáng. 37:9). Sau khi sinh đấng Mê-si-

a, người đàn bà chạy trốn vào một nơi ẩn nấp thiêng liêng trong thời gian 1,260 ngày. Đây là

khỏang thời gian chịu bách hại giữa sự thăng thiên và tôn cao của Đấng Christ và sự trở lại trong

tương lai (xem Khải 11:2;12:14;13:5).

Con rồng rõ ràng chỉ về ma-quỷ hay Sa-tan (12:9). Kẻ thù này của Đức Chúa Trời cố

gắng nuốt đứa con trai và dẫn cả thế giới đi sai lệch. Mô tả chi tiết về con rồng là màu đỏ, có bảy

đầu, mười sừng và bảy mão triều khiến cho nó có một ảnh tượng rất kỳ lạ.

Đứa trẻ đó sẽ cai trị mọi dân bằng một cây gậy sắt” (12:5). Điều này ám chỉ về Thi thiên

2 được áp dụng rõ ràng hơn cho Chúa Giê-xu trong Khải. 19:5. Đứa trẻ này chắc chắn chỉ về

Chúa Giê-xu Christ. Sau khi được sinh ra, Ngài được đưa lên với Đức Chúa Trời. Bằng cách

chuyển thẳng từ sự giáng sinh của Chúa Giê-xu đến sự thăng thiên và trị vì của Ngài, Giăng nhấn

mạnh rằng kế hoạch gian ác của Sa-tan đã bị phá sản qua sự nhập thể, cuộc đời, sự chết, sự phục

sinh, sự thăng thiêng và sự tôn cao của Chúa Giê-xu.

Độc giả ban đầu hiểu được cuộc chiến trên trời (12:7-12) và những tấn công sau đó của

ma quỷ (12:13-17) như là một lời giải thích cho hai thực tế quan trọng. (1) Đức Chúa Trời đã

đánh bại Sa-tan và sự chiến thắng là chắc chắn. (2) Dân của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục đau khổ

như là nạn nhân của những cuộc tấn công của ma-quỷ. Một cái nhìn thấy trên trời giúp cho độc

giả đầu tiên hiểu được môi trường ghen ghét và khích lệ họ chịu đựng. Họ cũng có thể chiến

thắng và vượt qua được ma quỷ nhờ “huyết Chiên Con và lời làm chứng của họ”, tức là trung

thành làm chứng về tin lành của Chúa Giê-xu Christ ngay cả phải trả giá bằng mạng sống của

mình (12:11).

Page 189: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

186

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Giống như độc giả ban đầu, chúng ta đang nhìn lại sự đến đầu tiên của Chúa Giê-xu và

mong đợi sự đến lần thứ hai của Ngài. Cả độc giả thời Kinh thánh và chúng ta đang ở trong một

giai đoạn được gọi là đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Vì chúng ta có cùng hoàn cảnh với những

độc giả đầu tiên nên chúng ta có thể bị đau khổ và bắt bớ. Là dòng dõi của người đàn bà (12:17),

chúng ta cũng sẽ gặp sự tấn công của ma-quỷ. Dầu vậy, vì chúng ta đang sống trong một địa

phương khác trong một thời đại khác (tức là chúng ta không phải là một phần của đế quốc La-mã

của Đô-mi-ti-an), nên sự đau khổ của chúng ta có thể khác. Nhìn chung, chúng ta ngày nay

không bị bách hại theo cách mà các độc giả thời Kinh thánh chịu.

Dầu vậy, chúng ta đang tranh chiến với nhiều cám dỗ về sự bội đạo và thỏa hiệp giống

như các hội thánh ở Tiểu Á đối diện. Sự vô đạo đức, thờ hình tượng, tà giáo, chủ nghĩa vật chất

và những tội lỗi khác vẫn đang sống động trong thời đại của chúng ta. Giống như tổ phụ của

chúng ta, chúng ta cũng đang bị ma quỷ tấn công để khiến chúng ta không trung tín giữa hệ

thống của thế giới chống nghịch lại với Đức Chúa Trời. Chúng ta biết chiến tranh chống lại với

những điều gian ác có nghĩa là gì. Lời dạy trong 12:11 rằng những tín hữu thế kỷ thứ nhất

“chiến thắng nó (Sa-tan) nhờ huyết của Chiên Con và nhờ lời làm chứng của họ” và không yêu

sự sống mình để khỏi phải chết” là những thách thức cho chúng ta ngày nay. Chúng ta không

quen hi sinh vì cớ Đấng Christ, ngay cả tuận đạo.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Nguyên tắc thần học được thành lập dựa trên những tương đồng giữa hoàn cảnh của họ

và của chúng ta. Có một vài nguyên tắc được tìm thấy trong đoạn này như sau:

Có một ma quỷ thật đang chống nghịch lại với Đức Chúa Trời và đang tìm cách lừa gạt

và hủy phá dân của Đức Chúa Trời. Chiến trường thuộc linh là thật.

Sa-tan đã bị đánh bại nhờ sự sống và công cuộc cứu chuộc của Đấng Christ.

Cơ Đốc Nhân có thể vượt qua được ma quỷ nhờ sống và công bố phúc âm của Chúa Giê-

xu Christ một cách trung tín.

Cơ Đốc Nhân có thể chịu đau khổ vì trung tín trong lời làm chứng cho Đấng Christ.

Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Chúng ta cần biết những nguyên tắc trong đoạn Kinh thánh bày tỏ điều gì về hoàn cảnh

ban đầu. Chúng ta dùng nguyên tắc thần học thứ ba ở trên để làm ví dụ. Có vài yếu tố chung

trong phần liên kết giữa nguyên tắc này với hoàn cảnh gốc: (1) Cơ Đốc Nhân (2) kinh nghiệm sự

đắc thắng trên ma quỷ (3) nhờ đời sống và lời làm chứng về Chúa Giê-xu (4) ngay cả bị đe dọa

chết.

Page 190: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

187

Tiếp theo, chúng ta phải khám phá một tình huống tương đương trong một bối cảnh hiện

nay. Trong bối cảnh gốc, sự tấn công của Sa tan trong hình thức bách hại. Do đó, chúng ta có thể

nói rằng bất cứ lúc nào, Cơ Đốc Nhân đều có thể chịu bách hại vì trung tín với tin lành của Đấng

Christ. Đây là hoàn cảnh tương đương.

Kết Luận

Trong sách Khải huyền Đức Chúa Trời mở bức màn ra để dân Ngài thấy những kế

hoạch của Ngài cho lịch sử nhân loại. Nhân vật chính trên sân khấu này là Chúa Giê-xu Christ,

Sư Từ và Chiên Con, đấng bảo đảm sự đắc thằng qua sự hi sinh. Sách Khải huyền có nhiều yếu

tố lạ vì nó mang một thể loại văn chương khác, nhưng nó không phải là quyển sách đóng. Chúng

ta có thể năm được ý nghĩa của sách Khải huyền và áp dụng nó cho cuộc đời của chúng ta nhưng

chúng ta cần phải đi theo qui luật của nó, chứ không phải của chúng ta.

Khi chúng ta học bối cảnh lịch sử của sách Khải huyền, chúng ta thấy một hoàn cảnh

mà Cơ Đốc Nhân chịu bách hại vì đức tin của mình bởi vì họ khước từ tham gia vào công việc

của ngoại giáo. Á p lực phải quỳ lạy Sê-sa thay vì Chúa Giê-xu mỗi ngày càng lớn và hi vọng bắt

đầu phai nhạt. Hơn nữa, một số Cơ Đốc Nhân cảm thấy thoải mái với môi trường ngoại giáo

xung quanh họ và họ thỏa hiệp với thế gian. Sách Khải huyền khích lệ những người bị bách hại

và cảnh báo những người thỏa hiệp.

Chúng ta có thể nói rằng mục đích của sách Khải huyền là trả lời câu hỏi “Ai là

Chúa?” Sách Khải huyền trả lời câu hỏi này bằng cách tạo nên một thế giới biểu tượng mà trong

đó độc giả có thể nhìn thấy được thiên đàng họ cần để chịu đựng trong cơn bách hại. Khi chúng

ta đọc về Đức Chúa Trời trên ngôi hay về Chiên Con đang thống trị con thú hay về khu vườn nơi

chúng ta sẽ sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chúng ta được khích lệ để chăm xem nơi

đó và giữ trung tín. Mục đích của sách này là để chỉ cho chúng ta trong ngôn ngữ tượng hình

rằng Chúa Giê-xu chứ không phải Sê-sa là Chúa. Khi chúng ta đọc, chúng ta được nhắc nhở rằng

Đức Chúa Trời chiến thắng và chúng ta có thể tiếp tục hi vọng.

Khi chúng ta quỳ xuống thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời toàn năng vì mọi điều Ngài

đã làm để giải cứu chúng ta, thì thế gian sẽ mất sức mạnh để cướp lấy linh hồn của chúng ta.

Chúng ta cũng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-xu, xin hãy đến!”

PHẦN IV

Page 191: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

188

HÀ NH TRÌNH GIẢI KINH

CỰU ƯỚC

Chúng ta đã đi qua Hành Trình Giải Kinh trong Tân Ước, giờ đây chúng ta cùng

phiêu lưu Hành Trình này trong Cựu Ước. Tất cả những gì bạn học được trong những phần trước

đều có thể được áp dụng trong phần này. Bạn sẽ học cách giải nghĩa và áp dụng các câu chuyện,

tài liệu luật pháp, thơ ca, tiên tri và văn chương khôn ngoan của Cựu Ước. Dòng sông khác biệt

có lẽ lớn hơn và chiếc cầu nguyên tắc sẽ dài hơn. Sự khác nhau về thể loại cũng là điều quan

trọng. Dầu vậy những câu chuyện và thơ ca trong Cựu ước tuyệt hay và thú vị. Đức Chúa Trời

bày tỏ nhiều điều về chính Ngài qua những đoạn Kinh Thánh này. Chắc chắn thời gian bạn dành

để học Cựu Ước sẽ được trọng thưởng.

Luôn nhớ rằng chúng ta giải nghĩa và áp dụng Cựu ước với tư cách là một Cơ Đốc

Nhân. Tức là, dầu chúng ta tin rằng Cựu Ước là phần của Lời được linh cảm của Đức Chúa Trời

cho chúng ta nhưng chúng ta không muốn bỏ qua thập tự giá và giải nghĩa, áp dụng án văn

chương này như thể chúng ta là người Do Thái Cựu Ước. Chúng ta xác nhận rằng chúng ta là Cơ

Đốc Nhân Tân Ước và chúng ta sẽ giải nghĩa Cựu Ước từ điểm đó.

Trong bước 1, chúng ta sẽ tập trung vào bản kinh văn có nghĩa gì cho những người

đang sống trong thời đại Cựu Ước. Dầu vậy, chúng ta không thể dừng lại tại đây. Sau khi chúng

ta xác định được chiều dài của dòng sông (bước 2), và lập cây cầu nguyên tắc (bước 3), chúng ta

cần thêm vào một bước mới. Trước khi chúng ta chuyển qua phần áp dụng, chúng ta muốn chạy

nguyên tắc thần học xuyên qua Tân Ước, và tìm điều Tân Ước muốn thêm vào nguyên tắc đó

hay Tân Ước bổ sung nó như thế nào. Do đó, trong Hành Trình Giải Kinh có có bốn bước trong

Tân Ước nhưng có năm bước trong Cựu Ước. Chúng tôi sẽ giải thích bước mới này trong phần

tiếp theo. Chúng tôi muốn giới thiệu cho bạn đầy đủ Hành Trình tại đây:

Page 192: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

189

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có

ý nghĩa gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc

giả thời Kinh Thánh với chúng ta?

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong

đoạn Kinh Thánh này?

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn

nguyên tắc này không và nếu có thì như thế nào?

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ

Đốc Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của

mình như thế nào?

Page 193: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

190

Chương 17

Cựu Ước – Chuyện Kể

Lời Giới Thiệu

Chuyện kể chiếm gần một nửa Cựu Ước. Những sách sau đều là những chuyện kể:

Sáng Thế Ký, Xuất Ê -díp-tô Ký, Dân Số Ký, Giô-suê, Các Quan Xét, Ru-tơ, I&II Sa-mu-ên,

I&II Các Vua, I&II Sử Ký, Ê -xơ-tê, Nê-hê-mi, Đa-ni-ên, Giô-na và A-ghê. Một vài sách khác

cũng có số lượng chuyện kể khá nhiều như: Gióp, Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên. Rõ ràng

chuyện kể là một thể loại quan trọng.

Chúng ta sẽ dùng từ chuyện kể để nói đến thể loại văn chương này. Chuyện kể là một

hình thức văn chương được mô tả qua chuỗi thời gian hành động và xoay quanh cốt truyện và

nhân vật. Ý nghĩa của một chuyện kể xuất phát chính từ những hành động của những nhân vật

của nó. Thay vì nói cho chúng ta sống thế nào hay không nên sống thế nào, chuyện kể cho chúng

ta biết cách sống như thế nào và không nên sống như thế nào qua những hành động của nhân vật.

Ví dụ, thay vì bảo chúng ta phải tin cậy Đức Chúa Trời và sống bằng đức tin vào lời hứa của

Chúa, Sáng thế ký trình bày cho chúng ta câu chuyện của Á p-ra-ham. Cũng phải luôn nhớ rằng

Đức Chúa Trời là một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện trong Cựu Ước. Chúng ta

có thể học được nhiều điều về Ngài khi học những hành động của Ngài và những lời hội thoại

của Ngài trong các chuyện kể. Chúng sẽ thảo luận vai trò của Đức Chúa Trời trong chuyện kể

nhiều hơn bên dưới.

Đối với một số người, từ chuyện kể ám chỉ rằng những sự kiện được mô tả có thể

không phải là thật và mang tính lịch sử. Chúng tôi không dùng từ này theo cách này vì chúng tôi

tin rằng chuyện kể mô tả những sự kiện thật. Dầu vậy, hình thức văn chương này còn nhiều hơn

chỉ là lịch sử. Cựu Ước kể cho chúng ta nhiều điều hơn là chỉ về lịch sử dân Y-sơ-ra-ên. Mục

đích của những câu chuyện này là về thần học – tức là Đức Chúa Trời đang sử dụng chúng để

dạy cho chúng ta thần học. Điều này không bác bỏ tính lịch sử của bản kinh văn và từ lịch sử

thần học là một phạm trù chính xác. Tuy nhiên, lịch sử thần học này liên quan đếnhình thức

chuyện kể và chúng ta thích dùng từ này hơn. Chúng ta cũng sẽ dùng từ người kể chuyện thay

cho từ tác giả.

Tại sao Đức Chúa Trời chọn văn chương kể chuyện để chuyển tải lẽ thật

thần học cho chúng ta? Tại sao Ngài không chuyển tải mọi điều qua luật pháp? Hãy suy

nghĩ về điều này. Cố gắng ghi ra những thuận lợi và bất lợi trong việc dùng chuyện kể

để chuyển tải lẽ thật thần học cho chúng ta.

Page 194: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

191

Những Thuận Lợi Trong Việc Sử Dụng Chuyện Kể Để Chuyển Tải Lẽ Thật Thần Học

1. Chuyện kể hấp dẫn cả cho người lớn và trẻ em.

2. Chuyện kể kéo chúng ta vào hành động của câu chuyện.

3. Chuyện kể thường minh họa cuộc sống thật và vì thế dễ dàng liên hệ . Chúng ta tìm thấy

được chính mình và tự hỏi rằng chúng ta sẽ làm gì trong hoàn cảnh như vậy.

4. Chuyện kể thường dễ nhớ.

5. Đức Chúa Trời có thể đặt để chính Ngài như một nhân vật trong câu chuyện. Và qua đó

Chúa có thể dạy chúng ta về chính Ngài thông qua những gì Ngài nói và làm trong từng

bối cảnh cụ thể.

6. Chuyện kể thường bao quát. Chúng ta có thể thấy những nhân vật trăn trở, nhưng chúng

ta cũng có thể thấy kết quả của những trăn trở đó. Chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ nhân

vật.

7. Chuyện kể liên hệ cả những chi tiết nhỏ và sự kiện đến toàn cảnh câu chuyện.

Chuyện kể có những điểm bất lợi nào cũng như những hạn chế nào? Có những hạn chế nào trong

việc chuyển tải những lẽ thật thần học? Xem thử bạn có thể thêm vào những bất lợi nào trong

danh sách những điều chúng tôi nêu ra dưới đây.

Những Bất Lợi Trong Việc Sử Dụng Chuyện Kể Để Diễn Tả Lẽ Thật Thần Học

1. Ý nghĩa của câu chuyện kể có thể bị nhầm lẫn và không được xác định cách rõ ràng;

những người đọc thông thường có thể bỏ lỡ ý nghĩa của nó.

2. Người đọc có thể nhầm lẫn chuyện kể với một câu chuyện thông thường và bỏ qua ý

nghĩa thật của nó.

3. Người đọc có thể cho rằng vì nó thuộc một dạng văn kể chuyện nên nó chỉ liên quan

tới lịch sử chứ không liên quan đến thần học

4. Người đọc có thể giải thích quá nhiều thần học trong câu chuyện kể. (allegorizing)

Tuy nhiên, những điểm lợi có vẻ chiếm ưu thế hơn những điểm bất lợi. Hiển nhiên là

những tác giả của Kinh thánh cũng biết điều này. Trọng tâm của danh sách những điểm thuận lợi

là những vấn đề liên quan xung quanh việc làm thế nào mà văn học có thể kết nối với con người.

Theo ý kiến của chúng tôi, Đức Chúa Trời đã chọn phương tiện văn chương là chuyện kể làm

yếu tố chính để chuyển tải câu chuyện vĩ đại của Ngài một cách cô đọng cho chúng ta bởi vì

chuyện kể Kinh thánh lôi cuốn chúng ta một cách mạnh mẽ. Chúng thách thức, thu hút, quở trách,

thách đố và an ủi chúng ta. Chúng gắn chặt trong tâm trí của chúng ta. Chúng khiến chúng ta suy

Page 195: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

192

nghĩ và ngẫm nghĩ. Chúng thu hút chúng ta cả tình cảm lẫn lí trí. Chúng dạy chúng ta về Đức

Chúa Trời và chương trình của Ngài cho dân sự. Chúng dạy chúng ta về tất cả các loại người-

người tốt, người xấu, người trung tín, thuận phục hay người cứng đầu, không vâng phục. Chúng

dạy chúng ta về cuộc sống với tất cả sự phức tạp cũng như đa dạng của nó.

Những người viết chuyện kể Kinh thánh đã viết với kỹ năng và năng quyền. Có

những lúc ý nghĩa của nó rõ ràng nhưng cũng có những lúc người viết không rõ ràng và ý nghĩa

của đoạn văn cũng không rõ. Chúng ta có cả một dòng sông giải nghĩa thật sự phải bước qua khi

chúng ta đọc những chuyện kể trong Cựu ước. Phần còn lại của chương sách này sẽ giúp chúng

ta vượt qua dòng sông đó và làm một cuộc Hành Trình Giải Kinh từ bối cảnh kinh văn Cựu Ước

đến ứng dụng cho ngày hôm nay. Chúng ta sẽ tập trung vào việc làm thế nào để đọc một phân

đoạn chuyện kể cách cẩn thận và rút ra được những nguyên tắc thần học vững chắc từ những

phân đoạn này- những nguyên tắc có thể ứng dụng cho ngày hôm nay.

Đọc Chuyện Kể

Nền tảng của việc giải nghĩa chuyện kể Kinh thánh Cựu ước cách chính xác chính là

việc đọc đoạn văn một cách kĩ càng. Bạn có nhớ tất cả những kỹ năng quan sát mà bạn đã học ở

chương 1 không? Bạn sẽ cần chúng khi đọc những câu chuyện kể trong Cựu Ước. Hãy trở lại

chương 4 và ôn lại cách ngắn gọn. Bạn có nhớ việc cần phải lưu ý thế nào tất cả những chi tiết

nhỏ nhặt trong Mác 8:22-26 và những đoạn Kinh thánh lân cận đã giúp bạn giải nghĩa đoạn Kinh

thánh đó? Cũng vậy hãy ôn lại phần thảo luận của chúng ta trong chương 4 về Sáng thế kí 11:1-9.

Bạn có nhớ rằng đoạn Kinh thánh đó có cấu trúc tương xứng không? Cấu trúc phức tạp đó chỉ

cho chúng ta rằng những người viết chuyện kể Cựu Ước có thể tinh tế trong việc viết của họ và

họ có thể sử dụng vài công cụ văn chương phức tạp hơn để kể chuyện.

Cũng ôn lại những kỹ năng bạn đã học trong chương 15 về các sách Phúc âm. Có rất

nhiều điểm tương đồng giữa việc đọc các sách Phúc âm trong Tân ước và đọc những chuyện kể

trong Cựu Ước. Những kỹ năng bạn phát triển với những sách phúc âm cũng sẽ giúp bạn rất

nhiều trong việc nắm bắt những chuyện kể trong Cựu Ước. Tuy nhiên, một trong những sự khác

biệt là những phần (episode) trong Cựu Ước thường dài hơn những phần (episode) trong Tân

Ước. Trong các sách Phúc âm hầu hết những câu chuyện mà chúng ta xem xét đều ngắn. Hơn thế

nữa, bối cảnh mà chúng ta phân tích thường là những phân đoạn kế trước hoặc theo sau những

phân đoạn đó. Vì thế việc phân tích các sách Phúc âm thường khá chặt chẽ. Tuy nhiên, những

phần trong chuyện kể Cựu ước thường dài hơn và thường bao gồm cả chương.

Hơn thế nữa, bối cảnh văn phong cần khám phá có lẽ thậm chí dài hơn, thường bao

gồm nhiều chương. Đừng có đi tắt! Đừng cho rằng những chuyện kể trong Cựu Ước là những

câu chuyện đơn giản! Hãy quan sát! Hãy phân tích đoạn văn giống như Sherlock Holmes phân

tích một hiện trường tội phạm. Hãy tìm kiếm những điểm lặp lại, so sánh, tương phản hay những

Page 196: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

193

di chuyển từ tổng quát đến cụ thể, và v.v…Hãy để ý đến những chi tiết nhỏ tại sao những chi tiết

đó lại xuất hiện ở đây.

Hãy nhìn vào đoạn văn một bối cảnh hấp dẫn tại Giô suê đoạn 2. Vào những chương

đầu của sách Giô suê, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu cuộc chinh phục đất hứa. Trong chương 1, Chúa

động viên Giô-suê can đảm dẫn dân Y-sơ-ra-ên qua sông Giô-đanh đến vinh quang của vùng đất

hứa. Tuy nhiên, trong Giô-suê đoạn 2, câu chuyện chinh phục dường như đã giảm xuống và chen

ngang bởi câu chuyện về người kỵ nữ Ra-háp. Câu chuyện này cung cấp nhiều chi tiết, người kể

chuyện đã chia sẻ một lượng lớn thông tin về Ra-háp. Chúng ta biết tên và nghề nghiệp của nàng

(điều gây thắc mắc). Chúng ta cũng được cung cấp rất nhiều chi tiết. Ví dụ như, nàng giấu các

thám tử trên mái nhà, nơi nàng phơi cộng gai; nàng nói với họ về Đức Chúa Trời, và bày tỏ đức

tin của mình nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên dựa trên những gì nàng đã nghe về Ngài; gia

đình của nàng cũng được nhắc đến hai lần (2:13,18); nàng khuyên các thám tử nên đi đường nào

để trốn, nàng đánh lừa những người lính của nhà vua; nhìn chung nàng là một phụ nữ rất khôn

khéo.

Chính vần đề này đã kích thích suy nghĩ chúng ta, dẫn chúng ta tới vô số câu hỏi quan

sát. Tại sao lại là tất cả những chi tiết này? Mái nhà? Sợi chỉ đỏ? Thậm chí tại sao lại đề cập đến

Ra-háp? Đặt câu chuyện này vào phần đầu của câu chuyện chinh phục, câu chuyện Ra-háp được

nhấn mạnh. Điều này không phải là bất thường sao? Dân Y-sơ-ra-ên được ra lệnh tiêu diệt tất cả

mọi người ở vùng Đất hứa, thế nhưng câu chuyện đầu tiên của cuộc chinh phục lại là một ngoại

lệ - một người gái điếm của xứ Ca-na-an trở về với Chúa và được cứu. Dĩ nhiên là vị trí của câu

chuyện này và sự nhấn mạnh của nó bởi lượng văn từ dược dùng để diễn tả nó chỉ ra rằng đây là

một câu chuyện quan trọng để có thể hiểu được cuộc chinh phục và sách Giô-suê. Có phải Ra-

háp là một cá nhân đơn lẻ hay nàng là một nhân vật đại diện cho một nhóm người lớn hơn- có lẽ

đó là những người có đức tin? Vì thế chúng ta bám vào Giô-suê đoạn 2, quan sát kỹ và đặt câu

hỏi.

Phần kế tiếp chúng ta bắt đầu khám phá những chương lân cận, khám phá những kết

nối và thông tin cần thiết. Giô-suê đoạn 3 đến đoạn 5 mô tả sự chuẩn bị của dân Y-sơ-ra-ên cho

cuộc tấn công vào Giê-ri-cô (thành phố của Ra-háp). Giô-suê đoạn 6 mô tả cảnh chinh phục

thành Giê-ri-cô một cách kì diệu. Ra-háp lại xuất hiện trong Giô-suê đoạn 6 (c. 17,23,25), vì thế

chúng ta cần chậm lại để xem xét. Một lần nữa gia đình của nàng và tài sản của nàng được nhắc

đến: “Tất cả người ở cùng nàng trong nhà sẽ được sống” (c.17), “cha mẹ nàng, anh em, và mọi

vật chi thuộc về nàng đi ra” (c.23), “luôn nội nhà cha của nàng, và mọi vật chi thuộc về nàng”

(c.25). Cũng có lời chép về việc gia đình nàng được giải cứu tương phản với số phận của những

người khác ở Giê-ri-cô trong 6:21 “đưa gươm qua diệt mọi vật ở trong thành, nào nam phụ lão

ấu, cho đến bò, chiên và lừa.”

Tuy nhiên, Giô-suê đoạn 7 giới thiệu với chúng ta một nhân vật khác tên là A-can.

Người đàn ông Y-sơ-ra-ên này đã lấy cắp một vài vật đã được dâng cho Đức Chúa Trời. Vì việc

Page 197: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

194

của ông làm mà Y-sơ-ra-ên bại trận kế tiếp. Cuối cùng Giô-suê đã tìm thấy A-can và Y-sơ-ra-ên

đã kết tội ông và gia đình của ông, cùng với bò, chiên, và lừa. Wow, đến lúc này thì tiếng chuông

cảnh báo trong đầu quí vị nên tắt đi. Bò, chiên, và lừa được đặc biệt nhắc đến trong 6:21 nói về

sự hủy diệt của Giê-ri-cô. Có phải sự chết của A-can được đem so sánh với sự hủy diệt của Giê-

ri-cô? Và còn về việc hủy diệt cả gia đình ông thì sao? Hãy nhớ lại rằng việc giải cứu gia đình

được nhấn mạnh trong câu chuyện của Ra-háp. Có sự liên hệ nào ở đây không? Có phải Ra-háp

và A-can là hai hình ảnh trái ngược nhau?

Hãy có cái nhìn gần hơn vào A-can với hình ảnh Ra-háp trong đầu. Khi chúng ta đọc

qua Giô-suê đoạn 7 chúng ta nhận ra rằng A-can là những gì chính xác đối lập với Ra háp. Thực

sự, Ra-háp và A-can là hai nhân vật chính mới được giới thiệu trong câu chuyện trong bảy đoạn

đầu của sách Giô suê. Những câu chuyện của họ hình thành nên đoạn kết gần những chương liên

quan đến sự sụp đổ của Giê-ri-cô. Khi chúng ta khám phá những chi tiết trong câu chuyện của A-

can, chúng ta nhận ra rằng có rất nhiều chi tiết trong câu chuyện của A-can tương phản với

những chi tiết trong câu chuyện của Ra-háp. Điều đó có vẻ như là mặc dầu người kể chuyện cố ý

kể tương phản giữa hai câu chuyện trong phần nền là sự hủy diệt của thành Giê-ri-cô. Đọc lại

Giô suê đoạn 2 tới đoạn 7 và liệt ra những tương phản mà bạn có thể. Sau đó so sánh với những

điểm khác biệt chúng tôi nêu ra sau đây:

Ra háp A can

Nữ Nam

Người Ca na an Người Hê bơ rơ

(thuộc chi phái Giu đa, chi phái tốt nhất)

Là gái điếm Là người đáng được tôn trọng

Lẽ ra phải chết nhưng được

sống và thịnh vượng Lẽ ra phải được thạnh vượng thì bị chết mất

Nàng và tất cả những gì của nàng đều

được sống Ô ng và tất cả những gì của ông bị diệt

Đất nước bị diệt Đất nước được thịnh vượng

Dấu các thám tử khỏi lính của vua Dấu tài sản với Chúa và Giô suê

Dấu các thám tử trên mái nhà Dấu tài sản dưới lều

Kính sợ Chúa của Y-sơ-ra-ên Không kính sợ Chúa của Y-sơ-ra-ên

Chỉ mới nghe về Đức Chúa

Trời nhưng đã tin Ngài

Đã nhìn thấy công việc của Đức Chúa Trời nhưng

không vâng lời

Nhà của nàng được sống trong

khi thành phố bị tiêu diệt Lều của ông bị thiêu đốt

Bò, chiên, lừa của Giê-ri-cô bị diệt Bò, chiên, lừa của A-can bị diệt

Nàng trở nên giống như người Y sơ ra

ên và sống

Ô ng trở nên giống như người Ca na an và

bị diệt vong

Page 198: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

195

Thực chất thì Ra-háp và A-can đổi chỗ cho nhau. Nàng trở nên người Y-sơ-ra-ên và

sống giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời. Nàng thậm chí còn xuất hiện trong gia phổ của Chúa

Giê-xu. Ngược lại, A-can, một người Y-sơ-ra-ên thì chết như một người Ca-na-an. Thực ra sự

hủy diệt A-can và cả nhà của ông tương đương với sự hủy diệt của thành Giê-ri-cô. Sự khác biệt

chính của Ra-háp và A-can chính là thái độ của họ đối với Chúa. Ra-háp kính sợ Chúa, đặt đức

tin nơi Ngài và liều mạng sống mình để bảo vệ hai thám tử của Y-sơ-ra-ên. A-can thì đã hành

động như thể Đức Chúa Trời không tồn tại và cho rằng dầu có không vâng lời Đức Chúa Trời thì

cũng sẽ chẳng gánh phải hậu quả nào.

Hai chuyện kể này cùng hỗ trợ cho sự hủy diệt của thành Giê-ri-cô. Hãy để ý sự trái

ngược. Khi chúng ta bắt đầu đọc câu chuyện về sự chinh phục Ca-na-an của người Y-sơ-ra-ên,

hai người đầu tiên chúng ta gặp trong câu chuyện là những ngoại lệ. Ra-háp người Ca-n- an

được sống và A-can người Y-sơ-ra-ên thì chết. Người kể chuyện cho chúng ta biết rằng có nhiều

nơi cần phải chinh phục hơn là chỉ sự hủy diệt của Giê-ri-cô. Có sự ảnh hưởng sâu sắc của đức

tin và sự vâng lời của cá nhân trong đó. Cũng vậy, có nhiều điều để tin nơi Chúa hơn là vấn đề

của quốc gia hay sự kính trọng. Một người kỵ nữ Ca-na-an có thể tìm thấy nó và một người Y-

sơ-ra-ên đáng kính đã bỏ lỡ nó.

Vì thế, hãy đọc một cách cẩn thận. Để ý những chi tiết. Quan sát! Đọc xuyên thấu

nhưng chương liên quan. Tìm những kết nối. Dùng tất cả những kỹ năng mà bạn đã phát triển

trong chương 1. Hãy đặt câu hỏi cho đoạn văn. Hỏi tại sao những chi tiết lại xuất hiện ở đó. Tiếp

tục đọc và đào sâu.

Những đặc điểm văn chương của chuyện kể

Trong chương 1 chúng ta đã học những kỹ năng để bản văn một cách cẩn thận. Một

vài đặc điểm văn chương chúng ta đã học cách tìm kiếm cũng là những đặc điểm văn chương

quan trọng của chuyện kể.

Chúng ta sẽ thăm lại một vài đặc điểm văn chương trong chương này nhưng chúng ta

cũng sẽ thêm vào một vài đặc điểm đặc biệt để tìm kiếm trong khi chúng ta quan sát những

chuyện kể trong Cựu Ước.

Bốn yếu tố quan trọng của chuyện kể mà chúng ta không đề cập đến trong bài 1 đó là:

(1) bố cục, (2) bối cảnh, (3) nhân vật, (4) quan điểm của người kể chuyện. Trong phần thảo luận

các sách Phúc  m (chương 14) chúng tôi khuyến khích bạn hỏi những câu hỏi tiêu chuẩn về

chuyện kể như là: Ai? Cái gi? Khi nào? Ở đâu? Tại sao? Và thế nào? Những câu hỏi này sẽ giúp

bạn bắt đầu nghiên cứu chuyện kể, nhưng chúng ta cần mở rộng những câu hỏi này cho bốn yếu

tố mà chúng ta đề cập ở trên.

Page 199: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

196

1. Cốt chuyện.

Khám phá cốt chuyện là sự mở rộng của những câu hỏi: Ai? Và thế nào? Cốt chuyện

là cấu trúc gắn kết các chuyện kể lại với nhau. Dòng chảy của sự kiện, cùng với sự lên xuống của

các hành động kịch tính vạch ra cấu trúc của cốt chuyện và di chuyển câu chuyện về phía trước.

Cốt chuyện cũng chính là yếu tố kết nối các phần riêng lẻ lại với nhau để tạo thành một câu

chuyện logic. Ví dụ: Trong chuyện kể về Á p-ra-ham (Sáng-thế ký 12-25) chúng ta gặp rất nhiều

phần kể về cuộc đời của ông (ông nhận lấy lời hứa, ông đi đến Ai cập, ông giải cứu Lót, ông đuổi

A-ga đi…). Tất cả những phần ngắn này là một phần của cốt chuyện lớn của câu chuyện kể về

lời hứa của Đức Chúa Trời với Á p-ra-ham và việc hoàn thành lời hứa đó.

Hầu hết cốt chuyện của chuyện kể có ba phần. Câu chuyện bắt đầu với phần trình bày,

là phần mô tả nền tảng cơ bản và bắt đầu loạt sự kiện chính. Phần tiếp theo là phần mâu thuẫn.

Thông thường trong phần trình bày, một điều gì đó được mô tả qua những chi tiết chưa hoàn

thành, lộn xộn hay mong ước chưa được trọn. Phần thiếu hụt này dẫn đến mâu thuẩn. Mâu thuẫn

có thể là nội tại (bên trong một nhân vật) hoặc là ngoại tại (giữa hai nhân vật hay hai nhóm nhân

vật). Thông thường, trong Cựu Ước, mâu thuẫn chính là giữa Đức Chúa Trời với dân cứng đầu

của Ngài. Phần tiếp theo thường là căng thẳng và được đẩy lên tới đỉnh điểm và yếu tố cuối cùng

được nối tiếp: phần giải quyết cốt truyện. Tại đây, mâu thuẫn được giải quyết. Khi bạn đọc một

câu chuyện, hãy chắc là bạn nhận ra được cốt chuyện chính. Hỏi: “Câu chuyện này nói về điều

gì?” Cố gắng tìm xem những sự kiện nào đẩy câu chuyện đi: Điều gì là mâu thuẫn chính? Căng

thẳng này tiến triển như thế nào? Mâu thuẫn được giải quyết như thế nào?

2. Bối cảnh.

Bối cảnh liên quan đến những câu hỏi: “Khi nào? Và ở đâu? Các tác giả Cựu ước

không cung cấp số lượng tài liệu mô tả giống nhau về bối cảnh giống như các tác giả hiện đại,

nhưng họ vẫn thường nhận ra bối cảnh. Những câu chuyện trong Kinh Thánh không diễn ra

trong môi trường trống, cũng không diễn ra trong môi trường tưởng tượng hay huyền bí. Những

bối cảnh của Cựu ước thường là những quan cảnh rõ ràng, nghĩa đen: trong triều đình đẹp đẽ của

Pha-ra-ôn tại Ai-cập, trong sa mạc Si-na-i, trong một cái hang, trên những đỉnh núi hay trên sân

đạp lúa…. Bối cảnh là quan trọng. Để ý đến bất cứ bối cảnh thay đổi trong câu chuyện. Chú ý

đặc biệt khi người nào đó rời khỏi Đất Hứa. Hãy nhớ rằng đất đó là một nơi đặc biệt cho dân Y

sơ ra ên của Cựu Ước vì nó liên kết với mối quan hệ giao ước với Đức Chúa Trời.

Ví dụ, Ru-tơ 1:1 nói:

Trong đời các quan xét, một cơn đói kém xảy đến trong xứ, có một người từ Bết-

lê-hem xứ Giu-đa, đi với vợ và hai con trai mình đến kiều ngụ trong xứ Mô-áp.

Có vài khía cạnh về bối cảnh được trình bày trong cầu đầu tiên của sách Ru-tơ. Phần

này đóng vai trò quan trọng để hiểu được phần còn lại của sách này. Bối cảnh thời gian: “Trong

Page 200: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

197

đời các quan xét” kết nối câu chuyện với bối cảnh của sách Các Quan Xét. Khi chúng ta trở lại

với sách Các Quan Xét, chúng ta nhận thấy rằng đó là một thời kỳ kinh khủng. Sự lộn xộn tràn

đầy. Sự bất tuân luật pháp và bất tuân Đức Chúa Trời và những cuộc tấn công của người ngoại

bang là phổ biến. Bối cảnh này cho thấy hành trình đơn độc của Ru-tơ và Na-ô-mi vô cùng nguy

hiểm. Đặc biệt với Ru-tơ, một người ngoại bang lại vào vùng đất đầy những người đàn ông. Nó

cũng chỉ ra rằng việc gặp được một người tốt bụng và chân thành như Bô-ô là điều bất thường.

Bối cảnh địa lý cũng quan trọng, đặc biệt khi nó thay đổi nhiều lần trong câu chuyện.

Người đàn ông này rời xứ Bết-lê-hem để đến đất Mô-áp. Trong Cựu Ước, rời vùng đất nầy

thường cho là thiếu đức tin nơi Đức Chúa Trời. Những thảm họa đổ trên gia đình này trong vài

câu tiếp theo. Phải chăng vì họ đã rời vùng đất này? Sau đó trong câu chuyện, Na-ô-mi và Ru-tơ

sẽ trở lại vùng đất đó. Phước hạnh có bảo đảm khi họ quay trở lại không? Có lẽ có. Cũng để ý

rằng bối cảnh mô tả trong câu mở đầu câu chuyện mang âm hưởng khôi hài. Tên của thành phố

“Bết-lê-hem”, có nghĩa là “nhà bánh”. Có một “cơn đói” ở “nhà bánh”.

3. Nhân Vật.

Khi trả lời câu hỏi Ai? bạn sẽ khám phá được nhân vật. Nhân vật đặc biệt quan trọng

trong văn kể chuyện. Họ hành động và chuyển cốt chuyện về phía trước. Thông thường ý nghĩa

được chuyển tải trong phân đoạn Kinh Thánh được nối với thái độ của một hay nhiều nhân vật

trong câu chuyện. Dầu vậy, nhân vật rất phức tạp. Hơn nữa, người kể chuyện (tác giả) không cho

chúng ta biết từng nhân vật nghĩ và cảm giác như thế nào. Họ thường để lại những khoảng trống

mù mờ về các nhân vật và chúng ta là độc giả phải tranh chiến để tìm cách lấp đầy những khoảng

trống này. Giống như chính những người tham dự vào câu chuyện, chúng ta, là độc giả, thường

không có tất cả thông tin chúng ta muốn. Người kể chuyện đẩy chúng ta theo câu chuyện một

cách chậm chạp và chỉ bày tỏ những mảng thông tin quan trọng để giữ chúng ta đọc câu chuyện

đó và tiếp tục đọc. Đây là một phần của một câu chuyện hay.

Hãy xem ví dụ về nhân vật U-ri, là chồng của Bát-sê-ba. Trong II Sa-mu-ên 11, khi

U-ri đang đi đánh trận cho vua thì vua Đa-vít phạm tội tà dâm với vợ của U-ri là Bết-sê-ba. Sau

khi cô có thai, Đa-vít gọi U-ri về và cho phép ông ngủ với vợ để kết luận rằng Ủ-ri là cha của

đứa trẻ. Kế hoạch của Đa-vít phá sản và cuối cùng ông đã giết U-ri. Cảnh trọng tâm trong câu

chuyện này – có người cho là đỉnh điểm – là cuộc gặp gỡ giữa Đa-vít và U-ri, được mô tả trong

II Sam. 11:10-12. U-ri không chịu về nhà với vợ và điều này phá sản kế hoạch của Đa-vít.

Đây là nơi mà chúng ta, là độc giả muốn biết nhiều thông tin hơn. U-ri có biết về vụ

việc này không? Có thật sự Đa-vít muốn cho ông về nhà? Khi chúng ta đọc qua câu chuyện,

chúng ta nhận ra rằng nhiều người liên quan đến việc che đậy. Có người nào đó trong cung vua

tiết lộ vụ việc này cho U-ri không? Ô ng chắc biết nhiều người trong cung vua. Trong câu 10, Đa-

vít hỏi U-ri: “Cớ sao ngươi không về nhà?” Chúng ta lắng nghe câu trả lời của U-ri và tự hỏi liệu

anh ta có thật sự chân thật và trả lời thẳng hay liệu có lẽ câu trả lời của anh ta là cay đắng, xác

Page 201: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

198

định là anh ta biết sự việc. Câu trả lời của U-ri thật buồn cười nhưng nếu anh ta biết về vụ việc

này thì câu trả lời của anh ta là một nhát dao đâm vào Đa-vít: “Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và

Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đang hạ trại nơi đồng

trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và

linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!”

Đa-vít không đi ra trận nhưng đã làm chính điều U-ri từ chối làm. U-ri đóng vai trò

quan trọng trong câu chuyện này. Cách chúng ta lấp đầy khoảng trống về sự hiểu biết và thái độ

của U-ri ảnh hưởng đến cách chúng ta hiểu câu trả lời của ông. Người kể chuyện không bao giờ

cho chúng ta biết thông tin này nhưng cố tình để tự chúng ta nhận ra sự bối rối và sợ hãi trong

lòng của Đa-vít. Đa-vít cũng không chắc là U-ri có biết hay không.

4. Quan điểm của người kể chuyện

Người kể chuyện chịu trách nhiệm chuyển tải ý nghĩa đến độc giả qua câu chuyện.

Thỉnh thoảng, người kể chuyện bày tỏ quan điểm của mình rõ ràng cho chúng ta bằng cách dùng

những câu tóm tắt hay nhận xét. Ví dụ, trong II Các. 17:7 người kể chuyện giải nghĩa những sự

kiện trước đó cho chúng ta và giải thích: “Vả, dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội cùng Giê-hô-va Đức

Chúa Trời của họ, là Đấng đã rút họ ra khỏi xứ Ê -díp-tô, và khỏi tay hà hiếp của Pha-ra-ôn, vua

Ê-díp-tô; chúng đã kính thờ các thần khác”. Nhưng người kể chuyện thường đứng trung lập. Ý

nghĩa ông chuyển tải qua câu chuyện là một ý nghĩa gián tiếp, không phải trực tiếp. Ô ng không

đến và nói cho chúng ta ý nghĩa nhưng để cho các nhân vật và thái độ của họ nói về chính họ.

Ông mong độc giả có thể nhận ra điều tốt từ điều xấu.

Ví dụ, trong phần sau của sách Các Quan Xét, dân Y-sơ-ra-ên phạm tội nặng nề. Lời

phán xét tồi tệ nhất mà người kể chuyện thật sự nói trực tiếp trong 21:25: “Đang lúc đó, không

có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải”. Trong vài chương cuối của sách

Các Quan Xét, dân sự đã trượt dài xuống tận cùng của suy đồi trong phương diện thần học và

đạo đức. Không những họ đã thất bại trong việc đánh đuổi dân Ca-na-an như Chúa đã truyền

lệnh mà còn (1) những quốc gia khác xâm chiếm nó, (2) họ chém giết nhau thay vì sống hòa bình

trên vùng đất đó, (3) họ xây qua các thần khác, (4) một thầy tế lễ Lê-vi dẫn chi phái Đan đi thờ

thần tượng ngoại bang, (5) một thành Y-sơ-ra-ên cố gắng tấn công một thầy tế lễ và hãm hiếp

người vợ thứ của ông ta….Bạn có nắm được bức tranh chưa? Tình hình thật tồi tệ.

Người kể chuyện hoàn toàn có thể đem ra một cơ hội phán xét về đạo đức trên sự lộn

xộn này không? Không. Tuy nhiên người kể chuyện đã trình bày sự phán xét của mình một cách

thích hợp qua phương cách nghệ thuật mà ông kể trong câu chuyện. Có sự phán xét của ông

nhưng rất tế nhị. Ví dụ, trong Các Quan Xét 19 ông kể câu chuyện kinh khủng về cách mà đám

nổi loạn Y-sơ-ra-ên trong thành Ghi-bê đe dọa tấn công một thầy tế lễ Lê-vi, la ó với người

muốn bảo vệ ông: “ Hãy đem người đã vào nhà ngươi đó ra, cho chúng ta biết (quan hệ tình dục)

hắn” (19:22). Chương này trông có vẻ quen thuộc phải không? Nó nhắc lại một sự kiện trước đó

Page 202: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

199

không? Chắc chắn có! Trở lại Sáng. 19, người dân Sô-đôm đã làm điều giống hệt như vậy. Bạn

có cảm nhận người kể chuyện sách Các Quan Xét đang làm gì không? Ông ta không lên án trực

tiếp chương này ở Ghi-bê, nhưng ông chắc chắn lên án một cách gián tiếp. Ô ng trình bày sự kiện

theo cách nổi bật bằng cách so sánh sự kiện này với sự kiện tại thành Sô-đôm. Sau đó ông để độc

giả tự kết luận lấy.

Đức Chúa Trời phán xét nghiêm khắc tội lỗi của dân Sô-đôm trong Sáng. 19 và cả

dân thành đều bị hủy diệt. Cựu ước mô tả chương này như là đỉnh cao của mọi tội ác. Tội lỗi

đỉnh điểm của dân Ca-na-an như được minh họa trong thành Sô-đôm, giải thích cuộc chinh phục.

Hãy xem dân Ca-na-an tội lỗi dường nào trong câu chuyện được kể trong Sáng Thế Ký. Nhưng

hãy để ý đến tính khôi hài trong Các Quan Xét 19. Người ở Ghi-bê không phải là người Ca-na-an.

Những người này là người Y-sơ-ra-ên! Họ cần phải trung tín với Đức Chúa Trời và đuổi dân Ca-

na-na tội lỗi này ra khỏi vùng đất. Nhưng như người kể chuyện cho chúng ta thấy, dân Y-sơ-ra-

ên trở nên giống dân Ca-na-an, quên mất Đức Chúa Trời và phạm cùng tội lỗi kinh khủng như họ

đã từng phạm ở thành Sô-đôm. Đức Chúa Trời cũng không đoán phạt dân Y-sơ-ra-ên như vậy

sao? Dân Y-sơ-ra-ên có quyền gì để ở trong Đất Hứa khi họ không khác gì hơn người Ca-na-an?

Người kể chuyện có thể cũng tỏ vẻ tích cực với một sự kiện nào đó nhưng thực tế ông

không tích cực chút nào. Trong những trường hợp này ông cung cấp cho chúng ta những gợi ý tế

nhị với quan điểm thật của mình. Ví dụ, nhìn I Các Vua 1-11. Những chương này tập trung chính

yếu vào vẻ đẹp hoành tráng của vương quốc Sa-lô-môn. Câu chuyện nhấn mạnh đến sự khôn

ngoan và giàu có của ông. Ô ng xây cất những toà nhà vĩ đại, đặc biệt đền thờ của Chúa. Mọi thứ

xuất hiện thịnh vượng và tuyệt vời. Người kể chuyện dường như đang nâng cao Sa-lô-môn và

vương quốc của ông lên. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem cẩn thận, chúng ta sẽ thấy người kể

chuyện đang nháy mắt chúng ta. Ô ng không kể câu chuyện này bằng mặt thẳng của mình. Trên

bề mặt, mọi thứ dường như tuyệt vời nhưng bên dưới, có một điều gì đó sai trận nghiêm trọng.

Người kể chuyện tiếp tục vẽ lên bức tranh của vương quốc hoành tráng của Sa-lô-môn nhưng

ông cũng bắt đầu để lại vài gợi ý cho quan điểm thật về Sa-lô-môn. Chú ý điều kiện lặng trong I

Các 3:3: “Sa-lô-môn kính mến Đức Giê-hô-va, và đi theo các luật lệ của Đa-vít, cha mình; song

người dâng của lễ và xông hương tại trên nơi cao.”

Người kể chuyện tiếp tục khen ngợi thành tựu của Sa-lô-môn nhưng ông khiến cho

chúng ta phải tự hỏi liệu đó là điều ông chủ định hay không. Chính trọng tâm của vấn đề nằm

trong Phục truyền 17:14-17. Nhiều lần trong I Các. 1-11, Sa-lô-môn được cho là vâng theo luật

pháp và điều răn của Chúa. Những luật có thể được áp dụng nhiều nhất cho Sa-lô-môn được tìm

thấy trong Phục truyền 17:14-17 vì phân đoạn này liên hệ cụ thể với những mạng lệnh cho nhà

vua. Đoạn Kinh Thánh này như sau:

14 Khi ngươi đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho, được nhận

lấy và ở tại xứ đó rồi, nếu ngươi nói: Tôi sẽ lập một vua lên cai trị tôi, như các

dân tộc chung quanh, 15 thì khá lập một vua lên cai trị ngươi, mà Giê-hô-va Đức

Page 203: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

200

Chúa Trời ngươi sẽ chọn; phải lập lên một vua thuộc về anh em ngươi; chớ nên

lập một người ngoại bang lên, không phải anh em ngươi. 16 Song vua ấy chẳng

nên lo cho có nhiều ngựa, chớ vì muốn thêm nhiều ngựa mà dẫn dân sự trở lại xứ

Ê -díp-tô; bởi Đức Giê-hô-va đã phán cùng các ngươi rằng: Các ngươi sẽ chẳng

trở về đường đó nữa. 17 Vua cũng không nên kén nhiều phi tần, e lòng người trở

xấu xa; lại chẳng nên thâu góp nhiều bạc vàng.

Ba điều cấm với một vị vua trong Phục. 17 là: (1) nhiều ngựa, đặc biệt từ Ai-cập, (2)

nhiều vợ, (3) thâu góp nhiều bạc vàng. Nhớ đoạn Kinh Thánh này và xem bình luận của người kể

chuyện về Sa-lô-môn trong I Các. 10:26-28 và 11:3:

26 Sa-lô-môn cũng nhóm xe và lính kỵ; có một ngàn bốn trăm xe và mười hai

ngàn lính kỵ, để trong các thành chứa xe, và tại Giê-ru-sa-lem, gần bên vua. 27

Tại Giê-ru-sa-lem vua làm cho bạc ra thường như đá, và cây bá hương nhiều như

cây sung mọc nơi đồng bằng. 28 Vua Sa-lô-môn do nơi Ê-díp-tô mà được ngựa;

một đoàn con buôn của vua đi kiếm mua từng bầy, giá phải chăng….

…. 3 Người có bảy trăm hoàng hậu, và ba trăm cung nữ; chúng nó bèn làm cho

người trở lòng.

Người kể chuyện có nghĩ là chúng ta, những độc giả, biết Phục truyền 17:16-17

không? Có lẽ có. Sách Phục truyền vươn bóng mình xuyên suốt Cựu Ước và đó là sách quan

trọng phải ghi nhớ. Đó cũng không phải là điều vô tình mà người kể chuyện nhấn mạnh chính

những điều mà Phục truyền 17 cấm, đặc biệt đặt việc thâu gom nhiều ngựa chung với thâu gom

nhiều bạc trong cung lại thành một bối cảnh. Trên hết, ông muốn ngay cả đề cập rằng Sa-lô-môn

yêu cầu nhiều ngựa từ Ai-cập. Nếu thật như vậy thì người kể chuyện không phải đang ca ngợi

Sa-lô-môn nhưng ông đang lên án Sa-lô-môn. Qua I Các. 11, con mèo đã chui ra khỏi giỏ và

người kể chuyện bày tỏ quan điểm của mình một cách rõ ràng. “Như vậy, Sa-lô-môn làm điều ác

trước mặt Đức Giê-hô-va, chẳng vâng theo Đức Giê-hô-va cách trọn lành như Đa-vít, cha người,

đã làm” (I Các 11:6); “Đức Giê-hô-va nổi giận cùng Sa-lô-môn, bởi vì lòng người trở bỏ Giê-hô-

va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (11:9).

Ngay cả trong phần đầu của câu chuyện, người kể chuyện đã bày tỏ quan điểm không

đồng tình của mình. Ví dụ, Sa-lô-môn xây dựng một đền thờ nguy nga cho Đức Chúa Trời.

Người kể chuyện tự hào kể cho chúng ta trong I Các. 6:38 rằng Sa-lô-môn đã tốn bảy năm để

hoàn thành đền thờ. Tuy nhiên ngay trong câu tiếp theo, 7:1, người kể chuyện cho chúng ta biết

rằng Sa-lô-môn phải tốn đến mười ba năm để xây nhà của mình! Bảy năm để xây nhà của Đức

Chúa Trời và mười ba năm xây nhà cho mình! Vĩ đại chứ? Hơn nữa, Sa-lô-môn lại xây một ngôi

nhà tương tự cho “con gái của Pha-ra-ôn, người mà ông cưới làm vợ” (7:8). Ông phải tốn mười

ba năm nữa để xây nhà cho cô ta chắc?

Page 204: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

201

Do đó, phải đọc cẩn thận. Xem kỹ những chi tiết xác định quan điểm của người kể

chuyện. Hãy chú ý câu chuyện có thể ẩn trong hình thái trình bày của nó. Tuy nhiên, nếu bạn

quan sát kỹ và đọc cẩn thận, bạn sẽ có thể thấy được những chi tiết ẩn đó và những gợi mở của

người kể chuyện đặt để giữ chúng ta đi đúng hướng và cho phép chúng ta nắm bắt được ý nghĩa

chủ định của người kể.

Như bạn thấy, cốt chuyện, bối cảnh, nhân vật và quan điểm của người kể là bốn đặc

điểm quan trọng của chuyện kể. Có những đặc điểm khác mà chúng tôi đã trình bày ngắn gọn

trong Phần I, và chúng ta cùng xem lại một chút tại đây. Đó là so sánh/đối lập và tính mỉa mai.

5. So sánh/đối lập.

Thuật văn chương này là một công cụ chính được dùng trong chuyện kể Cựu ước để

phát triển cốt truyện và dẫn dắt câu chuyện. Chúng tôi đã ghi lại ở trên sự đối lập giữa Ra-háp và

A-can. Dầu vậy, có nhiều so sánh và đối lập khác xuất hiện trong những chuyện kể Cựu Ước. Ví

dụ những chương đầu của sách I Sa-mu-ên được xây dựng xung quanh đối lập giữa An-ne và

Hê-li. Tương tự, người con tốt lành Sa-mu-ên của An-ne đối lập với những đứa con hư hỏng của

Hê-li, Hóp-ni và Phi-nê-a. Phước hạnh theo đó cũng đảo ngược khi cuộc đời của An-ne thì được

phước qua Sa-mu-ên trong khi đó cuộc đời của Hê-li gặp trắc trở vì Hóp-ni và Phi-nê-a. Kết cuộc,

Hê-li cùng với hai con mình chết. An-ne thì được thịnh vượng và Sa-mu-ên trở nên quan trọng

trong đất nước minh, cuối cùng thay thế Hê-li làm thầy tế lễ.

Có lẽ sự đối lập dài nhất trong Cựu Ước là giữa Sau-lơ và Đa-vít. Mâu thuẫn này

được cụ thể hóa và mở rộng trên nhiều chương trong I Sa-mu-ên. Một vài chi tiết đối lập thì rõ

ràng nhưng cũng có nhiều chi tiết ẩn, chỉ những người đọc cẩn thận mới nhìn thấy được. Ví dụ,

xem cách mà mỗi nhân vật được giới thiệu vào câu chuyện. Sau-lơ được giới thiệu trong I Sam.

9:1-2. Người kể chuyện cho chúng ta biết rằng Sau-lơ “còn trẻ và lịch sự”. Trong dân Y-sơ-ra-ên

chẳng ai lịch sự bằng người; người cao hơn cả dân sự từ vai trở lên.” Ngược lại, Đa-vít được giới

thiệu trong I Sam. 16 ngay cả không được ra mắt Sa-mu-ên để chọn người được xức dầu vì ông

còn trẻ và chiều cao không ấn tượng. Sa-mu-ên nhìn thấy Ê-li-áp, anh của Đa-vít thì tự nghĩ rằng

chắc người này được Chúa chọn để làm vua. Nhưng, Đức Chúa Trời sửa ý nghĩ của ông:

Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì ta đã bỏ nó. Đức Giê-hô-va

chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-

va nhìn thấy trong lòng. (I Sam. 16:7)

Sự đối lập giữa Đa-vít và Sau-lơ lại nổi lên một lần nữa trong I Sam. 17. Trong 17:8-

9 người khổng lồ Gô-li-át thách đấu dân Y-sơ-ra-ên sai một anh hùng ra đánh ông. Ai là người

anh hùng của Y-sơ-ra-ên? Ai cao hơn những người khác từ vai trở lên? Dĩ nhiên là Sau-lơ! Sau-

lơ là lớn nhất trong Y-sơ-ra-ên và ông là vua. Ô ng rõ ràng phải được chọn. Tuy nhiên vị vua cao

to này phủi trách nhiệm của mình và cố gắng tìm đường thoát (17:25). Đa-vít, một chàng trai thì

khác. Anh nhận nhiệm vụ đánh với Gô-li-át dầu anh ta chẳng có trách nhiệm phải làm như vây;

Page 205: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

202

thật ra anh không phải là một phần của quân đội. Một vua Sau-lơ cao to ẩn mình trong trại trong

khi đó chàng Đa-vít nhỏ bé, non trẻ đánh bại tên khổng lồ đe dọa Y-sơ-ra-ên.

Những đối lập này có thể dễ thấy. Bây giờ chúng ta cùng xem vài đối lập khó thấy

hơn. Khi Sau-lơ được giới thiệu trong I Sam. 9, ông đang tìm những con lừa đi lạc của cha mình.

Người kể chuyện không cho chúng ta biết ai làm mất lừa, chỉ nói rằng Sau-lơ đang đi tìm nó. Có

thể ông là người làm mất lừa. Đoạn Kinh Thánh nhấn mạnh sự kiện này, cung cấp nhiều chi tiết

mô tả hành trình của Sau-lơ và các đầy tớ của mình tìm con lừa mất này. Một sự giới thiệu anh

hùng làm sao! Một Sau-lơ can đảm xuất hiện như thế nào? Ông không tìm được con lừa của cha

mình và ông đề nghị người đầy tớ bỏ cuộc và về nhà. Người đầy tớ của Sau-lơ thuyết phục Sau-

lơ đi tới thành phía trước để hỏi Sa-mu-ên, người của Đức Chúa Trời về con lừa. Sau-lơ làm theo

lời khuyên của người đầy tớ, nhưng khi ông gặp Sa-mu-ên, ông ngay cả không nhận ra Sa-mu-ên

trong thành.

Tất cả chi tiết này thật là buồn cười. Vị vua tương lai của Y sơ ra ên được giới thiệu

cho chúng ta như là người vấp phạm và vô vọng tìm con lừa của cha mình và đi theo sự hướng

dẫn của một người đầy tớ. Ô ng không xuất hiện rực rỡ và mạnh bạo. Nhưng Đa-vít được giới

thiệu như thế nào? Người kể chuyện nhấn mạnh rằng Đa-vít đang chăn chiên của cha mình. Chi

tiết này được lặp đi lặp lại ít nhất sáu lần trong I Sam. 16-17, phân đoạn giới thiệu ông. Hơn nữa

ông bảo vệ chiên của cha mình khỏi sư tử và gấu. Ô ng không phải là người đánh mất chiên hay

đi lòng vòng vô định để tìm con lừa đi lạc.

Tương tự, Đa-vít xuất hiện trong chương 17 như là một anh hùng chiến đấu và giết

chết Gô-li-át. Đa-vít có mọi sự mà Sau-lơ không có. Người kể chuyện nhấn mạnh những chi tiết

về ông. Sau-lơ là người vô trách nhiệm. Ô ng bị Gô-li-át làm cho khiếp đảm (17:11) và có thể

chạy trốn với phần còn lại của đạo binh Y-sơ-ra-n (17:24). Đa-vít quyết đoán, nhận trách nhiệm.

Ô ng không chạy trốn khỏi sư tử tấn công bầy chiên của cha mình. Ông cũng không bỏ qua

những lời sỉ nhục của Gô-li-át và chạy trốn. Đa-vít không bị Gô-li-át làm khiếp đảm. Thay vì

chạy trốn khỏi tên khổng lồ, Đa-vít chạy đến để gặp nó trên chiến trường (17:48). Suốt chương

này, Đa-vít thay đổi bầy. Ô ng chuyển từ việc chăn bầy chiên của cha mình sang chăn bầy của

Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên. Ô ng nhận trách nhiệm này dù có hiểm nguy. Sau-lơ thì ngược

lại, là người đi tìm con lừa lạc, phủi trách nhiệm và chạy trốn khỏi hiểm nguy. Ngược lại với Đa-

vít, Sau-lơ đáng khinh. Đối lập tiếp tục trong nhiều chương và nhiều chi tiết trong I Sa-mu-ên

xoay quanh đó. Nhận ra được sự đối lập này là điều quan trọng để hiểu được I Sa-mu-ên.

6. Tính Mỉa Mai

Tình mỉa mai là thuật văn chương được dùng để mô tả những tình huống nơi mà

nghĩa đen hay bề mặt của một sự kiện hay một chương hoàn toàn khác – ngay cả đối lập – với ý

nghĩa chủ định thật của người kể chuyện. Điều này không phải là để giấu ý nghĩa với độc giả mà

để trình bày ý nghĩa trong hình thức mạnh hơn. Nó cho phép người kể chuyện làm ngạc nhiên

Page 206: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

203

độc giả với những điều không mong đợi. Thông thường nó cũng có tính khôi hài. Đó là một hiệu

quả mà những người kể chuyện thường cố tạo ra bằng những nghĩa ẩn. Trong hình thức mỉa mai,

những hành động và sự kiện có lẽ nhấn mạnh đến sự áp dụng đến gấp nhiều lần. Khi điều đó xảy

ra một hay hai nhân vật trong câu chuyện không hiểu được và không thể nhìn thấy điều gì hơn

chỉ là những ứng dụng trên bề mặt. Các tác giả của Cựu Ước thích dùng thuật này và dùng

thường xuyên hình thái này giúp cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và sâu sắc hơn.

Sa-lô-môn là một ví dụ hay. Trong I Các-vua 1-11, trên bề mặt, người kể chuyện

dường như đang ca ngợi Sa-lô-môn về những tòa lâu đài, sự giàu có, ngựa và vợ của ông. Nhưng

khi hiểu được Phục-truyền Luật-lệ Ký 17, chúng ta nhận thấy người kể chuyện thật sự đang lên

án Sa-lô-môn hơn là ngợi ca ông. Đây là sự mỉa mai.

Một ví dụ khác về tính mỉa mai trong I Sa-mu-ên 5-6. Không hỏi ý Đức Chúa Trời,

những người con ngu mụi và gian ác của Hê-li là Hóp-ni và Phi-nê-a đã đem hòm giao ước (sự

hiện diện của Đức Chúa Trời) ra mặt trận như là một bùa may mắn. Dầu vậy, người Phi-li-tin đã

đánh bại dân Y-sơ-ra-ên và cướp lấy hòm giao ước. Họ nghĩ rằng họ không chỉ đánh bại dân Y-

sơ-ra-ên mà còn đánh bại luôn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Họ đối xử hòm giao ước như là

thần tượng của một đất nước bị trị và đặt nó ở dưới chân của thần Đa-gôn của họ. Chúng ta, là

độc giả, căng thẳng. Chúa đã bị đánh bại? Làm sao hòm của Chúa bị dân ngoại Phi-li-tin cướp

lấy?

Tuy nhiên, Chúa đang đặt sự mỉa mai tại đây trên dân Phi-li-tin. Thần Đa-gôn ngã úp

mặt xuống mỗi ngày trước hòm trong sự vâng phục với Chúa. Cuối cùng tay và đầu của nó vỡ ra

(một số phận phổ biến cho những bại vua). Một tai họa giáng trên thành phố Phi-li-tin và sự sợ

hãi lan tỏa đến nỗi người ta phải chuyển hòm giao ước đến một thành phố Phi-li-tin khác. Đức

Chúa Trời đánh thành phố đó bằng những tai vạ và ném chúng vào sự hỗn loạn. Người Phi-li-tin

sau đó dâng những của lễ bằng vàng lên cho Đức Chúa Trời để tạ lỗi và để cho hòm giao ước trở

về Y-sơ-ra-ên.

Mới nhìn, dân Phi-li-tin nghĩ rằng họ đã thắng trận, đánh bại dân Y-sơ-ra-ên và bắt

được Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng thực tế Chúa đang xâm chiếm Phi-li-tin. Ngài phá

hủy thần Đa-gôn và tiếp tục di chuyển đến các thành phố trên khắp nước Phi-li-tin, đánh chúng

trên từng thành phố và trên trại quân Phi-li-tin nữa. Cuối cùng, người Phi-li-tin phải chấp nhận

dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. Ngài trở lại Y-sơ-ra-ên trong sự đắc thắng với của cống nộp

bằng vàng. Hai tên gian ác Hóp-ni và Phi-nê-a bị dân Phi-li-tin đánh bại nhưng Đức Chúa Trời

của Y-sơ-ra-ên thì không hề bị đánh bại; Ngài đang đắc thắng. Sự mỉa mai tại đây thật phong

phú.

Page 207: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

204

Bối cảnh Văn Chương – Câu Chuyện Lớn

Trong chương 17, chúng ta đã thảo luận tầm quan trọng của bối cảnh văn chương.

Chúng ta lại gặp điều này trong chương 15 về các sách Phúc Âm. Do đó, không lạ khi chúng ta

trở lại vấn đề này trong chương này. Rõ ràng, đặt chương bạn đang học vào bối cảnh của những

chuyển kể xung quanh nó là vô cùng cần thiết. Tương tự, để giữ liên kết các phần của tổng thể là

quan trọng. Nghĩa là khi đang học một câu chuyện nhỏ trong một sách nào đó, bắt buộc bạn phải

liên hệ câu chuyện đó với bố cục tổng thể của sách đó. Đoạn Kinh Thánh của bạn có vai trò gì

trong câu chuyện lớn hơn của toàn sách? Những phần/hành động liên kết tổng thể cần phải nhớ

khi cố gắng giải nghĩa những câu chuyện riêng một cách chính xác. Một sự giải nghĩa không

thích ứng với câu chuyện tổng thể có thể sai. Hơn nữa, hiểu được chính xác nhiều sự kiện chỉ khi

bạn đọc chúng trong ánh sáng của câu chuyện lớn hơn.

Ví dụ, câu chuyện nhỏ hơn trong Dân-số Ký 14 mô tả sự phản loạn của dân Y-sơ-ra-

ên và họ khước từ đi vào Đất Hứa và chinh phục nó như Đức Chúa Trời đã truyền lịnh cho họ

qua Môi-se. Sự kiện này liên hệ với câu chuyện lớn hơn như thế nào? Đức Chúa Trời hứa vùng

đất này cho hậu tự của Á p-ra-ham trong Sáng-thế Ký 12. Trong cả sách Sáng thế ký, lời hứa này

được lặp đi lặp lại. Trong Xuất Ê -díp-tô ký, Đức Chúa Trời đã giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi

ách nô lệ với mục đích rõ ràng là để đưa họ vào đất hứa. Do đó, sau khi Ngài đánh dân Ai-cập

bằng những tai vạ, rẽ biển đỏ, lập mối quan hệ giao ước với dân Y-sơ-ra-ên để sống giữa họ và

dẫn họ qua sa mạc một cách kỳ diệu để vào đất hứa, nhưng họ từ chối. Họ không muốn vào đất

hứa nếu họ phải chiến đấu để được nó.

Khi chúng ta nhìn sự từ chối của dân Y-sơ-ra-ên trong ánh sáng của toàn câu chuyện

thay vì chỉ câu chuyện nhỏ, thái độ của họ thật kỳ quặc. Làm sao họ từ chối đất hứa? Vào chiếm

đất hứa là lý do họ ra khỏi Ai-cập. Chiếm lấy đất hứa là làm trọn chương trình mà Đức Chúa

Trời đã phát triển hàng thế kỷ. Sự từ chối vào đất hứa của họ không phải là một chương khác

mỗi ngày về sự bất tuân của họ. Nhưng đó là đỉnh điểm của sự bất tuân trong sách này.

Một phân đoạn khác minh họa tầm quan trọng của bối cảnh văn chương trong II Sa-

mu-ên11-12 được thảo luận trong chương 4 về Đa-vít và Bết-sê-ba. Sau khi Đa-vít phạm tội tà

dâm và giết người kinh khủng, tiên tri Na-than đến và quở trách ông. Đa-vít nhận biết tội lỗi của

mình và ăn năn thật lòng. Đức Chúa Trời tha thứ cho ông và ông cưới Bết-sê-ba. Phần cuối của

II Sam 12 Đa-vít ra trận (giống như hình ảnh của ông trong đầu câu chuyện). Nếu chúng ta dừng

lại ở chương này, tất cả điều chúng ta thấy dường như tốt đẹp. Đa-vít đã được tha thứ và mọi thứ

trở lại bình thường.

Tuy nhiên, câu chuyện tổng quát của II Sa-mu-ên cho thấy sự soi sáng khác trên phân

đoạn này. Mười chương đầu của II Sa-mu-ên trình bày sự hưng thịnh của Đa-vít. Ô ng tiếp tục

chiến thắng. Ô ng là anh hùng của đất nước cả trên phương diện quân sự lẫn thần học. Ông đã sửa

sai những tình huống sai trật trong sách Các Quan Xét và đất nước của ông đang đi đúng hướng.

Page 208: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

205

Người kể chuyện tóm tắt tình huống này trong II Sa-mu-ên 8:15: “Đa-vít làm vua trên cả Y-sơ-

ra-ên, cai trị cả dân sự mình cách ngay thẳng và công bình.”

Tuy nhiên nửa sau của sách này hoàn toàn khác. Bắt đầu trong II Sa-mu-ên 13, mọi

thứ bắt đầu cay đắng với Đa-vít. Con trai Am-nôn hãm hiếp em gái Ta-ma rồi sau đó bị Á p-sa-

lôm giết chết. Sau đó, Áp-sa-lôm dấy loạn chống lại Đa-vít và nhiều người quay mặt lại “người

hùng” của họ. Điểm thấp của câu chuyện khi Đa-vít chạy trốn, ông bị một người ném đá khi đi

trên đường (đối lập với chương Gô-li-át). Á p-sa-lôm bị giết chết và lòng của Đa-vít tan vỡ nhưng

sự phản loạn và khủng hoảng chính trị lại tiếp tục vây lấy Đa-vít hết cả thời trị vì của ông.

Không ai trong câu chuyện này có thể đưa ông trở lại.

Nói cách khác, nửa đầu của sách thật tuyệt vời cho Đa-vít nhưng nửa sau thật là một

thảm họa. Điều gì nằm ở giữa? Tội tà dâm với Bết-sê-ba và giết U-ri! Câu chuyện lớn hơn giúp

chúng ta hiểu những lựa chọn thay đổi cuộc đời của Đa-vít như thế nào? Người kể chuyện đang

cố tình trình bày cho chúng ta nguyên tắc gì? Đức Chúa Trời tha thứ cho Đa-vít nhưng Ngài

không cho lại mọi điều đã xảy ra. Đa-vít khám phá ra rằng tội của ông gây hậu quả nghiêm trọng

trong mối quan hệ của ông với con cái và dân tộc của ông. Khi một người ăn năn tội, Đức Chúa

Trời sẽ tha thứ cho người đó, nhưng kết quả của tội đó vẫn tiếp diễn.

Chúng ta có thể áp dụng được gì từ điều này? Giả dụ một Cơ Đốc Nhân, do áp lực

của bạn bè, đã uống say. Sau đó, trong khi say, anh ta lái xe về nhà và đụng một em bé bốn tuổi,

khiến cho em bé tử vong. Sáng hôm sau, nhận ra những điều mình làm, anh ta hết lòng ăn năn.

Đức Chúa Trời có tha thứ cho người đó không? Chắc chắn là có. Nhưng đứa trẻ đã chết và cha

mẹ đứa trẻ đau khổ vì đứa con đó trong một thời gian dài.

Bối cảnh văn chương là quan trọng. Đặt những câu chuyện nhỏ mà chúng ta đang học

vào bối cảnh phù hợp trong toàn câu chuyện là điều rất quan trọng để phát triển sự hiểu biết đúng

đắn phân đoạn này. Làm sao để làm được điều đó? Chúng ta phải đọc bao nhiêu đoạn để đặt

chương này vào bối cảnh thích hợp? Chúng tôi đề nghị những hướng dẫn sau, chuyển từ bối cảnh

lớn hơn đến bối cảnh nhỏ hơn:

Nhận biết tổng thể của câu chuyện trong Cựu ước. Khám phá nhân vật hay phân đoạn

bạn đang học thích hợp với toàn cảnh như thế nào.

Nghiên cứu những chủ đề và sứ điệp tổng thể của sách chứa phân đoạn của bạn. Đọc một

câu tóm tắt của sách trong thánh kinh từ điển. Nếu có thể được thì đọc toàn bộ sách. Tìm

những kết nối giữa chương bạn đang học và phần còn lại của sách. Phân đoạn của bạn

đóng vai trò gì trong bố cục tổng thể của sách?

Đọc toàn bộ chương lớn hơn. Ví dụ, nếu bạn đang học một sự kiện trong cuộc đời của

Á p-ra-ham, bạn nên đọc tất cả những câu chuyện về Á p-ra-ham (Sáng-thế Ký 12-25). Cố

gắng xác định sự kiện bạn đang học thích hợp với phần lớn hơn như thế nào. Hãy nhớ

đọc cẩn thận và tìm những nối kết.

Page 209: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

206

Ít nhất phải đọc ba chương: toàn bộ chương mà bạn đang học, chương trước đó và

chương sau đó.

Những Nhân Thiện Lúc Nào Cũng Đội Mũ Trắng?

Khi chúng tôi còn nhỏ, chúng tôi thường thích xem phim. Có hai loại nhân vật rõ ràng:

“nhân vật thiện” và “nhân vật ác”. Không khó để chúng ta phân biệt chúng. Để cho chúng ta dễ

nhận diện, thỉnh thoảng những nhân vật thiện đội mũ trắng còn những nhân vật xấu đội mũ đen.

Nhưng những nhân vật như vậy trở nên phức tạp hơn. Có khi những nhân vật ác lại đội mũ trắng

còn những nhân vật thiện lại đội mũ đen. Điều này khiến cho khán giả nhầm lẫn không biết ai là

thiện ai là ác. Sự phân biệt giữa thiện và ác vẫn còn đó nhưng đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để

nhận ra nó.

Cựu ước thì không giống như các bộ phim trên. Kinh thánh mô tả những nhân vật rất

đơn giản và không có lĩnh vực lưng chừng. Kinh Thánh liên quan đến cuộc sống thật và con

người thật. Con người là phức tạp nên những câu chuyện về họ cũng phức tạp. Chúng ta không

nên cố gắng tìm những tính cách phức tạp trong Cựu Ước.

Quan sát này là quan trọng vì khi chúng ta thực hiện Hành Trình Giải Kinh, chúng ta

sẽ học được những nguyên tắc thần học từ tính cách của những nhân vật chính. Nhiều nhân vật

trở thành kiểu mẫu cho chúng ta, làm gương sáng trong đời sống đức tin trước mặt Đức Chúa

Trời. Điều quan trọng là chúng ta có thể nhận biết được những nhân vật thiện từ những nhân vật

ác. Một trong những sai lầm phổ biến nhất trong việc giải nghĩa chuyện kể Cựu ước là cho rằng

mọi người trong câu chuyện đều là anh hùng, là kiểu mẫu cho chúng ta noi theo. Điều này không

đúng. Nhiều người là những nhân nhật tiêu cực và chúng ta cần cảnh giác. Nếu chúng ta nhầm

lẫn nhân vật thiện và nhân vật ác, chúng ta sẽ đánh mất điểm chính trong câu chuyện.

Cũng nên nhớ rằng hầu hết những nhân vật chính (ngoại trừ Đức Chúa Trời) bao gồm

sự trộn lẫn giữa thiện và ác. Dường như không có nhân vật nào nổi lên mà hoàn toàn sạch sẽ.

Người kể chuyện mong chúng ta đọc và nhận ra.

Sa-lô-môn là một ví dụ rất hay. Ô ng là một người thiện hay ác? Ông dường như khởi

đầu rất thiện. Vào lúc đó, ông xuất hiện như là một kiểu mẫu tốt, tin cậy Đức Chúa Trời. Dầu

vậy, phần lớn thời gian tính cách của ông đáng nghi ngờ đến nỗi người kể chuyện, như đề cập ở

trên, dường như đang chỉ trích ông hơn là tôn kính ông. Dĩ nhiên, trên hết vị trí của Sa-lô-môn là

rõ ràng. Ông lìa xa Đức Chúa Trời và đi theo thần tượng. Ô ng là một nhân vật đau thương. Với

tất cả sự khôn ngoan vĩ đại và sự xây dựng tuyệt vời của ông, ông kết thúc trong sự thất bại. Ô ng

để lại gương thờ thần tượng cho hậu tự mình và đất nước tiếp tục đi theo sự hướng dẫn của ông

khi họ chạy theo thần tượng.

Còn Sam-son thì sao? Ô ng là một anh hùng hay tội đồ? Chúng ta có thể tìm thấy gợi

ý từ người kể chuyện. Ô ng cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời thêm sức cho Sam-son và Ngài

Page 210: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

207

cho ông sức mạnh vô địch. Về quân đội, ông có nhiều chiến thắng cá nhân vang dội trên dân Phi-

li-tin. Ông đánh đuổi những kẻ gian ác (người Phi-li-tin). Điều đó không khiến ông trở nên anh

hùng sao? Người kể chuyện trả lời trong sự tiêu cực. Cả cuộc đời thần học và đạo đức của Sam-

son bị phá sản. Ông xem thường tiếng gọi làm người Na-xi-rê và ông vi phạm tất cả luật của

người Na-xi-rê. Ô ng phạm luật và cố tình cho cha mẹ mình ăn thức ăn không tinh sạch. Ô ng

dành hầu hết thời gian của mình theo đuổi phụ nữ ngoại bang. Ô ng chỉ biết chính mình và chỉ

chạy theo ham muốn riêng của mình. Ô ng không phải là kiểu mẫu tích cực. Ô ng có thể là hình

ảnh của người có tiềm năng nhưng phí phạm sức mạnh và cơ hội mà Đức Chúa Trời đã ban cho

ông vì đi theo tham dục mình.

Như đã đề cập ở trên, một tiến trình quan trọng khác để đi theo trong việc giải nghĩa

những nhân vật này liên hệ câu chuyện của họ với bối cảnh lớn hơn. Điều gì đang xảy ra trong

câu chuyện lớn hơn và phân đoạn Kinh thánh nhỏ đó đóng vai trò gì trong bức tranh lớn hơn? Câu

chuyện của Sam-son thích hợp với toàn câu chuyện trong sách Các Quan Xét như thế nào? Nên

nhớ rằng sách Các Quan Xét căn bản là một sách nói về sự trượt dài về thần học và đạo đức của

dân Y-sơ-ra-ên sau khi họ ở trong vùng đất đó. Sam-son là một phần trong sự sa ngã đó. Dầu Đức

Chúa Trời có ban cho ông sức mạnh nhưng ông không quan tâm đến việc phục vụ và vâng lời

Ngài. Hiểu Sam-son như là người được ban ân tứ vĩ đại từ Đức Chúa Trời, nhưng ông mang mọi

thứ vào tính ích kỷ của mình rất thích hợp với sách Các Quan Xét. Do đó, mặc dầu Sam-son có

thể đạt được vài điều tốt cho dân Y-sơ-ra-ên nhưng ông không phải là một trong những “người

thiện”; ông là một hình mẫu tiêu cực.

Ghê-đê-ôn, một quan xét khác, thì phức tạp hơn Sam-son nhiều. Chúng ta đã nghe

nhiều bài giảng ca ngợi đức tin của Ghê-đê-ôn. Trong Các Quan xét 7, Đức Chúa Trời hướng

dẫn Ghê-đê-ôn sai hầu như cả quân đội về nhà, cuối cùng chỉ còn lại có ba trăm người cùng với

ông chống lại dân Ma-đi-an. Nhưng Đức Chúa Trời giúp đỡ quân đội nhỏ bé của Y-sơ-ra-ên một

cách kỳ diệu để đánh bại quân đội Ma-đi-an thiện chiến hơn. Chắc chắn Ghê-đê-ôn là anh hùng.

Tuy nhiên, người kể chuyện hình như đang nghi ngờ Ghê-đê-ôn và nếu chúng ta đọc kỹ, chúng

ta có thể thấy được những khía cạnh tiêu cực trong nhân vật Ghê-đê-ôn. Trước hêt, để giữ cho

Ghê-đê-ôn đi đúng hướng, Đức Chúa Trời phải cho ông bốn dấu hiệu lạ lùng: lửa từ hòn đá

(6:21), lông chiên ướt (6:38), sau đó miếng lông chiên khô (6:40) và cuối cùng là giấc mơ về dân

Ma-đi-an (7:13). Sự sợ hãi của Ghê-đê-ôn được nhắc đến hai lần (6:27;7:10-11). Phần quan trọng

nằm ở phần cuối của câu chuyện mà nhiều người thường hay bỏ qua (phần kết câu chuyện là

quan trọng!). Xem một trong những lời bình luận cuối cùng của người kể chuyện về Ghê-đê-ôn

trong Các-quan-xét 8:27.

Ghê-đê-ôn lấy vật đó làm một cái ê-phót, để trong thành mình tại Ó p-ra. Cả Y-

sơ-ra-ên đều cúng thờ cái ê-phót đó; nó trở thành một cái bẫy cho Ghê-đê-ôn và

cả nhà người.

Page 211: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

208

Phần theo sau về Ghê-đê-ôn cũng không tốt vì ông không để lại một hình ảnh tốt nào.

Ghê-đê-ôn (cũng có tên là Giê-ru-Ba-anh) có bảy mươi mốt con trai, một trong số đó tên là A-bi-

mê-léc (có nghĩa là “cha tôi là vua”). Trong Các. 9, A-bi-mê-léc giết bảy mươi anh mình (thật sự

thì có một người thoát được) và tự lập mình làm vua.

Khi xem tổng quát thì thấy Ghê-đê-ôn là một nhân vật được trộn lẫn giữa thiện và ác.

Ô ng không hẳn là một người tốt cũng ông không hẳn là một người xấu. Ông là người trộn lẫn cả

hai. Ô ng vâng lời Chúa và đạt được những điều vĩ đại nhưng ông chần chừ để thực hiện điều đó

và Đức Chúa Trời đã quở trách ông về điều đó (đối lập với ông, ví dụ Đa-vít chạy ra để đánh với

Gô-li-át). Khi Đức Chúa Trời giúp Ghê-đê-ôn đạt được sự đắc thắng, nổi tiếng và giàu có, ông đã

đánh mất ưu tiên của mình. Khi chúng ta lấy những nguyên tắc ra khỏi cuộc đời của Ghê-đê-ôn,

chúng ta cần xem những khía cạnh tiêu cực cũng như tích cực, vì cả hai đều có thể dạy chúng ta.

Đức Chúa Trời ban cho Ghê-đê-ôn sự thành công, nhưng Ghê-đê-ôn không nắm giữ nó tốt. Đây

cũng là bài học quý báu cho chúng ta.

Xuyên suốt văn chương chuyện kể trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời là nhân vật trung

tâm. Đức Chúa Trời không xa rời trong Cựu Ước, chỉ nói qua cái bóng qua người kể chuyện.

Ngài là nhân vật chính trong câu chuyện. Đặc điểm trọng tâm của văn kể chuyện là hội thoại, và

Đức Chúa Trời tham dự vào trên hai trăm bài hội thoại khác nhau trong Cựu Ước. Nếu chúng ta

đánh mất Đức Chúa Trời trong câu chuyện, chúng ta sẽ đánh mất câu chuyện. Chuyện kể mạnh

mẽ và hiệu quả ở việc bày tỏ nhân cách của người tham dự cho chúng ta. Một trong những mục

đích trọng tâm của tư liệu này là để bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta. Chúng ta có cơ hội để

nhìn thấy Đức Chúa Trời hành động trong nhiều tình huống khác nhau, liên quan đến những vấn

đề khác nhau của con người.

Ví dụ, Ghê-đê-ôn thật sự không phải là người giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân

Ma-đi-an. Anh hùng thật là Đức Chúa Trời. Nếu Ghê-đê-ôn yếu đuối, sợ hãi và chậm chạp, điều

đó dạy cho chúng ta điều gì về Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời có chọn những con người yếu

đuối không? Dĩ nhiên có! Đức Chúa Trời có kiên nhẫn với những đầy tớ yếu đuối không? Chắc

chắn có. Vì vậy, đừng đánh mất Đức Chúa Trời trong chuyện kể. Xem Ngài là nhân vật chính

trong câu chuyện. Hãy phân tích hành động và lời nói của Ngài. Để cho cảm xúc và lý trí tự do

hành động.

Điều này dẫn chúng ta đến một điểm quan trọng khác. Hãy để Đức Chúa Trời là Đức

Chúa Trời. Nhiều lần chúng ta tìm cách để hệ thống hóa Đức Chúa Trời. Chúng ta đặt Ngài vào

những phạm trù thần học hay triết học (Đức Chúa Trời là đấng toàn năng, toàn tri và toàn tại…).

Chắc chắn những giáo lý này đúng nhưng chúng là những ý tưởng trừu tượng và nếu chúng

không được cân bằng với những khía cạnh cá nhân của Đức Chúa Trời, chúng có khuynh hướng

tách chúng ta khỏi Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không cẩn thận, Đức Chúa Trời sẽ trở nên bản

thể trừu tượng, vô tri và xa cách đối với chúng ta. Những câu chuyện trong Cựu Ước không chấp

nhận quan điểm này về Đức Chúa Trời. Chúa không phải là điều gì đó trừu tượng mà chúng ta

Page 212: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

209

cảm nhận, nhưng là một đấng đang nói, liên hệ, đói, đau, đổi ý, biện luận và yêu. Ngài liên hệ

với con người trên mức độ con người nhưng Ngài tiếp tục nhiều hơn chúng ta, vẫn ở trên chúng

ta. Ngài là anh hùng của câu chuyện.

Nhiều Cơ Đốc Nhân đến với các câu chuyện trong Cựu ước với Đức Chúa Trời trong

cái hộp thần học nhỏ bé. Dầu vậy, khi họ đọc cẩn thận, họ thường kinh ngạc qua thái độ của

Ngài vì Ngài không hành động theo định kiến của họ về Ngài. Ví dụ trong Xuất Ê -díp-tô Ký

32:10 sau sự việc đúc con bò vàng, Đức Chúa Trời phán với Môi-se: “bây giờ hãy để mặc ta làm,

hầu cho cơn thạnh nộ ta nổi lên cùng chúng nó, diệt chúng nó đi.” Trong ba câu tiếp theo, Môi-se

biện luận với Chúa và thuyết phục Ngài đổi ý. Xuất Ê -díp-tô Ký 32:14 ghi lại kết quả: “Đức

Giê-hô-va bèn bỏ qua điều tai họa mà Ngài nói rằng sẽ giáng cho dân mình”. Làm sao chúng ta

có thể giải quyết đoạn Kinh Thánh này? Làm sao Đức Chúa Trời, Đấng nhìn thấy mọi điều và

biết mọi điều lại đổi ý?

Chúng tôi đề nghị bạn hãy để Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời. Ngài đã chọn để bày

tỏ chính mình Ngài cho chúng ta qua những chuyện kể này. Rõ ràng có những khía cạnh về bản

chất và đặc tính của Ngài mà Ngài muốn chuyển tải đến chúng ta qua những câu chuyện này.

Khi chúng ta đọc trong Cựu Ước, đừng cố gắng giải thích hết những điều này. Đem chúng đến

trước mặt và nghiên cứu chúng cẩn thận để thấy những chuyện kể này bày tỏ cho chúng điều gì

về nhân vật Đức Chúa Trời. Đừng cố đóng khung Đức Chúa Trời.

Chúng tôi thấy rằng thật khó để giữ Đức Chúa Trời trong cái hộp nếu bạn đọc nhiều

câu chuyện Cựu Ước. Ngài sẽ phá vỡ cái hộp và không chịu bị giới hạn trong một cách đơn giản

như vậy. Nếu con người trong cuộc đời thật là những nhân vật phức tạp rồi làm sao Đức Chúa

Trời không phức tạp hơn chứ! Tuy nhiên, Đức Chúa Trời phức tạp này chọn liên hệ với chúng ta

một cách riêng tư và tỏ bày tính cách của Ngài cho chúng ta qua những đoạn Kinh Thánh này.

Nếu mục đích của chúng ta thật sự để biết Đức Chúa Trời, điều bắt buộc là chúng ta tìm cách

nghe những gì Ngài đang cố phán với chúng ta về chính Ngài trong những đoạn Kinh Thánh kể

chuyện này.

Kết Luận

Tất cả những tài liệu trên sẽ giúp chúng ta khi chúng ta thực hiện Hành Trình Giải

Kinh. Chúng ta hãy cùng ôn lại những bước của hành trình này trong chuyện kể Cựu Ước.

Chúng ta sẽ dùng câu chuyện Ra-háp và A-can để minh họa (Giô. 2:1-24;7:1-2).

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối

với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Dùng hết khả năng quan sát của bạn để đọc kỹ đoạn Kinh Thánh này. Để ý đến tất cả chi

tiết. Tìm nhưng kết nối. Phân tích bối cảnh lịch sử và văn chương. Phải chắc là bạn nhận thấy

Page 213: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

210

được câu chuyện tổng thể trong sách mà bạn đang đọc và cố gắng đặt câu chuyện của bạn vào

câu chuyện lớn hơn. Viết một câu về ý nghĩa của bản văn đối với độc giả thời Kinh Thánh.

Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Ra-háp, gái mại dâm người Ca-na-an đối lập với A-

can, người Y-sơ-ra-ên. Cô ta tin cậy Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên hết lòng, kết quả là cô

ta và gia đình cô ta được giải cứu khỏi sự sụy đổ của thành Giê-ri-cô. Tuy nhiên, A-can khinh

thường Đức Chúa Trời và mạng lịnh nghiêm khắc của Ngài, kết quả là ông và cả gia đình ông

phải chết.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh

Thánh với chúng ta?

Nhận ra sự khác biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta. Phải bảo đảm nhớ sự

thay đổi trong giao ước (chúng ta không còn ở dưới luật pháp). Những khác biệt khác mà bạn có

thể gặp có lẽ liên quan đến vùng đất, sự chinh phục xứ Ca-na-an, các của lễ và cuộc nói chuyện

trực tiếp với Đức Chúa Trời.

Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Chúng ta đang ở dưới một giao ước khác với của A-

can. Hoàn cảnh của chúng ta cũng khác. Chúng ta không ở trong Cuộc Chinh Phục và chúng ta

cũng không liên quan đến bất cứ loại thánh chiến theo nghĩa đen nào. Chúng ta không phải là

người Ca-na-an (hay là gái mại dâm) đang sống trong một thành phố sắp bị đánh chiếm. Đức

Chúa Trời không ban cho chúng ta cùng mạng lịnh như cho A-can.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Nhận ra những điểm tương đồng giữa hoàn cảnh của độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta.

Tìm những nguyên tắc thần học liên quan để cả hai nhưng phải từ trong bản văn. Đừng cố phúng

dụ hóa! Đừng bỏ qua ý nghĩa của Cựu Ước và đơn giản nhảy thẳng vào Tân Ước. Nhớ những chỉ

dẫn về việc phát triển những nguyên tắc thần học mà chúng ta thảo luận ở trên:

Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.

Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.

Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.

Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Đức Chúa Trời nhìn thấy những hành động trong

quá khứ của chúng ta và Ngài cứu những người đặt niềm tin của mình vào nơi Ngài một cách rất

đặc biệt. Điều này có thể xảy ra bởi vì sự giải cứu được dựa trên đức tin thật (được minh chứng

qua hành động) chứ không phải vẻ ngoài như dòng dõi hay truyền thống tôn giáo. Đức Chúa

Trời là Đức Chúa Trời của ân điển. Nhưng sự phán xét đến trên những người khinh thường Đức

Chúa Trời và đối xử với Ngài như thể Ngài không hiện hữu.

Page 214: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

211

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Sự dạy dỗ trong Tân Ước có hỗ trợ cho nguyên tắc này hay

không, và nếu có thì như thế nào?

Cố gắng xác định thử Tân Ước có nói đến những vấn đề nêu ra trong bản văn hay không.

Tân Ước có ủng hộ nguyên tắc thần học đó hay không hay nó có làm cho nguyên tắc đó cụ thể

hơn không? Đừng bỏ qua Cựu Ước trong bước này. Chúng ta cũng vẫn đang nắm bắt ý nghĩa

trong Cựu Ước đã được chủ định của tác giả. Chúng ta đang tìm cách để xác định ý nghĩa đó có

vai trò gì trong bối cảnh Tân Ước. Ý nghĩa mà chúng ta xác định trong bước này sẽ có thể áp

dụng cho bất cứ tín hữn Tân Ước nào.

Trong câu chuyện về Ra-háp và A-can: Tân Ước tái khẳng định rằng Đức Chúa Trời

không coi trọng vẻ ngoài nhưng cứu con người dựa trên đức tin vào Chúa Giê-xu. Việc Đức

Chúa Trời chọn một số người bất thường như thế này được tái khẳng định trong Tân Ước. Chỉ có

quan hệ với Hội Thánh mà không có đức tin thật thì sẽ không được cứu.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Càng cụ thể càng tốt. Phải nhớ rằng có nhiều áp dụng riêng biệt cho những nguyên tắc

thần học.

Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Chúng ta có khuynh hướng phán xét con người dựa

vào vẻ bề ngoài. Chúng ta gặp một người có địa vị cao mà tin Chúa thì chúng ta ngưỡng mộ vì

đức tin của họ. Tương tự, khi chúng ta gặp một người mà đã từng liên hệ với những hoạt động

tội lỗi (nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc, trộm cắp…), chúng ta thường có khuynh hướng khinh

thường và cho rằng họ không bao giờ tin Chúa được. Đây là điều sai lầm vì Đức Chúa Trời

mong muốn cứu những con người bất bình thường nhất. Ngài muốn chúng ta có cùng thái độ đối

với những con người như thế này.

Page 215: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

212

Chương 18

Cựu Ước – Luật Pháp

Lời Giới Thiệu

Một phần lớn của Ngũ Kinh là luật pháp. Thật sự có sáu trăm mạng lịnh trong những

sách này. Chúng ta tìm thấy tài liệu pháp lý này hầu hết trong sách Lê-vi Ký và Phục Truyền

Luật Lệ Ký. Cũng như nửa sách Xuất Ê -díp-tô Ký cùng với một phần của Dân Số Ký trình bày

nhiều loại luật khác nhau mà Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Rõ ràng, những luật

pháp này là quan trọng. Nhưng nhiều luật dường như xa lạ với chúng ta. Chúng ta cùng xem

những luật sau:

Xuât Ê -díp-tô Ký 34:26: “Ngươi chớ nấu thịt dê con trong sữa mẹ nó”.

Lê-vi Ký 19:19: “chớ mặc mình bằng áo dệt nhiều thứ chỉ”.

Lê-vi Ký 12:2: “Khi nào một người đàn bà thọ thai và sanh một con trai, thì phải bị ô uế trong bảy

ngày, như trong kỳ kinh nguyệt”.

Lê-vi Ký 13:40: “Khi một người nào đầu rụng tóc, ấy là một người sói đầu: người vẫn tinh sạch”.

Phục-truyền luật-lệ Ký 22:12: “Ngươi phải kết tua nơi bốn chéo áo choàng của mình mặc”.

Hơn nữa, có nhiều luật trong Cựu ước mà chúng ta, là những Cơ Đốc Nhân hiện đại,

thường hay vi phạm. Cái nào sau đây mà bạn thường hay phạm?

Phục-truyền luật-lệ Ký 22:5: “Người nữ không phép mặc quần áo của người nam, và

người nam cũng chẳng được mặc quần áo của người nữ.”

Lê-vi Ký 19:32: “Trước mặt người tóc bạc, ngươi hãy đứng dậy”.

Lê-vi Ký 19:28: “chớ xăm vẽ trên mình”.

Phục-truyền luật-lệ Ký 14:8: “Con heo cũng vậy; vì nó có móng rẽ ra, nhưng không

nhơi: phải cầm nó là không sạch cho các ngươi. Chớ ăn thịt của các con vật đó, và chớ

đụng đến xác chết chúng nó.”

Trong khi chúng ta bỏ qua những luật như vậy, có những luật Cựu Ước khác mà

chúng ta phải giữ như là hành vi Cơ Đốc:

Lê-vi Ký 19:18: “hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình”.

Xuất Ê -díp-tô Ký 20:13: “Ngươi chớ giết người”.

Page 216: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

213

Phục-truyền luật-lệ Ký 5:18: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm”.

Do đó, tại sao chúng ta giữ một số luật mà bỏ những luật khác? Luật nào thích hợp

còn luật nào là không thích hợp? Nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay khó xử trong vấn đề giải nghĩa

luật pháp. Một số chúng ta đọc qua những đoạn luật pháp và bỏ qua những luật dường như

không thể áp dụng với chúng ta. Đây là những luật mà chính chúng ta bỏ qua. Nhưng khi chúng

ta gặp một luật dường như có ý nghĩa với thế giới ngày nay, chúng ta nắm lấy nó, gạch dưới và

sử dụng nó như là một hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Chắc chắn hướng giải kinh như vậy

là không thích hợp. Nhưng chúng ta nên giải nghĩa luật pháp như thế nào?

Trong chương này bạn sẽ học một hướng thống nhất để giải nghĩa luật pháp Cựu ước.

Trước hết chúng ta xem xét vài hướng truyền thống phổ biến mà chúng ta xem như không hợp lý.

Sau đó chúng tôi sẽ trình bày phương pháp mà chúng tôi cảm thấy hợp lý nhất cho việc giải

nghĩa luật pháp. Như một phần của hướng gợi ý của chúng tôi, chúng ta trước hết sẽ khai phá bối

cảnh của giao ước và chuyện kể của tài liệu pháp lý Cựu Ước và thảo luận những ứng dụng của

bối cảnh đó cho việc giải kinh. Cuối cùng chúng ta áp dụng Hành Trình Giải Kinh vào công tác

giải nghĩa luật pháp. Rồi chúng ta sẽ cùng tham khảo vài ví dụ.

Hướng Giải Kinh Truyền Thống

Trãi qua nhiều năm, hướng giải nghĩa luật pháp Cựu ước truyền thống nhấn mạnh sự

khác biệt giữa những luật đạo đức, dân sự và lễ nghi. Luật đạo đức là những luật liên quan đến

những lẽ thật vượt thời gian về dự định của Đức Chúa Trời cho cách đối xử của con người. “Hãy

yêu người lân cận như mình” là một ví dụ về luật đạo đức. Luật dân sự là những luật mô tả

những khía cạnh mà chúng ta thường thấy trong hệ thống luật pháp của một đất nước. Những

luật này liên quan đến tòa án, kinh tế, đất đai, hình sự và sự hình phạt. Một ví dụ cho luật dân sự

có thể được tìm thấy trong Phục truyền 5:1: “cuối năm thứ bảy ngươi phải xóa hết nợ”. Luật lễ

nghi là những luật liên quan đến việc tế lễ, kỳ lễ và những hoạt động của thầy tế lễ. Ví dụ, Phục

truyền 16:13 dạy cho dân Y-sơ-ra-ên: “Khi ngươi đã thâu huê lợi của sân đạp lúa và hầm rượu

mình rồi, thì phải giữ lễ lều tạm trong bảy ngày”.

Theo hướng này, phân biệt giữa các luật đạo đức, dân sự và tế lễ là vô cùng quan

trọng bởi vì khi nhận ra được thì mới biết cái nào áp dụng cho cái nào. Luật đạo đức là phổ

thông và vượt thời gian. Chúng vẫn được áp dụng cho tín hữu Cơ Đốc ngày nay. Hệ thống này

rất hữu ích cho nhiều người, giúp cho một phương pháp mà qua đó những đoạn Kinh Thánh như:

“yêu người lân cận như mình” có thể được công bố như là luật cho Cơ Đốc nhân trong khi tất cả

những phân đoạn Kinh Thánh liên quan đến những tế lễ và hình phạt có thể bỏ qua.

Dầu vậy, trong những năm gần đây, nhiều Cơ Đốc Nhân không cảm thấy thỏa mái

lắm với hướng này. Trước hết, những sự phân biệt giữa những luật đạo đức, dân sự và lễ nghi rất

võ đoán. Không có sự phân biệt như vậy trong Kinh Thánh. Ví dụ, “yêu người lân cận như mình”

(Lê-vi Ký 19:18) đứng ngay trước câu khác với một loại luật khác: “Ngươi chớ mặc áo với hai

Page 217: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

214

màu chỉ” (19:19). Chúng ta xem câu 18 có thể áp dụng cho chúng ta nhưng bỏ câu 19 vì nó

không áp dụng cho chúng ta sao? Đoạn Kinh Thánh này không xác định được điểm thay đổi giữa

hai câu này.

Hơn nữa, thật khó xác định được luật nào ở trong phạm trù đạo đức còn luật nào ở

trong những phạm trù khác. Vì luật xác định mối quan hệ giao ước giữa Đức Chúa Trời và dân

Y-sơ-ra-ên nên bản chất của luật pháp là mang tính thần học. Tất cả các luật đều có nội dung

thần học. Câu hỏi được đặt ra là: “Một luật có thể là một luật thần học nhưng không phải là một

luật đạo đức?”.

Ví dụ, xem mạng lịnh trong Lê-vi Ký 19:19: “Các ngươi hãy giữ những mạng lịnh ta.

Chớ để loài vật khác giống phủ lẫn nhau; chớ gieo ruộng ngươi hai thứ giống, và chớ mặc mình

bằng áo dệt nhiều thứ chỉ.” Một trong những chủ đề trọng tâm xuyên suốt sách Lê-vi Ký là sự

thánh khiết của Đức Chúa Trời. Phần của chủ đề này là lời dạy rằng những điều thánh phải phân

rẽ với những điều phàm tục và phổ thông. Trong khi chúng ta không hiểu hết được những sắc

thái của mạng lịnh này chống lại với việc trộn lẫn những chất liệu của vải hay trộn lẫn hạt giống,

chúng ta biết rằng nó liên quan đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Thực sự, tất cả các luật

liên quan đến sự phân rẽ đều liên hệ đến nguyên tắc chung về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời

và sự phân rẽ. Vì vậy loại luật nào trong Lê-vi Ký 19:19? Luật dân sự? Không phải vậy. Nó

không liên quan đến nhu cầu của xã hội. Luật tế lễ? Có thể, dầu luật này không áp dụng cho các

tế lễ. Cách mà dân Y-sơ-ra-ên gieo hạt giống và cách họ may quần áo có tầm quan trọng thần

học cho việc đó. Tại sao luật này không thể là luật đạo đức?

Một ví dụ khác của một luật khó phân loại với hệ thống trên là Dân-số Ký 5:11-28:

11 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: 12 Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên rằng:

Nếu một người đàn bà lỗi đạo và phạm tội bất chánh cùng chồng, 13 nếu có một người

nam gian dâm cùng nàng mà việc nhẹm khuất mắt chồng; nếu nàng bị ô uế kín nhiệm,

không có chứng cớ đối cùng nàng, và nàng không bị bắt tại trận; 14 nếu tánh ghen phát

nơi người chồng ghen vợ mình, hoặc đã thật bị ô uế, hoặc không có bị ô uế, 15 thì

người nầy phải dẫn vợ mình đến trước mặt thầy tế lễ, và vì nàng đem theo một phần

mười ê-pha bột mạch nha dùng làm của tế lễ. Người chớ nên chế dầu vào, và cũng

chẳng nên bỏ nhũ hương lên trên, vì là một của lễ chay về sự ghen tương, một của lễ

chay kỷ niệm đặng nhắc tội gian ác. 16 Thầy tế lễ sẽ biểu người nữ đến gần, đứng

trước mặt Đức Giê-hô-va. 17 Kế đó thầy tế lễ lấy nước thánh đổ vào chậu đất, hốt bụi

ở trên đất của đền tạm mà bỏ trong nước. 18 Đoạn, thầy tế lễ phải biểu người nữ đứng

trước mặt Đức Giê-hô-va, lột trần đầu nàng, để của lễ kỷ niệm trên lòng bàn tay nàng,

nghĩa là của lễ chay về sự ghen tương; và thầy tế lễ phải có nước đắng giáng rủa sả

trong tay mình. 19 Thầy tế lễ phải bắt người nữ thề, và nói cùng nàng rằng: Nếu chẳng

một người nam nào nằm cùng ngươi, và nếu đang dưới quyền chồng ngươi không có

lỗi đạo và không bị ô uế, thì chẳng phải mắc một điều hại nào của nước đắng giáng rủa

Page 218: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

215

sả nầy. 20 Còn nếu đang dưới quyền chồng, mà ngươi lỗi đạo; nếu ngươi bị ô uế, và

nếu một người nào khác hơn chồng đã nằm cùng ngươi 21 bấy giờ thầy tế lễ phải bắt

người nữ lấy một lời thề trù ẻo mà thề, và nói cùng nàng rằng: Cầu Đức Giê-hô-va

khiến cho ngươi trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa vòng dân sự ngươi, làm cho

ngươi ốm lòi hông và phình bụng lên; 22 nước đắng giáng rủa sả nầy khá chun vào

ruột gan làm cho bụng ngươi phình lên và ốm lòi hông. Người nữ sẽ nói rằng: A-men,

a-men! 23 Kế đó, thầy tế lễ phải viết các lời trù ẻo nầy trong một cuốn sách, rồi lấy

nước đắng bôi đi. 24 Thầy tế lễ sẽ biểu người nữ uống nước đắng giáng rủa sả, nước

đắng giáng rủa sả sẽ vào trong mình nàng đặng làm cay đắng cho nàng. 25 Đoạn, thầy

tế lễ sẽ lấy khỏi tay người nữ của lễ chay về sự ghen tương, đưa qua đưa lại trước mặt

Đức Giê-hô-va và dâng lên trên bàn thờ. 26 Rồi lấy một nắm của lễ chay kỷ niệm và

xông trên bàn thờ; kế biểu người nữ uống nước đắng. 27 Vả, khi nào thầy tế lễ biểu

người uống nước đắng rồi, nếu quả người có bị ô uế phạm tội bất chánh cùng chồng

mình, thì nước đắng giáng rủa sả sẽ vào mình làm cay đắng cho nàng, bụng nàng sẽ

phình lên, hông nàng ốm lòi, và người nữ nầy sẽ làm một mầm rủa sả giữa vòng dân sự

mình. 28 Còn nếu người nữ không bị ô uế, vẫn thanh sạch, thì nàng sẽ chẳng bị một

điều hại nào, và sẽ sanh con.

Đoạn Kinh Thánh này mô tả một người phụ nữ bị nghi ngờ phạm tội tà dâm bị thầy tế

lễ xử như thế nào. Chắc chắn phạm tội tà dâm là một vấn đề đạo đức. Luật này có phổ thông và

vượt thời gian cho chúng ta không? Để xác định người đó có tội hay vô tội, thầy tế lễ bắt người

phụ nữ đó uống một loại nước đắng. Nếu cô ta bị bịnh, là cô ta có tội. Nếu cô ta không bị bịnh,

cô ta vô tội. Điều này có thể được áp dụng cho chúng ta ngày nay không?

Theo ý của chúng tôi, hướng giải nghĩa này quá mơ hồ và không thống nhất. Chúng

ta đơn giản không nhìn thấy rõ sự phân biệt trong Kinh Thánh giữa những phạm trù luật khác

nhau này. Sự mơ hồ trong sự phân biệt này khiến cho chúng ta cảm thấy không thoải mái về cách

dùng một sự phân biệt để xác định cái nào là luật đặc biệt cần phải vâng lời và cái nào phải bỏ

qua. Chúng ta thấy việc bỏ qua cái gọi là luật dân sự hay tế lễ như là điều không thể áp dụng

được là không hợp lý. Cả Kinh Thánh đều có thể áp dụng được cho các tín hữu thời Tân Ước.

Do đó, chúng tôi cho rằng phương pháp tốt nhất để giải nghĩa luật pháp là phương

pháp mà được áp dụng thống nhất với tất cả các đoạn Kinh thánh về luật. Đó là cách không tạo

nên những sự phân biệt võ đoán không có bối cảnh giữa các câu và sự áp dụng của chúng.

Hướng giải nghĩa luật pháp truyền thống chắc chắn sẽ tiếp tục là một phương pháp tiêu chuẩn

cho nhiều Cơ Đốc Nhân. Đó là một phương pháp đi cùng với lịch sử và một phương pháp mà

chúng ta tôn trọng. Tuy nhiên, trong những chương tiếp theo, chúng tôi đề nghị một phương

pháp giải nghĩa luật pháp thay thế - một phương pháp có thể giúp chúng ta thống nhất trong việc

học và áp dụng luật Cựu Ước.

Page 219: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

216

Bối Cảnh Chuyện Kể

Tài liệu luật pháp của Cựu Ước không tách biệt với phần còn lại của Kinh Thánh.

Luật Cựu Ước khác với cách trình bày của các sách Thơ ca như Châm ngôn. Sách Châm ngôn có

phần tách biệt với những phần Kinh Thánh khác. Nó không liên kết với một câu chuyện. Có vài

kết nối lịch sử nhưng không rõ ràng dù nó vẫn đứng trong sự liên hệ thần học chung.

Ngược lại, luật Cựu ước dính chặt với câu chuyện lịch sử thần học của dân Y-sơ-ra-

ên. Đó là phần chuyện kể chạy từ Sáng Thế Ký 12 đến II Các Vua 25. Luật pháp không được

trình bày như là một nguyên tắc vượt thời gian phổ thông. Nhưng nó được trình bày như là phần

của chuyện kể thần học mô tả cách Đức Chúa Trời giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập và lập họ

là dân của Ngài trong Đất hứa.

Điều này luôn đúng với từng sách có chứa những yếu tố của luật pháp Cựu Ước. Ví

dụ, tài liệu luật pháp chính trong Xuất Ê -díp-tô Ký nằm trong Xuất Ê -díp-tô Ký 20-23. Phần này

cũng bao gồm Mười Điều Răn. Nhưng chú ý đến bối cảnh chuyện kể. Mười chín đoạn đầu của

sách Xuất Ê -díp-tô Ký kể về sự nô lệ của dân Y-sơ-ra-ên tại Ai-cập và họ được Đức Chúa Trời

giải cứu thần kỳ. Nó cũng mô tả Môi-se được kêu gọi và gặp Pha-ra-ôn. Nó cũng trình bày câu

chuyện về những tai vạ trên dân Ai-cập và sự chết con đầu lòng. Tiếp theo Môi-se dẫn dân Y-sơ-

ra-ên ra khỏi Ai-cập và vượt qua Biển Đỏ. Sau đó sách Xuât Ê-díp-tô ký tiếp tục mô tả hành

trình trong sa mạc cho đến đoạn19, dân Y-sơ-ra-ên đến Núi Si-na-i. Tại đó Đức Chúa Trời kêu

gọi vào mối quan hệ giao ước.

Mười Điều Răn trong Xuất Ê -díp-tô Ký 20 và những luật tiếp theo (Xuất Ê -díp-tô Ký

21-23) là phần của câu chuyện này. Đoạn Kinh Thánh này liên kết với câu chuyện Đức Chúa

Trời gặp Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i. Ví dụ, để ý rằng Mười Điều răn được liệt kê

trong Xuất 20:1-17, liền theo đó là chuyện kể trong câu 18: “cả dân sự nghe sấm vang, tiếng kèn

thổi, thấy chớp nhoáng, núi ra khói, thì run rẩy và đứng cách tận xa.” Tương tự, Đức Chúa Trời

ban nhiều luật khác cho dân Y-sơ-ra-ên trong Xuất. 21-23 nhưng chúng cũng là phần của chuyện

kể. Chúng là phần của cuộc hội thoại giữa Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên, qua Môi-se là

người trung gian. Để ý đến phản ứng của dân chúng trong Xuất. 24:3 khi Đức Chúa Trời ban luật

pháp: “Môi-se bèn đến thuật lại cho dân sự mọi lời phán của Đức Giê-hô-va và các luật lệ, thì

chúng đồng thinh đáp rằng: Chúng tôi sẽ làm mọi lời Đức Giê-hô-va phán dạy”.

Tương tự sách Lê-vi ký cũng trình bày những câu chuyện giữa Đức Chúa Trời và dân

sự tại Núi Si-na-i (Lê-vi Ký 26:46;27:34). Những luật trong Lê-vi ký được trình bày như là phần

của cuộc hội thoại giữa Đức Chúa Trời và Môi-se. Hội thoại là một đặc điểm chuẩn của chuyện

kể. Sách này bắt đầu: “Đức Giê-hô-va từ trong hội mạc gọi Môi-se” (1:1). Từ “Đức Giê-hô-va

gọi Môi-se” xảy ra nhiều lần xuyên suốt sách này. Hơn nữa, sách Lê-vi Ký gồm nhiều ngữ theo

thứ tự thời gian, xác định một sự chuyển biến theo thời gian của một câu chuyện, một đặc điểm

khác của chuyện kể:

Page 220: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

217

“Môi-se lấy…” (8:10)

“Người biểu…” (8:14)

“Đoạn, Môi-se nói…” (8:31)

“Qua ngày thứ tám, Môi-se gọi…”(9:1)

“A-rôn bèn lại gần bàn thờ…” (9:8)

“Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giê-hô-va lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết…” (10:2)

“Sau khi hai con trai của A-rôn chết trong lúc đến gần trước mặt Đức Giê-hô-va, thì

Ngài phán cùng Môi-se…” (16:1)

Sách Dân số ký lại kể chuyện vào năm thứ hai sau khi ra khỏi Ai-cập (Dân-số Ký 1:1)

và mô tả hành trình của dân Y-sơ-ra-ên đi lang thang trong bốn mươi năm tiếp theo (33:38).

Trọng tâm của sách này là sự từ chối vào Đất Hứa của dân Y-sơ-ra-ên trong chương 13-14. Kết

quả của sự bất tuân này là bốn mươi năm lang thang mà sách này ghi lại. Ở những thời điểm

khác nhau, Đức Chúa Trời đã ban thêm luật cho dân Y-sơ-ra-ên. Giống như trong Xuất Ê -díp-tô

ký và Lê-vi ký, những luật trong Dân số ký liên hệ chặt chẽ với tư liệu chuyện kể.

Bối cảnh chuyện kể trong sách Phục truyền là vào tháng thứ mười một của năm thứ

bốn mươi sau khi ra khỏi Ai-cập (Phục-truyền luật-lệ Ký 1:3), chỉ trước khi bước vào xứ Ca-na-

an. Vị trí cũng được xác định – ngay phía đông của sông Giô-đanh (1:1,5). Trong tổng thể của

câu chuyện, dân Y-sơ-ra-ên hoàn tất bốn mươi năm lang thang mà Đức Chúa Trời đã định để

hình phạt họ vì từ chối vào đất hứa. Một thế hệ mới được lớn lên và Đức Chúa Trời tái xác định

giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ họ bốn mươi năm trước (trong Xuất Ê -díp-tô Ký).

Sách Phục truyền chứa đựng hầu hết một loạt bài giảng mà Môi-se thay mặt Đức

Chúa Trời giảng cho dân Y-sơ-ra-ên. Những bài giảng này liên hệ với chuyện kể vì chúng được

giảng trong cùng thời gian và không gian và chúng có một người giảng nhất định và thính giả

nhất định. Cả hai điều này là nhân vật chính trong toàn bộ câu chuyện. Hơn nữa, cuối của sách

này là một tài liệu không phải luật pháp: chỉ định Giô-suê làm lãnh đạo (31:1-8), bài ca của Môi-

se (32:1-47), lời chúc phước của Môi-se trên các chi phái (33:1-29) và sự chết của Môi-se (34:1-

12). Những sự kiện này cũng được trình bày theo dạng chuyện kể. Hơn nữa, những sự kiện trong

Phục truyền chảy thẳng vào sách Giô-suê mà không bị gián đoạn.

Do đó, luật pháp Cựu ước gắn liền với câu chuyện ra khỏi Ai-cập, lang thang và

chinh phục của dân Y-sơ-ra-ên. Hướng giải nghĩa luật pháp của chúng ta phải sử dụng hình thức

chuyện kể này. Hãy nhớ lại tầm quan trọng của bối cảnh mà bạn đã học trong chương 6 và 7.

Luật pháp là phần của một câu chuyện và câu chuyện này cung cấp một bối cảnh quan trọng để

Page 221: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

218

giải nghĩa luật pháp. Thực chất, phương pháp giải nghĩa luật pháp Cựu Ước tương tự với phương

pháp giải nghĩa chuyện kể Cựu Ước vì luật pháp là một phần của chuyện kể.

Bối Cảnh Giao Ước

Đức Chúa Trời giới thiệu luật pháp trong một bối cảnh giao ước: “Vậy, bây giờ, nếu

các ngươi vâng lời ta và giữ sự giao ước ta, thì trong muôn dân, các ngươi sẽ thuộc riêng về ta”

(Xuất Ê -díp-tô Ký 19:5). Dân sự chấp nhận giao ước (24:3) và Môi-se đóng dấu thỏa thuận này

bằng huyết: “Môi-se bèn lấy huyết rưới trên mình dân sự mà nói rằng: Đây là huyết giao ước của

Đức Giê-hô-va đã lập cùng các ngươi y theo mọi lời nầy” (24:8).

Phần của giao ước này là lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.

Điều này được nhấn mạnh nhiều lần trong nửa sau của sách Xuất Ê -díp-tô Ký (25:8;29:45;34:14-

17;40:34-38). Tiếp theo là lời chỉ dẫn của Chúa để làm hòm giao ước và đền tạm, nơi Chúa ngự

(25-31;35-40). Sách Lê-vi ký là chuỗi tự nhiên của phần nửa sau của sách Xuất Ê -díp-tô vì nó

nói đến cách dân Y-sơ-ra-ên sẽ sống với Đức Chúa Trời. Họ đến với Ngài bằng cách nào? Họ

phải giải quyết tội lỗi cá nhân và đất nước trước một Đức Chúa Trời thánh đang sống giữa họ

làm sao? Họ thờ phượng và tương giao với Đức Chúa Trời thánh như thế nào? Sách Lê-vi Ký trả

lời cho những câu hỏi này và cung cấp những chỉ dẫn thực tế về cách sống với Đức Chúa Trời

dưới dạng giao ước của Môi-se.

Sau khi dân Y-sơ-ra-ên bất tuân Đức Chúa Trời, từ chối vào Đất Hứa (Dân-số Ký 13-

14), Đức Chúa Trời dẫn họ đi lòng vòng ba mươi tám năm hầu cho thế hệ bất tuân này phải chết

đi. Sau đó Ngài dẫn dân sự trở lại Ca-na-an. Dầu vậy, trước khi họ vào, Ngài làm mới lại giao

ước. Với thế hệ mới, trẻ này, Ngài nhắc lại giao ước mà Ngài đã lập với tổ phục họ trong sách

Xuất Ê -díp-tô ký. Việc này được thực hiện trước khi họ tiến vào Đất Hứa. Thực sự, trong Phục

truyền, Đức Chúa Trời giải thích và ban nhiều chi tiết hơn về giao ước so với giao ước trong

Xuất Ê -díp- tô Ký. Phục truyền mô tả chi tiết cách họ sống thành công trong Đất Hứa và cách để

được Đức Chúa Trời ban phước.

Vì luật pháp Cựu Ước có liên hệ chặt chẽ với giao ước Môi-se nên cần phải học biết

bản chất của giao ước này. (1) Giao ước Môi-se liên quan đến cuộc chinh phục và đất hứa của

dân Y-sơ-ra-ên. Giao ước qui định thế nào dân Y-sơ-ra-ên có thể chiếm lấy đất hứa và sống thịnh

vượng với Đức Chúa Trời trong Đất Hứa. Sự liên kết chặt chẽ giữa giao ước và đất hứa được

nhấn mạnh nhiều lần trong Phục truyền (4:1,5,14,40; 5:16;6:1,18,20-25;8:1;11:8;12:1;15:4-

5;26:1-2;27:1-3;30:5,17-18; 31:13).

(2) Những phước hạnh từ giao ước Môi-se đều có điều kiện. Một lời cảnh cáo liên tục

xuyên suốt sách Phục truyền, giải thích cho dân Y-sơ-ra-ên rằng vâng phục giao ước sẽ đem đến

phước hạnh nhưng bất tuân giao ước sẽ bị hình phạt và rủa sả. Phục. 28 đặc biệt nói rõ điều này:

câu 1-14 ghi lại danh sách của phước hạnh dành cho dân Y-sơ-ra-ên nếu họ vâng theo giao ước

(luật pháp) trong khi câu 15-68 cũng liệt kê những hậu quả kinh khiếp nếu họ bất tuân giao ước.

Page 222: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

219

Liên hệ giữa giao ước với đất hứa và khía cạnh phước hạnh có điều kiện của giao ước được liên

kết chặt chẽ với nhau. Xem Phục truyền 30:15-18:

15 Hãy xem, ngày nay ta đặt trước mặt ngươi sự sống và phước lành, sự chết và tai

họa, 16 vì ngày nay, ta bảo ngươi thương mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đi

trong các đường lối Ngài, và gìn giữ những điều răn luật lệ và mạng lịnh Ngài, để

ngươi sống, gia thêm, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban phước cho ngươi trong

xứ mà ngươi sẽ vào nhận lấy. 17 Nhưng nếu lòng ngươi xây trở, không khứng nghe

theo, chịu dụ dỗ thờ lạy và hầu việc các thần khác, 18 thì ngày nay ta tỏ cùng các

ngươi rằng các ngươi hẳn phải tuyệt diệt, không được sống lâu trên đất mà ngươi sẽ đi

qua sông Giô-đanh đặng nhận lấy.

(3) Giao ước Môi-se không còn là một giao ước chức năng. Tín hữu Tân ước không

còn ở dưới giao ước cũ của Môi-se nữa. Hê-bơ-rơ 8-9 khẳng định rõ rằng Chúa Giê-xu đến làm

một đấng trung gian của giao ước mới thay thế giao ước cũ. “Gọi ước đó là mới, thì đã xưng ước

trước là cũ; vả, điều chi đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi” (Hê-bơ-rơ 8:13). Luật pháp Cựu Ước

trình bày những qui định nhờ đó dân Y-sơ-ra-ên nhận được phước hạnh trong đất hứa dưới giao

ước cũ (Môi-se). Nếu giao ước cũ không còn thích hợp thì làm sao luật pháp lập nên giao ước đó

có thể thích hợp? Nếu giao ước cũ bị bỏ, chúng ta cũng xem hệ thống của luật pháp chứa giao

ước đó cũng bị bỏ sao?

(4) Luật pháp Cựu Ước như là một phần của giao ước Môi-se không thể áp dụng trên

chúng ta như là luật nữa. Phao-lô cho biết rõ rằng Cơ Đốc Nhân không còn ở dưới luật pháp

Cựu Ước nữa. Ví dụ trong Ga-la-ti 2:15-16 ông viết: “Về phần chúng tôi, thì sanh ra là người

Giu-đa, không phải là kẻ có tội từ trong dân ngoại. Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng

công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ,

nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong

Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc

luật pháp”. Trong Rô-ma 7:4, Phao lô nói: “Hỡi anh em ta, anh em cũng như vậy, bởi thân thể

của Đấng Christ, anh em đã chết về luật pháp, đặng thuộc về người khác, tức là người đã từ kẻ

chết sống lại, hầu cho chúng ta được kết quả cho Đức Chúa Trời.” Tương tự trong Ga-la-ti 3:25:

“Song khi đức tin đã đến, chúng ta không còn phục dưới thầy giáo ấy nữa”. Phao-lô mạnh mẽ

khuyến cáo Cơ Đốc Nhân trở về với luật pháp Cựu Ước. Khi giải nghĩa và áp dụng luật pháp

Cựu Ước, chúng ta phải hết sức để ý đến những lời dạy của Phao-lô. Bây giờ khi chúng ta được

giải phóng khỏi luật pháp qua Đấng Christ, chúng ta không muốn áp đặt ai phải ở dưới luật pháp

qua phương pháp giải nghĩa của chúng ta.

Nhưng còn Chúa Giê-xu phán trong M-thi-ơ 5:17: “Các ngươi đừng tưởng ta đến

đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn” thì sao?

Chúa Giê-xu có mâu thuẫn với Phao-lô không? Không hề! Trước hết để ý từ “Luật pháp và lời

tiên tri” nó đến toàn bộ Cựu Ước. Vì vậy Chúa Giê-xu không chỉ nói về luật Môi-se. Cũng để ý

Page 223: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

220

đến phản đề không phải giữa phá và giữ mà là giữa phá và làm trọn. Chúa Giê-xu không nói là

Ngài đến để giữ luật pháp mà Ngài đến để làm trọn luật pháp.

Ma-thi-ơ dùng từ Hy-lạp cho từ ”làm trọn” nhiều lần, nó có nghĩa thông thường là

“đem đến ý nghĩa chủ định của nó”. Chúa Giê-xu không nói rằng luật pháp liên kết mãi mãi với

tín hữu Tân Ước. Nếu liên kết mãi mãi thì chúng ta bắt buộc phải giữ các luật lễ nghi cũng như

luật đạo đức. Điều này rõ ràng ngược lại với lời dạy trong Tân Ước. Điều Chúa Giê-xu muốn nói

là Ngài đến không phải để quét sạch những đòi hỏi công bình của luật pháp nhưng Ngài muốn

nói rằng Ngài đến để làm trọn những đòi hỏi của luật pháp. Hơn nữa, luật pháp và lời tiên tri có

những yếu tố tiên tri, đặc biệt nói đến những yêu cầu cao cả của sự thánh khiết vì sự hiện diện

của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu là sự trọn vẹn của khía cạnh này trong lịch sử cứu chuộc. Ngài

làm trọn hết những yêu cầu công bình và cái bóng tiên tri của “Luật Pháp và Lời Tiên Tri”.

Hơn nữa, Chúa Giê-xu là người giải nghĩa cuối cùng của luật pháp – thật sự có uy

quyền trên ý nghĩa của luật pháp. Một số luật Chúa Giê-xu tái khẳng định (19:18-19) nhưng một

số Ngài bổ sung (5:31-32). Một số luật Ngài nhấn mạnh (5:21-22,27-28) và một số luật Ngài

thay đổi (5:33-37,38-42,43-47). Cũng có những luật Ngài bãi bỏ hoàn toàn (Mác 7:15-19). Chúa

Giê-xu không ủng hộ tính liên tục của hướng Do Thái truyền thống đối với luật pháp. Ngài cũng

không ủng hộ việc chúng ta từ bỏ luật pháp. Ngài muốn chúng ta phải tái giải nghĩa ý nghĩa của

luật pháp trong ánh sáng của sự đến của Ngài và trong ánh sáng của những thay đổi sâu sắc mà

giao ước mới đem đến. Điều này dẫn chúng ta đến nguyên tắc cuối cùng.

(4) Chúng ta phải giải nghĩa luật pháp thông qua lăng kính của lời dạy Tân Ước.

II Ti-mô-thê 3:16 cho chúng ta biết rằng: “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời

soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị và dạy người trong sự công bình”. Chắc chắn

Phao-lô gồm tóm luôn cả luật pháp trong từ “cả Kinh Thánh”, Là phần của Lời của Đức Chúa

Trời, giá trị của luật pháp Cựu Ước là vĩnh cữu. Chúng ta cần phải học và tìm cách áp dụng tất

cả. Dầu vậy, luật pháp không có chức năng như là qui định của giao ước cho chúng ta, và do đó,

nó không còn áp dụng trực tiếp theo nghĩa đen là luật pháp cho chúng ta. Sự đến của Đấng Christ

là sự làm trọn luật pháp đã thay đổi điều đó mãi mãi. Tuy nhiên tài liệu luật pháp chứa đựng

những nguyên tắc phong phú và những bài học cho đời sống và luôn thích ứng khi chúng ta giải

nghĩa chúng qua lăng kính của Tân Ước.

Làm sao chúng ta có thể khám phá những bài học và nguyên tắc này? Chúng ta dùng

phương pháp nào để giải nghĩa luật pháp Cựu ước cho tín hữu Tân Ước? Cách tốt nhất là sử

dụng Hành Trình Giải Kinh.

Hành Trình Giải Kinh

Chúng tôi đã giới thiệu Hành Trình Giải Kinh cho bạn trong chương 1 và chúng ta đã

thảo luận nó có liên hệ đặc biệt với giải nghĩa Cựu Ước như thế nào trong phần giới thiệu của

Page 224: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

221

Phần 5. Trong chương 17, chúng ta đã học cách sử dụng Hành Trình Giải Kinh để giải nghĩa

chuyện kể Cựu ước. Cách áp dụng để giải nghĩa luật pháp Cựu ước cũng tương tự như để giải

nghĩa chuyện kể. Chúng ta hãy ôn lại. Hành Trình Giải Kinh cho chũng ta một hướng thống nhất,

hợp lý để giải nghĩa luật pháp Cựu Ước. Nó cũng cho phép chúng ta áp dụng cùng một phương

cho mọi phân đoạn liên quan đến luật pháp.

Hành Trình Giải Kinh Cựu Ước được trình bày như sau:

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối

với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh

Thánh với chúng ta?

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc này

không và nếu có thì như thế nào?

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày

nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Bây giờ chúng ta cùng sử dụng Hành Trình Giải Kinh này để giải nghĩa và áp dụng

luật pháp Cựu Ước.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Dùng kỹ năng quan sát mà bạn học trong Phần 1, đọc đoạn Kinh Thánh cẩn thận và

quan sát càng nhiều càng tốt. Hãy nhớ rằng luật pháp Cựu Ước là phần của một chuyện kể lớn

hơn. Hãy đọc và học nó như bạn học một chuyện kể. Nhận ra những bối cảnh lịch sử và văn

chương. Dân Y-sơ-ra-ên có ở trên bờ sông Giô-đanh, chuẩn bị tiến vào đất hứa (Phục truyền)

không? Hay họ có trở lại núi Si-na-i ngay sau Xuất Ê -díp-tô ký (Lê-vi ký) không?

Luật pháp mà bạn đang học có phải là một đáp ứng với một tình huống nhất định nào

hay nó có mô tả những yêu cầu cho dân Y-sơ-ra-ên sau khi họ tiến vào đất hứa không? Có những

luật nào khác trong bối cảnh trực tiếp này không? Có liên hệ gì giữa các luật này không? Nghiên

cứu bản chất của luật mà bạn đang học. Cố gắng nhận ra luật này liên hệ với giao ước cũ như thế

nào. Nó có nhấn mạnh đến cách dân Y-sơ-ra-ên đến với Đức Chúa Trời không? Nó có đặc biệt

liên kết với cuộc sống trong Đất Hứa không? Bây giờ, hãy xác định luật pháp này có ý nghĩa đặc

biệt gì đối với độc giả Cựu Ước. Nhận ra rõ ràng điều luật pháp yêu cầu họ. Đừng khái quát

trong bước 1, nhưng hãy cụ thể trong thời của họ.

Page 225: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

222

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Xác định sự khác biệt giữa chúng ta hôm nay là Cơ Đốc Nhân và độc giả thời Cựu

Ước. Ví dụ, chúng ta ở dưới giao ước mới và không ở dưới giao ước cũ như họ. Do đó, chúng ta

không còn ở dưới luật pháp như những qui định của giao ước. Hơn nữa, chúng ta không phải là

dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị sống trong đất hứa với Đức Chúa Trời đang sống trong đền tạm hay đền

thờ. Chúng ta là Cơ Đốc Nhân có Đức Chúa Trời sống ở trong mỗi chúng ta. Chúng ta không

đến với Đức Chúa Trời thông qua sinh tế, chúng ta đến với Đức Chúa Trời thông qua sự hi sinh

của Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta đang sống dưới thế quyền chứ không ở dưới thần quyền như

dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta không đối diện áp lực từ tôn giáo Ca-na-an nhưng từ thế giới quan và

triết học phi Cơ Đốc. Hầu hết chúng ta không sống trong xã hội du mục nhưng đô thị. Bạn có

thấy những khác biệt nào nữa không?

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Đằng sau ý nghĩa cho độc giả gốc có một nguyên tắc thần học. Từ luật Cựu Ước trình

bày một ý nghĩa trực tiếp cho độc giả Cựu ước, một ý nghĩa gắn với bối cảnh giao ước cũ.

Nhưng ý nghĩa đó thường dựa trên một lẽ thật phổ thông rộng hơn, một lẽ thật có thể áp dụng

cho mọi dân của Đức Chúa Trời cho dù họ sống khi nào và sống ở dưới giao ước nào. Trong

bước này, chúng ta sẽ băng qua cây cầu và hỏi: “Nguyên tắc thần học nào được phản ảnh trong

luật này? Đức Chúa Trời đặt nguyên tắc rộng nào đằng sau đoạn Kinh Thánh này để dẫn đến áp

dụng cho ngày đó?”

Luôn nhớ rằng khi phát triển nguyên tắc thần học này, chúng ta phải sử dụng những tiêu chuẩn

sau:

Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.

Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.

Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.

Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.

Trong những phân đoạn về luật pháp, những nguyên tắc này thường liên hệ trực tiếp

đến tính cách của Đức Chúa Trời và sự thánh khiết của Ngài, bản chất của tội lỗi hay liên quan

đến những người khác.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Bây giờ hãy chuyển nguyên tắc thần học qua Tân Ước và lọc nó bằng lời dạy trong

Tân Ước về nguyên tắc hay luật mình đang học. Ví dụ, nếu bạn đang giải nghĩa Xuất. 20:14:

Page 226: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

223

“Ngươi chớ phạm tội tà dâm”, nguyên tắc thần học sẽ liên quan đến sự thánh khiết của hôn nhân

và nhu cầu chung thủy trong hôn nhân. Khi bạn chuyển nó qua Tân Ước, bạn phải hợp tác với lời

dạy Chúa Giê-xu về chủ đề đó. Trong Mat. 5:28, Chúa Giê-xu phán: “Nhưng ta phán cùng các

người hễ ai ngó người đàn bà mà động tình tham muốn thì người đó đã phạm tội tà dâm trong

lòng”. Chúa Giê-xu mở rộng giới hạn của luật này. Ngài áp dụng nó không chỉ hành động tà dâm

mà còn ý nghĩ tà dâm. Do đó, mạng lịnh chớ phạm tội tà dâm cho chúng ta sẽ như thế này:

“Ngươi chớ phạm tội tà dâm trong hành động hay trong ý tưởng”.

Cũng có một rào cản văn hóa liên quan đến mạng lịnh tà dâm. Trong văn hóa Cựu

Ước, người phụ nữ có chồng rất sớm. Cho nên dường như không có cơ hội để quan hệ tình dục

tiền hôn nhân. Phần lớn cám dỗ tình dục đối với văn hóa đó là ngoại tình. Tuy nhiên, văn hóa của

chúng ta gồm cả hai cám dỗ đó: vi phạm vừa tính thánh khiết của hôn nhân vừa tính chung thủy

trong hôn nhân. Do đó, diễn tả nguyên tắc này cho độc giả ngày nay nên trình bày cả hai phạm

trù cám dỗ và thách thức tính thánh khiết trong hôn nhân (quan hệ tình dục tiền hôn nhân và

ngoại tình). Vì thế, diễn tả nguyên tắc này cho chúng ta ngày nay là: “Chớ có quan hệ tình dục

ngoài hôn nhân, trong hành động hay trong tư tưởng”.

Hãy nhớ rằng bước 4 diễn tả rõ ràng nguyên tắc thần học cho độc giả Cơ Đốc ngày

nay. Diễn đạt này phải đủ rộng để trình bày cho cả cộng đồng hay hội thánh Cơ Đốc nhưng rất

riêng cho các tín hữu Tân Ước ngày nay.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Dùng diễn tả được phát triển trong bước 4 để áp dụng nó cho những tình huống riêng

mà từng Cơ Đốc Nhân gặp phải.

Ví dụ 1: Lê-vi Ký 5:2

Chúng ta cùng xem hai ví dụ để làm rõ hơn Hành Trình Giải Kinh dành cho luật pháp.

Khi ai sẽ đụng đến một vật ô uế, hoặc thây của con thú nhà không tinh sạch, hoặc thây của

con thú rừng không tinh sạch, hoặc thây của loài côn trùng nào không tinh sạch, mà không

tự biết, thì sẽ bị ô uế và mắc tội.

Để hiểu rõ hơn về tình trạng ô uế trong câu này, chúng ta cần phải tham khảo thêm

Lê-vi Ký 5:5-6 và cùng học chung với câu trên:

Vậy, khi nào ai mắc tội về một trong các điều nầy, thì phải xưng mình phạm tội chi, rồi vì

tội mình đã phạm, dẫn đến Đức Giê-hô-va một con cái trong bầy súc vật nhỏ, hoặc chiên

cái hay là dê cái, đặng làm của lễ chuộc tội; thì thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người

Page 227: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

224

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bối cảnh rộng hơn của Lê-vi ký liên quan đến cách dân Y sơ ra ên phải sống như thế

nào với Đức Chúa Trời đang ngự giữa họ. Họ đến với Đức Chúa Trời bằng cách nào? Làm sao

họ giải quyết với vấn đề tội lỗi và những điều không tinh sạch khi mà họ phải sống với Đức

Chúa Trong đang sống giữa họ? Những câu này nằm trong bối cảnh văn chương nhỏ hơn, tức là

Lê-vi ký 4:1-5:13. Phần này liên quan đến những của lễ tinh sạch – cách để làm mình tinh sạch

trở lại sau khi bị ô uế về lễ nghi. Lê-vi ký 4 liên quan chính đến người lãnh đạo; Lê-vi ký 5 tập

trung vào dân thường. Lê-vi ký 5:2 cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng nếu họ đụng vào một vật không

tinh sạch (động vật chết hay không sạch), họ bị ô uế, dù họ vô tình. Vì tình trạng ô uế của mình,

họ không thể đến gần Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài. Để được tinh sạch, họ phải xưng tội

mình và đem một con cừu đến thầy tế lễ để làm của lễ chuộc tội (5:5-6). Thầy tế lễ sẽ đại diện họ

dâng con chiên và họ sẽ được tinh sạch lại và họ có thể đến và thờ phượng Đức Chúa Trời trở lại.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Hãy nhớ rằng chúng ta không ở dưới giao ước cũ và tội lỗi của chúng ta bây giờ được

khỏa lấp bởi sự chết của Đấng Christ. Hơn nữa, chúng ta được trực tiếp đến với Cha thông qua

Đấng Christ và không còn cần thầy tế lễ là con người để làm trung gian nữa.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Nguyên tắc thần học đằng sau ý niệm này là Đức Chúa Trời là thánh. Khi Ngài ngự

giữa dân Ngài, sự thánh khiết của Ngài đòi hỏi dân Ngài phải lánh tội lỗi và những điều ô uế.

Nếu họ thất bại và bị ô uế, họ phải được rửa sạch nhờ của lễ có huyết.

Để ý nguyên tắc này được phản ánh trong đoạn Kinh Thánh Lê-vi ký 5:2,5-6, nhưng

nó cũng khái quát hơn diễn đạt được tìm thấy trong đoạn Kinh Thánh và được mô tả trong bước

1. Hơn nữa, nguyên tắc này phản ánh tổng thể thần học của Lê-vi ký và phần còn lại của Kinh

Thánh. Nó được diễn đạt trong một hình thức mà có thể áp dụng rộng rãi cho cả dân Cựu và Tân

Ước.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Khi chúng ta đi qua Tân Ước, chúng ta phải kiểm tra Tân Ước dạy gì về chủ đề này.

Đức Chúa Trời không còn sống ở giữa chúng ta tại trong đền tạm nữa mà Ngài bây giờ đang

sống trong mỗi người chúng ta qua sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Dầu vậy, sự hiện diện của

Ngài đòi hỏi chúng ta phải thánh khiết. Ngài yêu cầu chúng ta không được phạm tội và phải lánh

Page 228: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

225

khỏi điều ô uế. Nhưng Tân Ước tái định nghĩa rõ ràng từ tinh sạch và ô uế. Hãy xem lời Chúa

Giê-xu phán trong Mác 7:15,20-23:

15 Chẳng sự gì từ ngoài người vào trong cơ thể làm dơ dáy người được; nhưng sự gì từ

trong người ra, đó là sự làm dơ dáy người…

20 Vậy, Ngài phán: Hễ sự gì từ người ra, đó là sự làm dơ dáy người! 21 Vì thật là tự

trong, tự lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm cướp, giết người, 22 tà

dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn, kiêu ngạo,

điên cuồng. 23 Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người.

Nói cách khác, chúng ta là người sống dưới giao ước mới không bị ô uế vì đụng phải

xác chết. Chúng ta trở nên ô uế bởi ý nghĩ ô uế và những hành động tội ác. Đoạn Kinh Thánh

trong Lê-vi ký cũng nhấn mạnh rằng cá nhân bị ô uế khi tình cờ đụng phải vật ô uế. Nguyên tắc

này không thay đổi trong Tân Ước. Những hành động và ý tưởng tội ác dù tình cờ cũng vẫn làm

chúng ta ô uế.

Giao ước mới cũng thay đổi cách chúng ta, là dân của Đức Chúa Trời giải quyết vấn

đề tội lỗi và ô uế. Chúng ta không còn đem con chiên hay dê để chuộc tội lỗi của mình và để

phục hồi chúng ta trở lại tình trạng tinh sạch. Tội của chúng ta bây giờ được khỏa lấp bởi sự hi

sinh của Đấng Christ. Sự chết của Đấng Christ rửa sạch tội lỗi của chúng ta và thay đổi tình trạng

của chúng ta từ ô uế sang tinh sạch. Xưng tội vẫn là hành động quan trọng đối với chúng ta ở

dưới giao ước mới (I Giăng 1:9), cũng giống như dưới giao ước cũ.

Do đó, nguyên tắc thần học rõ ràng cho chúng ta, là độc giả Tân Ước là: Hãy tránh xa

những hành động tội lỗi và ý tưởng ô uế vì Đức Chúa Trời thánh khiết đang ngự trong bạn. Nếu

bạn phạm những hành động ô uế hay những ý tưởng ô uế, hãy xưng tội này ra và tiếp nhận sự tha

thứ qua sự chết của Đấng Christ.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Trong bước 5, chúng ta cố gắng nhận ra những áp dụng riêng cho nguyên tắc thần

học mới vừa tìm được trong bước 4. Có nhiều áp dụng khả dĩ. Ví dụ, một áp dụng có thể liên

quan đến vấn đề này là hình khỏa thân trên internet. Nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay dễ dàng vào

những trang web lõa thể ở nơi riêng tư của mình như nhà riêng hay ký túc xá. Đoạn Kinh Thánh

này dạy chúng ta rằng sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, đấng đang ngự trong chúng ta yêu cầu

chúng ta sống đời sống thánh khiết. Xem hình lõa thể rõ ràng là điều Tân Ước xem là ô uế.

Những hành động như vậy là xúc phạm đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và ngăn trở khả

năng của một người đến gần và thờ phượng hay tương giao với Đức Chúa Trời. Do đó, chúng ta

phải tránh xa những tranh lõa thể trên internet, phải nhận biết rằng nó sẽ làm cho chúng ta ô uế

và xúc phạm đến Đức Chúa Trời thánh khiết đang ngự trong chúng ta và ngăn cản mối tương

Page 229: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

226

giao với Ngài. Dầu vậy, nếu bạn đã sa vào tội này, bạn phải xưng tội và thông qua sự chết của

Đấng Christ, bạn sẽ được tha thứ và mối tương giao với Đức Chúa Trời được phục hồi.

Có những áp dụng khả dĩ khác. Tính tham lam? Ghen ghét? Hãy nhìn lại cuộc đời của

chính bạn. Điều nào còn ô uế trong đời sống của bạn?

Ví dụ 2: Phục Truyền 8:6-18

Hành Trình Giải Kinh này có ý nghĩa đối với bạn không? Bạn có thể đi theo

tiến trình trong ví dụ trên không? Bạn có thể áp dụng phương pháp này cho những đoạn

Kinh Thánh khác được không? Chúng ta hãy cùng xem một ví dụ khác: Phục truyền

8:6-18:

6 Hãy kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, gìn giữ những điều răn của Ngài, đi

theo các đường lối Ngài; 7 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ khiến ngươi vào xứ

tốt tươi, có nhiều khe, suối, nước sâu phun lên trong trũng và trên núi; 8 xứ có lúa mì,

lúa mạch, dây nho, cây vả, cây lựu; dầu ô-li-ve và mật; 9 xứ đó ngươi sẽ ăn bánh đầy

đủ, chẳng thiếu món chi; đá xứ đó là sắt, và từ trong núi ngươi lấy đồng ra. 10 Vậy,

ngươi sẽ ăn no nê, và ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì cớ xứ tốt tươi mà

Ngài đã ban cho. 11 Ngươi khá cẩn thận, e quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi,

không giữ gìn những điều răn, mạng lịnh và luật lệ của Ngài, mà ngày nay ta truyền

cho ngươi chăng; 12 lại e sau khi đã ăn no nê, cất nhà tốt đặng ở, 13 thấy bò chiên của

mình thêm nhiều lên, bạc, vàng, và mọi tài sản mình dư dật rồi, 14 thì bấy giờ lòng

ngươi tự cao, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng đã đem ngươi ra khỏi xứ

Ê -díp-tô, tức khỏi nhà nô lệ chăng. 15 Ấy là Ngài đã dẫn ngươi đi ngang qua đồng

vắng mênh mông gớm ghiếc nầy, đầy những rắn lửa, bò kẹp, đất khô khan, chẳng có

nước; Ngài khiến nước từ hòn đá rất cứng phun ra cho ngươi; 16 lại trong đồng vắng,

Ngài ban cho ngươi ăn ma-na mà tổ phụ ngươi chưa hề biết, để hạ ngươi xuống và thử

ngươi, hầu về sau làm ơn cho ngươi. 17 Vậy, khá coi chừng, chớ nói trong lòng rằng:

Ấy nhờ quyền năng ta và sức lực của tay ta mà đoạt được những sản nghiệp nầy. 18

Hãy nhớ lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy là Ngài ban cho ngươi sức lực đoạt

được những sản nghiệp, để làm trọn sự giao ước Ngài đã thề cùng tổ phụ ngươi, y như

Ngài đã làm ngày nay.

Hãy luôn nhớ rằng những bước giải nghĩa này luôn đi sau bước quan sát. Đừng quên

quan sát, quan sát và quan sát! Học bối cảnh. Nghiên cứu từ. Quan sát nhiều hơn.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Page 230: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

227

Dân Y-sơ-ra-ên phải tiếp tục vâng theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Khi họ vào

Đất Hứa, họ không được kiêu ngạo và cho rằng chính họ là người đem đến phước hạnh của Đất

Hứa chứ không phải Đức Chúa Trời. Họ không được phép quên rằng Đức Chúa Trời là nguồn

phước hạnh và Ngài là Đấng giải phóng họ khỏi Ai-cập.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Chúng ta không ở giao ước cũ. Hơn nữa chúng ta không bước vào Đất Hứa và nhận

những phước hạnh vật chất của Đất Hứa.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Dân của Đức Chúa Trời phải vâng phục Đức Chúa Trời. Chúng ta không được kiêu

ngạo và nghĩ rằng chúng ta là những người đã tạo nên phước hạnh mà quên rằng nó đến từ Đức

Chúa Trời. Chúng ta phải luôn nhớ Đức Chúa Trời và cách Ngài giải cứu chúng ta.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Sự vâng lời Đức Chúa Trời vẫn được nhấn mạnh nhưng Tân Ước chuyển tâm điểm từ

vâng phục luật pháp sang vâng phục trong sự bước đi với Đấng Christ. Chúa Giê-xu nhấn mạnh

vâng theo “điều răn mới” là yêu nhau (Giăng 13:34). Sự kiêu ngạo và thái độ tự mãn bị lên án

trong Tân Ước cũng như trong Cựu Ước. Dầu vậy, phước hạnh trong Tân Ước nghiêng về thuộc

linh hơn là vật chất (Ê-phê-sô 1). Cuối cùng, Đức Chúa Trời không giải phóng chúng ta khỏi Ai-

cập nhưng Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi thông qua Chúa Giê-xu Christ. Tất cả phước hạnh

chúng ta nhận được lưu xuất từ mối quan hệ của với Đấng Christ. Chúng ta phải tiếp tục đi theo

Đấng Christ và vâng theo điều răn của Ngài. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta tạo nên phước

hạnh cho cuộc đời của mình; tất cả những phước hạnh tốt lành trong cuộc đời chúng ta đến từ

nơi Đức Chúa Trời, lưu xuất từ mối quan hệ của chúng ta với Đấng Christ. Chúng ta luôn nhớ

đến Đức Chúa Trời và ngợi khen Ngài vì đã cứu chúng ta qua Đấng Christ.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Có nhiều cách mà sự thành công hay phước hạnh trong cuộc đời một Cơ Đốc Nhân có

thể sản sinh ra sự kiêu ngạo và dẫn đến sự sai trật trong suy nghĩ của mình về nguồn phước hạnh.

Ví dụ nếu một người thành công trong doanh nghiệp, người đó thường bị cám dỗ nghĩ rằng anh

ta là người tạo nên sự thành công đó chứ không phải là Đức Chúa Trời. Sự giàu có có thể là hiểm

họa thật sự ngày nay vì có thể khiến chúng ta quên Đức Chúa Trời. Tương tự, những sinh viên

thông minh và thành công trong học vấn thường hay nghĩ mình giỏi thay vì nhận biết rằng Đức

Page 231: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

228

Chúa Trời là Đấng ban cho họ đầu óc và môi trường tối giúp họ thành đạt. Tất cả phước hạnh

thật đến từ mối quan hệ của chúng ta với Đấng Christ.

Kết Luận

Trong chương này, chúng ta nhìn thấy cách giải nghĩa luật pháp Cựu Ước truyền

thống được phân vào những phạm trù như luật đạo đức, dân sự và lễ nghi. Tuy nhiên, chúng ta

kết luật rằng hướng này không thích hợp và chúng tôi đề nghị một hướng thay thế. Chúng tôi ghi

lại bối cảnh chuyện kể của luật pháp và thảo luận bối cảnh giao ước của luật pháp. Từ hai bối

cảnh này chúng ta áp dụng Hành Trình Giải Kinh để giải nghĩa luật pháp Cựu Ước. Phương pháp

này là hướng tốt nhất đối với luật pháp.

Sau khi quan sát, chúng ta xác định đoạn Kinh Thánh có ý nghĩa gì đối với độc giả

thời Kinh Thánh. Sau đó chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta.

Tiếp theo chúng ta vượt qua cây cầu nguyên tắc và lọc chúng qua lời dạy của Tân Ước để nhận

ra ý nghĩa cho độc giả Cơ Đốc ngày nay. Cuối cùng, chúng ta xác định những áp dụng riêng ý

nghĩa này cho từng tình huống riêng.

Hướng này cho phép chúng ta giải nghĩa tất cả đoạn Kinh Thánh luật pháp với cùng

một phương pháp. Nó cung cấp cho chúng ta một hệ thống từng bước một nhờ đó chúng ta có

thể tìm thấy áp dụng thích hợp cho diện rộng của luật pháp Cựu Ước. Bạn đã sẵn sàng tự giải

nghĩa những đoạn Kinh Thánh luật pháp chưa?

Page 232: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

229

Chương 19

Cựu Ước – Văn Thơ

Lời Giới Thiệu

Hơn một phần ba của Kinh Thánh chứa đựng thơ ca. Các sách Thi thiên, Gióp, Châm

ngôn, Nhã Ca và Ca thương là các sách thơ ca. Hơn nữa, thơ ca cũng là đặc điểm văn chương

chính trong các sách tiên tri. Thật ra, mỗi sách Cựu Ước đều có một vài bài thơ trong đó. Ngay

cả nhiều bản văn kể chuyện cũng có những bài thơ trong đó. Vì thơ ca bao gồm phần lớn của

Cựu Ước nên việc học cách để đọc và giải nghĩa nó là điều quan trọng. Chúng tôi hi vọng rằng

bạn học được cách để thưởng thức nó nữa.

Một số đoạn Kinh Thánh đẹp nhất và được yêu thích nhất trong Kinh Thánh nằm

trong những phần thơ ca của Cựu Ước. Cơ Đốc nhân trong mọi thời đại đều nhận được những sự

khích lệ trong những lúc khó khăn trong các sách Thi thiên và tâm linh của họ được tươi mới qua

những bài thơ nhiều màu sắc và đầy uy quyền của tác giả Thi Thiên. Những tín hữu cất cánh bay

cao như chim ưng với Ê -sai nhưng cũng có lúc họ nhìn thấy sự tàn phá đau đớn của Giê-ru-sa-

lem với Giê-rê-mi. Thật sự, thơ ca Cựu Ước có một cách hành động đặc biệt trong chúng ta. Nó

có thể đâm thấu vào linh hồn và lặng lẽ nói với chúng ta một cách mạnh mẽ. Đây là điều phổ

thông. Không phân biệt tuổi tác, giáo dục hay văn hóa, Cơ Đốc Nhân trên khắp thế giới đều thỏa

vui với thơ ca trong Cựu Ước, đặc biệt là Thi thiên.

Thi Thiên hấp dẫn chúng ta không? Tại sao bạn thưởng thức Thi thiên? Có phải vì nó

là sách dẫn bạn vào sự thờ phượng Đức Chúa Trời sâu sắc hơn không? Nó có phải là những hình

ảnh tuyệt vời và những cách ngôn mạnh mẽ không? Có phải vì các Thi thiên có một cách kết nối

những hoàn cảnh đời thật và phản ảnh một sự trung thực mà chúng ta có thể liên hệ trong hoàn

cảnh sống thật của chúng ta. Trong nhiều Hội thánh, nhiều tín hữu thường ngại bày tỏ nghi ngờ,

thất vọng hay đau đớn một cách công khai. Nếu họ bày tỏ những cảm xúc đó thì sẽ bị cho là

chưa có đức tin trưởng thành. Nhưng các tác giả Thi thiên thì ngược lại. Họ không ngần ngại bày

tỏ nhiều dạng thái cảm xúc khác nhau. Những cảm xúc đến và họ bày tỏ những điều mà họ thấy

khó khăn.

Ví dụ, tác giả trong Thi thiên 88:14 thỏa mái la lên: “Đức Giê-hô-va ôi! vì sao Ngài

từ bỏ linh hồn tôi, Và giấu mặt Ngài cùng tôi?” Nếu bạn đứng giữa Hội Thánh và cầu nguyện

những lời cầu nguyện như thế này thì chắc lần sau bạn sẽ không được mời cầu nguyện nữa.

Những bày tỏ như thế này thường không được chấp nhận trong một số Hội Thánh và điều này

khiến chúng ta không có căn bản Kinh Thánh khi đối diện với sự tuyệt vọng hay đau khổ.

Page 233: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

230

Hội Thánh ngày nay thường có khuynh hướng hạn chế tối đa khía cạnh cảm xúc của

đời sống thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Chúng tôi nghĩ rằng điều này thui chột sự trưởng thành

của tín hữu tệ như hạn chế khía cạnh tri thức vậy. Thơ ca Cựu ước thật sự tập trung vào đáp ứng

cảm xúc của chúng ta với Đức Chúa Trời cũng như đáp ứng cảm xúc của chúng ta với những

người chống nghịch với Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài. Thơ ca Cựu Ước kết nối chúng ta

sâu thẳm cả trong niềm vui và trong sự tuyệt vọng. Nó khơi gợi tấm lòng của chúng ta và nâng

đời sống tâm linh và cảm xúc của chúng ta lên. Chúng ta không nên đè nén nó. Nhưng chúng ta

phải ăn nuốt lấy nó.

Trong chương này, chúng ta sẽ khai phá bản chất của thơ ca Cựu Ước. Chúng ta sẽ

thảo luận tại sao và như thế nào nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta. Chúng ta sẽ học vài thuật

và đặc điểm của thơ ca Cựu ước để có thể đánh giá cao tính nghệ thuật mà những thi sĩ này đã sử

dụng. Chúng tôi hi vọng bài học này sẽ giúp bạn nhìn thấy và thích thú thơ ca trong Cựu Ước

hơn bây giờ. Chúng tôi cũng khai phá những vấn đề về giải nghĩa và áp dụng để hướng dẫn cho

bạn biết cách đọc và hiểu được lời ca Đức Chúa Trời trong hình thức thơ ca Cựu Ước.

Các thi sĩ Cựu Ước viết các bài thơ của mình khác với Phao-lô viết các thơ tín. Chúng

tập trung nhiều vào cảm xúc của chúng ta. Hơn nữa chúng không xây dựng những biện luận

phức tạp về ngữ pháp nhưng dùng những hình ảnh để chuyển tải ý nghĩa. Chúng vẽ lên những

bức tranh nhiều màu sắc bằng từ ngữ để chuyển tải sứ điệp với ảnh hưởng cảm xúc. Điều này

không có nghĩa là chúng bỏ qua tính logic. Điều này có nghĩa là chúng tập trung nhiều về khía

cạnh cảm xúc hơn là khía cạnh logic. Đúng vậy, Phao-lô không bỏ qua cảm xúc nhưng tập trung

nhiều hơn về biện luận.

Có thể thấy sự khác nhau này trong bảng so sánh bên dưới:

Phao-lô và Thư Tín Tân Ước Thi Sĩ Cựu Ước

Tập trung vào tính logic Tập trung vào cảm xúc

Trọng tâm là những biện luận trí tuệ Trọng tâm là những hình ảnh

Dùng ngữ pháp để phân tích Dùng cách ngôn để phân tích

Một trong những vấn để mà nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay gặp khi đối diện với thơ ca

Cựu Ước là họ cố gắng giải nghĩa những bài thi thiên này bằng phương pháp của thư tín Tân

Ước. Những phương pháp giải kinh này không thích hợp và thường là sai lệch đối với các thơ ca

Cựu Ước. Chúng ta không thể đến với Thi thiên 51 cùng một phương pháp như chúng ta dùng

trong Rô ma 3. Do đó chúng ta cần giải nghĩa thơ ca Cựu Ước bằng một phương pháp giúp nhận

ra được chức năng của những hình ảnh và liên kết những hình ảnh này với khía cạnh cảm xúc về

mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời và với con người. Một phương pháp như vậy sẽ

giúp chúng ta hiểu được những yếu tố khác nhau của thơ ca Cựu Ước.

Page 234: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

231

Những Yếu Tố Trong Thơ Ca Cựu Ước

Chính bản chất nghệ thuật của văn thơ Cựu ước khiến chúng ta khó định nghĩa súc

tích. Thật ra, văn xuôi và thơ ca không hoàn toàn tách biệt nhau. Trong Cựu Ước sự phân biệt

này không rõ ràng. Có ba yếu tố chính trong thơ ca Cựu Ước:

Tính Súc Tích

Điều này có nghĩa đơn giản là thơ ca sử dụng tối thiểu số lượng từ. Những từ được

chọn cẩn thận để bày tỏ ảnh hưởng và sức mạnh của nó. Văn kể chuyện thường có những câu dài

và mô tả nhưng thơ ca thì thường có những dòng ngắn với chỉ vài từ. Hãy xem Thi. 25:4:

Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết các đường lối Ngài,

Và dạy dỗ tôi các nẻo đàng Ngài.

Trong bản Hê-bơ-rơ thì dòng đầu chỉ có ba từ và dòng thứ hai chỉ có hai từ. Văn xuôi

thì có khuynh hướng sử dụng nhiều từ hơn. Đối chiếu tính súc tích của bài thơ Thi. 25:4 với văn

xuôi dài dòng trong Sáng-thế Ký 12:10:

Bấy giờ, trong xứ bị cơn đói kém; sự đói kém ấy lớn, nên Á p-ram xuống xứ Ê -díp-tô

mà kiều ngụ.

Cấu Trúc

1. So sánh.

Một trong những đặc điểm rõ nhất trong thơ ca Cựu ước là đoạn kinh văn được cấu

trúc xung quanh những dòng thơ hơn là quanh những câu và phân đoạn. Dấu chấm dường như

không quan trọng trong thơ ca giống như trong chuyện kể hay trong thư tín Tân Ước. Nhưng

đừng thất vọng, dòng thơ chứa đựng nhiều ý tưởng hơn là câu. Hãy tập đọc từng dòng một thay

vì từng câu một.

Hơn nữa những dòng thường nhóm lại theo đơn vị của hai hay ba. Tức là hai dòng

thơ Cựu Ước được nhóm lại với nhau để diễn đạt một ý tưởng. Hầu hết những câu thơ trong Thi

thiên được cấu trúc theo cách này. Ví dụ hãy cùng xem Thi-thiên 3:1-2:

1.Đức Giê-hô-va ôi! kẻ cừu địch tôi đã thêm nhiều dường bao!

Lắm kẻ dấy lên cùng tôi thay!

2 Biết bao kẻ nói về linh hồn tôi rằng:

Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó.

Page 235: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

232

Đặc điểm này được gọi là thể song song. Nó là đặc điểm cấu trúc chủ đạo của thơ ca

Cựu Ước. Thông thường một ý tưởng sẽ được diễn đạt bằng hai dòng thơ (mặc dầu thỉnh thoảng

có ba hay bốn dòng để chuyển tải một ý tưởng). Mỗi câu bao gồm hai dòng. Điều này giúp

chúng ta khi đọc vì chúng ta cần giải nghĩa đoạn Kinh thánh này bằng cách đọc từng cấu trúc

song song với nhau. Tức là chúng ta tìm hai dòng chuyển tải cùng một ý tưởng.

Hai dòng song song thường liên hệ với nhau trong một vài cách khác nhau. Để rõ

ràng hơn, chúng tôi gọi dòng đầu là A và dòng thứ hai là B như là ví dụ minh họa.

a. Đồng Nghĩa.

Hình thức này liên quan đến một sự tương đồng giữa những dòng dùng những từ có ý

nghĩa tương đương. Tức là dòng thứ hai lặp lại cùng ý tưởng với dòng thứ nhất dùng cùng thuật

ngữ. Ví dụ, xem Thi-thiên 2:4:

(A) Đấng ngự trên trời sẽ cười,

(B) Chúa sẽ nhạo báng chúng nó.

Để ý rằng: “Đấng ngồi ngự trên trời” trong dòng A song song với “Chúa” trong dòng

B. Tương tự, “cười” trong dòng A song song với “nhạo báng” trong dòng B. Hai dòng này diễn

đạt cùng một điều. Cả hai nên được đọc như là một đơn vị và được giải nghĩa như là một đơn vị.

Thỉnh thoảng, song song đồng nghĩa có thể có đến bốn dòng thơ. Thi-thiên

19:8:

(A) Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng,

(B) làm cho lòng vui mừng;

(A’) Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch,

(B’) làm cho mắt sáng sủa.

Trong câu này dòng “Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng” (A) song song,

không phải với dòng tiếp theo (B) mà là với dòng (A’): “Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch”.

Tương tự, dòng (B): “làm cho lòng vui mừng;” song song với dòng (B’): “làm cho mắt sáng sủa.”

Do đó ý tưởng diễn đạt trong A+B song song đồng nghĩa với A’+B’.

b. Diễn Tiến.

Trong song song diễn tiến, dòng thứ hai phát triển ý tưởng của dòng thứ nhất. Ví dụ:

(A) Ngài không để cho chân ngươi xiêu tó;

(B) Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ. (Thi-thiên 121:3)

Page 236: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

233

Dòng B có thể liên quan đến dòng A trong nhiều cách để phát triển nhiều hơn ý tưởng

của A. Ví dụ, A có thể tạo một câu khẳng định còn B nêu ra lý do:

(A) Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va thay,

(B) Vì tại trong thành vững bền Ngài đã tỏ cho tôi sự nhân từ lạ lùng của

Ngài! (Thi-thiên 31:21)

Hoặc A có thể đặt câu hỏi và B trả lời:

(A) Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch?

(B) Phải cẩn thận theo lời Chúa. (Thi-thiên 119:9)

Cả hai quan hệ trên có thể hoán đổi. Lý do có thể đến trước trong dòng A với câu

khẳng định chính đi theo trong dòng B. Tương tự câu hỏi không cần phải bị giới hạn trong dòng

A nhưng có thể xảy ra trong dòng B nữa.

c. Minh Họa

Trong song song minh họa, dòng A chuyển tải ý tưởng và dòng B minh họa nó bằng

một ví dụ hay một biểu tượng.

(A) Hỡi Chúa Giê-hô-va, là sức lực về sự cứu rỗi tôi,

(B) Chúa che chở đầu tôi trong ngày chiến trận.

Trong dòng A Đa-vít gọi Đức Chúa Trời là “sức lực về sự cứu rỗi của ông”. Trong

dòng B ông minh họa điều này đúng như thế nào – Đức Chúa Trời, giống như một mão trụ bảo

vệ đầu của Đa-vít trong chiến trận.

d. Đối lập

Dạng song song này dùng hình thức đối lập, trong đó dòng B đối lập với dòng A”

(A) Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình,

(B) Song đường kẻ ác rồi bị diệt vong. (Thi-thiên 1:6)

Dạng song song này thường phổ biến trong Châm ngôn. Ví dụ, đọc Châm-ngôn10:12:

(A) Sự ghen ghét xui điều cãi lộn;

(B) Song lòng thương yêu lấp hết các tội phạm

Page 237: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

234

e. Khác

Ta gọi dạng này là khác vì nó không thuộc vào những dạng song song thông thường

được liệt kê ở trên. Trong dạng song song này, hai dòng hay hai ngữ chỉ đơn thuần kết hợp với

nhau:

(A) Dầu vậy, ta đã lập Vua ta

(B) Trên Si-ôn là núi thánh ta

Chúng ta liệt kê năm loại song song này để đọc thơ ca Hê-bơ-rơ: đồng nghĩa, diễn

tiến, minh họa, đối lập và khác. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta đang dối diện với hình thức thơ

ca. Các thi sĩ không bắt buộc phải đi theo những hình thức hay luật thông thường. Những dạng

song song mà chúng tôi trình bày là những hình thức song song phổ biến nhất. Các thi sĩ Hê-bơ-

rơ rất sáng tạo và họ dùng thể song song trong nhiều hình thức phức tạp, nhiều lúc khó xác định.

2. Thơ Chữ Đầu

Một đặc điểm cấu trúc thú vị khác của thơ ca Cựu ước là cách dùng chữ đầu. Một

hình thức chữ đầu là một bài thơ mà mỗi dòng tiếp theo bắt đầu với từ tiếp theo của bảng chữ cái

Hê-bơ-rơ. Trong trường hợp của tiếng Việt, dòng đầu bắt đầu với “a”, dòng thứ hai bắt đầu với

“ă” và dòng thứ ba với “â)…Nếu chỉ tách riêng chữ đầu của mỗi bài thơ, chúng ta sẽ có bảng chữ

cái.

Có nhiều hình thức thơ chữ đầu trong Cựu Ước: Thi-thiên 25,34,111,112 và 145; Ca

thương 1,2,3,4; Châm-ngôn 31:10-31. Có lẽ thú vị nhất là Thi-thiên 119. Dầu vậy khi dịch sang

tiếng Việt hay ngôn ngữ khác thì dịch giả thường khó theo kịp hình thức chữ đầu này.

Hình Ảnh Bóng

Phương tiện chính mà thi sĩ Cựu ước dùng để chuyển tải ý tưởng là hình ảnh bóng.

Nó không phải là bài văn xuôi, mà là một bức tranh. Những màu sắc mà họ vẽ bức tranh này là

cách ngôn và chơi chữ. Chúng ta không xa lạ với hình thức này.

Thơ ca Cựu Ước dùng nhiều cách ngôn. Ví dụ trong sách Thi thiên, mỗi câu dường

như đều có cách ngôn. Là độc giả, chúng ta không ở trong bối cảnh và thế giới văn chương của

họ. Nếu chúng ta giải nghĩa cách ngôn đó theo nghĩa đen, chúng ta sẽ hiểu sai đoạn kinh văn.

Nếu chúng ta muốn hiểu được tác giả Cựu Ước, chúng ta phải công nhận cách ngôn khi chúng

được dùng và chúng ta cần phải giải nghĩa chúng như là cách ngôn theo nghĩa bóng chứ không

theo nghĩa đen được.

Luôn nhớ rằng đây không phải là cách từ bỏ thực tế văn chương đằng sau cách ngôn.

Một số cách ngôn có thể nhạy cảm và phức tạp. Dầu vậy, chúng ta có thể nhận ra và giải nghĩa

hầu hết cách ngôn. Nhìn chung, cách ngôn trong thơ ca Cựu ước có thể chia thành hai phạm trù:

Page 238: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

235

Những hình ảnh liên quan đến so sánh và những hình ảnh liên quan đến thay thế. Trong một vài

cách nói không thật sự nằm trong một hay hai phạm trù nhất định và chúng ta thảo luận chúng

riêng, gọi là phạm trù khác. Cuối cùng chúng ta thảo luận thuật chơi chữ, một phạm trù tương tự

với cách ngôn nhưng có phần khác một chút.

1. Cách ngôn liên quan đến so sánh

Nhiều cách ngôn liên quan đến so sánh giữa hai điều. Có nhiều cách diễn tả sự so

sánh về hình ảnh, đặc biệt trong Cựu Ước. Những phép so sánh phổ biến nhất là phép ví von,

phép ẩn dụ, so sánh gián tiếp, phép ngoa dụ, nhân cách hóa/ thần nhân tương đồng, động vật

hóa.

a. Phép ví von

Cách ngôn này là cách so sánh bằng cách sử dụng những từ “như”, “giống như”… để

diễn tả một điều tương tự với cái khác. Đây là một cách ngôn phổ biến trong thơ ca Cựu Ước.

Một người đàn bà đẹp đẽ mà thiếu dè dặt,

Khác nào một vòng vàng đeo nơi mũi heo (Châm-ngôn 11:22)

Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết;

dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên.(Ê-sai 1:18)

Đức Chúa Trời ôi! linh hồn tôi mơ ước Chúa,

Như con nai cái thèm khát khe nước.(Thi-thiên 42:1)

b. Phép Ẩn Dụ

Phép ẩn dụ là một sự so sánh giữa hai điều bằng câu khẳng định trực tiếp mà không

dùng từ như hay giống như.

Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi (Thi-thiên 23:1)

Đức Chúa Trời ở nơi thánh Ngài,

Là Cha kẻ mồ côi, và quan xét của người góa bụa (Thi-thiên 68:5)

Lòng vui mừng vốn một phương thuốc hay;

Còn trí nao sờn làm xương cốt khô héo. (Châm-ngôn. 17:22)

c. So sánh gián tiếp

Đây là là một công cụ văn chương sử dụng sự so sánh mà không nói trực tiếp sự so

sánh đó. Nó sẽ để cho độc giả so sánh mà không cần phải nói rõ so sánh đó. Ví dụ, giả dụ như

Page 239: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

236

tác giả muốn so sánh giữa cơn thạnh nộ của Chúa với một cơn bão. Phép ví von sẽ nói rằng:

“Cơn thạnh nộ của Chúa giống như một cơn bão”. Phép ẩn dụ sẽ nói: “Cơn thạnh nộ của Chúa là

một cơn bão”. Nhưng phép so sánh gián tiếp thì không dùng trực tiếp đến sự so sánh và diễn đạt

như thế này: “cơn bão của Đức Giê-hô-va, tức là cơn thạnh nộ của Ngài, đã phát ra, một cơn bão

lớn: nó sẽ phát ra trên đầu kẻ dữ” (Giê-rê-mi 30:23). Xem một số ví dụ khác.

Chúng nó hả miệng ra cùng tôi, Khác nào sư tử hay cắn xé và gầm hét. (Thi-thiên

22:13)

(Nguyên bản: “sư tử cắn xé và gầm thét hả miệng nghịch cùng tôi”)

Từ trên cao Ngài giơ tay ra nắm tôi, Rút tôi ra khỏi nước sâu. (Thi-thiên 18:16)

Sự chân thật Ngài là cái khiên và cái can của ngươi.(Thi-thiên 91:4)

Trong mỗi ví dụ trên, để ý sự khác nhau giữa so sánh gián tiếp và phép ví von hay

phép ẩn dụ. Ví dụ, trong Thi-thiên 22:13 tác giả Thi thiên không nói kẻ thù ông giống như (theo

nguyên bản) sư tử hay cũng không nói kẻ thù là sư tử. Ô ng chỉ nói rằng sư tử cắn xé và gầm thét

hả miệng nghịch cùng ông. Ông đang so sánh giữa kẻ thù và sư tử. Ý nghĩa cũng giống nhau khi

dùng một phép ẩn dụ hay phép ví von nhưng cách so sánh gián tiếp này tạo nên một hình ảnh

mạnh mẽ hơn. Đa-vít muốn tập trung vào ngay hình ảnh mà độc giả đang nghĩ trong đầu và ông

mô tả chỉ hình ảnh đó thôi.

d. Phép ngoa dụ

Phép ngoa dụ được định nghĩa như là một sự khuếch đại có chủ đích để tạo hiệu quả

mạnh hơn. Phép ngoa dụ không phản ánh tính chân thật của người nói.

Các thi sĩ Cựu ước sử dụng phép ngoa dụ rất thường xuyên. Họ chủ ý khuếch đại để

diễn tả cảm xúc sâu sắc. Ví dụ xem những ví dụ sau:

Nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm.(Thi-thiên 42:3)

Bấy giờ tôi đánh nát chúng nó ra nhỏ như bụi bị gió thổi đi;

Tôi ném chúng nó ra như bùn ngoài đường.(Thi-thiên 18:42)

Vì vô số tai họa đã vây quanh tôi; (Thi-thiên 40:12).

Trong từng ví dụ, tác giả Thi thiên chủ ý nói quá hay khuếch đại ý của mình để diễn

tả cảm giác sâu sắc mà ông cảm thấy. Ví dụ để giải nghĩa câu Thi-thiên 40:12, tác giả Thi thiên

không phải muốn nói đến một thực tế rằng tai họa quá nhiều đến nỗi ông không đếm hết được.

Nhưng ông đang bị căng thẳng quá mức vì tai họa của ông và ông muốn bày tỏ thái độ của ông

với những tai họa đó. Ô ng không có ý nói là số lượng tai họa lên đến hàng nghìn, hàng tỷ hay

một con số nào đó.

Page 240: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

237

e. Nhân cách hóa/thần nhân đồng nhất hóa/thần-động vật đồng nhất hóa

Ba cách ngôn này tương tự nhau và chúng nói về một thực thể để diễn tả về một thực

thể hoàn toàn khác. Nhân cách hóa chỉ về những điểm của con người cho những thực thể phi con

người (nhân cho phi nhân)

Hỡi các cửa, hãy cất đầu lên! (Thi-thiên 24:7)

Hỡi các núi, rừng cũng mọi cây cối trên rừng,

hãy cất tiếng mà hát! (Ê -sai 44:23)

Hỡi các từng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; (Ê-sai 1:2)

Sự khôn ngoan hô lên ngoài đường, Cất tiếng dội ra nơi phố chợ; (Châm-ngôn 1:20)

Thần nhân đồng nhất hóa là một diễn tả về Đức Chúa Trời bằng đặc điểm hay tính

cách của con người (thiên cho nhân). Đức Chúa Trời được mô tả có tay, có chân, có lỗ mũi, có

hơi thở, có tiếng nói và có tai. Ngài bước đi, ngồi, nhìn, nghĩ nói, nhớ, giận, la to, sống trong

cung điện, chuẩn bị bàn tiệc, xức dầu, xây nhà và dựng trại. Ngài có roi, gậy, cây phủ việt, áo,

trại, ngai, bệ chân, vườn nho, cánh đồng, xe, cái khiên và gươm. Ngài được gọi là cha, chồng,

vua, và người chăn. Tất cả những hành động hay đặc điểm của con người này được dùng theo

nghĩa bóng để mô tả Đức Chúa Trời và hành động của Ngài. Hãy cùng xem vài ví dụ sau:

Khi Chúa phán rằng: Các ngươi hãy tìm mặt ta (Thi-thiên 27:8)

Đức Chúa Trời từ trên trời ngó xuống con loài người (Thi-thiên 53:2)

Tiếng Đức Giê-hô-va rất mạnh (Thi-thiên 29:4)

Nơi chúng nó Ngài đã đóng trại cho mặt trời (Thi-thiên. 19:4)

Có phải tất cả những mô tả về Đức Chúa Trời trong ngôn từ của con người đều liên

hệ đến cách ngôn không? Đây là vấn đề giải kinh đem chúng ta đến những lĩnh vực rộng hơn của

thần học. Đức Chúa Trời thật sự giống như gì? Vì chúng ta được tạo dựng nên trong hình ảnh

của Đức Chúa Trời (Sáng-thế Ký 2:27), vậy chúng ta giống với Ngài như thế nào? Rõ ràng, nếu

Đức Chúa Trời là thần thì sự mô tả về Đức Chúa Trời như là “nhìn xuống” hay đề cập đến tay

Ngài là môt cách ngôn (thần nhân đồng nhất hóa). Tuy nhiên, còn về cơn giận, tình yêu, sự nhịn

nhục, lòng thương xót của Đức Chúa Trời thì thế nào? Những điều này có thể được hiểu theo

nghĩa đen chứ không phải là cách ngôn. Chúng ta có thể hiểu những cảm xúc theo cách hiểu của

con người bởi vì chúng ta kinh nghiệm cùng cảm xúc này nhưng điều đó không đồng nghĩa

Page 241: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

238

chúng là cách ngôn. Mặt khác, Đức Chúa Trời có tai không? Có lẽ không. Chúng ta nghĩ rằng tất

cả những liên hệ đối con người thể chất về Đức Chúa Trời là theo nghĩa bóng.

Thần - Động vật đồng nhất hóa. Những hình ảnh phi nhân dùng cho Đức Chúa Trời

cũng được sử dụng. Khi hình ảnh động vật được dùng thì đặc điểm này được gọi là thần-động

vật đồng nhất hóa. Hãy xem những ví dụ sau:

Ngài sẽ lấy lông Ngài mà che chở ngươi,

Và dưới cánh Ngài, ngươi sẽ được nương náu mình;(Thi-thiên 91:4)

Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi;

Đức Chúa Trời là hòn đá tôi, nơi Ngài tôi sẽ nương náu mình;

Ngài cũng là cái khiên tôi, sừng cứu rỗi tôi, và là nơi náu ẩn cao của tôi. (Thi-thiên 18:2)

Dĩ nhiên, đoạn Kinh thánh trong Thi thiên 91:4 không ám chỉ rằng Đức Chúa Trời là

một con chim hay Ngài giống như một con chim theo nghĩa thể chất. Nhưng có một sự tương

đồng trong đoạn Kinh Thánh giữa Đức Chúa Trời và chim – hình ảnh về gà mẹ ấp con mình

trong cánh để bảo vệ và an ủi chúng. Đức Chúa Trời an ủi và bảo vệ dân Ngài tương tự như vậy.

Cũng phải nhớ rằng thần nhân đồng nhất hóa và thần-động vật đồng nhất hóa cũng có

thể là một phép ví von, ẩn dụ hay một sự so sánh gián tiếp. Ví dụ, trong Thi thiên 23:1, Đa-vít

nói: “Đức Giê-hô-va là đấng chăn giữ tôi”. Đây là một ẩn dụ và một phép thần nhân đồng nhất

hóa (chỉ về đặc điểm con người với Đức Chúa Trời). Tương tự, Ê -sai 44:23: “Hỡi các núi, rừng

cũng mọi cây cối trên rừng, hãy cất tiếng mà hát!”, cả hai đều là nhân cách hóa và phép ngoa dụ.

2. Cách ngôn về sự thay thế

a. Nhân-quả

Các thi sĩ Cựu Ước thường dùng hình thức văn chương nhiều màu sắc và đầy cảm

xúc. Ví dụ trong Thi-thiên 51:8, Đa-vít nói rằng: “Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ”. Đây là

hiệu quả. Nguyên nhân, hành động mà Đa-vít đang thật sự kêu cầu, là sự tha thứ tội của ông với

Bát-sê-ba. Nhưng điều ông nói là kết quả của sự tha thứ - sự vui vẻ mừng rỡ. Do đó, Đa-vít đã

dùng cách ngôn, thay thế hiệu quả bằng một nguyên nhân.

Tương tự, Châm-ngôn 19:3 nói rằng: “Con trai ngu muội là tai họa cho cha nó”. Ngữ

“tai họa cho cha nó” là một hậu quả, thay thế cho nguyên nhân được chủ định (những điều mà

con trai ngu muội làm để dẫn đến sự tai họa). Giê-rê-mi 14:17 có cùng cách như vậy. “Mắt ta rơi

lệ đêm ngày chẳng thôi”. Nước mắt của nhà tiên tri là hậu quả. Điều ông đang thật sự nói đến là

sự xâm chiếm sắp đến của dân Ba-by-lôn (nguyên nhân). Thay vì nói rằng, “Quân Ba-by-lôn

đang đến đó là điều đau buồn”, Giê-rê-mi diễn tả hậu quả đầy cảm xúc mà sự xâm chiếm sẽ

giáng trên dân ông: “mắt ta rơi lệ đêm ngày chẳng thôi”.

Page 242: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

239

Hình thức này có thể được dùng ngược lại nữa – nguyên nhân có thể được nói đến khi

hiệu quả là chủ định – nhưng cách dùng này không phổ biến.

b. Đại diện

Thông thường các thi sĩ thay thế một phần đại diện của một tổng thể thay cho chính

tổng thể đó. Chúng ta cũng hay dùng thuật này trong tiếng Việt của mình. Ví dụ, chính quyền

Seoul vừa ra thông báo rằng tất cả các công nhân lao động làm việc từ năm năm trở lên tại Hàn

Quốc sẽ được ký hợp đồng thêm năm năm nữa. Thật sự, đây không phải là chính quyền của

thành phố Seoul nhưng là đại diện cho chính phủ Hàn Quốc vì Seoul là thủ đô. Tương tự như vậy,

các thi sĩ Cựu Ước sử dụng những thành phố hay chi phái để đại diện cho toàn quốc theo nghĩa

bóng. Do đó, “Ép-ra-im” (chi phái lớn nhất phía bắc) và “Sa-ma-ri” (thành phố thủ đô) được

dùng để chỉ về vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên trong khi “Giu-đa” (chi phái chính phía nam) và

Giê-ru-sa-lem (thành phố thủ đô) có thể chỉ về vương quốc phía nam của Giu-đa.

Có nhiều cách ngôn đại diện khác trong Cựu Ước. Thi. 44:6 dùng từ “cung” và

“gươm” để đại diện cho vũ khí nói chung: “Vì tôi chẳng nhờ cậy cung tôi, Thanh gươm tôi cũng

sẽ chẳng cứu tôi đâu”. Thi-thiên 20:7 dùng từ “xe” và “ngựa” để đại diện cho sức mạnh quân sự:

“Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa, Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức

Chúa Trời chúng tôi.” Cung, gươm, xe và ngựa thuộc về một nhóm lớn của vũ khí quân đội. Chỉ

nói đến vài vũ khí nhỏ có thể đại điện cho các loại vũ khí nói chung hay sức mạnh quân sự.

“Chân” có thể được dùng để đại diện cho toàn bộ con người (Thi-thiên

40:2;44:18:122:2), đặc biệt trong bối cảnh di chuyển hay đứng vững. “Xương” cũng đại diện cho

toàn thể toàn thân, đau thương trong bối cảnh của sự đau đớn ( Thi-thiên 6:2;31:10; 32:3; 42:10).

Tương tự các thi sĩ dùng “môi” như là hình ảnh thay thế cho lời nói của một người (Thi-thiên

22:2;17:1;31:18;63:3).

3. Những cách ngôn khác

Vì cách ngôn mang tính nghệ thuật nên khó để phân loại chúng vào một phạm trù

nhất định. Dầu hầu hết các cách ngôn rơi vào những phạm trù so sánh hay thay thế lớn, một số

nằm ngoài những phạm trù đó. Hai trong số cách ngôn khác khá phổ biến là hô ngữ và mỉa mai.

a. Hô ngữ.

Tác giả dùng hô ngữ khi họ gọi một người hay thực thể thật sự không hiện diện. Tác

giả dùng thuật này để diễn tả cảm giác mạnh hay nhấn mạnh một điểm đặc biệt nào đó. Hô ngữ

xuất hiện mà không báo trước. Tác giả chợt nhìn thấy một người nghe vắng mặt và nói ngay về

người đó. Hô ngữ cũng thường liên hệ với thuật nhân cách hóa vì các thi sĩ thường gọi những vật

thể vô tri (trời, đất, cửa). Để ý những ví dụ về hô ngữ sau. Ai được nói đến trong từng ví dụ sau?

Page 243: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

240

Vì vậy, hỡi các vua, hãy khôn ngoan;

Hỡi các quan xét thế gian, hãy chịu sự dạy dỗ. (Thi-thiên 2:10)

Hỡi kẻ làm ác kia, khá lìa xa ta hết thảy;

Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta. (Thi-thiên 6:8)

Hỡi các cửa, hãy cất đầu lên!

Hỡi các cửa đời đời, hãy mở cao lên!

Thì Vua vinh hiển sẽ vào. (Thi-thiên 24:7)

Ớ biển, nhân sao ngươi chạy trốn?

Ớ Giô-đanh, vì cớ gì mà ngươi chảy trở lại sau? (Thi-thiên 114:5)

Thỉnh thoảng một trong những thi sĩ gọi chính mình như thể ông cũng đang hiện diện

như là một thực thể riêng. Đây cũng là một loại hô ngữ. Ví dụ:

Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen Đức Giê-hô-va!

Mọi điều gì ở trong ta hãy ca tụng danh thánh của Ngài! (Thi-thiên 103:1)

Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? (Thi-thiên 42:5)

b. Mỉa mai

Khi sử dụng hình thức mỉa mai, tác giả nói ngược lại hoàn toàn với ý của ông. Thỉnh

thoảng hình thức mỉa mai cũng được dùng trong sự châm chọc. Thơ ca Cựu Ước thường hay kết

hợp cả mỉa mai và châm chọc. Chú ý Đức Chúa Trời dùng hình thức châm chọc, mỉa mai khi

Ngài thách thức Gióp về sự khôn ngoan thiêng liêng của Ngài.

Lằn mắt ngươi có thấu đến nơi khoan khoát mênh mông của đất chăng?

Nếu ngươi biết các điều đó, hãy nói đi.

Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là đâu? Còn nơi của tối tăm thì ở đâu?

Chớ thì ngươi có thế dẫn nó lại vào địa giới nó sao? Có biết các đường lối của nhà nó ở

chăng?

Page 244: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

241

Không sai, người biết mà! Vì ngươi đã sanh trước khi ấy, Số ngày ngươi lấy làm nhiều

thay (Gióp 38:18-21)

Cũng để ý trong A-mốt 4:4, Đức Chúa Trời dùng hình thức mỉa mai để nói với dân Y-

sơ-ra-ên “đi đến Bê-tên và phạm tội”. Tương tự, trong Ê -sai 41:22-23, Đức Chúa Trời phán bằng

hình thức mỉa mai về những hình tượng mà dân Y sơ ra ên thờ phượng.

22 Phải, hãy thuật lại đi! Hãy rao cho chúng ta điều sẽ xảy đến! Hãy tỏ ra những điều

đã có lúc trước, cho chúng ta để ý nghiệm sự cuối cùng nó là thế nào, hay là bảo cho

chúng ta biết những sự hầu đến.

23 Hãy rao những việc sẽ xảy đến sau nầy, cho chúng ta biết các ngươi là thần, cũng

hãy xuống phước hoặc xuống họa đi, hầu cho chúng ta cùng nhau xem thấy và lấy làm

lạ. (Ê -sai 41:22-23)

4. Chơi chữ

Nhiều tác giả Hê-bơ-rơ sử dụng hình thức chơi chữ trong Cựu Ước. Họ có thể chơi

chữ trên những ý nghĩa khả dĩ khác nhau của một từ hoặc trên những điều gần tương tự. Nhưng

trong ngôn ngữ Kinh Thánh bằng tiếng Việt thường không dịch những hình thức chơi chữ trong

Cựu Ước. Chúng tôi muốn trình bày vài ví dụ về chơi chữ để giúp cho bạn đánh giá cao tình

nghệ thuật phong phú của văn chương thơ ca Cựu Ước.

Tiên tri Giê-rê-mi dùng thuật chơi chữ xuyên suốt sách của mình khi ông dùng từ

trong tiếng Hê-bơ-rơ shub. Từ này có nghĩa là “chuyển đổi”. Nó có thể có nghĩa là “chuyển đến

một điều gì đó” hay “chuyển ra xa khỏi một điều gì đó”. Do đó, nó có thể được dùng với nghĩa

chuyển đến với Đức Chúa Trời (ăn năn) hay chuyển đi xa khỏi Đức Chúa Trời (sa ngã). Hai

nghĩa của một từ này hoàn toàn trái ngược nhau. Giê-rê-mi không ngần ngại dùng cả hai nghĩa

này. Ô ng dùng từ shub mười một lần từ chỉ Giê-rê-mi 3:1 đến 4:1. Ô ng dùng từ này ba lần trong

một câu (3:22). Trong tiếng Việt nó như thế này:

Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở lại!

Ta sẽ chữa sự bội nghịch cho.

Khi tham khảo các sách giải nghĩa từ trong Kinh Thánh của tiếng Hê-bơ-rơ, từ “bội

nghịch” (2 lần), “trở lại” có cùng một nghĩa là shub. Dịch sát theo nghĩa này là:

Hỡi con cái đang trở lại, hãy trở lại,

Ta sẽ chữa lành sự trở lại của các ngươi.

Page 245: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

242

Giải Nghĩa Thơ Văn Cựu Ước

Cũng như với bất kỳ đoạn văn nào trong Cựu Ước, giải nghĩa thơ văn cũng phải đặt

vào Hành Trình Giải Kinh. Bạn còn nhớ Hành Trình Giải Kinh không? Chúng ta hãy áp dụng

vào đoạn Thi thiên tiêu biểu cho văn thơ Cựu Ước: Thi-thiên 116:1-4.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Bước đầu tiên là hỏi đoạn Kinh Thánh này có nghĩa gì đối với độc giả thời Kinh

Thánh. Chúng ta bắt đầu bằng cách đọc kỹ phân đoạn Kinh thánh đó. Nhớ lại những điều bạn đã

học trong chương 2-4. Đừng quên đọc kỹ và quan sát. Là một phần của phần quan sát cẩn thận

trong Thi-thiên 116:1-4, nhận ra từng phép so sánh trong phân đoạn Kinh Thánh như chúng ta

đã học trong chương này (đồng nghĩa, diễn tiến, minh họa, đối lập và khác). Gộp những đoạn

song song lại thành những ý tưởng hay hình ảnh và sau đó học phân đoạn này theo từng ý một.

Như đã trình bày ở trên trong chương này, điều này liên quan đến việc đọc hai dòng với một ý

tưởng hơn là chỉ đọc một dòng mà thôi hay đọc một câu mà thôi.

Những câu đầu của Thi-thiên 116 có thể được chia thành những ý căn bản như sau

dựa trên phép song song:

Ý tưởng 1 Tôi yêu mến Đức Giê-hô-va, vì Ngài nghe tiếng tôi, Và lời nài xin của tôi.

Ý tưởng 2 Tôi sẽ cầu khẩn Ngài trọn đời tôi, Bởi vì Ngài có nghiêng tai qua tôi

Ý tưởng 3 Dây sự chết vương vấn tôi, Sự đau đớn âm phủ áp hãm tôi, Tôi gặp sự gian

truân và sự sầu khổ

Ý tưởng 4 Nhưng tôi kêu cầu danh Đức Giê-hô-va, rằng: Đức Giê-hô-va ôi! cầu xin Ngài

giải cứu linh hồn tôi

Tiếp theo, nhận ra từng cách ngôn. Trước hết, cố gắng nhìn thấy hình ảnh. Ví du,

khai phá ý tưởng 2 của Thi-thiên 116 ở trên (“Bởi vì Ngài có nghiêng tai qua tôi”). Người ta sẽ

thường nghiêng đầu hay xoay đầu mình về hướng âm thanh để nghe rõ hơn. Bạn có nhìn thấy tác

giả Thi thiên kêu xin cùng Đức Chúa Trời, Đấng nghiêng tai qua nghe tiếng của tác giả một cách

cẩn thận không? Còn ý tưởng thứ 3 thì sao? Chúng ta nhìn thấy những sợi dây từ trong mồ mả

giăng ra quấn quanh chân của tác giả và kéo ông xuống mồ.

Sau đó, phải bảo đảm bước vào thế giới cảm xúc của hình ảnh đó. Cảm thấy sự an ủi

mà tác giả Thi thiên nhận được khi ông nhìn thấy Đức Chúa Trời nghiêng đầu Ngài lắng nghe

ông. Hãy tưởng tượng đến ác mộng về hình ảnh dây của sự chết. Những sợi dây đó quấn quanh

bạn và kéo bạn xuống một cái mồ tối tăm và rộng lớn. Bạn rơi vào nấm mồ đó và kêu cứu. Sự

Page 246: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

243

chết nắm lấy bạn nhưng Đức Chúa Trời lắng nghe lời kêu cầu của bạn và giáng xuống để cứu

bạn.

Khi nhịp tim của bạn trở lại bình thường, hãy cố gắng nhận ra từng cách ngôn dựa

trên những phân loại mà chúng ta vừa học trong chương này (ví von, ẩn dụ, so sánh gián tiếp,

ngoa dụ, nhân cách hóa, thần nhân đồng nhất hóa, thần-động vật đồng nhất hóa, phép thay thế,

đại diện, hô ngữ và mỉa mai). Phải nhớ rằng nhiều cách ngôn rơi vào nhiều hơn một phạm trù.

Nói đến tai của Đức Chúa Trời là một thần nhân đồng nhất hóa. Dầu vậy, hình ảnh Đức Chúa

Trời nghiêng tai của Ngài cũng là một phép thay thế. Hành động nghiêng ta của Đức Chúa Trời

(nguyên nhân) dẫn đến hành động giải cứu của Ngài (kết quả) và chính hành động giải cứu của

Đức Chúa Trời là điều mà tác giả Thi thiên thật sự đang muốn nói đến.

Bây giờ, chúng ta đã sẵn sàng tóm tắt ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả thời

Kinh Thánh. Hãy nhớ những cách ngôn này là những cách ngôn cho độc giả cổ nữa. Đừng cố

gắng giải thích những hình ảnh đó theo nghĩa đen cho họ mà theo nghĩa bóng cho chúng ta. Tác

giả Thi thiên 116 không bị kéo xuống mồ mả bằng dây theo nghĩa đen. Chúng ta cùng tóm tắt ý

nghĩa của Thi-thiên 116:1-4 cho độc giả thời Kinh Thánh như sau:

Tác giả đang đối diện một tình huống khó khăn, nguy kịch và nan giải. Có lẽ ông đang ở

gần sự chết. Ông kêu gào cũng Đức Chúa Trời là đấng lắng nghe ông và giải cứu ông khỏi

hoàn cảnh đó. Bởi đó, ông bày tỏ tình yêu của ông đối với Đức Chúa Trời.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Dĩ nhiên, một trong những khác biệt căn bản phải luôn nhớ khi băng qua dòng sông

từ Cựu Ước là chúng ta, tín hữu thời Tân Ước đang ở dưới một giao ước khác. Dầu sự khác biệt

này không quá quan trọng với chúng ta khi giải nghĩa Thi thiên 116, nhưng yếu tố này phải luôn

nhớ. Có sự khác biệt gì tại đây? Chúng ta có lẽ không ở trong một hoàn cảnh khó khăn hay kinh

sợ như tác giả Thi thiên đã có. Chúng ta có thể không đối diện với sự chết nguy ngập.

Một sự khác biệt quan trọng khác là Cựu Ước tập trung vào một quan niệm về sự chết

khác với quan niệm về sự chết trong Tân Ước. Dường như không có quan niệm về đời sau (sự

phục sinh và trời) trong Cựu Ước. Giáo lý về sự chết trong Cựu Ước rất mơ hồ và cạn cợt. Sự

bảo đảm sự sống đời đời chỉ có sau sự sống, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-xu.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Một nguyên tắc thần học có thể được tìm thấy trong Thi-thiên 116:1-4 là dân của Đức

Chúa Trời phải bày tỏ tình yêu của mình với Đức Chúa Trời khi Ngài nghe họ và giải cứu họ

khỏi những hoàn cảnh kinh sợ và khó khăn giống như là sự chết.

Page 247: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

244

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Nguyên tắc này được tái khẳng định trong Tân Ước rằng chúng ta cần bày tỏ tình yêu

của mình với Đức Chúa Trời vì Ngài đã lắng nghe và giải cứu chúng ta khỏi những hoàn cảnh

khó khăn. Hơn nữa, Tân Ước nói nhiều về sự giải cứu chúng ta khỏi sự chết (và tội lỗi). I Cô-

rinh-tô 15 nói nhiều về cách Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta đắc thắng sự chết qua Chúa

Giê-xu. Chúng ta cũng được hứa sự phục sinh và sự sống đời đời. Những người không có Đấng

Christ đang trừng trừng nhìn sự chết và “dây của mồ mả” thật sự kéo họ vào. Chúng ta cũng có

những từng trãi này trước khi chúng ta đến với Đấng Christ nhưng Đức Chúa Trời đã lắng nghe

lời kêu cầu của chúng ta và giải cứu chúng ta.

Dầu vậy, để ý rằng cả Tân Ước và Cựu Ước đều không dạy rằng Đức Chúa Trời luôn

luôn can thiệp để cứu chúng ta khỏi mọi hoàn cảnh khó khăn thể chất. Dân sự của Đức Chúa

Trời cũng chịu đau khổ và chịu chết về thể xác trong suốt Kinh Thánh. Cơ Đốc Nhân vẫn bị ung

thư và chết. Tai nạn giao thông vẫn xảy ra. Nhưng đối với Cơ Đốc Nhân sự chết không bao giờ

thật sự có thể chiến thắng chúng ta. Dây của sự chết không bao giờ có thể kéo chúng ta xuống

mồ mả. Đấng Christ đã đánh bại quyền lực của sự chết và Ngài đã ban cho chúng ta sự đắc thắng

trên sự chết.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Có nhiều áp dụng khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh của mỗi người. Đối với

những Cơ Đốc Nhân đang thật sự đối diện với sự chết, đoạn Kinh Thánh này cho họ sự bảo đảm

rằng Đức Chúa Trời sẽ giải cứu họ khỏi quyền lực của sự chết qua sự phục sinh và sự sống đời

đời. Những Cơ Đốc Nhân như vậy bày tỏ tình yêu của mình với Đức Chúa Trời vì Ngài đã cứu

họ khỏi sự chết đời đời. Chúng ta cũng nhớ lại những lần Ngài đã đáp lời và giải cứu chúng ta

khỏi những tình huống bi đát khác. Chúng ta cũng bày tỏ tình yêu của chúng ta với Ngài vì Ngài

đã lắng nghe chúng ta và giải cứu chúng ta khỏi những tình huống đó.

Những Khía Cạnh Độc Đáo Của Thi Thiên

Thơ ca thường được dùng trong văn chương tiên tri, văn chương khôn ngoan và trong

Thi thiên. Văn chương tiên tri và khôn ngoan sẽ được thảo luận trong hai chương sau. Chúng

phản ảnh những dạng thể loại rất riêng và đòi hỏi hướng giải kinh riêng. Những hướng này sẽ

được thảo luận tại đây. Tương tự, Thi thiên cũng rất độc đáo và giải nghĩa chúng phải đòi hỏi

những khía cạnh đặc biệt mà chúng ta sẽ cùng thảo luận tại đây.

Trước hết chúng ta phải công nhận rằng chức năng chính của Thi thiên không phải là

dạy về giáo lý hay cách hành xử đạo đức. Chúng tôi nghiêm túc cảnh báo bạn rằng đừng bao giờ

Page 248: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

245

giải nghĩa Thi thiên theo như cách bạn giải nghĩa sách Rô-ma, tập trung vào giáo lý và cách sống.

Dĩ nhiên có những yếu tố giáo lý trong Thi thiên và những yếu tố nói về cách hành xử đạo đức

(Thi-thiên 1), nhưng đó không phải là điểm chính được chủ định tại đây.

Chức năng của Thi thiên là giúp chúng ta những kiểu mẫu về cách chúng ta thưa

chuyện và hát ca ngợi Đức Chúa Trời một cách thiêng liêng. Hơn nữa, Thi thiên cung cấp cho

chúng ta những kiểu mẫu về cách chúng ta suy gẫm về Đức Chúa Trời, tức là cách suy nghĩ và

phản ánh về Đức Chúa Trời và những điều Ngài đã làm cho chúng ta. Sự tương giao hai chiều

này trong Thi thiên giữa con người với Đức Chúa Trời có thể xảy ra trong nhiều bối cảnh khác

nhau, phản ảnh sự phong phú trong kinh nghiệm sống mà con người đối diện và gặp gỡ Đức

Chúa Trời. Có ba bối cảnh sống chính của con người trong Thi thiên: (1) những kỳ thịnh vượng

với lòng biết ơn về phước hạnh tuôn tràn, (2) kỳ đau khổ, xa lánh, và chết chóc, và (3) kỳ ngạc

nhiên khi chúng ta được tuôn tràn với những ân điển mới từ nơi Chúa, khi niềm vui được bùng

phát trong tuyệt vọng.

Do đó, chúng ta thấy rằng mặc dầu Thi Thiên là Lời của Đức Chúa Trời cho chúng ta

nhưng nó không trình bày những hướng dẫn về giáo lý mà nó trình bày những gương mẫu về

cách tương giao với những cảm xúc và nhu cầu sâu xa nhất với Đức Chúa Trời. Ví dụ, khi chúng

ta gặp đau khổ và tuyệt vọng, chúng ta kêu gào cùng Đức Chúa Trời. Bài học ở đây không phải

là chúng ta cũng phải kêu gào trong tuyệt vọng giống như họ. Nhưng bài học là khi chúng ta thấy

mình đang ở trong sự tuyệt vọng, điều chúng ta cần làm là kêu gào cùng Chúa trong sự đau khổ

như tác giả Thi thiên đã làm. Khi chúng ta làm như vậy, chúng ta có thể bắt đầu kinh nghiệm sự

an ủi và dĩ nhiên được Ngài nâng đỡ mình lên từ nơi vũng bùn nhớp nhúa (Thi-thiên 40:2).

Thành thật với Đức Chúa Trời là bài học chúng ta có thể học được trong các Thi thiên.

Tác giả Thi thiên thưa với Đức Chúa Trời chính xác cảm xúc của họ. Những cảm xúc đó thường

không có vẻ thiêng liêng và trưởng thành. Cơ Đốc Nhân ngày nay có khuynh hướng kiềm nén

cảm xúc của mình và không bày tỏ tự do với Đức Chúa Trời nên không kinh nghiệm được sự đổ

đầy của Đức Chúa Trời. Cơ Đốc Nhân cần phải dốc đổ mình trước mặt Đức Chúa Trời. Thi thiên

lên án hình ảnh sai trật về tính cách của Cơ Đốc Nhân và giúp cho chúng ta những gương mẫu

tuyệt với về sự tương giao chân thành với Đức Chúa Trời, đầy tràn cảm xúc dù trong lúc tốt hay

xấu, vui hay buồn.

Tóm lại, Thi thiên giúp đời sống Cơ Đốc của chúng ta trong nhiều phương diện.

Trước hết, Thi thiên hướng dẫn chúng ta cách thức thờ phượng một cách nghiêm túc. Tiếp theo,

Thi thiên giúp chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời một cách thành thật. Cuối cùng, Thi thiên

dẫn chúng ta vào trong sự suy gẫm và phản ánh về những điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng

ta.

Page 249: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

246

Kết Luận

Một điều chúng ta biết chắc về Đức Chúa Trời là Ngài không bao giờ nhàm chán.

Ngài quyết định chuyển tải lời của Ngài cho chúng ta thông qua những hình thức văn chương thú

vị. Thật vậy, văn thơ là một trong những thể loại văn chương sống động và đụng chạm nhất. Đức

Chúa Trời muốn kết nối với tâm trí của chúng ta nhưng Ngài cũng muốn kết nối với tấm lòng

của chúng ta (Thi-thiên 103:1). Do đó, chúng ta phải đọc Thi thiên khác với cách chúng ta đọc

các thư tín Tân Ước. Chúng ta đang nhìn những tuyệt tác nghệ thuật thay vì khoa học. Nhấn

mạnh của các thi sĩ là về ảnh hưởng cảm xúc mà thơ ca tác động đến đời sống của độc giả. Thơ

ca mang tính súc tích và cấp độ cấu trúc cao (thể song song) và hình ảnh biểu tượng.

Nhận ra những yếu tố này giúp chúng ta trân trọng và giải nghĩa những sứ điệp quyền

năng mà thơ ca Cựu Ước đem đến. Hơn nữa, để hiểu được những lời này trọn vẹn, chúng ta phải

bước vào Hành Trình Giải Kinh, bắt đầu với thế giới của họ và băng qua dòng sông cách biệt

trên cây cầu nguyên tắc. Cuối cùng, chúng ta phải mở lòng của mình với sứ điệp và để sứ điệp đó

biến đổi chúng ta và thay đổi chúng ta để chúng ta trở nên giống như hình ảnh của Đấng Christ.

Bài Tập

1. Đọc Thi thiên 20 và tìm ra những đặc điểm song song.

2. Đọc Thi thiên 102:1-14 và tìm ra những cách ngôn.

3. Á p dụng Thi thiên 1 vào Hành Trình Giải Kinh.

Đọc qua Thi thiên 1 nhiều lần và tìm cũng như đánh dấu càng nhiều quan sát càng tốt.

Mô tả và định nghĩa từ cách ngôn trong từng câu.

Đặt Thi thiên 1 vào Hành Trình Giải Kinh.

Page 250: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

247

Chương 20

Cựu Ước – Tiên Tri

Lời Giới Thiệu

Các sách Tiên tri! Một tập hợp thú vị và tuyệt vời. Các sách tiên tri trong Cựu Ước

chứa đựng những đoạn đầy linh cảm trong Kinh Thánh. Sách Ê -sai là một ví dụ. Nhớ lại Ê -sai

40:31:

Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng;

chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.

Cơ Đốc Nhân yêu thích câu Kinh Thánh này. Nó không đưa linh hồn của bạn lên cao

sao? Hãy xem lẽ thật sâu sắc trong Ê-sai 53:6 về Chúa Giê-xu Christ và chúng ta:

Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi

của hết thảy chúng ta đều chất trên người.

Chúng ta cũng tiếp tục trích những đoạn Kinh Thánh trong các sách tiên tri. Tuy

nhiên, các sách tiên tri cũng chứa nhiều câu khó hiểu và bất thường. Ví dụ trong A-mốt 3:12:

Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như kẻ chăn chiên chỉ gỡ được hai giò hay một tai ra khỏi

họng sư tử, thì những con cái Y-sơ-ra-ên, là những kẻ ngồi tại Sa-ma-ri nơi góc giường

và trên thảm của Đa-mách, cũng sẽ được cứu cách như vậy.

Một số đoạn dường như xúc phạm nặng nề đến độc giả giống như trong Giê-rê-mi. 2:23b-24:

Hãy xem đường ngươi trong nơi trũng; nhận biết điều ngươi đã làm, như lạc đà một gu

lanh lẹ và buông tuồng, như lừa cái rừng, quen nơi đồng vắng, động tình dục mà hút gió.

Trong cơn nóng nảy, ai hay xây trở nó được ư? Những kẻ tìm nó không cần mệt nhọc,

đến trong tháng nó thì sẽ tìm được.

Và một vài phân đoạn mạnh mẽ về sự phán xét được thể hiện trong Giê-rê-mi 15:1-2:

Đức Giê-hô-va bèn phán cùng tôi rằng: Dầu Môi-se và Sa-mu-ên đứng trước mặt ta,

nhưng lòng ta cũng chẳng hướng về dân nầy. Hãy đuổi chúng nó khỏi trước mặt ta, cho

chúng nó đi ra. Sẽ xảy ra khi chúng nó khỏi ngươi rằng: Chúng tôi sẽ đi đâu? thì hãy bảo

chúng nó rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai đã được định cho chết, hãy chịu chết; ai

đã được định cho phải gươm dao, hãy chịu gươm dao; ai đã được định cho phải đói kém,

hãy chịu đói kém; ai đã được định cho sự phu tù, hãy chịu phu tù.

Một số đoạn trong sách tiên tri Cựu Ước dễ hiểu và tuyệt vời nhưng cũng có những

đoạn thật sự khó và rắc rối. Trong chương này chúng tôi sẽ giúp cho bạn biết cách để giải nghĩa

phần tuyệt vời này của Cựu Ước. Trước hết chúng ta sẽ thảo luận về bản chất của văn chương

Page 251: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

248

tiên tri Cựu Ước. Tiếp theo, chúng ta sẽ khai phá những bối cảnh thần học và lịch sử quan trọng

qua đó các tiên tri đã viết. Qua những bối cảnh này, chúng ta sẽ thảo luận sứ điệp chung của các

sách tiên tri để xác định chính xác chúng đang muốn nói với những người ở thời đó điều gì. Một

khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó cho độc giả thời Kinh Thánh, chúng ta

sẽ sẵn sàng hoàn tất Hành Trình Giải Kinh và bắt đầu giải nghĩa và áp dụng những phân đoạn

tiên tri riêng. Chúng tôi cũng sẽ tóm tắt chương nói với một phần thảo luật tóm tắt và kếu thúc

với vào bài tập.

Bản Chất Của Văn Chương Tiên Tri Cựu Ước

Các sách tiên tri được chia làm bốn đại tiên tri (Ê -sai, Giê-rê-mi, Ê -xê-chi-ên và Đa-

ni-ên) và mười hai tiểu tiên tri (Ô -sê, Giô-ên, A-mốt, Á p-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-

cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi). Gọi là đại và tiểu không phải theo tầm quan

trọng của nó mà là theo độ dài của nó. Bốn sách tiên tri đầu tiên dài hơn mười hai sách sau.

Số lượng các văn chương tiên tri chiếm khá lớn trong nửa sau của Cựu ước. Thực ra,

các sách tiên tri chiếm nhiều không gian trong Kinh Thánh bằng cả Tân Ước. Rõ ràng chúng

mang một lượng sứ điệp lớn của Đức Chúa Trời cho chúng ta.

Trong số các thể loại trong Kinh Thánh thì văn chương tiên tri là khó hiểu nhất. Tại

sao? Lý do chính có lẽ chúng liên hệ đến những điều mà chúng ta không quen lắm trong tiếng

Việt của mình. Chúng ta quen với chuyện kể vì chúng ta đọc nó suốt. Chúng ta quen với Thi

thiên vì chúng ta biết những bài hát và bản nhạc. Những thư tín trong Tân Ước cũng quen thuộc

với những độc giả hiện đại như chúng ta. Do đó, chúng ta cảm thấy thỏa mái khi đọc những thể

loại này. Nhưng thể loại tiên tri thì dường như xa lạ.

Dầu vậy, trong văn chương của ngôn ngữ chúng ta và văn hóa của chúng ta cũng có

một chút tương đồng với thể loại văn chương tiên tri Cựu ước. Thế giới của các tiên tri có thể xa

lạ. Nhưng dầu chúng ta không quen với thể loại văn chương này nhưng chúng ta cũng có thể học

cách để nhận ra những yếu tố của thể loại tiên tri và chúng ta có thể học những nguyên tắc giải

kinh cho thể loại này. Hơn nữa, như chúng tôi đề cập bên dưới, có lẽ có một gợi ý về sự tương

đồng thể loại giữa tiên tri Cựu Ước và một vài thể loại trong âm nhạc của chúng ta. Vì vậy,

chúng ta hãy bắt đầu!

Các sách tiên tri bao gồm chính yếu nhiều sứ điệp nói và giảng ngắn, thường do các

tiên tri công bố hoặc là cho quốc gia Y-sơ-ra-ên hoặc là cho quốc gia Giu-đa. Chúng cũng bao

gồm những khải tượng từ Đức Chúa Trời cũng như những phần kể chuyện ngắn và những hành

động biểu tượng.

Chỉ có phần nhỏ trong các lời tiên tri Cựu Ước liên quan đến những sự kiện về

tương lai cho chúng ta. Điều này có lẽ làm cho bạn ngạc nhiên. Nhiều người tưởng rằng từ tiên

tri chỉ nói về những sự kiện của thời kỳ cuối cùng và những nhà tiên tri chỉ nói chủ yếu về tiên

báo về thời kỳ cuối cùng. Thật ra ít hơn hai phần trăm của lời tiên tri Cựu Ước nói về Đấng Mê-

Page 252: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

249

si-a. Ít hơn năm phần trăm đặc biệt mô tả về thời kỳ giao ước mới. Ít hơn một phần trăm liên

quan đến những sự kiện chưa xảy đến trong thời của chúng ta. Phần lớn nội dung của các sách

tiên tri nói về sự bất tuân của dân Y-sơ-ra-ên và/ hoặc dân Giu-đa và về sự đoán phạt chắc sẽ xảy

ra. Vai trò của nhà tiên tri là công bố về sự bất tuân này và sự đoán xét tức thì cũng như tiên báo

về những điều sẽ xảy đến trong tương lai xa hơn.

Các tiên tri sử dụng phần nhiều thơ ca trong sứ điệp của mình và nó mang sắc thái

thơ ca nên có phần xa lạ với chúng ta. Trong chương 19, chúng ta đã học về thơ ca Hê-bơ-rơ.

Hãy nhớ áp dụng những bài học đó cho những phần thơ ca trong các sách tiên tri nữa. Một đặc

điểm trọng tâm của thơ ca Hê-bơ-rơ là sử dùng cách ngôn một cách rộng rãi. Những cách ngôn

này là vũ khí chính để bắn hạ các sách tiên tri. Những ngôn ngữ đó khiến cho các sách tiên tri

thêm sặc sỡ và thú vị.

A-mốt không đơn giản nói: “Đức Chúa Trời giận dữ”. Nhưng ông nói: “sư tử đang gầm”.

Ê-sai không đối lập sự xấu xí của tội lỗi với sự tuyệt diệu của sự tha thứ, nhưng ông dùng

ngôn ngữ tượng hình để công bố rằng: “Dầu tội các ngươi đỏ như hồng điều sẽ trở nên

trắng như tuyết dầu đỏ như son cũng trở nên trắng như lông chiên”.

Giê-rê-mi thất vọng với thái độ bất trung của dân Giu-đa với Đức Chúa Trời và muốn

chuyển tải nỗi đau mà Ngài đang chịu vì dân Giu-đa lìa bỏ Ngài để thờ hình tượng. Do đó,

xuyên suốt sách của ông, ông so sánh dân Giu-đa với một người vợ bất trung, người đã

trở thành người đàn bà tà dâm. “Người đã sống như một người đàn bầ tà dâm với nhiều

tình nhân”. Ông đang nói về sự thờ hình tượng của dân Giu-đa.

Hãy nhớ rằng sứ mạng của thơ ca nằm trong khả năng tác dụng đến cảm xúc của độc

giả và thính giả. Chắc chắn văn chương tiên tri là văn chương xúc cảm nhất trong Kinh Thánh.

Các tiên tri bày tỏ tình yêu sâu đậm của Chúa với dân Ngài và nỗi đau mà Ngài chịu vì họ khước

từ Ngài. Tuy nhiên, các tiên tri cũng thẳng thắn mô tả sự đoán xét kinh khiếp sắp đến (xâm lược

của dân A-sy-ri và Ba-by-lôn). Họ đối diện với sự chống đối và ghen ghét của xã hội, đặc biệt là

vua và những thầy tế lễ mất chất.

Một đặc điểm quan trọng của các sách tiên tri là các sách này chính yếu là những bộ

sưu tầm. Các sách này tập trung những đơn vị nhỏ hơn, thường là những sứ điệp nói mà các tiên

tri công bố giữa công chúng Y-sơ-ra-ên hoặc Giu-đa. Những đơn vị văn chương khác như

chuyện kể, khải tượng thường được trộn lẫn với nhau.

Bản chất sưu tầm của các sách này cũng chứa nhiều điều quan trọng. Giống như

những sưu tầm về thơ ca của một tác giả hiện đại, các sách tiên tri bao gồm những đơn vị độc lập

và ngắn hơn. Những đơn vị này thường không được sắp xếp theo thời gian và thường không

được sắp xếp theo thứ tự chủ đề (đặc biệt sách Giê-rê-mi). Thông thường một chủ đề lớn, bao

quát (sự đoán xét và giải cứu) gắn kết những phần lớn lại với nhau nhưng đối với một số phần thì

đơn vị chủ đề cũng không có nữa.

Page 253: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

250

Vì đặc điểm sưu tầm này, hầu hết các sách tiên tri dường như không thể tìm ra dàn

bài thích hợp được. Ngược lại chúng ta có thể lập dàn bài cho các thư tín Tân Ước và hiểu được

từng sách theo dàn bài. Ngay cả những chuyện kể của Kinh Thánh cũng có thể lập dàn bài được.

Thông thường dàn bài của các sách tiên tri thường không tác dụng. Là những sưu tầm, chúng tập

trung vào vài chủ đề chính mà chúng lặp lại nhiều lần. Do đó cũng có nhiều sự lặp lại.

Nhưng đừng thất vọng, không thể lập được dàn bài sứ điệp của các sách tiên tri

không có nghĩa là chúng ta không hiểu được sứ điệp của chúng. Những sưu tầm có thể rõ ràng

trong việc chuyển tải sứ điệp của nó. Ví dụ, trong khi chúng ta không thể lập dàn bài sách Giê-

rê-mi được nhưng sứ điệp xuyên suốt rất rõ ràng. Cũng không phải vì thể loại hay hình thức văn

chương của các sách tiên tri không quen thuộc với chúng ta không có nghĩa là chúng ta không

thể cảm nhận được cảm xúc của đoạn Kinh thánh đó hay nắm được điều Đức Chúa Trời đang

phán qua các sách tiên tri. Tuy nhiên, chúng ta không thể học được văn chương tiên tri Cựu Ước

cùng một cách chúng ta học đoạn văn chương hiện đại.

Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa và Thần Học

Trong chương sáu và bảy chúng ta đã học về tầm quan trọng của bối cảnh lịch sử-

văn hóa và văn chương trong việc giải kinh. Vì văn chương tiên tri Cựu ước là độc đáo nên cố

gắng giải nghĩa nó bên ngoài bối cảnh là điều sai lầm. Trước hết chúng ta phải nhận ra bối cảnh

lịch sử-văn hóa mà các tiên tri đã giảng. Để làm được điều này, chúng ta phải ôn lại lịch sử dân

Y-sơ-ra-ên và đặt các sách tiên tri vào thời kỳ thích hợp của họ trong câu chuyện Kinh Thánh.

Một câu chuyện liên tục chạy từ Sáng Thế Ký 12 đến II Các vua 25. Trong Sáng Thế

Ký Đức Chúa Trời kêu gọi Á p-ra-ham và hứa ban cho ông hậu tự, đất đai và phước hạnh. Lời

hứa này được lặp lại cho con trai của Á p-ra-ham là Y-sác và con trai của Y-sác là Gia-cốp, rồi

đến lượt mười hai con trai. Một trong những con trai này là Giô-sép, người bị các anh mình bán

sang Ai-cập làm nô lệ. Ô ng bị đem xuống Ai-cập và sau đó gia đình ông cũng theo xuống và họ

sống ở đất Ai-cập. Sách Sáng Thế Ký kết thúc với gia đình đặc biệt này tại nước Ai-cập.

Trong vòng một thời gian bốn trăm năm, người Do Thái phải bị bắt làm tôi mọi cho

người Ai-cập. Đức Chúa Trời đến với họ và dấy Môi-se lên để giải phóng họ một cách thần kỳ ra

khỏi nước Ai-cập (sách Xuất Ê -díp-tô Ký). Sau đó, Đức Chúa Trời lập giao ước với họ, phán

rằng: “Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của các ngươi và các ngươi sẽ làm dân ta. Ta sẽ ngự giữa các

ngươi”. Đức Chúa Trời ban cho họ nhiều loại luật pháp khác nhau trong Xuất Ê -díp-tô Ký, Lê-vi

Ký và Dân số Ký. Những luật này là những nguyên tắc mà họ phải tuân thủ khi vào Đất Hứa, nơi

có Đức Chúa Trời ở giữa họ và được Ngài ban phước trong vùng đất đó.

Tuy nhiên, thế hệ thứ nhất không chịu vào đất hứa nên Đức Chúa Trời để cho họ

chết trong sa mạc. Sau đó Ngài dấy thế hệ thứ hai và dẫn vào đất hứa. Ngài tái lập mối quan hệ

giao ước với họ. Giống như trước đây, những nguyên tắc của giao ước qui ước cho họ cách sống

trong đất mà có Đức Chúa Trời ngự giữa. Mối quan hệ này được ghi lại trong sách Phục truyền

Page 254: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

251

luật lệ Ký. Sách này chỉ rõ cho dân sự rằng nếu họ vâng theo Đức Chúa Trời và giữ luật pháp thì

họ sẽ được phước. Ngược lại, nếu họ bất tuân luật pháp và lìa xa Đức Chúa Trời, họ sẽ bị hình

phạt và nếu họ không ăn năn, họ sẽ mất đất hứa.

Phần còn lại của câu chuyện cho đến II Các vua liên quan đến vấn đề là dân Y-sơ-ra-

ên có tiếp tục giữ giao ước của Chúa hay không. Trong sách Giô-suê, dân sự tiếp tục trung thành

với Chúa. Nhưng trong Các Quan Xét, họ xây khỏi Ngài và phạm tội thờ hình tượng. Sách Ru-tơ

giới thiệu về Đa-vít, người sẽ là nhân vật chủ đạo trong I&II Sa-mu-ên. Đa-vít trung tín với Đức

Chúa Trời và ông đem quốc gia mình trở về vâng phục giao ước. Tuy nhiên, ngay cả Đa-vít cũng

không thể trung tín trọn vẹn với Đức Chúa Trời khi ông phạm tội với Bát-sê-ba. Con trai Đa-vít

là Sa-lô-môn có thể trung tín với Đức Chúa Trời của cha mình trong một thời gian nhưng sau đó

ông sớm thờ hình tượng và làm gương xấu cho những vị vua tiếp theo và cả dân sự nữa.

Sách I& II Các Vua kể câu chuyện như thế nào hai quốc gia của người Do Thái, Y-

sơ-ra-ên và Giu-đa, tiếp tục xây khỏi Đức Chúa Trời và thờ thần tượng của những dân tộc lân

bang. Trên hết, Đức Chúa Trời đoán phạt họ và họ mất quyền sống trong Đất Hứa. Vương quốc

phía bắc, Y-sơ-ra-ên, thờ thần tượng rất sớm và bị người A-sy-ri hủy diệt (năm 722 TC). Sau đó,

vương quốc phía nam, Giu-đa cũng xây khỏi Chúa và bị dân Ba-by-lôn hủy diệt (năm 586 TC.).

Sách II Các Vua kết thúc với sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem và lưu đày của dân cư vương

quốc phía nam đến Ba-by-lôn.

Các tiên tri giảng chính trong bối cảnh của phần sau của câu chuyện này. Khi dân sự

từ bỏ Chúa và quên giao ước họ đã lập với Ngài trong Xuất Ê -díp-tô và Phục truyền, các tiên tri

được dấy lên làm người phát ngôn của Đức Chúa Trời để kêu gọi dân sự trở về vâng phục giao

ước. Do đó, theo bối cảnh lịch sử này, hầu hết các tiên tri giảng trong một trong hai bối cảnh:

ngay trước khi dân A-sy-ri xâm chiếm và hủy phá vương quốc phía bắc, Y-sơ-ra-ên; hoặc là

ngay trước khi dân Ba-by-lôn xâm lược và hủy diệt vương quốc phía nam, Giu-đa.

Những bối cảnh này đặc biệt quan trọng để hiểu được các sách tiên tri. Chúng ta

phải giữ những bối cảnh này luôn ở trước mặt mình khi đọc và giải nghĩa văn chương tiên tri

Cựu Ước. Theo thần học, các tiên tri công bố sứ điệp của họ từ bối cảnh giao ước Môi-se, được

mô tả chính trong Phục truyền. Họ cảnh báo dân sự phải ăn năn, từ bỏ thần tượng và quay về với

giao ước mà họ đã lập trong Phục truyền. Họ cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên về những hình phạt kinh

khiếp mà Đức Chúa Trời đã nói đến trong Phục truyền. Hình phạt kinh khiếp nhất mà họ công bố

trong sự đau đớn, ấy là họ đánh mất sự hiện diện của Đức Chúa Trời và mất Đất Hứa.

Sứ Điệp Tiên Tri Căn Bản

Chúng ta vừa thấy các sách tiên tri được viết trong bối cảnh thần học của sách Phục

truyền và trong bối cảnh lịch sử của sự xâm lăng của hoặc là người A-sy-ri (chống lại dân Y-sơ-

ra-ên) hoặc là người Ba-by-lôn (chống lại dân Giu-đa). Sứ điệp của họ trong bối cảnh này là gì?

Page 255: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

252

Các tiên tri phục vụ Đức Chúa Trời như là người thừa sai của Chúa. Họ đứng trước

mặt Chúa, lên án và cảnh cáo dân sự về hậu quả của việc từ bỏ giao ước. Trong khi có nhiều sắc

thái và điểm phụ khác trong các lời công bố, sứ điệp tổng thể của họ có thể được tóm trong ba

điểm căn bản:

1. Các ngươi đã vi phạm giao ước; các ngươi phải ăn năn.

2. Không ăn năn, sẽ bị đoán phạt

3. Nhưng, có hi vọng vượt trên sự đoán phạt cho một sự phục hồi tương lai vinh hiển.

1. Dưới điểm 1

Các tiên tri nhấn mạnh đến mức độ nghiêm trọng của sự vi phạm giao ước của đất

nước. Họ trình bày nhiều bằng chứng cho điều này. Bằng chứng vi phạm giao ước này được gom

lại trong ba phạm trù. Tất cả những phạm trù đó được liệt kê trong Phục truyền. Những phạm trù

này phản ánh ba dạng cáo buộc chính chống lại Y-sơ-ra-ên hoặc những lĩnh vực chính của việc

vi phạm giao ước: thờ hình tượng, bất công xã hội và chủ nghĩa lễ nghi tôn giáo.

a. Thờ thần tượng có lẽ là sự vi phạm giao ước căn bản nhất và các tiên tri tiếp tục

giảng chống lại điều này. Dân Y-sơ-ra-ên thờ thần tượng ngay từ ban đầu trong thể chế chính trị

của họ bằng con bò vàng tại Bê-tên và Đan. Nhưng ngay cả dân Giu-đa cũng thờ thần tượng

nghiêm trọng. Chủ nghĩa thỏa hiệp, muốn trở nên giống như các quốc gia lân cận và dân Giu-đa

đã cảm thấy thỏa mái tạo nên cách thờ phượng riêng cho mình, vừa thờ phượng Ba-anh, Á t-tạt-tê

và những thần khác vừa thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Họ cố gắng giữ những lễ nghi

thờ phượng Đức Chúa Trời trong đền thờ trong khi đó cũng dâng của lễ lên các thần khác và

tham dự vào các lễ hội của họ.

Sự thờ thần tượng thỏa hiệp này lên đến đỉnh điểm trong Ê-xê-chi-ên 8. Đức Thánh

Linh đưa Ê-xê-chi-ên dạo quanh đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Tại đó ông nhìn thấy một hình tượng

ở lối vào của cổng phía bắc, những hình vẽ và những hình khắc cùng những con vật ô uế trên

tường, những người phụ nữ đốt hương cho thần Tham-mu của người Ba-by-lôn và các trưởng lão

xây lưng về sự hiện diện của Đức Chúa Trời, xây mặt về phía đông và lạy mặt trời. Chúa phán

Ngài sẽ lìa khỏi đền thờ Ngài. Thật sự trong Ê -xê-chi-ên 10, sự vinh hiển của Chúa rời khỏi.

Giao ước cũ của Môi-se được qui định trong Phục truyền đã đến hồi kết bằng sự hiện diện của

Chúa lìa khỏi trong Ê-xê-chi-ên 10.

Thờ thần tượng không chỉ vi phạm luật pháp. Nó còn đánh đổ trọng tâm của mối

quan hệ giữa Đức Chúa Trời với dân sự Ngài. Nguyên tắc chủ đạo của giao ước trong Cựu Ước

là lời khẳng định của Chúa: “Ta sẽ làm Đức Chúa Trời các người; các ngươi sẽ là dân ta. Ta sẽ

ngự giữa các ngươi”. Thờ thần tượng khước từ mối quan hệ này. Nhiều tiên tri nhấn mạnh đến sự

đau đớn mà Đức Chúa Trời phải chịu khi bị khước từ. Đối với Ngài, vấn đề không chỉ đau đớn

về cảm xúc mà còn luật pháp nữa.

Page 256: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

253

Để minh họa cho điều này, nhiều tiên tri sử dụng hình ảnh người chồng chung thủy/

người vợ bất trung. Đây có lẽ là hình ảnh chủ đạo vẽ lên sự nghiêm trọng của sự thờ hình tượng.

Hình ảnh người vợ tà dâm, bất tín chạy suốt sách Giê-rê-mi như là hình ảnh trung tâm của ông.

Ê-xê-chi-ên cũng dùng hình ảnh quan hệ trong chương 16. Ô-sê sống một vở kịch đau lòng trong

chính cuộc đời của mình.

Các tiên tri không chỉ công bố rằng thờ thần tượng là vi phạm những khía cạnh quan

hệ và pháp lý của giao ước mà còn biện giáo chống lại hình tượng, chứng minh rằng thờ hình

tượng là vô nghĩa và ngu muội (Ê-sai 41:22-24; Giê-rê-mi 10:5).

b.Bất công xã hội.

Giao ước trong Phục truyền buộc con người nhiều hơn chỉ là thờ phượng Chúa. Mối

quan hệ với Đức Chúa Trời đòi hỏi mối quan hệ đúng đắn với con người. Chúa quan tâm đến

công bằng xã hội cho mọi người và Ngài đặc biệt quan tâm đến những cá thể yếu hơn trong xã

hội. Phục truyền yêu cầu sự đối xử công bằng với mọi người làm công (24:14), công bằng trong

hệ thống tòa án (19:15-21), và chăm sóc đặc biệt cho những người góa, trẻ mồ côi và khác ngoại

bang (24:17-22). Khi dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Chúa, họ cũng rời khỏi mệnh lệnh về sự công bằng

xã hội của Chúa. Các tiên tri liên tục lên án điều này và xem nó như là phần trọng tâm của việc

vi phạm giao ước. Họ thường trích sự đối xử với kẻ mồi côi và người góa bụa như là minh họa

cho sự thất bại xã hội của con người. Họ cũng cho rằng vì thiếu công bằng xã hội này nên việc

dâng của lễ của họ cũng chẳng có ý nghĩa nữa.

Ví dụ trong phần mở đầu của chương 1, Ê-sai công bố rằng Chúa sẽ xây mắt Chúa

và không nghe khi họ dâng của lễ vì sự bất công xã hội của họ. Tương tự, Giê-rê-mi công bố

rằng: “Chúng nó mập béo và mởn mờ. Sự hung ác chúng nó quá đỗi; chẳng xét lẽ cho kẻ mồ côi,

hầu cho được thạnh lợi! Chúng nó chẳng làm sự công bình cho kẻ nghèo. Đức Giê-hô-va phán:

Ta sẽ chẳng thăm phạt về những sự ấy sao? Thần ta chẳng trả thù một nước dường ấy sao?”

(Giê-rê-mi 5:28-29). Trong cùng một cách như vậy, Mi-chê cáo buộc rằng công bằng quan trọng

đối với Đức Chúa Trời hơn là dâng lễ nghi. Trong Mi-chê 6:7-8 ông khẳng định:

7 Đức Giê-hô-va há có thích những hàng ngàn chiên đực hay là hàng vạn sông dầu sao?

Ta há nên dâng con đầu lòng của ta vì sự phạm pháp ta, và trái của thân thể ta vì tội lỗi

linh hồn ta sao?

8 Hỡi người! Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; cái điều mà Đức Giê-hô-va đòi

ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường

với Đức Chúa Trời ngươi sao?

c. Lễ Nghi Tôn Giáo

Dân sự coi trọng lễ nghi tôn giáo thay vì mối quan hệ. Dân sự quên rằng lễ nghi là

phương tiện cho mối quan hệ, chứ không phải là sự thay thế cho mối quan hệ. Khi dân Y-sơ-ra-

Page 257: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

254

ên chú tâm vào hình thức dâng của lễ thì họ quên mất ý niệm về mối quan hệ với Chúa. Họ bỏ

qua tầm quan trọng của sự hiện diện của Ngài ở giữa họ. Họ nghĩ rằng chỉ lễ nghi là được đòi hỏi.

Họ kết luận sai lầm rằng lễ nghi đúng cách sẽ khỏa lấp được những sự vi phạm giao ước như là

bất công xã hội và thờ thần tượng. Họ đánh đồng công bằng xã hội với sự dâng của tế lễ. Đây

chỉ là hành động giả hình của họ. Trong Ê-sai 1:11-13a, Chúa hỏi: “Muôn vàn của lễ các ngươi

nào có can hệ gì đến ta?... Ai khiến các ngươi giày đạp hành lang ta? Thôi, đừng dâng của lễ

chay vô ích cho ta nữa!”

Dâng của lễ không chỉ là lễ nghi mà nhà tiên tri chỉ trích. Trong Ê-sai 58, nhà tiên tri

quở trách sự kiêng ăn nữa. “Các ngươi không thể kiêng ăn như đã làm ngày nay và mong lời của

các người được nhậm từ trên cao”. Ê-sai trích câu nói của Chúa. Ô ng tiếp tục.

Sự kiêng ăn mà ta chọn lựa, há chẳng phải là bẻ những xiềng hung ác, mở những trói của

ách, thả cho kẻ bị ức hiếp được tự do, bẻ gãy mọi ách, hay sao? Há chẳng phải là chia

bánh cho kẻ đói, đem những kẻ nghèo khổ đã bị đuổi đi về nhà mình, khi thấy kẻ trần

truồng thì mặc cho, và chớ hề trớ trinh những kẻ cốt nhục mình, hay sao? (Ê-sai 58:6-7)

Thờ thần tượng, bất công xã hội và chủ nghĩa lễ nghi tôn giáo – đây là ba cáo buộc

liên quan nhau tạo nên Điểm 1 của sứ điệp tiên tri: Các ngươi đã phá vỡ giao ước; các ngươi

phải ăn năn. Lời kêu gọi ăn năn là khía cạnh khác của Điểm 1. Các tiên tri nài xin dân sự ăn năn

và phục hồi mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Ngay cả sau khi các nhà tiên tri công bố sự đoán

xét tức thì, thì họ cũng tiếp tục nài nỉ họ ăn năn. Giê-rê-mi là ví dụ điển hình.

2. Dưới Điểm 2

Điểm thứ hai của sứ điệp tiên tri là Không Ăn Năn? Thì bị Đoán Phạt. Các tiên tri

nài xin dân sự hãy ăn năn và trở về vâng phục giao ước. Tuy nhiên, cả dân Y-sơ-ra-ên và dân

Giu-đa đều không ăn năn và các tiên tri nhận biết sự cứng lòng của họ và công bố hậu quả kinh

khiếp. Nhiều tư liệu của các sách tiên tri liên quan đến sự đoán xét tức thì kinh khiếp về sự sụp

đỗ của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Những sự đoán xét chính được các nhà tiên tri tiên báo là sự

xâm chiếm khủng khiếp của trước hết là dân A-sy-ri và sau đó là dân Ba-by-lôn. Khía cạnh

nghiêm trọng nhất của điều này là mất Đất Hứa. Đức Chúa Chúa sẽ đuổi họ ra khỏi đất hứa như

Ngài đã cảnh báo họ trong Phục truyền.

3. Dưới Điểm 3

Điểm cuối của sứ điệp tiên tri là: Nhưng, có hi vọng trên cả sự đoán phạt về một sự

phục hồi tương lai vinh hiển. Những lời hứa về đấng Mê-si-a và những tiên báo của các tiên tri

tạo nên một phần lớn của Điểm 3. Các tiên tri không công bố một sự phục hồi sau sự sụp đổ để

trở lại với hiện trạng ban đầu. Nhưng bức tranh quan hệ và thần học của dân sự của Đức Chúa

Trời trong tương lai khác hơn và…tốt lành hơn. Trong tương lai, các nhà tiên tri công bố rằng sẽ

có một Xuất Ê -díp-tô mới (Ê-sai), một giao ước mới (Giê-rê-mi) và một sự hiện diện mới của

Page 258: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

255

linh của Chúa (Ê-xê-chi-ên và Giô-ên). Sự tha thứ và bình an sẽ mô tả hệ thống mới này. Mối

quan hệ thay cho lễ nghi.

Tất cả những lời tiên tri tuyệt diệu về Đấng Christ nằm trong phạm trù này. Nhà tiên

tri công bố rằng dân sự đã không giữ được giao ước và luật pháp của Chúa. Do đó, sự đoán phạt

đang đến. Tuy nhiên, sau sự phá hủy sẽ có một sự phục hồi vinh hiển bao gồm cả những dân tộc

ngoại bang (không phải người Do Thái). Đấng Mê-si-a sẽ đến và Ngài sẽ thiết lập một giao ước

mới và tốt hơn. Hơn nữa, nhà tiên tri nhấn mạnh rằng, những sự kiện này không phải là ngẫu

nhiên hay được quyết định bởi các nước thế giới. Ngược lại, các nhà tiên tri mạnh dạn công bố

rằng tất cả những sự kiện này, sự đoán phạt và phục hồi là phần của chương trình của Đức Chúa

Trời và việc mở ra những sự kiện này là bằng chứng rằng Đức Chúa Trời là Chúa của cả lịch sử.

Hầu hết các sách tiên tri được tóm tắt bởi ba điểm được thảo luận ở trên. Ví dụ, các

sách Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê -xê-chi-ên, Ô -sê, Mi-chê và Sô-phô-ni đều chứa đựng tất cả ba điểm này.

Tuy nhiên A-mốt tập trung chính chỉ trong Điểm 1 và 2 (phá vỡ giao ước và sự đoán phạt). Cho

đến chương 8 thì ông mới đề cập đến hi vọng tương lai và sự phục hồi. Ngược lại, Giô-ên bỏ qua

Điểm 1 và ngầm hiểu rằng dân sự đã nhận ra là họ đã vi phạm giao ước. Ông đi thẳng đến sự

đoán phạt (Điểm 2) và sau đó đến sự phục hồi tương lai (Điểm 3). Á p-đia và Na-hum không đi

theo những phạm trù trên. Họ khác nhau vì họ giảng chống lại các nước ngoại bang (Ê-đôm và

Ni-ni-ve) thay vì chống lại Y-sơ-ra-ên hay Giu-đa. Họ đóng một vai trò nhỏ trong bức tranh tiên

tri tổng thể. Các sách tiên tri hậu lưu đày (Xa-cha-ri, A-ghê, Ma-la-chi) tương tự có một sứ điệp

khác bởi vì họ viết sau lưu đày.

Dầu vậy, sách Giô-na quan trọng đối với sứ điệp tiên tri căn bản hơn nhiều dầu ông

cũng giảng cho một thành phố ngoại bang (Ni-ni-ve) và không chống lại dân Y-sơ-ra-ên hay

Giu-đa. Chúng ta hiểu sách Giô-na như thế này: trong khi sứ điệp lịch sử được giảng thật sự là

cho dân thành Ni-ni-ve nhưng sứ điệp tiềm ẩn trong đó là lời quở trách nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên

và Giu-đa. Giô-na là một trong những nhà tiên tri sớm nhất, đã thiết lập một tiền đề cho các tiên

tri đến sau. Sự ăn năn của dân thành Ni-ni-ve ngược lại với sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên.

Những điều xảy ra trong thành Ni-ni-ve là những điều cần phải xảy ra ở Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-

ri, nhưng điều đó không xảy ra.

Ví dụ, Giê-rê-mi giảng trong thành Gê-ru-sa-lem hàng thập niên nhưng đáp lại là sự

ghen ghét của họ. Không một người nào ăn năn, từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất. Ngược lại,

Giô-na giảng một bài giảng rất ngắn ở thành Ni-ni-ve và cả thành đều ăn năn, từ người lớn nhất

đến người nhỏ nhất. Sách Giô-na cáo buộc sự đáp ứng của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa là không

thể bào chữa được.

Giải Nghĩa và Áp Dụng

Điều quan trọng là nắm được sứ điệp trọng tâm của các sách tiên tri như đã thảo luận

ở trên bởi vì hầu hết các sách tiên tri mà bạn gặp trình bày một trong ba điểm chính này. Những

Page 259: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

256

điểm tương tự trong cái nhìn tổng thể giúp bạn xác định được Bước 1 của Hành Trình Giải Kinh:

Nắm được đoạn Kinh Thánh có ý nghĩa gì với độc giả thời Kinh Thánh. Hãy nhớ những bối cảnh

lịch sử và thần học. Đọc cẩn thận và quan sát, quan sát và quan sát!

Tiếp theo, bạn phải nhận ra được những sự khác biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh

và chúng ta (Bước 2). Chúng ta không ở dưới luật pháp cũ, cũng không đối diện với những rủa

sả của giao ước trong Phục truyền. Tương tự, chúng ta cũng không đối diện với sự xâm lăng của

quân Ba-by-lôn và A-sy-ri. Chúng ta cũng không phải là một thể chế thần quyền. Nước Việt

Nam không giống như nước Y-sơ-ra-ên cổ.

Bước 3 là băng qua cây cầu nguyên tắc và phát triển những nguyên tắc thần học. Giả

dụ như bạn đang học một đoạn Kinh thánh tiên tri nằm trong điểm đầu tiên của sứ điệp tiên tri:

Các ngươi đã phá vỡ giao ước; các ngươi phải ăn năn! Lẽ thật thần học rõ ràng và phổ biến nhất

ở đây là bất tuân Đức Chúa Trời là tội lỗi và tội lỗi đó đem đến sự hình phạt nếu không giải

quyết nó một cách đúng đắn. Điều bắt buộc là chúng ta phải chuyển lẽ thật thần học này vào lời

dạy của Tân Ước trong Bước 4, chúng ta hiểu được lẽ thật này một cách mới mẻ trong ánh sáng

của thập tự giá.

Trong lời dạy về tội lỗi và vi phạm giao ước, chúng ta phải cẩn thận kẻo chúng ta

quên Phao-lô và ân điển và trở nên Giu-đa hóa. Hãy nhớ những thảo luận của chúng ta trong

chương 18 về luật pháp. Chúng ta không còn ở dưới giao ước luật pháp nữa, do đó chúng phải

cẩn thận trong việc chuyển nguyên tắc này xuống cho độc giả của ngày nay. Chúng ta thấy hai

tình huống khác nhau cho cách nguyên tắc này chuyển xuống cho những người ngày nay: một

cho những người tin và một cho những người không tin. Tội lỗi nghịch lại với Đức Chúa Trời do

những người vô tín thực hiện dẫn đến sự đoán phạt. Tuy nhiên khi một tín hữu phạm tội, người

đó vẫn được khỏa lấp bởi sự chuộc tội của Đấng Christ.

Trong việc cố gắng để hiểu được ý nghĩa của những đoạn Kinh Thánh công bố sư vi

phạm giao ước, chúng ta thường thấy rất hữu ích nếu chúng ta tập trung vào những khía cạnh mà

tội lỗi hay sự vi phạm giao ước của chúng ta tác dụng. Trong các sách tiên tri, Đức Chúa Trời

dùng hình ảnh hôn nhân và hình ảnh người vợ bất trung để chuyển tải cảm giác đau đớn khi dân

Y-sơ-ra-ên và Giu-đa bất trung. Dầu vậy, trong bối cảnh của Việt Nam, chúng ta vi phạm luật

pháp thì chúng ta phải bị phạt nhưng không có cảm xúc thật sự khi vi phạm luật.

Một trong những lẽ thật thần học quan trọng nhất của sứ điệp tiên tri là khi chúng ta

bất trung với Chúa, chúng ta phá hủy mối quan hệ của chúng ta với Ngài, khiến cho Ngài bị tổn

thương. Khi chúng ta yêu một người nào đó tha thiết mà họ trở mặt và bất trung với chúng ta,

chúng ta cảm thấy thế nào? Đối với tín hữu thời Tân Ước, hậu quả của tội lỗi không được xưng

ra không phải là sự xâm lăng của người Ba-by-lôn hay sự đi đày nhưng là phá họa mối quan hệ

với Đức Chúa Trời, Đấng bị tổn thương vì sự bất tín của chúng ta.

Để hoàn tất Hành Trình Giải Kinh, chúng ta phải chuyển đến mức độ áp dụng (Bước

5). Lẽ thật này phải được chuyển đến hoàn cảnh sống thật riêng biệt của từng Cơ Đốc Nhân. Ví

dụ một Cơ đốc nhân ngày nay tham gia thờ phượng Chúa và xưng nhận Giê-xu là Chúa nhưng

vẫn còn dung túng sự phạm tội tà dâm thì chẳng khác gì dân Y-sơ-ra-ên thường xuyên dâng của

lễ cho Chúa nhưng cũng tham dự vào sự cùng thờ thần Ba-anh. Cả hai hành động đó đều làm tổn

Page 260: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

257

thương Đức Chúa Trời và phá hủy mối quan hệ đó. Sự ăn năn thật và một sự thay đổi của tấm

lòng cần thiết cho cả hai tình huống đó.

Khi bạn đọc và học các sách tiên tri, bạn cũng sẽ thường xuyên gặp những phân

đoạn chứa đựng một trong ba lời quở trách (thờ hình tượng, bất công xã hội và chủ nghĩa lễ nghi

tôn giáo). Từng lời quở trách này cũng cần phải đi vào Hành Trình Giải Kinh, băng qua dòng

sông và đi vào Tân Ước để đến với bối cảnh hiện đại.

Ví dụ, bị cáo buộc là thờ thần tượng cho chúng ta ngày nay là trong bất cứ hình thức

nào mà chúng ta thờ phượng và khiến chúng ta xa cách mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Đối với

nhiều người trẻ như là thành công, sự nghiệp, tiền bạc, sự nổi tiếng, quần áo, máy tính, Ti vi, xe

hơi, thể thao và ngay cả điểm số….

Tuy nhiên, bất công xã hội khó chuyển vào bối cảnh hiện nay. Các tiên tri thường

giảng chống lại bất công xã hội và họ xem vi phạm công bằng xã hội cũng nghiêm trọng như thờ

hình tượng. Họ lên án nhiều trường hợp bất công xã hội như hối lộ nơi tòa án, không thành thật

nơi thị trường hay không chịu trả lương đúng. Một trong những chủ đề xã hội chính chạy suốt

các sách tiên tri là sự lạm dụng, áp bức và ngay cả khước từ tầng lớp thấp hơn. Các nhà tiên tri

nói đến những hạng người này như là người góa bụa, trẻ mồ côi và khách lạ. Sách Phục truyền

đề cập sự sai trật này đến tám lần và yêu cầu dân của Đức Chúa Trời phải cung ứng cho họ cả

công bằng xã hội lẫn thực phẩm (10:18; 24:17, 19,20,21; 26:12,13; 27:19). Rõ ràng nhóm người

này không có đủ quyền về chính trị lẫn kinh tế trong xã hội để có thể tự bảo vệ mình. Do đó, Đức

Chúa Trời truyền lệnh cho dân Ngài phải đặc biệt chú ý và chăm sóc cho những người như vậy.

Cả dân Y-sơ-ra-ên lẫn dân Giu-đa đều không thể giữ mạng lệnh này và các tiên tri quở trách họ

một cách nghiêm túc.

Vì vậy nguyên tắc thần học cho lời quở trách này được liên hệ đến sự thật rằng Đức

Chúa Trời quan tâm đến những người yếu đuối cả về thể chất lẫn xã hội, kinh tế. Hơn nữa, Ngài

mong dân Ngài, vì Ngài đang sống giữa họ, phải nên tích cực trong việc giúp đỡ và bảo vệ

những người như vậy. Chắc chắn khi đem lẽ thật này vào Tân Ước thì không thể thay thế mạng

lệnh về công bằng xã hội được. Chúa Giê-xu áp dụng mạng lệnh trong Lê-vi Ký: “Yêu người lần

cận như mình” trong câu chuyện người Sa-ma-ri nhân lành khẳng định rằng Chúa Giê-xu tiếp tục

dạy chúng ta chăm sóc những người đang có nhu cầu, ngay cả đối với những người không cùng

chủng tộc hay văn hóa như chúng ta.

Á p dụng lẽ thật này thường khó ngày nay vì chúng ta phải đối diện với sự thống trị

của thể chế chính trị. Trong trường hợp của Việt Nam, thể chế chính trị có vai trò rất lớn trong

việc định hình công bằng xã hội. Những quyền căn bản của con người phải được bảo đảm. Dầu

vậy, Hội Thánh, là dân của Đức Chúa Trời phải phát huy công bằng xã hội càng mạnh mẽ càng

tốt để làm trọn mệnh lệnh Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm. Những việc làm cụ thể để chứng

minh rằng chúng ta đang thực hiện công bằng xã hội là chống tham nhũng, đút lót, phải quan tâm

đến những người nghèo khó và yếu đuối hơn chúng ta, đặc biệt những tầng lớp hay đối tượng bị

xã hội coi thường như những người neo đơn, bị bịnh nan y, trẻ mồ côi và người góa bụa. Đây là

lời dạy rõ ràng trong Tân Ước.

Điều quan trọng cần để ý là các tiên tri đứng nghịch lại với thái độ của họ đối với

văn hóa. Phần của sứ điệp của họ là quan điểm xã hội của dân của Đức Chúa Trời phải dựa trên

Lời của Đức Chúa Trời chứ không phải trên văn hóa. Một trong những thách thức cho chúng ta

Page 261: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

258

ngày nay là nhận ra rằng chúng ta mang nhiều quan điểm văn hóa/chính trị của chính mình vào

trong vấn đề này. Thách thức giải nghĩa cho chúng ta là không phải theo quan điểm của Cộng

Hòa hay Dân Chủ, nhưng quan điểm Cơ Đốc – những quan điểm được neo kỹ trong thần học

Kinh thánh thay vì trong văn hóa thế tục.

Do đó, chúng ta cần hỏi vài câu hỏi áp dụng. Ai là người không có đủ quyền kinh tế

và chính trị để có công bằng hay thực phẩm? Những người thiểu số? Những người nhập cư bất

hợp pháp? Người nghèo? Người già? Trẻ em? Phụ nữ bị lạm dụng? Trẻ em chưa được sinh ra?

Tiến trình áp dụng này chưa hoàn tất cho đến khi chúng ta nắm được tầm quan trọng của vấn đề

và cho đến khi chúng ta nhận ra rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta nhận lấy trách nhiệm chăm

sóc những người không có quyền lợi kinh tế hay chính trị nào.

Cuối cùng, bạn cũng sẽ gặp nhiều phân đoạn liên quan đế lời quở trách thứ ba của

các tiên tri, cáo buộc họ về chủ nghĩa lễ nghi tôn giáo. Đặc biệt trong Giu-đa, nhiều người tin

rằng cứ giữa lễ nghi thờ phượng là tất cả điều Đức Chúa Trời đòi hỏi. Họ tin rằng hành động lễ

nghi như dâng của lễ làm trọn trách nhiệm của họ với Đức Chúa Trời và do đó họ không cần

phải làm điều gì khác bên ngoài giao ước họ đã chọn. Các tiên tri lên án thái độ này của họ. Dĩ

nhiên phải nhớ rằng chính lễ nghi không phải là điều xấu. Chính Chúa đã ban nhiều lễ nghi mà

các tiên tri quở trách. Do đó sứ điệp tiên tri không phải là tẩy chay lễ nghi. Vấn đề của dân Giu-

đa là họ dùng lễ nghi để thay thế mối quan hệ hơn là phát huy mối quan hệ.

Nguyên tắc thần học nổi lên trong lời quở trách này là Đức Chúa Trời mong muốn

mối quan hệ hơn là lễ nghi. Lễ nghi chỉ có thể thích hợp nếu nó giúp phát triển mối quan hệ. Khi

chúng ta chuyển qua Tân Ước, nguyên tắc này cũng được tái khẳng định. Những người Pha-ri-si

trong thời Chúa Giê-xu quan tâm đến việc giữ ngày Sa-bát hơn là quan tâm đến nhu cầu và nỗi

đau của con người. Chúa Giê-xu quở trách họ mạnh mẽ. Hầu hết các lễ nghi trong Cựu Ước

không còn được giữ trong thời Tân Ước, nhưng có những hội thánh bắt đầu phát triển lễ nghi của

mình. Dầu vậy, mục tiêu của đức tin là phát triển mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Lễ nghi có thể

giúp dân sự của Đức Chúa Trời phát triển mối quan hệ đó.

Dầu vậy, không có mối quan hệ, lễ nghi trở nên vô nghĩa. Một khi lễ nghi trở thành

mục tiêu hơn là phương tiện để đạt mục tiêu, nó trở thành vô nghĩa – ngay cả tệ hơn. Nó có thể là

mục đích sống của một cuộc đời thì công bằng xã hội và mối quan hệ đúng với Đức Chúa Trời bị

tổn thương. Lúc đó, lễ nghi có cùng mức độ giống như là thờ hình tượng. Nguyên tắc cho chúng

ta ngày nay là những lễ nghi Cơ Đốc của chúng ta chỉ thích hợp khi chúng giúp phát huy mối

quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời. Lễ nghi là phương tiện để đạt mục đích (mối quan hệ),

chứ chính chúng nó không phải là mục tiêu. Tương tự, giữ lễ nghi mà không giữ mối quan hệ thì

không được xem là giữ công bằng xã hội và sự thờ phượng thật của Đức Chúa Trời.

Để vài phút định giá lại lễ nghi trong đời sống tín ngưỡng của bạn. Những lễ nghi

của bạn có đóng vai trò như là công cụ để giúp bạn phát triển mối quan hệ với Đức Chúa Trời

không? Có lễ nghi nào giúp bạn thừa hưởng đức tin và mối quan hệ của thế hệ đi trước và sẽ

giúp bạn chuyển tải đức tin và mối quan hệ đến thế hệ kế tiếp không? Hay lễ nghi của bạn đang

thay thế cho mối quan hệ với Đức Chúa Trời? Mục đích của bạn vào ngày Chúa nhật là để quan

hệ với Đức Chúa Trời hay chỉ giữ lễ nhà thờ?

Bây giờ chúng ta hãy cùng suy nghĩ về ý trong Điểm 2 của sứ điệp tiên tri: Không ăn

năn? Bị đoán phạt! Như trong phần thảo luận trên, đối với độc giả thời Kinh Thánh, sự đoán

Page 262: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

259

phạt này xảy ra trong hình thức ngoại xâm, hủy diệt đất nước, đánh mất sự hiện diện của Đức

Chúa Trời và đánh mất quyền được sống trong Đất Hứa. Nguyên tắc thần học nằm đằng sau sứ

điệp tiên tri phản ảnh một sự thật rằng tội lỗi là một sự xúc phạm đến sự thánh khiết của Đức

Chúa Trời. Do đó, tội lỗi sẽ dẫn đến sự đoán phạt. Hơn nữa, vì sự thánh khiết của Đức Chúa Trời,

tội lỗi tiếp tục đặt một bức tường ngăn cách giữa dân sự của Đức Chúa Trời và mối quan hệ của

Ngài đối với chính Đức Chúa Trời, đấng đang ngự giữa họ.

Khi chúng ta soi nguyên tắc này qua Tân Ước, chúng ta nhận thấy rằng tội lỗi đã

không thay đổi và hậu quả của tội lỗi cũng không thay đổi. Điều thay đổi là Đức Chúa Trời đã

chuyển sự đoán phạt sự chết vì tội lỗi của Cơ Đốc nhận vào Đấng Christ. Dầu vậy, tội lỗi trong

đời sống của tín hữu Tân Ước vẫn là sự xúc phạm đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Đức

Chúa Trời đang ngự trong mỗi tín hữu và tội lỗi trong đời sống của tín hữu xúc phạm Đức Chúa

Trời thánh đang ngự trong chúng ta. Nếu chúng ta không ăn năn và lìa bỏ tội lỗi, mối quan hệ

của chúng ta với Đức Chúa Trời sẽ bị phá hủy. Chúng ta sẽ mất quyền tương giao mật thiết với

Ngài và nhiều hậu quả tiêu cực sẽ xảy ra.

Cuối cùng, chúng ta cùng giải nghĩa và áp dụng Điểm 3: Nhưng, có hi vọng bên trên

sự đoán phạt về một sự phục hồi tương lai vinh hiển. Nhiều đoạn Kinh Thánh Cựu Ước công bố

điều này. Dĩ nhiên, chúng ta thấy rõ sự ứng nhiệm tối thượng của những lời hứa này trong Đấng

Christ, nhưng sứ điệp tiên tri về sự tha thứ và phục hồi cũng có thể được chuyển từ mức độ quốc

gia của người Do Thái cổ đến một nguyên tắc thần học và sau đó chuyển đến cho chúng ta ngày

nay. Nguyên tắc thần học diễn tả một thực tế rằng Đức Chúa Trời đang tha thứ và phục hồi con

người. Khi chúng ta chuyển vào trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng sự tha thứ và phục hồi được

tìm thấy trong Chúa Giê-xu Christ. Do đó, không có tội lỗi hay hoàn cảnh nào trong cuộc đời của

chúng ta mà Đức Chúa Trời không tha thứ hay phục hồi nếu chúng ta hạ mình quay về với Ngài

qua Đấng Christ.

Có nhiều áp dụng riêng cho từng hoàn cảnh. Nhiều tín hữu ngày nay đang suy sụp.

Nhiều người đang ở trong rắc rối gia đình. Nhiều người đang bị ám ảnh bởi những sự kiện trong

quá khứ. Những đoạn Kinh Thánh nào được áp dụng cho họ bằng cách chứng minh rằng Đức

Chúa Trời có thể phục hồi hoàn toàn những gì đã bị phá hủy và hư hại. Đức Chúa Trời có thể

làm mới lại bất cứ người nào và ban cho con người hi vọng. Đức Chúa Trời đang tha thứ và phục

hồi sự mới mẻ trong từng đời sống.

Ví dụ, nếu chúng ta áp dụng Ê-xê-chi-ên 37, chúng ta cần đứng với Ê -xê-chi-ên và

nhìn xuống trũng xương khô khi Đức Chúa Trời hà hơi sống của Ngài vào chúng và phục hồi sự

sống trọn vẹn cho chúng. Tình huống đó vô vọng làm sao? Những người đó chết chóc làm sao?

Đức Chúa Trời, đấng mà Ê-xê-chi-ên mô tả không thể hà hơi sống mới vào bạn nữa sao? Nếu

bạn học các sách tiên tri với một tâm thái bi quan và suy sụp về cuộc sống, bạn thất bại trong

việc nắm được những yếu tố quan trọng nhất của sứ điệp tiên tri.

Những Vấn Đề Đặc Biệt – Những Đoạn Tiên Tri

Hầu hết các lời tiên tri chỉ về những sự kiện trong thời của họ nhưng cũng có một

phần nhỏ nói về những sự kiện trong tương lai cho chúng ta. Dĩ nhiên chúng ta đặc biệt quan tâm

đến phần tiên tri đang nằm trong thời của chúng ta. Dầu vậy, những phân đoạn này khơi gợi một

thách thức đặc trưng, đặc biệt khi chúng ta cố gắng giải thích những chi tiết của những điều

Page 263: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

260

thuộc về tương lai. Thật sự ngày nay có nhiều bất đồng về những cách giải nghĩa những đoạn

Kinh Thánh như vậy.

Một trong những vấn đề chính nổi lên khi chúng ta cố gắng giải nghĩa những lời tiên

báo là vấn đề quan điểm gần – quan điẻm xa. Khi các nhà tiên tri nhìn vào tương lai, họ thấy rõ

dân Y-sơ-ra-ên hay Giu-đa sẽ bị quân A-sy-ri hay Ba-by-lôn hủy diệt. Tuy nhiên, họ cũng nhìn

thấy sự hủy diệt của các quốc gia khác nữa; thực ra họ thấy sự đoán phạt trên toàn thế giới (Ngày

của Đức Giê-hô-va). Sự đoán phạt gần (quân A-sy-ri hoặc Ba-by-lôn) thì dễ nhận ra theo bối

cảnh lịch sử nhưng sự đoán phạt xa thì có vẻ xa vời hơn.

Tương tự, khi các nhà tiên tri vẽ lên hình ảnh của những sự kiện liên quan đế hi

vọng và sự phục hồi tương lai, họ có thể nói đến ba điều: (1) Sự trở về của dân Do Thái bị lưu

đày dưới sự chỉ huy của E-xơ-ra và Nê-hê-mi, (2) sự đến lần đầu của Đấng Christ, hoặc (3) lần

đến thứ hai của Đấng Christ. Vấn đề giải nghĩa của chúng ta là các nhà tiên tri không nói rõ khi

nào họ nhìn vào những sự kiện gần và khi nào họ nhìn vào những sự kiện xa. Các nhà tiên tri đi

tới rồi đi lui từ việc mô tả những sự kiện sẽ xảy ra trong thời của chính họ (quan điểm gần) đến

những sự kiện xảy ra trong sự đến lần thứ nhất của Đấng Christ (quan điểm xa) đến những sự

kiện vẫn thuộc tương lai đối với chúng ta (quan điểm xa hơn). Những sự kiện này dường như đan

xen với nhau trong những hình ảnh mà chúng trình bày.

Quan điểm gần-xa này tương tự với hình ảnh mà khi chúng ta nhìn một dãy núi từ

xa. Ví dụ, giả dụ bạn đang đứng ở nơi thoáng và nhìn một dãy núi từ đàng xa. Bạn thấy gì?

Khi chúng ta nhìn quang cảnh từ đàng xa, những đỉnh núi dường như có hai chiều

kích; tức là tất cả chúng nó đều ở cùng một khoảng cách xa chúng ta. Những đỉnh núi phía trước

không có vẻ gần hơn những đỉnh núi phía sau. Dầu vậy, trong thực tế có một thung lũng rộng lớn

phân cách các đỉnh núi với nhau. Những đỉnh núi phía sau của quang cảnh có lẽ xa hàng dặm với

đỉnh núi phía trước. Nhưng từ tầm nhìn của chúng ta, chúng ta thấy dường như chúng có cùng

khoảng cách với chúng ta.

Các nhà tiên tri vẽ lên những hình ảnh về những sự kiện tương lai trong cùng một

kiểu cách như vậy. Bức tranh trở về từ lưu đày dưới thời E-xơ-ra và Nê-hê-mi giống như đỉnh

núi phía trước; những đỉnh núi phía sau là những sự kiện liên quan đến sự đến lần thứ nhất và lần

thứ hai của Đấng Christ. Đối với nhà tiên tri thì tất cả những sự kiện này đều là tương lai và xa,

do đó họ không phải lúc nào cũng xác định sự kiện họ đang mô tả. Thực sự, dường như họ

thường chuyển từ một sự kiện tương lai đến một sự kiện khác, ngay cả trong cùng một đoạn và

thỉnh thoảng bên trong cùng một câu.

Sự việc này khiến chúng ta phải cẩn trọng về giáo lý trong việc giải nghĩa những chi

tiết của những sự kiện tương lại. Chúng ta cũng để ý đến đặc điểm gần-xa của những đoạn Kinh

Thánh này. Dầu vậy, tinh thần mô tả sự kiện tương lai này không ngăn được chúng ta sử dụng

Hành Trình Giải Kinh và phát triển những nguyên tắc thần học như bình thường. Những chủ đề

rộng mà chúng ta thảo luận ở trên vẫn rõ ràng. Hơn nữa, có thể những nhà tiên tri nối những sự

kiện lại với nhau để độc giả của họ tập trung nhiều hơn vào những nguyên tắc rộng lớn hơn là

những chi tiết (vd. Cố gắng xác định chính xác khi nào Đấng Mê-si-a sẽ trở lại).

Page 264: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

261

Một vấn đề giải kinh khác mà chúng ta sẽ gặp thường xuyên là một số lời tiên tri

Kinh thánh có những khía cạnh đòi hỏi điều kiện để được ứng nghiệm. Chính Đức Chúa Trời nói

những điều rõ ràng trong Giê-rê-mi 18:7-19:

7 Chim hạc giữa khoảng không tự biết các mùa nhất định cho nó; chim cu, chim yến,

chim nhạn, giữ kỳ dời chỗ ở. Nhưng dân ta chẳng biết luật pháp của Đức Giê-hô-va! 8

Sao các ngươi nói được rằng: Chúng ta là khôn sáng, có luật pháp Đức Giê-hô-va ở với

chúng ta? Nhưng, nầy, ngọn bút giả dối của bọn thông giáo đã làm cho luật pháp ấy ra sự

nói dối! 9 Những kẻ khôn sáng bị xấu hổ, sợ hãi, và bị bắt. Chúng nó đã bỏ lời của Đức

Giê-hô-va; thì sự khôn ngoan nó là thể nào? 10 Vậy nên, ta sẽ ban vợ chúng nó cho kẻ

khác, ruộng chúng nó cho chủ mới; vì từ kẻ rất nhỏ cho đến người rất lớn, ai nấy đều tham

lam; từ tiên tri cho đến thầy tế lễ, ai nấy đều làm sự gian dối.

Đức Chúa Trời dường như muốn nói rằng trong nhiều trường hợp kết quả cuối cùng

của một lời tiên tri được giới hạn bởi sự đáp ứng của con người với sứ điệp tiên tri đó. Điều này

không có nghĩa là Lời của Chúa thất bại nhưng để khẳng định rằng điều kiện này là phần của ý

muốn tể trị của Ngài và được liên hệ với quyền tể trị của Ngài trong việc quyết định những điều

như vậy (Giê-rê-mi 18:6).

Một minh họa rất hay cho lời tiên tri có điều kiện này là trong sách Giô-na. Trong

Giô.3:4, Giô-na công bố: “còn bốn mươi ngày nữa, thành Ni-vi-ve sẽ bị sụp xuống”. Tuy nhiên

dân thành Ni-ni-ve đáp ứng sứ điệp của Giô-na bằng cách tin ông và ăn năn công việc của mình.

Họ mặc áo bao gai, kiêng ăn. Đức Chúa Trời đáp lại những hành động của dân Ni-ni-ve với lòng

thương xót, xóa bỏ lời tiên tri nghịch lại dân này (3:10). Do đó, như được khẳng định trong Giê-

rê-mi 18:7-10, Đức Chúa Trời tự do thực thi sự lựa chọn tối thượng của Ngài và thay đổi ứng

nghiệm của lời tiên tri như là kết quả của lòng nhân từ rất lớn của Ngài và sự ăn năn cùng lời cầu

nguyện của dân sự dưới sự đoán phạt.

Một đặc điểm văn chương trong các sách tiên tri trình bày cho chúng ta với những

thách thức là cách dùng hình ảnh và cách ngôn của nhà tiên tri để mô tả những sự kiện tương lai.

Hãy nhớ rằng các nhà tiên tri thường hay dùng ngôn ngữ thơ ca. Họ vẽ lên những bức tranh sống

động bằng hình ảnh và dùng cách ngôn tuyệt vời để chuyển tải những lời tiên báo về tương lai.

Thông thường khó nhận biết được bức tranh nào họ vẽ chứa đựng những lời tiên báo theo nghĩa

đen về tương lai hay là theo nghĩa bóng. Chắc chắn hình ảnh tiên báo của họ nói đến những thực

tế tương lai, nhưng xác định chắc chắn có phải là theo nghĩa đen hay nghĩa bóng có thể là điều

khó khăn.

Ví dụ xem Ê-sai 11:6:

Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi

mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi.

Rõ ràng đoạn Kinh Thánh này nói về sự bình an, nhưng nó ở nghĩa đen ở mức nào?

Có phải “muôn sói” và “chiên con” là cách ngôn chỉ về những kẻ thù truyền kiếp không? Tức là,

đoạn Kinh Thánh này chủ yếu nói về một thời kỳ khi các nước không còn chiến tranh với nhau

không? Hay nó hoàn toàn là nghĩa đen? Trong thời kỳ vương quốc sắp đến, muôn sói và chiên

con sẽ thật sự sống chung với nhau trong sự bình an theo nghĩa đen không? Chủ ý của tác giả

trong đoạn Kinh Thánh này là gì?

Page 265: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

262

Hay xem Ê-sai 65:17-20. Chúa phán trong 65:17 rằng Ngài sẽ tạo trời mới và đất

mới”. Trong 65:20 Ngài thêm vào:

Tại đó sẽ không có trẻ con chết non, cũng chẳng có ông già nào chẳng trọn đời mình; vì

chết lúc trăm tuổi, còn là chết trẻ, và kẻ có tội lúc trăm tuổi, ấy là bị rủa sả.

Tất cả những điều này được hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng? Phải chăng Đức

Chúa Trời sẽ dựng nên trời mới và đất mới theo nghĩa vật chất? Đó là một quả đất mà người ta

sống khá lâu nhưng vẫn chết theo nghĩa đen? Hay nó là nghĩa tượng trưng.

Nhiều Cơ Đốc Nhân có nhiều ý kiến khác nhau trong việc giải nghĩa những đoạn

Kinh Thánh tiên báo này. Những bất đồng xoay quanh hai câu hỏi trọng tâm: Câu hỏi thứ nhất là

một câu hỏi rộng: Những hình ảnh mà các nhà tiên tri sử dụng để tiên báo về tương lai nằm ở

mức độ nghĩa đen nào? Câu hỏi thứ nhất liên hệ đến một vấn đề có liên quan: Hội Thánh Tân

Ước có ứng nghiệm những lời tiên tri trong Cựu Ước liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên không?

Chúng tôi muốn giúp bạn một phương pháp giải nghĩa. Chúng tôi không cố gắng

thuyết phục bạn một vị trí thần học nào. Nhưng về vấn đề này, kiến thức thần học rộng về những

sự kiện tương lai và về mối quan hệ giữa hội thánh và Y-sơ-ra-ên thường xác định câu trả lời về

phương pháp của một người đối với hai câu hỏi giải kinh trên. Phải nhớ rằng khi chúng ta giải

kinh, chúng ta phải đi tới đi lui giữa những phần nhỏ và phần tổng thể. Chúng ta phải giải nghĩa

những đoạn Kinh Thánh bên trong bối cảnh của toàn Kinh Thánh.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng cảnh báo bạn đừng để những định kiến thần học trộn lẫn

chi phối cách bạn giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh nhất định ngay cả trước khi bạn bắt đầu tranh

chiến với nó. Chúng ta phải giữ cân đối khi chúng ta cho phép những phần nhỏ và tổng quát để

thông tin cho nhau. Tức là chúng ta mang sự hiểu biết thần học tổng quát với chúng ta vào những

đoạn Kinh Thánh giải nghĩa này, nhưng chúng ta cũng thường xuyên tìm cách cập nhật và phát

triển sự hiểu biết thần học tổng quát (chung) qua việc học những đoạn Kinh Thánh nhỏ hơn

(từng phần).

Trong Hành Trình Giải Kinh, vấn đề này nổi lên trong Bước 3 (nguyên tắc thần học)

và Bước 4 (ý nghĩa cho Hội thánh Tân Ước). Nên nhớ rằng nguyên tắc thần học được phát triển

trong Bước 3 phải trung thành với đọan Kinh Thánh đồng thời cũng thích ứng với toàn bộ phần

còn lại của Kinh Thánh. Tương tự, chúng ta phải chuyển qua cái nhìn Tân Ước. Tân Ước cũng

nói nhiều về những sự kiện tương lai, cung cấp cho chúng ta nhiều đoạn Kinh Thánh nói về bản

chất của vương quốc của Đức Chúa Trời, mối quan hệ giữa dân Y-sơ-ra-ên và Hội thánh, sự tái

lâm của Đấng Christ và những sự kiện về thời cuối cùng. Do đó, hiểu được những lời dạy Tân

ước này sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta chuyển ý nghĩa của độc giả Cựu Ước vào ý nghĩa cho

Hội thánh ngày nay.

Chúng tôi cung cấp vài chỉ dẫn. Thứ nhất, đừng quá quan tâm đế khía cạnh văn thơ

của lời tiên tri. Tức là đừng cho phép những định kiến thần học của bạn ngăn trở bạn tôn quý và

hiểu được những hình ảnh và cách ngôn. Bạn nên dành thời gian nhiều hơn cố gắng nắm những

hình ảnh mà nhà tiên tri vẽ lên hơn là cố gắng đặt những sự kiện họ mô tả vào thứ tự thời gian

cho tương lai chúng. Nhưng phải giải thích hình ảnh và cách ngôn chắc chắn không có nghĩa là

xem thường thực tế nghĩa đen đằng sau hình ảnh đó. Chúa Giê-xu Christ xuống thế gian là một

Page 266: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

263

sự ứng nghiệm của các hình ảnh tiên tri trong Cựu Ước theo nghĩa đen và vật chất. Cách mà

Ngài ứng nghiệm lời tiên tri trong lần đến đầu đến thế gian có lẽ khẳng định cách Ngài có thể sẽ

ứng nghiệm lời tiên tri trong sự tái lâm trong tương lai.

Chúng tôi cũng đề nghị bạn tập trung nhiều hơn vào việc chuyển tải và áp dụng

những nguyên tắc thần học rộng hơn thay vì cố gắng áp đặt tất cả những sự kiện đó vào một hệ

thống. Các nhà tiên tri cất cánh bay cao như chim ưng, vẽ lên hình ảnh về tương lai với những

chuyển biến rộng hơn. Họ không quan tâm nhiều đến việc trình bày một sự mô tả chi tiết, có tổ

chức và có cấu trúc về thời kỳ cuối cùng.

Cuối cùng đừng quên cách mà các nhà tiên tri sử dụng quan điểm xa-gần. Những sự

kiện tương lai thường được trộn lẫn với nhau.

Kết Luận

Có nhiều sứ điệp quan trọng trong các sách tiên tri. Chắc chắn những phát ngôn viên

của Đức Chúa Trời cung cấp cho chúng ta nhiều lời dạy phong phú và sâu sắc về bản tính của

Đức Chúa Trời. Họ cũng nói một cách mạnh mẽ với chúng ta về tính cách và nhân cách của

chúng ta. Họ sử dụng ngôn ngữ thơ ca đầy màu sắc. Sau đây là phần tóm tắt ba điểm đơn giản:

1. Các ngươi đã vi phạm giao ước; các ngươi phải ăn năn.

2. Không ăn năn, sẽ bị đoán phạt

3. Nhưng, có hi vọng vượt trên sự đoán phạt cho một sự phục hồi tương lai vinh hiển.

Trọng tâm của sứ điệp của các sách tiên là chủ đề về mối quan hệ của Đức Chúa

Trời với dân sự của Ngài. Học các sách tiên tri có thể giúp chúng ta hiểu nhiều hơn bản chất của

Đức Chúa Trời và biết được điều Đức Chúa Trời mong đợi ở bạn trong mối quan hệ của bạn với

Ngài và với những người lân cận.

Bài tập:

Đọc từng phân đoạn bên dưới, áp dụng Hành Trình Giải Kinh. Trả lời những câu hỏi trong các

bước của Hành Trình Giải Kinh. Sau đó ghi lại cho mỗi bước một phân đoạn nhỏ theo như

những gì bạn tìm được.

1. Mi-chê 6:6-8

2. Giê-rê-mi 7:1-7

3. Giê. 31:10-14

Page 267: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

264

Chương 21

Cựu Ước – Khôn Ngoan

Lời Giới Thiệu

Đây là chương cuối của sách này và chúng ta đã đi gần hết chặng đường quan trọng.

Tác giả sách Truyền Đạo, một trong những sách khôn ngoan có một lời có lẽ có thể áp dụng cả

cho bạn, là độc giả và cho chúng tôi, là tác giả: “người ta chép nhiều sách chẳng cùng; còn học

quá thật làm mệt nhọc cho xác thịt.” (12:12b).

Chúng ta kết luận phần nghiên cứu của mình về nhiều thể loại Kinh thánh khác nhau

bằng cuộc hành trình vào các sách khôn ngoan Cựu Ước (Châm ngôn, Truyền đạo Nhã ca và

Gióp). Chắc chắn các sách này chứa đựng nhiều sự dạy dỗ thú vị trong Kinh Thánh. Một mặt,

các sách khôn ngoan dễ đọc và dễ nắm bắt. Những câu châm ngôn như: “Kẻ đi thèo lẻo tỏ ra

điều kín đáo; Còn ai có lòng trung tín giữ kín công việc” (Châm-ngôn 11:13) hay “Sự ghen ghét

xui điều cãi lộn; Song lòng thương yêu lấp hết các tội phạm.” (10:12) dường như đơn giản dễ

hiểu.

Mặt khác, nhiều đoạn trong văn chương khôn ngoan rất khó hiểu. Ví dụ, Châm-ngôn

22:4 dường như là lời hứa về sự giàu có cho những người kính sợ Đức Chúa Trời và khiêm

nhường: “Phần thưởng của sự khiêm nhượng và sự kính sợ Đức Giê-hô-va, Ấy là sự giàu có, sự

tôn trọng, và mạng sống.” Có phải câu này dạy rằng nếu Cơ Đốc Nhân nghèo, thì họ hoặc là

chưa khiêm nhường hoặc là chưa kính sợ Đức Chúa Trời? Điều này có nghĩa là Cơ Đốc Nhân

giàu có thì khiêm nhường và kính sợ Chúa hơn Cơ Đốc Nhân nghèo phải không?

Tương tự, sách Gióp cũng là sách làm nhiều người nhức đầu. Hãy nhìn Gióp 3:1:

“Sau việc ấy, Gióp mở miệng rủa ngày sanh mình.” Làm sao chúng ta có thể giải nghĩa và áp

dụng câu này? Đây có phải là kiểu mẫu cho chúng ta phản ứng lại với sự hoạn nạn? Còn sách

Truyền đạo thì thật sự lạ với nhiều câu bất thường. Cùng xem:

Người ta bày tiệc đặng vui chơi; rượu khiến cho đời vui; có tiền bạc thì ứng cho mọi sự.(Truyền-đạo

10:19)

Có phải tác giả khuyến khích ăn uống, tiệc tùng và đeo đuổi tiền bạc không?

Hơn nữa sách Nhã ca dường như chứa đựng những từ ngữ lãng mạn và thân mật

giữa hai người đang yêu nhau. “Hỡi bạn tình ta, nầy mình đẹp đẽ thay, mình đẹp đẽ thay! Mắt

mình trong lúp giống như mắt bò câu; Tóc mình khác nào bầy dê nằm nơi triền núi Ga-la-át.

Răng mình như thể bầy chiên mới hớt lông, Từ ao tắm rửa đi lên, Thảy đều sanh đôi, không một

con nào son sẻ.” (Nhã-ca 4:1-2) Rõ ràng cô gái của chàng thanh niên này có răng trắng và còn

nguyên vẹn. Nhưng nó có nghĩa gì đối với chúng ta? Phải chăng Kinh thánh dạy chúng ta cách

trồng và cấy răng?

Do đó, có nhiều vấn đề về giải kinh mà chúng ta cần phải học để giải nghĩa các sách

khôn ngoan. Cho đến bây giờ bạn đều nhận biết rằng bối cảnh quan trọng như thế nào đến việc

Page 268: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

265

giải nghĩa Kinh Thánh. Thật sự, làm sao bối cảnh có thể giải quyết được những nhầm lẫn cho

những ví dụ trên. Bạn đang nói đúng vì đặt văn chương khôn ngoan vào trong bối cảnh đúng sẽ

là một bước quan trọng để hiểu được ý của Đức Chúa Trời cho chúng ta trong những sách này.

Trong chương này, chúng ta trước hết sẽ thảo luận về mục đích của các sách khôn ngoan vì mục

đích là một khía cạnh quan trọng của thể loại khôn ngoan và bối cảnh văn chương của nó. Tiếp

theo chúng ta sẽ tìm bức tranh lớn – chủ đề chính xuyên suốt từng sách và cách những sách này

liên hệ với nhau. Sau đó, chúng ta cùng thảo luận khía cạnh thơ ca của thể loại văn chương này.

Chúng ta cũng áp dụng Hành Trình Giải Kinh trong từng sách khôn ngoan, chỉ ra những khác

biệt và tìm những nguyên tắc giúp chúng ta có thể áp dụng trên đời sống của mình ngày nay.

Cuối cùng, chúng ta sẽ có phần tóm tắt và bài tập.

Mục Đích của Các Sách Khôn Ngoan

Mặc dầu các sách khôn ngoan hoàn toàn khác với phần còn lại của Cựu Ước nhưng

chúng dường như đang đóng vai trò quan trọng trong sự mặc khải của Đức Chúa Trời cho chúng

ta. Các chuyện kể và sách tiên tri nhấn mạnh đến những mệnh lệnh: “Hãy Tin!” và “hãy vâng

phục” trong khi đó các sách khôn ngoan nhấn mạnh đến mệnh lệnh “Hãy suy nghĩ”. Giống như

tin và vâng phục dẫn đến hành động thì thách thức suy nghĩ cũng dẫn đến hành động.

Dầu các sách khôn ngoan không nhấn mạnh đến những yếu tố chuẩn của câu chuyện

cứu rỗi (giao ước, lời hứa, sự cứu chuộc, sự tha thứ) nhưng chúng lập nền thần học cho phần còn

lại của Cựu Ước. Châm-ngôn 1:7 nhấn mạnh: “Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu của tri

thức”. Các sách khôn ngoan bắt đầu bằng căn bản thần học này và sau đó sử dụng câu chuyện

cứu chuộc làm nền tảng để xây dựng một thần học thực hành cho đời sống thánh khiết mỗi ngày

trong một thế giới phức tạp này.

Những câu mệnh lệnh của văn chương khôn ngoan – hãy nghe, hãy nhìn, hãy nghĩ,

hãy phản ứng – kết hợp lại để tập trung vào mục đích tổng thể của các sách này: phát triển nhân

cách trong độc giả. Các sách khôn ngoan không phải là bộ sưu tầm của những lời hứa phổ thông.

Nhưng chúng là một bộ sưu tầm của những hiểu biết giá trị về đời sống thánh thiện mà nếu nhận

vào lòng (vào đầu) sẽ phát triển nhân cách thánh thiện, một nhân cách sẽ giúp độc giả có sự chọn

lựa khôn ngoan trong cuộc đời đầy cạm bẫy này. Văn chương khôn ngoan đề nghị rằng sống đời

thánh khiết liên quan đến việc lựa chọn đúng đắn. Do đó, người sống trong tính cách ngu dại hay

tối tăm phản ảnh trong đời sống bất khiết.

Sự khôn ngoan có một giọng điệu thực tế. Tính cách được phát triển không phải qua

ý tưởng lý tưởng hay lý thuyết nhưng là tính cách thực tế, gần gũi. Do đó sự khôn ngoan có thể

được định nghĩa như là sự kết hợp của hiểu biết và nhân cách cho phép một người sống trong thế

giới thật với tinh thần thánh khiết và đúng đắn.

Bức Tranh Lớn

Từng sách trong bốn sách khôn ngoan (Châm ngôn, Gióp, Truyền Đạo, Nhã ca) khác

nhau trong sự đóng góp cho sự giáo dục chúng ta trong đời sống khôn ngoan. Nhận biết những

vai trò khác nhau của từng sách là quan trọng nhưng chúng ta cũng phải có thể nhìn thấy cách

chúng thống nhất với nhau để tạo nên bối cảnh văn chương khôn ngoan rộng lớn. Về thần học,

bốn sách đều cân bằng nhau và bất kỳ ai đọc chúng bên ngoài bối cảnh của sách khác có thể dễ

dàng bị hiểu nhầm. Căn bản, sách Châm ngôn trình bày những chuẩn mực sống trật tự và hiểu

Page 269: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

266

biết trong khi ba sách khác trình bày những ngoại lệ và giới hạn với hướng sống trật tự và hiểu

biết đó. Tóm tắt căn bản này có thể được giải thích rõ ràng hơn bên dưới.

Hướng Căn Bản Cho Cuộc Sống (Châm Ngôn)

Sách Châm-ngôn trình bày những chuẩn mực có thứ tự và lý trí của cuộc sống.

Nhiều câu châm ngôn trong sách không phải là phổ thông (tức là những điều luôn luôn đúng) mà

là những chuẩn mực của cuộc sống (tức là những điều tự nhiên đúng). Đức Chúa Trời đã thiết

lập một thế giới trật tự và tri thức và nó có ý nghĩa đối với chúng ta. Nếu bạn làm việc chăm chỉ,

bạn sẽ được thịnh vượng; nếu bạn không làm việc chăm chỉ, bạn sẽ nghèo khó. Những người làm

việc chăm chỉ, khôn ngoan và công bình có thể mong đợi một đời sống được phước và thịnh

vượng trong khi những người lười biếng, tội lỗi, ngu muội có thể mong đời sống khó khăn.

Ngoại lệ 1: Sự Đau Khổ của Người Công Bình (Gióp)

Sách Gióp chứng minh rằng thường có nhiều sự kiện trong cuộc đời mà con người

không thể hiểu hết nhờ sự khôn ngoan được trình bày trong Châm ngôn. Thỉnh thoảng sự đau

khổ đánh người công bình, khôn ngoan và làm việc chăm chỉ và Đức Chúa Trời dường như im

lặng đằng sau sự đau khổ đó. Sách Châm ngôn dạy rằng cuộc sống có lý trí và người khôn ngoan

có thể hiểu được. Gióp hoàn tất điều này bằng kinh nghiệm trong đời sống thật. Nếu chúng ta đối

chiếu cả hai sách với nhau, chúng ta kết luận rằng hầu hết cuộc sống của chúng ta có thể hiểu

được và là lý trí. Tuy nhiên, một vài sự kiện trong cuộc đời thì không thể giải thích được vì

chúng ta là con người. Chúng ta có thể thất bại trong sách Châm ngôn trong tình huống của

chúng ta và chúng ta bắt buộc phải đặt trọn đức tin của mình nơi Đấng Tạo Hóa. Đây là điều

chúng ta có thể học được từ sách Gióp.

Ngoại lệ 2: Sự thất bại của hướng có trật tự và hợp lý cung cấp ý nghĩa tối

thượng cho cuộc sống (Truyền đạo)

Sách Truyền đạo là một sự tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống mang tính trí tuệ cao.

Dầu tác giả nhận biết rằng khôn tốt hơn dại nhưng ông kết luận rằng sự khôn ngoan chính nó

không đem đến ý nghĩa cho cuộc sống. Trong khi Gióp kể câu chuyện về một ngoại lệ cho chuẩn

mực của Châm ngôn thì sách Truyền đạo cũng cho thấy hàng chuỗi ngoại lệ của thế giới trí thức

và trật tự. Kết luận cao nhất trong Truyền đạo nằm trong câu cuối cùng. Tại đây ông chỉ ra con

đường duy nhất để tìm thấy ý nghĩa trong cuộc đời là bước vào mối quan hệ với Đức Chúa Trời.

Ý tưởng tri thức và logic (sự khôn ngoan) có thể giúp bạn trên căn bản hàng ngày nhưng ý nghĩa

tối thượng trong cuộc sống đòi hỏi mối quan hệ với Đức Chúa Trời.

Ngoại lệ 3: Tính Phi Lý Trí của Tình Yêu Lãng Mạn Trong Mối Quan Hệ

Chồng và Vợ (Nhã Ca)

Châm ngôn cho những lời khuyên khôn ngoan, thực tế và tốt lành về hôn nhân. Nó

khuyên người đàn ông không nên cưới người phụ nữ lắm chuyện hay cáu ghét (21:9,19). Và mô

tả rõ ràng về người phụ nữ sống phận của kẻ ngu dại, biếng nhác, nghiện ngập và gián tiếp cảnh

báo đừng nên cưới những người đàn ông như vậy. Xuyên suốt sách Châm ngôn bức tranh về một

người đàn ông có tư cách tốt và khôn ngoan được trình bày và trong phần cuối (31:10-31) bức

tranh về một người phụ nữ cao quý, khôn ngoan và tốt đẹp cũng được trình bày. Tất cả những lời

khuyên này là tốt lành và hợp lý.

Page 270: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

267

Tuy nhiên, thật khó để xây dựng một mối quan hệ yêu thương vĩ đại trong hôn nhân

chỉ bằng ý tưởng logic và hợp lý. Sách Nhã Ca khuyến khích khía cạnh hoang dại, phi lý trí và

lãng mạn của tình yêu chân thật. Sách này đề nghị chúng ta rằng ở nơi công cộng người chồng và

vợ có thể cần yên lặng, nhận biết và làm việc chăm chỉ như Châm ngôn đã trình bày. Nhưng

trong nơi riêng tư ở nhà, họ cần phải điên cuồng trong tình yêu say đắm trong Nhã Ca.

Văn Chương Khôn Ngoan như là Thơ Ca

Phần lớn của văn chương khôn ngoan là thơ ca. Có một vài phần kể chuyện trong

sách Gióp và một số văn xuôi trong sách Truyền đạo, nhưng phần lớn các tư liệu được viết bằng

hình thức thơ ca. Do đó, nhớ những nguyên tắc giải nghĩa thơ ca mà chúng ta đã học trong

chương 19 là điều quan trọng.

Do đó, chúng tôi nhận thấy rằng các sách khôn ngoan sử dụng tính song song làm

đặc điểm cấu trúc chuẩn của chúng. Điều này rõ ràng trong Châm ngôn nơi mà từng câu đều

chứa hai dòng liên kết để tạo thành một ý tưởng. Bởi đó hình thức phàn nàn của Gióp trong 6:2

là song song đồng nghĩa:

Ô i! Chớ gì nỗi buồn tôi nhắc cân cho đúng,

Và các tai nạn tôi để lên cân thăng bằng!

Ngay cả lời đáp của Đức Chúa Trời ở cuối sách cũng ở thể thơ ca, đi theo hình thức

văn chương song song chuẩn ( song song đồng nghĩa trong ví dụ này):

Chớ thì ngươi có thấu đến nguồn của biển sao?

Há có bước dưới đáy của vực sâu chăng? (Gióp 38:16)

Tương tự, nhiều câu trong Truyền đạo và hầu hết các câu trong Nhã ca đều là song song.

Vì nếu sự khôn ngoan nhiều, sự phiền não cũng nhiều;

ai thêm sự tri thức ắt thêm sự đau đớn. (Truyền-đạo 1:18)

Đôi má mình đẹp với đồ trang sức;

Cổ mình xinh với hột trân châu. (Nhã-ca 1:10)

Một đặc điểm quan trọng khác của thơ ca Hê-bơ-rơ là thường xuyên sử dụng hình

ảnh trừu tượng. Trong chương 19 chúng ta đã học rằng hình ảnh trừu tượng có hiệu quả đặc biệt

khi tác giả đang cố gắng kết nối cảm xúc với độc giả. Tuy nhiên, nhấn mạnh của văn chương

khôn ngoan, đặc biệt sách Châm ngôn không phải trên cảm xúc mà là trên suy nghĩ. Do đó, việc

sử dụng thơ ca và hình ảnh trừu tượng có thể là điều ngạc nhiên. Thực chất, sách Châm ngôn ít

khi sử dụng hình ảnh trừu tượng. Mặc dầu nhiều cách ngôn xảy ra xuyên suốt sách này nhưng

chúng không xuất hiện thường xuyên trong các sách thơ ca khác. Hình thức mà chúng ta tìm thấy

xuyên suốt sách này được định nghĩa là châm ngôn là một thể loại thơ ca, nhưng nó độc đáo và

khác với thơ ca truyền thống Hê-bơ-rơ trên một vài phương diện, như là sử dụng tối thiểu ngôn

ngữ tượng hình. Điều này xảy ra trong mức độ cảm xúc thấp trong sách Châm ngôn.

Page 271: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

268

Dầu vậy, sách Nhã Ca hoàn toàn khác. Nó có tính cảm xúc cao và cố gắng kết nối

với độc giả ở một mức độ cảm xúc. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy có nhiều hình ảnh trừu

tượng trong sách này. Gióp cũng là sách mang tính cảm xúc cao thường được mô tả bằng cách

ngôn, trong khi đó thì Truyền đạo nằm ở giữa Châm ngôn và Gióp trong mức độ cảm xúc của nó.

Tương tự sách Truyền đạo sử dụng nhiều cách ngôn hơn Châm ngôn nhưng ít hơn Gióp. Do đó,

nếu chúng ta đặt những sách này theo thứ tự diễn tiến của cảm xúc (Châm ngôn, Truyền đạo,

Gióp và Nhã ca), chúng ta sẽ nhận ra rằng cùng một thứ tự như thế này cũng phản ảnh một sự

diễn tiến tương xứng về cách dùng hình ảnh trừu tượng.

Nắm Bắt Được Sách Khôn Ngoan

Trong phần này chúng tôi sẽ thảo luận từng sách khôn ngoan và ghi lại những đặc

điểm độc đáo của từng sách và ảnh hưởng của những đặc điểm đó trên việc giải kinh của chúng

ta. Chúng ta cũng sẽ liên hệ những đặc điểm này với Hành Trình Giải Kinh, cung cấp cho bạn

những nguyên tắc rộng để học và áp dụng các sách khôn ngoan. Các sách khôn ngoan thật thú vị

và vui. Chúng tôi nghĩ bạn sẽ thích học chúng.

Châm Ngôn

Sách Châm ngôn có lẽ là sách dễ hiểu nhất trong các sách khôn ngoan bởi vì nó nói

đến những khía cảnh phổ biến hàng ngày của cuộc sống: công việc, tình bạn, hôn nhân, tiền bạc,

sự thành thật. Châm ngôn cũng gần gũi với chúng ta.

Sách Châm ngôn phổ biến trong nhiều nền văn hóa khác. Thông thường chúng là

những câu ngắn và đơn giản để dạy sự khôn ngoan thực tế về cuộc sống. Các châm ngôn trong

Kinh Thánh đều tương tự nhau. Chúng thường bao gồm hai dòng của thơ song song. Chúng ngắn

và dễ nhớ.

Bản chất thực tế của những châm ngôn này khiến chúng dễ áp dụng cho hầu hết mọi

người. Sách Châm ngôn hướng con người đặt đức tin mình nơi Đức Chúa Trời.

Có lẽ điều quan trọng nhất để nhớ khi giải nghĩa và áp dụng sách Châm ngôn là

những châm ngôn riêng phản ánh đặc thù chung của sự khôn ngoan chứ không phải là lẽ thật phổ

thông. Giải nghĩa châm ngôn như là lời hứa tuyệt đối từ Đức Chúa Trời là hiểu sai ý định của tác

giả. Sách Châm ngôn cung cấp những hướng dẫn cho cuộc sống, trình bày những tình huống tự

nhiên đúng.

Ví dụ xem Châm-ngôn 10:4:

Kẻ làm việc tay biếng nhác trở nên nghèo hèn;

Còn tay kẻ siêng năng làm cho được giàu có.

Câu Châm ngôn này là tự nhiên đúng. Nếu bạn làm việc chăm chỉ bạn sẽ được thịnh

vượng nhưng nếu bạn lười biếng bạn sẽ không thịnh vượng. Bài học này đặc biệt đúng trong Y-

sơ-ra-ên cổ. Người dân đa số làm nông nghiệp. Để thành công trong nông nghiệp đòi hỏi phải

làm việc chăm chỉ và sự lười biếng là một tai họa. Đây cũng là lời khuyên hữu ích cho bất cứ

người nào đang làm việc ngày nay: Đừng lười biếng! Hãy làm việc chăm chỉ! Tuy nhiên trong

Page 272: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

269

thời kinh tế ngày nay, có nhiều người làm việc chăm chỉ nhưng chẳng được thịnh vượng hoặc

ngược lại. Những nông dân, công nhân các xí nghiệp, thợ xây nhà…làm việc hết sức cực nhọc

nhưng thu nhập của họ không bằng một phần của bác sĩ, luật sư… Sự giàu có có thể đến trong

nháy mắt. Do đó cẩn thận đừng giải nghĩa Châm. 10:4 như là lời hứa phổ thông có thể áp dụng

được cho mọi hoàn cảnh.

Tương tự, hãy suy nghĩ về sự khôn ngoan trong Châm-ngôn 3:9-10:

9 Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con,

Mà tôn vinh Đức Giê-hô-va;

10 Vậy, các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật,

Và những thùng của con sẽ tràn rượu mới.

Câu Châm ngôn này bảo con người (nông dân) rằng nếu họ tôn vinh Đức Chúa Trời

và dâng một phần mười sản vật của mình, họ sẽ giàu có và luôn bội thu. Chắc chắn câu châm

ngôn này phải ảnh sự khôn ngoan thực tế. Nhưng đây có phải là một lời hứa không? Đây có phải

là phổ thông cho mọi người theo nguyên tắc nhân-quả không? Có một giáo sĩ phục vụ truyền

giáo tại Phi-líp-pin vào những năm tám mươi và tại đây một nạn đói đang hoành hành vì hạn hán.

Trong khu vực đó có đến hơn chín trăm hội thánh với hàng ngàn tín hữu trung tín và mạnh mẽ.

Họ trung tín dâng một phần mười cho Chúa. Nhưng nhiều năm không mưa, vụ mùa thất bát và

đói kém hoành hành trong xứ thay vì “không chỗ chứa”. Họ nhận thấy rằng sự khôn ngoan trong

sách Gióp có lẽ có thể áp dụng trực tiếp cho họ hơn là những câu trong sách Châm ngôn này.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Do đó, khi vào bước 1, điều quan trọng cần nhớ là những châm ngôn này không bao

giờ là lời hứa phổ thông cho mọi người trong mọi hoàn cảnh. Chúng là những chỉ dẫn và lời

khuyên sâu sắc để hình thành nhân cách và thực hiện quyết định. Sách Châm ngôn liên quan đến

những chuẩn của cuộc sống, không phải ngoại lệ.

Trong bước 1, chúng ta cần khai phá bối cảnh văn chương. Trước hết, ghi lại những

liên kết tổng quát của sách Châm ngôn với phần còn lại của văn chương khôn ngoan và luôn nhớ

rằng thỉnh thoảng có những câu châm ngôn ngoại lệ. Tiếp theo, ghi lại cấu trúc của chính sách đó.

Châm-ngôn 1-9 giới thiệu sách này bằng lời khuyên dạy của người cha đối với con trẻ của mình.

Có thể để ý thấy rằng người trẻ là độc giả của Châm ngôn này. Có thể nói phần lớn của của sách

Châm ngôn là để giáo dục thanh thiếu niên.

Hướng này sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn những châm ngôn khác bên ngoài

phần này. Ví dụ, Châm-ngôn 25:24:

Thà ở một góc trên mái nhà,

Hơn là ở chung nhà với người đàn bà hay tranh cạnh.

Page 273: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

270

Bài học trong câu châm ngôn này không phải bảo người đàn ông có vợ là người hay

tranh cạnh phải lên mái nhà để ở hơn là ở chung với bà ta. Nhưng câu châm ngôn này định

hướng cho những người trẻ độc thân và chỉ cho họ thấy họ nên tránh kết hôn với loại phụ nữ nào.

Châm ngôn 1-9 chứa đựng những đơn vị thơ ca dài hơn chỉ là hai dòng song song

của châm ngôn bình thường. Vì vậy mặc dầu phần này là phần của sách Châm ngôn nhưng nó

không thật sự bao gồm bất kỳ đơn vị hai dòng nhỏ, riêng mà chúng ta gọi là châm ngôn. Nhưng

nó phản ánh về cuộc sống, thường được đi theo bởi những ví dụ và lời khuyên dạy. Ví dụ, cả

Châm ngôn 5 phải đi chung với nhau vì nó chứa một đơn bị hoàn chỉnh cảnh cáo độc giả của nó

về hậu quả nguy hiểm của phạm tội tà dâm. Do đó, khi đọc phần này bạn phải ghi lại đơn vị văn

chương lớn hơn (thường về một chương dài) như là phần của bối cảnh của chúng ta.

Châm ngôn 10-19 chứa đựng hình thức văn chương mà chúng ta thường gọi châm

ngôn – thông thường hai dòng ngắn của bài thơ diễn tả một lẽ thật chung về sự khôn ngoan. Chú

ý là hầu hết những châm ngôn này được đặt tự do. Không có thứ tự rõ ràng xuyên suốt hầu hết

phần này. Do đó đơn vị lớn hơn (chương, phân đọan…) không đóng vai trò trong bối cảnh văn

chương của phần này. Những câu châm ngôn này từng cái một thích ứng với bối cảnh của toàn

sách và phần còn lại của các sách khôn ngoan. Chúng không liên quan đến những câu đi liền

trước và sau. Bởi vì bối cảnh văn chương bị giới hạn quá nhiều trong những câu này nên bối

cảnh lịch sử-văn hóa đóng vai trò quan trọng.

Phần tiếp theo, Châm-ngôn 30:1-31:9 có những đơn vị đoạn văn dài hơn, trải qua

nhiều câu. Nó được đi theo bởi phần kết của sách Châm-ngôn 31:10-31. Phần cuối này là phần

theo thứ tự chữ cái đứng ở đầu dòng. Những câu này mô tả người vợ có tính cách khôn ngoan và

chân thật. Đoạn này được đưa vào một đơn vị riêng.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Chúng ta chuyển sang Bước 2 của Hành Trình Giải Kinh. Như đã đề cập ở trên, mỗi

châm ngôn thường trình bày một nguyên tắc chung để bắt đầu. Nó bày tỏ những khía cạnh thực

tế của cuộc sống mỗi ngày. Do đó dòng sông phía chúng ta quá hẹp và cạn. Chúng ta phải ghi lại

bối cảnh của những câu châm ngôn đó liên quan đến công việc và liên hệ thường xuyên đến vị

vua, nhưng hầu hết các câu châm ngôn nói đến những tình huống không thay đổi nhiều qua lịch

sử nhân loại.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Bởi vì dòng sông này hẹp nên chuyển qua bước 3 không khó. Thông thường câu

châm ngôn đã được lập nguyên tắc trong chính các từ của nó. Tuy nhiên hãy nhớ những cảnh

báo về việc giải nghĩa sai những châm ngôn như những lời hứa phổ thông và thường xuyên.

Chúng ta phải giữ những ngoại lệ từ những sách khôn ngoan khác trong đầu và chúng ta phải

Page 274: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

271

nhắc lại rằng những nguyên tắc từ sách Châm ngôn là những hướng dẫn để phát triển nhân cách

và để giúp chọn lựa trong cuộc sống. Những nguyên tắc thường là đúng nhưng không phải lúc

nào cũng phổ thông như vậy.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Nhiều chủ đề trong sách Châm ngôn tương tự được phản ánh trong Tân Ước (sự

khiêm nhường, quan tâm đến người nghèo, cảnh báo về sự tranh cạnh, và những lời nói ngu dại,

lẽ thật, làm việc chăm chỉ, ích kỷ và quan tâm cho nhưng người khác, sống công bình thay vì

gian ác…) và những nguyên tắc từ trong các câu của Châm ngôn liên quan đến những chủ đề này

được chuyển sang phần Tân Ước mà không có sự thay đổi nào.

Tuy nhiên chủ đề về sự giàu có như là phước hạnh từ Đức Chúa Trời có một chút

thay đổi trong Tân Ước. Châm ngôn khuyên người giàu giúp đỡ người nghèo và Tân Ước cũng

lặp lại thái độ này. Tuy nhiên Cựu ước nói chung và Châm ngôn nói riêng trình bày sự giàu có

vật chất là một phước hạnh đến từ Đức Chúa Trời và phần thưởng cho đời sống công bình.

Nhưng trong Tân Ước phước hạnh giàu có trở thành phước hạnh lai thế, tức là phước hạnh được

hưởng trong đời sau. Chúa Giê-xu khuyên trong Ma-thi-ơ 6:20: “Hãy thâu chứa của cải các

ngươi ở trên trời”

Kiểu mẫu của giao ước Cựu ước cho rằng phần thưởng vật chất cho sự tin kính không

bao giờ tái hiện trong lời dạy của Chúa Giê-xu và hoàn toàn đối lập với lời dạy của Ngài. Tương

tự, Phao-lô trong các thơ tín của mình hứa nhiều phước hạnh cho những người phục vụ Chúa

nhưng không nơi nào ông hứa sự giàu có vật chất như là một phước hạnh. Thực tế Tân Ước cảnh

báo chúng ta rằng đi theo Chúa Giê-xu có thể sẽ bị mất sự giàu có vật chất trên đất. Vì vậy chúng

ta không thể chấp nhận từ sách Châm ngôn rằng trung tín với Đức Chúa Trời sẽ nhận được sự

giàu có vật chất và áp dụng trực tiếp đến các tín hữu Tân Ước như một loại thần học “sức khỏe

và giàu có”.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Hãy nhớ rằng một trong những mục tiêu của sách khôn ngoan là để phát triển nhân

cách. Vì vậy, chúng ta quan tâm đến sách Châm ngôn khuyên ta phải làm điều gì, nhưng điều

quan trọng hơn là đoạn Kinh Thánh đó bảo chúng ta phải trở thành con người như thế nào. Khi

tính cách của chúng ta thay đổi thì hành vi cũng thay đổi theo.

Ví dụ có nhiều câu châm ngôn dạy chúng ta phải nói nhẹ nhàng, dùng lời nói của

mình để làm phương tiện chữa lành những mối quan hệ chứ không phải là phương tiện để làm

tổn thương người khác (Châm-ngôn 12:18,25; 15:4). Ví dụ Châm-ngôn 15:1 nói rằng:

Page 275: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

272

Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận;

Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm.

Dòng sông ở đây hẹp và nguyên tắc cho chúng ta cũng giống như cho các độc giả cổ.

Chúng ta nên nói dịu dàng chứ không nạt nộ, đặc biệt trong tình huống khó khăn. Tân Ước tái

khẳng định tầm quan trọng của sự dịu dàng và kiểm soát lời nói của mình (Ê-phê-sô 4:2; Gia.

1:19-26). Để áp dụng, mỗi chúng ta nên kiểm tra lại những thói quen nói của mình và phản ứng

của mình trong tình huống khó chịu. Lời nói dịu dàng có phải là đặc tính của đời sống của bạn

không? Những người bạn của bạn nói gì? Cha mẹ? Vợ/chồng? con cái? Hiểu được đoạn Kinh

Thánh có nghĩa là chúng ta phải nỗ lực thay đổi tính cách của mình để tốt hơn.

Dĩ nhiên chúng ta cần cầu nguyện và tìm kiếm sức mạnh của Thánh Linh để giúp

chúng ta tiến bộ trong một lĩnh vực khó khăn nào đó trong đời sống của chúng ta. Có điều quan

trọng nữa là chúng ta sử dụng những nguyên tắc trong những câu như Châm 15:1 để tạo nên hình

ảnh trong tư tưởng của chúng ta về điều chúng ta muốn trở thành. Để phát triển sự dịu dàng trong

lời nói, chúng ta phải thiết lập mục tiêu và sau đó nỗ lực đạt mục tiêu đó, nhận ra rằng chúng ta

không thật sự sống khôn ngoan cho đến khi câu này xác định tính cách của chúng ta.

Gióp

Câu chuyện của Gióp là một câu chuyện nổi tiếng trong Kinh thánh. Mọi người qua

nhiều thế kỷ đều có liên hệ đến sách này vì nó liên quan một cách thành thật đến sự đau khổ.

Thực tế mọi người trên thế giới này, ngay cả con cái Đức Chúa Trời, cũng có lần đối diện với bi

kịch cuộc đời. Tại sao có nhiều người yêu mến Chúa, năng động phải qua đời vì một tai nạn ô tô?

Câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu của nhiều người: “làm sao chúng tôi hiểu được những điều vừa

xảy ra?” Vì những tình huống này mà sách Gióp được viết ra.

Như đã đề cập ở trên, sách Gióp là một đối chiếu mạnh mẽ với sách Châm ngôn.

Trong sách Châm ngôn, thế giới có trật tự và lý trí. Nếu chúng ta phục sự Đức Chúa Trời cách

trung tín, làm việc siêng năng và đối xử với người khác đúng mực, chúng ta sẽ được phước và

thạnh vượng. Dầu vậy, kinh nghiệm của Gióp đối lập với sách Châm ngôn. Ông đã làm tất cả

những điều Châm ngôn đòi hỏi nhưng thay vì nhận được phước hạnh, ông bước vào thế giới ác

mộng khi tất cả con cái chết, tài sản mất hết, đau đớn thể chất đến cùng cực và bị bạn bè chỉ trích.

Hầu hết thời gian chúng ta sống trong Châm ngôn nhưng có những lúc không tránh khỏi chúng ta

sống trong trường hợp của Gióp.

Mặc dầu câu chuyện của Gióp nổi tiếng nhưng để hiểu được nó không phải là dễ

dàng. Những nguyên tắc học được từ trong sách này không nổi lên bề mặt như trong sách Châm

ngôn. Sách Gióp có phần nhạy cảm hơn. Nên nhớ là sách này dài đến bốn mươi hai chương nên

có nhiều tư liệu liên quan.

Điều quan trọng hơn hết trong vấn đề giải kinh và áp dụng là bối cảnh văn chương.

Sách Châm ngôn chứa đựng phần lớn những câu châm ngôn ngắn và không liên quan. Ngược lại,

Page 276: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

273

sách Gióp là một câu chuyện. Sách Gióp có hành động, có chuỗi thời gian và có bố cục. Khi

chúng ta tìm cách hiểu những đoạn Kinh thánh trong đó, điều quan trọng là những phân đoạn

nhỏ hơn đó phải được đặt vào bối cảnh của toàn bộ câu chuyện. Một sai lầm lớn trong giải kinh

nếu chúng ta đem những câu trong sách Gióp ra khỏi bối cảnh của nó và cố gằng giải nghĩa

chúng như chúng ta giải nghĩa những câu độc lập trong sách Châm ngôn. Dầu sách này khá dài

nhưng câu chuyện không quá phức tạp và có thể được lập dàn ý như sau:

1:1-2:10: Gióp gặp hoạn nạn. Hai chương đầu trong thể chuyện kể. Vì Sa-tan thách

thức (và Gióp không hề biết), Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan cất đi tất cả phước hạnh trong

cuộc đời của Gióp. Gióp mất hết con cái và sự giàu có vật chất. Hơn nữa, Gióp bị ghẻ lở đầy

người. Vợ Gióp chỉ trích ông nhưng ông vẫn một mực trung tín với Chúa. Ông nói: “Sự phước

mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên

chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?”

2:11-37:24: Gióp và các bạn tìm giải đáp theo lý trí nhưng không thành công.

Những chương này dài nhưng ít được biết đến nhất. Cũng để ý rằng tác giả chuyển qua phần thơ

ca trong phần này thay vì chuyện kể. Trong phần này, Gióp và các bạn của ông tìm cách giải

thích sự đau đớn này. Họ cố gắng giải thích hoàn cảnh của Gióp. Trong 2:11-31:40 Gióp biện

luận cùng ba người bạn của mình (Ê -li-pha, Binh đát và Sô-pha), tất cả những người này là

những người khôn ngoan tìm cách áp dụng sự khôn ngoan cho những sự kiện của cuộc sống. Họ

nhìn thấy sự đau khổ của Gióp có vẻ xuất phát từ thần linh. Vì Đức Chúa Trời là đạo đức và

ngay thẳng nên rõ ràng Gióp đang bị Đức Chúa Trời đoán phạt vì tội lỗi nào đó. Họ lên án ông

điều này và khuyên ông nên ăn năn.

Tuy nhiên Gióp biết ông không có phạm tội lỗi nào. Ô ng bối rối về hành động của

Đức Chúa Trời và căng thẳng vì lời kết tội của các bạn của ông. Gióp trở nên cay đắng và chất

vấn Đức Chúa Trời về sự bất công trong cách Ngài cai trị vũ trụ. Ô ng yêu cầu một ngày ra hầu

trước tòa của Chúa và đứng trước mặt Đức Chúa Trời để trình bày duyên cớ vô tội của ông.

Trong 32:1-37:24, một người bạn khác của ông (Ê-li-hu) dùng sự khôn ngoan của mình để khẳng

định rằng Gióp nên nghi ngờ sự công bằng của Đức Chúa Trời. Ê -li-hu biện luận rằng: “Ngài báo

ứng loài người tùy công việc mình làm, Khiến mỗi người tìm được lại chiếu theo tánh hạnh

mình.” (34:11).

38:1-42:6: Đức Chúa Trời trả lời duyên cớ của Gióp. Trong những chương trước

Gióp yêu cầu Đức Chúa Trời phải lắng nghe ông hỏi về những gì đang xảy ra và cách Ngài vận

hành vũ trụ. Trong phần này, Đức Chúa Trời xuất hiện và lắng nghe ông trước quan tòa thiêng

liêng, nhưng ông sớm nhận ra rằng Đức Chúa Trời là Đấng hỏi ông mọi câu hỏi chứ không phải

trả lời. “Gióp, con biết gì về sự vận hành vũ trụ?” Đức Chúa Trời hỏi có tính mỉa mai. Đức Chúa

Trời không trả lời cho duyên cớ trước đây của ông nhưng nhấn mạnh đến sự hiểu biết và sức

mạnh thiêng liêng vô hạn của Ngài ngược lại với những hạn chế của con người nhỏ bé của Gióp.

Gióp nhận ra sai lầm lớn của mình và ông ăn năn. Phần này cũng là phần thơ ca.

42:7-17: Bạn của Gióp bị quở trách và Gióp được phục hồi. Phong cách văn chương

quay lại với chuyện kể, do đó cân bằng với phần mở đầu. Đức Chúa Trời quở trách ba người bạn

của Gióp và từ đó, Gióp được binh vực trước mặt họ. Dầu vậy, Ngài bỏ qua Ê-li-hu (32:1-37:24),

tha cho ông mà không ý kiến gì. Gióp sau đó được phục hồi nhưng Đức Chúa Trời chưa bao giờ

giải thích cho ông lý do cho toàn cảnh của câu chuyện.

Page 277: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

274

Chúng ta đã học về phần giới thiệu của sách này và tổng quan về bối cảnh văn

chương. Chúng ta cùng xem sách Gióp trong ánh sáng của Hành Trình Giải Kinh.

Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa

gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?

Hãy bảo đảm là bạn đã đặt đoạn Kinh Thánh bạn đang học vào bối cảnh văn chương

thích hợp chưa. Chú ý vai trò mà đoạn Kinh Thánh riêng biệt này đang có bên trong tổng thể câu

chuyện. Điều quan trọng phải nhớ là những bài học trọng tâm của sách này không rõ ràng cho

đến hai phần cuối (38:1-42:17). Chính Đức Chúa Trời công bố những bài học này. Những bài

học đó đối lập với lời chỉ trích của Gióp và các người bạn của ông ở phần giữa sách. Hầu hết

những đoạn trong phần giữa sách phản ánh sự tìm kiếm sai lệch của Gióp và các bạn. Đừng giải

nghĩa phần tìm kiếm sai lạc này như là bảng chỉ dẫn cho chúng ta. Luôn nhớ rằng thần học của

thời đó tương tự với thời của Châm ngôn, do đó sách này nên có thể làm cho các độc giả đầu tiên

bị sốc. Nhưng nhiều bài học nổi lên trong câu chuyện này.

Trước hết, có nhiều bài học có thể học được từ những người bạn sai lệch của Gióp.

Họ cố gắng giải thích sự đau khổ bằng cách áp dụng sai sự khôn ngoan truyền thống. Họ giả định

hai điều: (1) qua sự khôn ngoan họ có thể tìm được tất cả thông tin họ cần để phân tích vấn đề;

(2) qua sự khôn ngoan và dựa trên thông tin này, họ có thể hiểu đúng vấn đề. Cả hai giả định

trên đều sai. Từ đó, giới hạn của sự khôn ngoan lộ diện. Vì giả định sai nên những người bạn

tiếp tục mắc phải sai lầm khác. Họ đánh giá quá cao về sự hiểu biết lẽ thật của mình và áp dụng

sai lẽ thật họ biết và xoay mặt khỏi những sự kiện mâu thuẫn với những gì họ giả định.

Sau vài lời cảm thông, các người bạn của Gióp đặt mình lên trên Gióp và sự đau khổ

của ông. Họ không tìm cách để an ủi ông nhưng tìm cách để giải thích. An ủi và giải thích là hai

điều hoàn toàn khác nhau. Thần học căn bản của những người bạn này không tệ lắm nhưng sự áp

dụng của họ không đúng. Những người bạn là những gương mẫu tiêu cực cho độc giả. Nhiều

điều họ nói là đúng nhưng họ nói điều đó ở sai thời điểm và áp dụng nó sai tình huống.

Cũng có những bài học mà dân Y-sơ-ra-ên cổ cần học từ chính Gióp, đặc biệt qua

cuộc đối thoại cuối cùng giữa ông với Đức Chúa Trời. Gióp và các bạn không những tìm giải

đáp sai mà còn hỏi những câu hỏi sai. Đức Chúa Trời chỉ cho Gióp thấy rằng ông không phải là

cái rún của vũ trụ. Ô ng chỉ là một phần của sự sáng tạo nhiệm mầu – một vật thọ tạo như Gióp

không thể hiểu được như Đức Chúa Trời hiểu. Do đó, từ Gióp độc giả cổ học được rằng họ

không thể lấn át vai trò của Đức Chúa Trời trên thế giới này. Vài nguyên tắc được tìm thấy cho

độc giả này: (1) Đức Chúa Trời là Đấng tể trị còn họ thì không phải, (2) Đức Chúa Trời biết mọi

sự còn họ biết một chút, (3) Đức Chúa Trời luôn luôn công bằng nhưng Ngài không cần phải giải

thích cho họ và (4) Đức Chúa Trời mong đợi họ tin cậy vào bản chất và quyền tể trị của Ngài khi

sự đau khổ không diễn tả được tấn công.

Page 278: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

275

Một điều quan trọng nữa là Đức Chúa Trời quở trách Gióp một cách nhẹ nhàng trong

Gióp 38-41. Sau đó trong 42:7 Ngài phán với ba người bạn rằng họ “bởi vì các ngươi không có

nói về ta cách xứng đáng, y như Gióp, kẻ tôi tớ ta, đã nói”. Đức Chúa Trời dường như không

buồn với sự thắc mắc, thách thức của Gióp. Nhưng Ngài dường như nặng tay với ba người bạn

đã giải thích sai sự đau khổ của Gióp như là một sự hình phạt vì tội lỗi và vì cố gắng giải thích

thay vì an ủi.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Trong bước này, chúng ta không nhận thấy nhiều khác biệt giữa độc giả thời Kinh

Thánh với chúng ta. Đúng vậy, chúng ta đang ở dưới những giao ước khác nhau nhưng những

giao ước có thể bỏ qua trong sách Gióp. Chúng ta vẫn có cùng mong muốn giải thích đơn giản và

hợp lý cho tất cả nhưng điều kinh khủng đang xảy ra và chúng ta có khuynh hướng áp dụng sai

thần học của sách Châm ngôn giống như các bạn của Gióp. Chúng ta không thể giả định rằng tất

cả những đau khổ là do Sa-tan đem đến và do đó, chúng ta khác với thời của Gióp. Dầu vậy,

Gióp cũng không biết nguồn cội của sự đau khổ của mình. Chúng ta cũng có thể không biết được.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Có nhiều nguyên tắc chung được liệt kê trong bước 1. Những nguyên tắc đó như vầy:

1. Đức Chúa Trời tể trị còn chúng ta thì không.

2. Đức Chúa Trời biết mọi điều còn chúng ta biết một chút.

3. Đức Chúa Trời luôn luôn công bình nhưng Ngài không cần giải thích cho chúng ta.

4. Đức Chúa Trời mong chúng ta tin cậy vào bản chất và quyền tể trị của Ngài khi những

đau khổ không lý giải được xảy ra.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Như được đề cập trong phần thảo luận về sách Châm ngôn, Tân Ước không lặp lại

bức tranh Cựu Ước về sự bình an và thịnh vượng do đời sống công bình. Thực tế Tân Ước báo

trước trong nhiều nơi rằng những người sống trong sự vâng phục Đấng Christ sẽ chịu bách hại.

Chúa Giê-xu báo trước cho các môn đệ của Ngài: “Mọi người sẽ ghen ghét các ngươi…Khi các

người bị bách hại trong nơi này hãy lánh qua nơi khác…Đừng sợ kẻ giết được thân thể mà không

giết được linh hồn” (Ma-thi-ơ 10:22,23,28).

Tương tự hãy xem phần thưởng mà Phao-lô nhận được nhờ trung tín phục vụ: “năm lần bị người

Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba

lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm.” (II Cô-rinh-tô 11:24-25). Phao-lô

cũng trải qua nhiều năm trong tù và truyền thống kể lại rằng cuối cùng ông bị người La mã xử tử.

Page 279: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

276

Do đó, không giống như Cựu Ước, Tân Ước trình bày sự đau khổ như là một đặc điểm bình

thường của một đời sống thánh khiết. Gia-cơ cũng trích Gióp như là một gương mẫu về sự đau

khổ, kiên trì (Gia-cơ. 5:11).

Hơn nữa, Tân Ước dạy rằng tín hữu công bình làm vinh hiển Đức Chúa Trời qua việc

chịu đựng sự khổ nạn bất công. Phao-lô cũng nhắc chúng ta rằng chúng ta chiến thắng sự đau

đớn và khổ nạn qua kinh nghiệm tình yêu của Đấng Christ (Rô-ma 8:35-39). Cũng nhớ những lời

của Phi-e-rơ cho những người làm tôi mọi trong I Phi-e-rơ 2:19-21:

19 Vì nhân cớ lương tâm đối với Đức Chúa Trời, mà chịu khốn nạn trong khi bị oan ức, ấy

là một ơn phước. 20 Vả, mình làm điều ác, bị đánh mà hay nhịn chịu, thì có đáng khoe gì:

Nhưng nếu anh em làm lành, mà nhịn chịu sự khốn khó, ấy là một ơn phước trước mặt Đức

Chúa Trời. 21 anh em đã được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh

em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài;

Hãy cẩn thận đừng lặp lại những sai lầm của những người bạn của Gióp và dùng sai

lẽ thật, có lẽ gieo thêm đau đớn cho một người bạn hơn là an ủi. Xem Rô-ma 8:28: “Chúng ta

biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý

muốn Ngài đã định.” Thật là một sự vô cảm kinh khiếp nếu chúng ta nói với cặp vợ chồng có

đứa con bốn tuổi bị một gã say rượu tông chết rằng mọi sự hiệp lại là tốt lành rồi trích câu này

cho họ. Cuối cùng những người gặp hoạn nạn sẽ hiểu được khía cạnh về quyền tể trị của Đức

Chúa Trời. Nhưng đánh vào những người này bằng câu Kinh thánh này giữa nỗi đau của họ như

thế giải pháp này giải đáp thắc mắc của họ và xoa dịu vết đau của họ. Nhưng vô hình chung

chúng ta đang đi đúng con đường của ba người bạn của Gióp. An ủi khác hoàn toàn với giải

thích. Khi những người bạn của bạn gặp sự đau thương không nói hết được thì nhiệm vụ của bạn

là đau và khóc với họ. Trách nhiệm của chúng ta là an ủi những người đang tổn thương được tái

khẳng định trong Tân Ước, đặc biệt trong những đoạn Kinh Thánh như II Cô-rinh-tô 1:3-8.

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Khi mọi thứ dường như sụp đổ thì sách Gióp đóng vai trò như là nơi nương náu và

một lời an ủi. Nó nói với chúng ta rằng không sai khi kêu la trong giận dữ và bối rối với Đức

Chúa Trời. Nó nói với chúng ta rằng có thể không có câu trả lời trong lĩnh vực con người cho

câu hỏi “tại sao?” Hướng nỗi đau của mình vào Đức Chúa Trời và bản chất của Ngài thay vì vào

tại sao. Nhận biết rằng chúng ta không hiểu sự đau khổ nên chúng ta chỉ biết tin cậy vào khả

năng của Đức Chúa Trời vận hành vũ trụ và tái khẳng định rằng trong thế giới sắp tới những đau

khổ như thế này sẽ không xảy ra.

Như đã đề cập ở trên, một lĩnh vực khác của sự áp dụng là an ủi những người đang

trong cơn đau đớn. Chúng ta nên đau với họ. Chúng ta nên nhận biết như Gióp rằng sự hiểu biết

của chúng ta về vũ trụ có hạn. Do đó, chúng ta nên tránh giải thích hay cố gắng hiểu những sự

Page 280: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

277

kiện đau buồn. Vai trò của chúng ta là chia xẻ nỗi đau và nhắc lại cho người bạn qua hành động

của chúng ta rằng chúng ta, cũng như Đấng Cứu Chuộc của họ, yêu họ sâu xa và cảm thấy đau

đớn nữa.

Truyền Đạo

Sách Truyền Đạo tương tự với sách Gióp là để phân tích được những phần nhỏ hơn

của sách này thì chúng ta phải xem xét bối cảnh văn chương của toàn sách. Sách Truyền Đạo

phải được giải nghĩa một cách tổng thể. Sách này không phải là một bộ sưu tầm của các chỉ dẫn

về cuộc sống giống như sách Châm ngôn. Nhưng sách này là một sự tìm kiếm ý nghĩa trí tuệ

trong cuộc sống. Hầu hết những sự tìm kiếm này là hư không; ý nghĩa thật không được tìm thấy

cho đến cuối sách này. Do đó, giải nghĩa của bất cứ phần nào của sách này phải được hiểu trong

ánh sáng của toàn bộ và câu trả lời tối thượng nằm trong phần cuối cùng.

Nhân vật tự giới thiệu trong sách Truyền Đạo được gọi là “người truyền đạo”. Bằng

cách sử dụng những công cụ khôn ngoan (phản ánh nghiêm túc, lý trí và logic), ông đã nỗ lực

phân tích chính cuộc đời và nắm bắt được ý nghĩa của sự tồn tại của mình. Sách này trình bày

những quan sát về cuộc đời, sau đó bình luận và kết luận. Sách Truyền đạo đầy dẫy thuật châm

biếm. Từ đầu cho đến cuối, giọng điệu mang bản chất hoài nghi và cay đắng.

Một trong những từ then chốt ở đây là “hư không”. Từ này trong nguyên nghĩa tiếng

Hê-bơ-rơ là hebel – xảy ra ba mươi tám lần (năm lần chỉ trong 1:2). Từ này thường được dùng để

mô tả hơi thở hay hơi nước –những chất trông có vẻ như rờ được nhưng thực tế thì không.

Truyền-đạo 1:2 thiết lập giọng điệu hoài nghi của sách này. Nhà Truyền Đạo khám phát ra rằng

nếu một người cố gắng hiểu cuộc đời bằng lý trí thì ý nghĩa của cuộc đời giống như hơi nước, ảo

tưởng của một thực tế không tồn tại.

Sau phần đầu tóm tắt ngắn gọn về sự hư không, nhà Truyền Đạo bắt đầu chất vấn về

ý nghĩa. Wright tóm tắt sáu chương đầu như sau:

Mục đích của cuộc đời có thể được tìm thấy trong tự nhiên, tiền bạc, sự dung túng,

của cải, địa vị, sự thông minh, triết lý và những lễ nghi tôn giáo không? Rõ ràng một

vài điều đang đeo đuổi này tốt hơn những cái khác, nhưng tất cả vấp phải sự phản

kháng không thích hợp để làm giải pháp cho vấn đề cuộc sống. Thế giới không có bí

quyết của chính nó.9

Nhà Truyền Đạo sau đó khai phá bản chất và giới hạn của chính sự khôn ngoan

(Ch. 7-11), Ô ng kết luận trong 8:17: “cũng thấy mọi công việc của Đức Chúa Trời, và hiểu

biết người ta không thể dò được mọi việc làm ra dưới mặt trời, dầu chịu cực nhọc ngần nào

đặng tìm biết, cũng chẳng tìm được; và dầu cho người khôn ngoan tưởng rằng sẽ chắc biết,

thì cũng chẳng tìm được.” Nhà Truyền Đạo gợi ý rằng dù con người không thể hiểu được

cuộc đời nhưng cũng nên hưởng lấy nó. Nhà Truyền Đạo tiếp theo than khóc cho một điều

rằng số phận chung về sự chết thống trị tất cả, cả người công bình lẫn gian ác. Ô ng không

cho sự khôn ngoan là vô giá trị nhưng ông cho rằng khôn ngoan tốt hơn ngu muội. Nhưng

sự khôn ngoan bị giới hạn và hư không khi nó làm phương tiện để hiểu được điều cao cả.

9 J. Stafford Wright, “Ecclesiates”, Expositor’s Bible Commentary, ed. F. Gaebelein (Grand Rapids: Zondervan, 1991),

5:1145.

Page 281: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

278

Cuối cùng trong chương 12, nhà Truyền Đạo kết luận: “Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ

các điều răn Ngài” ám chỉ rằng sự vâng lời Đức Chúa Trời là tốt hơn những đeo đuổi liên

tục sự hiểu biết.

Bước 1: Nắm bắt đoạn Kinh Thánh trong thời đó

Quyển sách lạ lùng này có ý nghĩa gì với độc giả thời Kinh Thánh? Ba kết luận nổi

lên trong sự tìm kiếm của người Truyền đạo:

1. Ngoài Đức Chúa Trời, cuộc đời vô nghĩa. Sự khôn ngoan không phải là xấu, nhưng nó

không đem ý nghĩa cho cuộc đời.

2. Sự khôn ngoan không giải thích những mâu thuẩn của cuộc đời; nó chỉ chỉ ra những mâu

thuẫn đó. Do đó con người chỉ đơn giản tin cậy Đức Chúa Trời (giống ý nghĩa của Gióp).

3. Do đó, cuộc đời không thể hiểu trọn vẹn được nhưng vẫn là một món quà mà con người

có thể thưởng thức (tương tự như Nhã ca).

Hầu hết những câu châm ngôn mà nhà Truyền Đạo trích dẫn, những phản ảnh mà ông

chia xẻ, những quan sát mà ông thấy được hay những kinh nghiệm mà ông thảo luận đều chỉ ra

một trong ba kết luận này.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời

Kinh Thánh với chúng ta?

Khuynh hướng tìm kiếm ý nghĩa thông qua con đường tri thức cũng phổ biến trong

thời đại của chúng ta, do đó về vấn đề này dòng sông không quá rộng. Nhu cầu con người tìm ý

nghĩa trong cuộc đời và những nỗ lực hư không của chúng ta để tìm ý nghĩa qua sự giàu có, vui

chơi, công việc, triết lý và vân vân cũng khá phổ biến, do đó dòng sông cũng khá cạn ở điểm này

nữa.

Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng đang tồn tại. Nhà Truyền đạo dường như

hiểu biết giới hạn về sự chết mà không có ý niệm về đời sau. Ngược lại, chúng ta là Cơ Đốc

Nhân, sống với niềm tin chắc về sự phục sinh. Tương tự, nhà Truyền đạo chỉ quan tâm đến ý

nghĩa liên quan chỉ đời này. Là tín hữu Tân Ước, chúng ta biết rằng ý nghĩa cho con người được

gắn với vương quốc của Đấng Christ và có chiều kích quan trọng về phần thuộc linh chứ không

phải chỉ thể chất. Hãy nhớ rằng chúng ta đang ở dưới một giao ước khác. Kết luận của nhà

Truyền đạo: “khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài” sẽ có những sắc thái khác

với chúng ta là người biết Chúa Giê-xu Christ và do đó, ở dưới giao ước mới.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Page 282: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

279

Bởi vì dòng sông này hẹp nên những nguyên tắc thần học có thể được phát triển từ

những bản kinh văn khác nhau trong sách Truyền đạo tương tự với những nguyên tắc được liệt

kê trong Bước 1.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Tân Ước nhấn mạnh rằng mối quan hệ với Đức Chúa Trời ở dưới giao ước mới phải

tập trung vào cuộc đời, sự chết và sự sống lại của Con Ngài, Chúa Giê-xu Christ. Do đó, tất cả

cuộc sống bên ngoài Chúa Giê-xu Christ đều hư không và vô nghĩa. Do đó, kết luận đầu tiên

trong bước 1 ở trên nên được được bổ sung: “Ngoài mối quan hệ với Chúa Giê-xu Christ, cuộc

đời vô nghĩa. Tư duy trí tuệ, logic không xấu nhưng nó không đem ý nghĩa đến cho cuộc đời”.

Tương tự như đã thảo luận trong Bước 2, ngược lại với sự hiểu biết của nhà Truyền

đạo phản ảnh trong sự tìm kiếm của mình, Tân Ước trình bày một bức tranh rõ ràng về một đời

sau vinh hiển, đắc thắng khi mà mọi sai trật đều được sửa lại và mọi đau khổ sẽ trôi qua. Do đó,

bắt buộc chúng ta phải nhìn thấy tính hoài nghi và cay đắng của nhà Truyền đạo như là kết quả

của phần hư không của sự tìm kiếm của ông và không như phần của những nguyên tắc cuối cùng.

Chẳng có điều gì cay đắng hay hoài nghi trong Phúc  m!

Như bạn đã chú ý, sách Gia-cơ nói nhiều về những vấn đề đến từ văn chương khôn

ngoan Cựu ước. Chắc chắn, Gia-cơ suy nghĩ nhiều từ những sách khôn ngoan Cựu Ước, trong đó

có sách Truyền Đạo. Gia-cơ nghe có vẻ giống như nhà Truyền Đạo khi ông quở trách những

người đi lệch khi cho rằng giàu có là phương tiện bảo đảm cho tương lai (Gia-cơ 5:1-6). Chắc

chắn, Gia-cơ đang liên hệ ý niệm của hebel (hơi nước, hơi thở) khi ông viết: “Sự sống của anh

em là chi? Chằng qua như hơi nước hiện ra một lát rồi lại tan đi” (4:14).

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Hầu hết chúng ta cần được thường xuyên nhắc nhở rằng: ngoài mối quan hệ với Chúa

Giê-xu Christ, cuộc đời là vô nghĩa”. Thế giới xung quanh chúng ta (phim ảnh, TV, văn chương)

đều cho chúng ta ảo tưởng (hebel) rằng ý nghĩa có thể được tìm thấy trong giáo dục, công việc,

sự giàu có hay giải trí. Nhà Truyền Đạo chỉ ra rằng tìm kiếm những điều đó đem đến sự vô nghĩa

của cuộc đời. Chỉ có mối quan hệ với Đấng Tạo Hóa mới ban cho chúng ta ý nghĩa thật. Chúng

ta, là tín hữu, phải tập trung cuộc đời mình vào khía cạnh này của cuộc đời trong việc tìm kiếm ý

nghĩa cho cuộc đời của chúng ta.

Page 283: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

280

Nhã Ca

Sách Nhã Ca có lẽ là một trong những sách gây sốc nhất trong Kinh Thánh bởi vì nó

nói cởi mở và vui thích về tình dục của con người. Nó thật ra là một bản sưu tầm của những lá thư

tình giữa một chàng thanh niên và cô thiếu nữ (được gọi là Su-la-me).

Không giống như sách Châm ngôn, sách Nhã Ca được cấu trúc theo ba đơn vị logic:

Nơi công đường (:2-3:5), Đám Cưới (3:6-5:1) và cuộc sống của Tình yêu (5:2-8:14). Trong một

số phần người nam và người nữ đang diễn tả tình yêu của họ đối với nhau; trong những phần

khác, chúng diễn tả vẻ đẹp của người dối diện. Người nữ, người nói hầu hết trong phần này, cũng

diễn tả giấc mơ mà cô mơ về người chồng của mình khi người đi xa và chia xẻ nỗi nhớ của mình.

Sách này có tính cảm xúc cao và đầy những hình ảnh tượng hình như người nam và người nữ

dùng một loạt so sánh đầy màu sắc để diễn tả người tình tuyệt vời của mình và tình yêu hoang

dại mà họ có với nhau.

Qua nhiều năm, Hội thánh cũng gặp nhiều khó khăn trong việc giải nghĩa và áp dụng

một sách bất thường như thế này. Bắt đầu từ thế kỷ thứ ba S.C. và tiếp tục qua lịch sử của Hội

Thánh, hướng giải nghĩa chủ đạo cho sách Nhã Ca là giải nghĩa nó theo nghĩa bóng. Nên nhớ

rằng sau thời các sứ đồ và trước thời cải chánh (thế kỷ 16), hầu hết các nhà giải kinh là những

thầy tu, thầy tế lễ độc thân. Chúng ta nghĩ rằng họ gặp khó khăn trong việc liên hệ khía cạnh

nghĩa đen của sách này. Hơn nữa, hội thánh đầu tiên thường dùng phương pháp nghĩa bóng để

giải nghĩa những sách Cựu Ước khác. Vì họ muốn tìm thấy Đấng Christ trong từng đoạn Kinh

Thánh, họ bỏ qua nghĩa đen và bối cảnh văn chương và thiêng liêng hóa tất cả các đoạn Kinh

Thánh Cựu Ước.

Do đó, người nam và người nữ trong sách Nhã Ca trở thành biểu tượng của Đấng

Christ và hội thánh (xem Ê-phê-sô 5:23-33) và như thế sách này bị chuyển từ một sách khôn

ngoan về tình yêu và hôn nhân sang một hướng thần học về tình yêu của Đấng Christ cho nàng

dâu mình là hội thánh. Điều này chắc chắn khiến cho sách này dễ giảng hơn vào sáng Chúa nhật.

Âm hưởng của giải kinh theo nghĩa bóng vẫn vang vọng đâu đây, đặc biệt trong những bài hát.

Thực sự nhiều Cơ Đốc Nhân ngày này hát những dòng tương tự: “Người đưa tôi vào phòng yến

tiệc, Ngọn cờ người phất trên tôi ấy là ái tình” (2:4) và họ giải nghĩa “người” ở đây chỉ về Đấng

Christ. Đây là một sự giải nghĩa khác nhiều so với bối cảnh của sách Nhã Ca 2.

Dầu vậy, khi chúng ta đọc kỹ sách này và chú ý đến bối cảnh, thì phương pháp giải

nghĩa bóng dành cho sách Nhã Ca không còn phù hợp nữa. Các học giả ngày nay loại bỏ phương

pháp giải kinh theo nghĩa bóng. Cơ Đốc Nhân ngày nay cũng công nhận rằng tình dục trong hôn

nhân là một phần lớn của cuộc sống và nếu văn chương khôn ngoan muốn nói đến những vấn đề

lớn của cuộc sống thì chúng ta không nên bỏ qua (hay bị sốc) khi nhìn thấy một thảo luận rõ về

niềm khoái lạc liên quan đến sự thân mật trong hôn nhân. Chắc chắn tình dục trong hôn nhân

cũng là một đề tài khi sách này được viết nên.

Page 284: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

281

Bước 1: Nắm bắt đoạn Kinh Thánh trong thời đó

Roland Murphy kết luận rằng: “dân Y-sơ-ra-ên cổ đại cảm nhận sự tuyệt đỉnh của

tình dục con người, được thỏa mãn trong tình yêu hôn nhân là một phước hạnh thiêng liêng.”10

Kinh thánh không xem hôn nhân là thứ yếu trong cuộc sống, cũng không phải là điểm yếu

của con người. Kinh Thánh cũng không xem tình yêu thể chất bình thường bên trong mối

quan hệ đó là bất khiết. Hôn nhân do chính Đức Chúa Trời thiết lập trước khi sa ngã với

mạng lịnh là cả hai phải trở nên một thịt. Do đó, tình yêu thể chất bên trong sự kết hiệp này

là tốt lành, là ý của Đức Chúa Trời và nên hưởng lấy trong niềm hân hoan của cả hai bên.

Sinh con cái không cần thiết biện hộ cho tình yêu tình dục trong hôn nhân. Rõ ràng, sách

Nhã Ca không có liên hệ nhiều đến sự sinh sản. Nhớ rằng sách Nhã Ca được viết trong một

thế giới đề cao sự sinh sản và con cháu. Giá trị của người phụ nữ dựa trên số con cái họ có.

Tình dục thường được xem như là phương tiện để sinh sản; nhưng không có một chút liên

hệ gì tại đây. Sách Nhã Ca là một bài hát ca ngợi tình yêu trong danh của tình yêu và chỉ

tình yêu thôi. Mối quan hệ này không cần phải được biện minh bên ngoài nó.11

Chúng ta không biết chắc bối cảnh mà sách này được dân Y-sơ-ra-ên cổ dùng, nhưng

chúng tôi nghĩ rằng nó được đọc (hay hát) ở những đám cưới. Giống như Thi thiên ca ngợi Đức

Chúa Trời về những kỳ diệu của thiên nhiên thì sách Nhã Ca cũng ca ngợi Đức Chúa Trời về sự

diệu kỳ của tình thân mật trong hôn nhân.

Dĩ nhiên điều quan trọng phải nhớ là tính trữ tình của Nhã Ca nói về người nam hay

người nữ trong câu chuyện này và không nói về Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta cho điều này là

phần của văn chương khôn ngoan và phần của lời dạy về nhân cách và cách sống đúng, chúng ta

kết luận rằng sách này cũng cung cấp một kiểu mẫu về cách một người chồng và vợ cảm nhận

nhau và cách họ bày tỏ cảm xúc của mình. Như đã đề cập ở trên, sự khôn ngoan của Châm ngôn

trình bày một kiểu mẫu cho dân Y-sơ-ra-ên cổ về một người khôn ngoan yêu lặng, chu đáo và

đáng kính. Người đó hành động chân thành trong thế giới công cộng. Hình ảnh này thay đổi

trong Nhã ca. Người khôn ngoan và công bình bây giờ được nhìn thấy như một người đang yêu

say đắm với người phối ngẫu của mình, từng dòng một diển tả sự ngợi ca về tình dục yêu đương

của hai người trong hôn nhân.

Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả

thời Kinh Thánh với chúng ta?

Mặc dầu tác giả của sách này được cho là Sa-lô-môn nhưng chính sách này dường như

không mô tả bất kỳ mối liên hệ lịch sử gì trong cuộc đời của ông. Chúng tôi nghĩ nó được viết để

mô tả một mối quan hệ lý tưởng hóa, một mối quan hệ của bất cứ đôi uyên ương nào trong dân

10

Roland E. Murphy, A Commentary on the Book of Canticles or Song of Songs (Hermeneia; Minneapolis: Fortress, 1990), 99. 11

Kinlaw,” Song of Songs”, 5:1207.

Page 285: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

282

Y-sơ-ra-ên có thể có. Chỉ một ngoại lệ đề cập hình ảnh đám cưới của Sa-lô-môn trong 3:7-10,

dường như không có chút nào phản ảnh tình trạng độc đáo của Sa-lô-môn trong sách này. Tính

khoái cảm và phi lý trí của đôi uyên ương say đắm trong tình yêu thật sự không thay đổi.

Tuy nhiên chúng ta cũng gặp trở ngại trong việc đánh giá hình ảnh được mô tả trong

sách này. Chúng tôi nghĩ rằng người vợ của chúng ta sẽ không bị nịnh nếu chúng ta bảo họ rằng

tóc của họ giống như bầy dê nằm trên triền Núi Ga-la-át (4:1) hay mũi nàng như ngọn tháp Li-

ban hướng về Đa-mách (7:4). Khen người phối ngẫu của mình mang tính văn hóa cụ thể. Chúng

ta có thể cười những thành ngữ và cách ngôn được dùng trong Nhã Ca, nhưng phải nhớ rằng độc

giả cổ cũng sẽ cười lời khen của chúng ta: “ôi con chim bé bỏng của anh!” Do đó, ngôn ngữ

tượng hình tạo nên một bố cục rộng trong dòng sông khác biệt. Chúng tôi không khuyến khích

các bạn chuyển những lời khen tặng trong sách Nhã ca trực tiếp vào những khoảnh khắc thân

mật của hôn nhân của bạn. Chúng ta cần hợp thời ngôn ngữ của mình.

Hơn nữa, hầu hết độc giả sẽ cảm thấy ngôn ngữ của sách này có thể quá ủy mị. Dầu

vậy, chúng tôi không nghĩ đây là sự khác biệt lớn nếu những đoạn Kinh thánh đó được đặt trong

bối cảnh đúng. Một đôi Cơ Đốc ngày nay, nếu họ ở trong tình yêu hoang dại như vậy cũng sẽ nói

với nhau những điều ngọt ngào, âu yếm khi họ ở với nhau một mình. Hầu hết những cặp đang

yêu nhau chúng ta biết sẽ chết vì xấu hổ nếu những lời riêng tư của họ với nhau bị công khai cho

cả hội thánh đọc. Chất ướt át, thân mật, riêng tư mà một người thì thầm với người yêu của mình

trong bóng tối là sự nhàm chán so với những người ngoài cuộc, nhưng thú vị, tuyệt vời đối với

những người ở trong cuộc. Người khôn ngoan, đứng đắn làm gương cho chúng ta trong Châm

ngôn không nói những điều thân mật, ướt át về người yêu của mình trong nơi công chúng. Tuy

nhiên, Nhã ca cho chúng ta biết rằng người khôn ngoan nên bày tỏ hết công suất của mình khi ở

nhà. Bên cạnh sự chuẩn mực của sách Châm ngôn thì cũng có tính lãng mạn tự nhiên trong sách

Nhã ca.

Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh

Thánh này?

Như đề cập ở trên, nguyên tắc thần học phải được xây dựng trên những tương đồng

giữa hoàn cảnh của họ và của chúng ta. Một trong những nguyên tắc thần học nổi lên từ nhiều

đoạn Kinh Thánh trong Nhã ca là con người tìm cách sống một đời sống khôn ngoan và thánh

thiện nên là người say đắm trong tình yêu với người chồng hay người vợ của mình và nên bày tỏ

tình yêu đó trong những từ ngữ cảm xúc mạnh.

Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc

này không và nếu có thì như thế nào?

Tân Ước không cần bổ sung nguyên tắc trong Bước 3. Trong Ê-phê-sô 5:21-33 lời

khuyên của Phao-lô cho những người chồng và vợ (vâng phục, yêu) thích hợp với nguyên tắc

chính trong Bước 3.

Page 286: Hiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Tr i · PDF fileHiểu và Á p Dụng Lời của Đức Chúa Trời GIÁ O TRÌNH MÔ N PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN

283

Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc

Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?

Hãy luôn nhớ rằng sự tôn cao tình dục trong Nhã ca rõ ràng được nói về những cặp

vợ chồng trong hôn nhân. Nó đặc biệt thích hợp cho những người mới cưới. Chúng tôi đề nghị

rằng những cặp mới cưới nên đọc Nhã Ca cho nhau nghe vào dịp trăng mật của mình. Vâng, nó

có phần ướt át nhưng vui và thú vị.

Sách này không áp dụng nhiều cho những cặp chưa đám cưới. Dầu vậy, những cặp

vợi chồng có thể áp dụng nó bằng cách diễn tả bằng lời tình yêu của họ cho người phối ngẫu của

mình với nhiều lời khen ngợi lãng mạn và tình cảm. Sách này hình thành tính cách của chúng ta,

tức là khi chúng ta trở nên hoang dại trong tình yêu của mình với người phối ngẫu. Chúng ta bày

tỏ cách sống của chúng ta với cả Châm Ngôn và Nhã Ca. Ở nơi công cộng, chúng ta đi theo kiểu

mẫu trịch thượng, yên lặng, chu đáo, khôn ngoan nhưng khi ở một mình với người phối ngẫu của

mình thì chúng ta nên yêu điên cuồng giống như hai người yêu nhau trong Nhã ca. Đây cũng là

sự khôn ngoan

Kết Luận

Một điều chúng tôi hi vọng bạn quan sát được là các sách khôn ngoan có thể áp

dụng triệt để với Cơ Đốc Nhân ngày nay. Nhiều nguyên tắc từ những sách này liên quan đến

những vấn đề hằng ngày mà tín hữu ngày nay đang tranh chiến. Đừng bỏ qua những sách

này! Các sách khôn ngoan rất phong phú và sâu sắc, giúp đỡ cho đời sống hằng ngày của

chúng ta một cách thực tế. Chúng giúp chúng ta trở nên khôn ngoan và phát triển nhân cách

thánh khiết – một nhân cách có thể giúp chúng ta có quyết định đúng trong cuộc sống.

Bài Tập

Á p dụng Hành Trình Giải Kinh vào những đoạn Kinh Thánh sau:

1. Châm ngôn 10:12

2. Châm ngôn 11:1

3. Châm ngôn 18:24

4. Gióp 38:18-21


Recommended