233
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGHIÊM THỊ THU NGA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI - 2018

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN _ Nghiem Thu Nga _nop QD cap HV_.pdf · văn hóa dân tộc. Hiểu VHCT thời thịnh Trần chính là hiểu sức mạnh nội tại,

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGHIÊM THỊ THU NGA

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGHIÊM THỊ THU NGA

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

Mã số: 62 31 06 40

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG VINH

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Nghiêm Thị Thu Nga

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN 7

1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị 7

1.2. Tình hình nghiên cứu về văn hóa chính trị thời thịnh Trần 22

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 34

Chương 2: QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ GIỚI THUYẾT

VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN 36

2.1. Quan niệm về văn hóa chính trị 36

2.2. Giới thuyết về văn hóa chính trị thời thịnh Trần 49

Chương 3: DIỆN MẠO CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN 69

3.1. Định hướng giá trị trong chính trị 69

3.2. Sự vận hành chính trị 80

3.3. Nhân cách chính trị 99

3.4. Ngoại hiện chính trị 110

Chương 4: GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI

THỊNH TRẦN VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY 119

4.1. Giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị thời thịnh Trần 119

4.2. Bài học đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa chính trị nước ta hiện nay

từ kinh nghiệm của thời Trần 129

KẾT LUẬN 151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154

PHỤ LỤC 170

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Cương mục : Khâm định Việt sử thông giám cương mục

ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐVSKTT : Đại Việt sử ký toàn thư

NCS : Nghiên cứu sinh

NQHNTW : Nghị quyết Hội nghị Trung ương

TCN : Trước Công nguyên

UNESCO : United Nations Educational, Scientific and

Cultural Organization

VHCT : Văn hóa chính trị

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

- Xuất phát từ vai trò của văn hóa chính trị (VHCT) và sự cần thiết của việc

nghiên cứu VHCT

Văn hóa chính trị là một bộ phận quan trọng của văn hóa xã hội (cùng với

văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa truyền thông…). Trong suốt chiều

dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, VHCT đã được tạo

dựng, dần hoàn thiện và góp phần làm phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc.

Những giá trị VHCT tiêu biểu đã thấm sâu vào đường lối trị nước và nhân cách

của nhiều người lãnh đạo đất nước, góp phần phát huy sức mạnh của cả dân tộc,

vượt thoát ra khỏi những thử thách khắc nghiệt của lịch sử, đưa đất nước đi lên

cường thịnh và trường tồn.

Nghiên cứu VHCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc và nhằm nâng cao

tính tích cực chính trị của con người trong hoạt động xã hội nói chung, nâng cao kỹ

năng, kỹ xảo, nghệ thuật lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ ở Việt Nam nói

riêng, từ đó góp phần xây dựng, đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị của nước ta

phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong hoàn cảnh mới.

Cho đến nay, đã có không ít công trình nghiên cứu về VHCT, nhiều học giả

sử dụng thuật ngữ “VHCT” ở các chuyên ngành khác nhau. Riêng ở chuyên ngành

văn hóa học, vấn đề VHCT vẫn còn những ý kiến chưa đồng nhất, nhất là nội hàm

khái niệm, cấu trúc của VHCT vẫn chưa thực sự được xác lập. Nhiều điểm còn bỏ

ngỏ của vấn đề này đòi hỏi cần được quan tâm nghiên cứu thấu đáo hơn.

- Xuất phát từ sự cần thiết phải nghiên cứu VHCT thời thịnh Trần

Trong 175 năm tồn tại của triều Trần, có khoảng 100 năm đầu là giai đoạn

thịnh trị, hào khí Đông A và trí tuệ Đại Việt đã hội tụ, tỏa sáng trên nhiều lĩnh vực

của đời sống xã hội, làm nên một quốc gia quân chủ độc lập, tự chủ và thịnh vượng.

Khác với những giai đoạn lịch sử sau đó, thời thịnh Trần chưa bị chi phối bởi tư

tưởng Nho giáo, nên càng có điều kiện thuận lợi để những người nắm quyền có thể

phát triển năng lực cá nhân, trở thành những nhân cách rực rỡ, sáng chói, góp phần

gây dựng một nền VHCT sáng tạo với những giá trị độc đáo, ghi dấu ấn đặc biệt

2

trong lịch sử các triều đại quân chủ Việt Nam, có nhiều đóng góp quan trọng cho

văn hóa dân tộc. Hiểu VHCT thời thịnh Trần chính là hiểu sức mạnh nội tại, tiềm ẩn

của dân tộc trước những thử thách cam go, là góp phần lý giải nguyên nhân thịnh -

suy trong lịch sử. Nghiên cứu VHCT thời thịnh Trần, ta tiệm cận đến giá trị của các

bài học giữ nước và phát triển đất nước, bài học về xây dựng một nền chính trị văn

minh, một nền văn hóa vì con người, hợp lòng người.

VHCT thời thịnh Trần đã thành địa hạt thú vị cho nhiều ngành khoa học

xã hội nhân văn tiếp cận nghiên cứu như: văn hóa học, xã hội học, tâm lý học xã

hội, chính trị học... Từ cách tiếp cận văn hóa học, cho đến nay, chưa hề có một

công trình nghiên cứu riêng biệt, chuyên sâu, hệ thống về vấn đề VHCT thời

thịnh Trần. Định vị được một khái niệm công cụ quan trọng trong văn hóa học,

thấu hiểu được một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa xã hội của dân tộc

ở buổi đầu dựng nền độc lập tự chủ rạng rỡ, oai hùng và còn nhiều ẩn số, thiết nghĩ

là việc làm cần thiết và ý nghĩa.

- Xuất phát từ nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy đáp ứng yêu cầu phát triển

đất nước thời kỳ mới

Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền văn

hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã

được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, đó là: “Chú trọng chăm lo xây dựng văn

hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố

quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” [41, tr.29].

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đó, nội dung VHCT đã và đang được triển khai

nghiên cứu, giảng dạy ở nhiều góc độ, nhiều chuyên ngành. Ở chuyên ngành văn

hóa học, VHCT mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu bước đầu với kết quả còn

khiêm tốn, VHCT truyền thống Việt Nam cũng chưa thực sự được quan tâm thỏa

đáng. Do đó, việc nghiên cứu đề tài VHCT thời thịnh Trần sẽ góp phần đi sâu vào

địa hạt VHCT truyền thống theo cách tiếp cận của văn hóa học, từ đó, giúp ích cho

việc nghiên cứu, giảng dạy các nội dung quan trọng liên quan như: Lịch sử văn hoá,

VHCT, Văn hóa công vụ...

3

Xuất phát từ những lí do trên, nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn đề tài

“Văn hóa chính trị thời thịnh Trần” cho luận án tiến sĩ, chuyên ngành Văn hóa

học với mong muốn nhận chân một cách hệ thống diện mạo, giá trị của nền

VHCT thời thịnh Trần, từ đó góp phần luận bàn về những bài học kinh nghiệm

của thời Trần đối với việc xây dựng và phát triển nền VHCT Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án tiến hành nghiên cứu VHCT thời thịnh Trần, qua đó liên hệ, bàn

luận về vấn đề xây dựng nền VHCT Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về VHCT (khái niệm, cấu trúc của VHCT);

+ Miêu tả diện mạo VHCT thời thịnh Trần qua các thành tố cơ bản;

+ Nhận định về giá trị của VHCT thời thịnh Trần, từ đó liên hệ và bàn luận về

một số bài học đối với công cuộc xây dựng nền VHCT Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu VHCT thời thịnh Trần (mà trọng tâm là diện mạo, giá

trị và bài học lịch sử đối với giai đoạn hiện nay).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu giai đoạn thịnh trị của triều Trần (1225-

1329), tức từ lúc vua Trần Thái Tông lên ngôi cho đến khi vua Trần Minh Tông

nhường ngôi cho thái tử Vượng.

Giai đoạn sau không thuộc phạm vi nghiên cứu mà chỉ được đề cập đến ở

mức độ liên quan cần thiết của luận án.

- Về không gian: Ở thời thịnh Trần, nước Đại Việt gồm 12 lộ, kéo dài từ

Lạng Giang đến Hóa Châu (Lạng Sơn đến Thừa Thiên Huế ngày nay). Không

gian nghiên cứu của luận án chính là nước Đại Việt thời thịnh Trần trong mối

quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là nước Trung Hoa (ở phương Bắc) và

nước Chiêm Thành (ở phương Nam).

4

- Về nội dung: Luận án chủ yếu nghiên cứu VHCT của của các vương triều

thời thịnh Trần (tức của chủ thể cầm quyền cơ bản: vua, quan lại và tướng lĩnh).

4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở phương pháp luận

Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết mác xít để phân tích tiền

đề, bối cảnh lịch sử dẫn đến sự hình thành VHCT thời thịnh Trần, phân tích vấn đề

vai trò cá nhân (người anh hùng) và quần chúng (thần dân) trong lịch sử, nhận định

giá trị và bài học của VHCT thời thịnh Trần đối với giai đoạn hiện nay.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp tổng hợp tư liệu, sử liệu:

Đây là phương pháp chủ đạo và hết sức cần thiết đối với một đề tài mang

tính hồi cố và nguồn tài liệu chủ yếu là tài liệu thứ cấp như luận án. Thông qua

việc sưu tầm và tập hợp tư liệu từ các văn bản đáng tin cậy, như các văn bản Hán

Nôm (văn bản hành chính, văn bản luật pháp, văn bản nghệ thuật... ra đời trong

thời Trần), các tài liệu lịch sử, các công trình khoa học của các tác giả trong và

ngoài nước về thời Trần, VHCT thời Trần, luận án có thể nhận diện cụ thể các

vấn đề thuộc VHCT thời thịnh Trần. Phương pháp này cho phép NCS thu thập

được các thông tin lịch sử, khảo sát nhiều nội dung quan trọng liên quan đến vấn

đề nghiên cứu một cách chính xác, tránh tình trạng võ đoán, tư biện.

- Phương pháp liên ngành:

Văn hóa là đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn: triết

học, sử học, dân tộc học, nhân học, tâm lý học, đạo đức học, nghệ thuật học... Văn

hóa học vừa là khoa học độc lập, vừa là khoa học liên ngành gắn với các khoa học

xã hội và nhân văn kể trên. Do vậy, khi nghiên cứu một nền văn hóa, một hiện

tượng văn hóa dưới góc độ văn hóa học, người nghiên cứu có thể sử dụng các kết

quả nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và nhân văn làm cơ sở, tài liệu cho

việc nghiên cứu. Ngoài ra, người nghiên cứu văn hóa còn có thể sử dụng các tri

thức, các khái niệm, phạm trù, các phương pháp của các ngành khoa học xã hội và

nhân văn trên để nghiên cứu các hiện tượng, quá trình văn hóa.

5

Vấn đề VHCT thời thịnh Trần có liên quan đến tri thức của nhiều môn

khoa học khác nhau như: nhân học văn hóa, xã hội học văn hóa, tâm lý học, triết

học, sử học, văn học... Chính vì vậy, NCS đã vận dụng những tri thức của các

môn khoa học trên để làm rõ vấn đề nghiên cứu của luận án. Mặt khác, trong quá

trình thực hiện luận án, NCS đã sử dụng các thuật ngữ, khái niệm, các khái quát

lí luận (nguyên lí, quy luật, kết luận khoa học), các cứ liệu, tài liệu và một số

phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác.

- Phương pháp logic - lịch sử:

Lịch sử là bản thân quá trình vận động và phát triển của hiện thực. Logic là

cái được trừu tượng hóa từ lịch sử, là cái phản ánh lịch sử trong các mối quan hệ và

liên hệ cơ bản nhất của nó trong ý thức con người. Kết hợp lịch sử và logic nhằm

khám phá bản chất và quy luật nội tại chi phối sự phát triển của sự vật, hiện tượng

và phản ánh khái quát lịch sử ở nét chủ yếu của nó.

Phương pháp logic - lịch sử giúp NCS chỉ ra được diện mạo của VHCT khi

xem xét nó trong một giai đoạn cụ thể (thời thịnh Trần), đồng thời lại có thể nhìn

nhận, đánh giá VHCT thời thịnh Trần trong chiều lịch đại, đồng đại của sự vận

động, phát triển của văn hóa dân tộc. Mặt khác, phương pháp này giúp người viết

đi sâu vào những đặc điểm của đối tượng nghiên cứu.

- Phương pháp chuyên gia: Trên cơ sở nội dung của Luận án, NCS phỏng

vấn sâu, tham khảo các ý kiến, nhận định của các chuyên gia, những người am

hiểu về văn hóa, VHCT, về lịch sử thời Trần..., từ đó bổ sung, hoàn chỉnh cho

các phân tích, kết luận trong luận án.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Đây là phương pháp phân chia

(trong thực tế và tư duy) sự vật hiện tượng thành các yếu tố cấu thành, sau đó

nghiên cứu từng yếu tố cấu thành ấy một cách riêng rẽ để cuối cùng bằng

phương pháp tổng hợp, tức là bằng cách xác định những cái chung cũng như cái

quy luật, mối liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố ấy, ta lại kết hợp chúng lại

với nhau thành một chỉnh thể cố kết. Cái tổng thể ta thu được là kết quả nghiên

cứu, không phải là cái tổng thể giản đơn mà là cái tổng thể được nhận thức đầy

đủ và sâu sắc.

6

Luận án đã sử dụng phương pháp này để phân chia cấu trúc VHCT và tiến

hành nhận diện VHCT thời thịnh Trần theo các thành tố thuộc cấu trúc VHCT nói

chung đó. Rồi từ diện mạo các thành tố đã được nhận diện, phân tích đó, NCS lại

tổng hợp, đánh giá những giá trị chung của cả nền VHCT thời thịnh Trần.

Để thực hiện tốt các phương pháp trên, luận án tiến hành các thao tác nghiên

cứu cụ thể: phỏng vấn sâu, thống kê, so sánh,...

5. Đóng góp mới của luận án

5.1. Về lý luận

- Hệ thống hóa, bổ sung và phát triển một số vấn đề liên quan đến lý luận

về VHCT; góp phần xác lập khái niệm và cấu trúc của VHCT dưới góc nhìn văn

hóa học;

- Qua việc nghiên cứu về VHCT thời thịnh Trần, luận án góp phần bổ

sung về phương pháp luận cho việc nghiên cứu một bộ phận của văn hóa xã hội

trong một thời đại lịch sử cụ thể.

5.2. Về thực tiễn

- Luận án làm rõ được diện mạo và giá trị của VHCT trong giai đoạn

thịnh Trần, thông qua đó có thể hiểu rõ hơn về lịch sử văn hoá Việt Nam;

- Từ việc hiểu về VHCT của một giai đoạn trong lịch sử với tất cả những

ưu điểm và hạn chế, luận án rút ra bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng, phát

triển VHCT Việt Nam hiện nay.

- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn

tư liệu về văn hóa, văn hóa Việt Nam, VHCT Việt Nam và là nguồn tư liệu tham

khảo cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy các học phần VHCT, Văn

hóa công vụ, Lịch sử văn hóa Việt Nam...

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác

giả liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án

kết cấu thành 04 chương, 11 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.1.1. Nghiên cứu của các nước phương Đông

Ở phương Đông, các nhà tư tưởng cổ đại Trung Quốc đã mở đầu cho

truyền thống tiếp cận VHCT trong lịch sử tư tưởng nhân loại với các hệ tư tưởng

về đức trị, pháp trị và vô vi nhi trị.

Khổng Tử là đại diện tiêu biểu cho chủ trương đức trị. Nhà tư tưởng này rất

tin ở sức hấp dẫn và sự tác động của đạo đức đến hoạt động chính trị. Ông khẳng

định: “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi” (Dùng

đức mà làm chính trị cũng ví như ngôi sao Bắc Đẩu, ở yên tại vị trí của mình mà

các ngôi sao khác đều chầu về) [19, tr.6], nghĩa là nếu nhà cầm quyền làm chính trị

bằng đức thì vương hầu và dân chúng sẽ mến đức mà quy phục. Việc lấy đạo đức

làm tiêu chuẩn chi phối hành vi chính trị đã đưa Khổng Tử đi đến phủ nhận vai trò

của luật pháp. Theo ông, vua không cần dùng tới hình luật nghiêm khắc, chỉ ngồi rủ

áo xiêm, dùng đạo đức của mình cảm hóa bề tôi và dân chúng mà mọi việc trôi chảy

tốt đẹp, đất nước thái bình. Ông cho rằng nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp

chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân chúng, thì dân sợ mà không dám phạm pháp thôi chứ

không phải vì họ biết xấu hổ. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải

dùng lễ tiết đức hạnh, khi đó chẳng những dân biết xấu hổ, mà còn được cảm hóa

để trở nên tốt lành. Quan điểm của Khổng Tử được kế tục và phát triển bởi các học

trò của ông, tiêu biểu là Mạnh Tử - người đã đề ra tư tưởng “văn trị giáo hóa”, nghĩa

là dùng văn để giáo hóa thiên hạ. Để hiện thực hóa tư tưởng đức trị, họ đã đề ra mô

hình “tam cương, ngũ thường” với tư cách là mô hình đạo đức chuẩn mực mà con

người phải tuân thủ. Từ năm 136 trước công nguyên (TCN), khi được Hán Vũ Đế

thừa nhận là tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị, Khổng giáo đã trở thành hệ

8

tư tưởng có ảnh hưởng lớn, là công cụ tinh thần để bảo vệ cho chế độ quân chủ suốt

hai nghìn năm ở Trung Quốc.

Khác với tư tưởng đức trị, tư tưởng pháp trị - mà người nâng lên thành học

thuyết pháp trị hoàn chỉnh nhất Trung Quốc cổ đại là Hàn Phi Tử (280 - 233

TCN) - lại đề cao giá trị của pháp luật. Theo Hàn Phi Tử, nhà nước rất cần tới

pháp luật bởi pháp luật là công cụ quan trọng để điều chỉnh xã hội. Ông phủ

nhận lý luận đề cao mọi cái cao quý của con người cũng như lý luận chính trị

thần quyền. Để hiện thực hóa tư tưởng pháp trị, Hàn Phi Tử đã đề xuất mô hình:

“Pháp - Thế - Thuật” và coi đó là 3 nguyên lý trong chính trị. Trong đó, “pháp”

là trung tâm, còn “thế” và “thuật” là điều kiện tất yếu để thực hành pháp luật.

Ông cho rằng, chỉ cần duy trì hiệu lực của pháp luật thì sẽ giữ vững được trật tự

chính trị bình thường và thu được những hiệu quả lớn. Cho nên, việc làm cho

pháp luật không bị hỏng nát là tiền đề và mục đích tối cao của chính trị. “Thuật”

thực chất là thủ đoạn của người làm vua dùng để điều khiển cho các quan lại

phải giữ gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh. “Thế” là một thứ quyền lực đặt ra

cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Lý thuyết của Hàn Phi Tử được Tần

Thủy Hoàng dùng để thống nhất Trung Quốc. Sau này, các triều đại phong kiến

Trung Quốc cũng tiếp tục sử dụng lý thuyết pháp trị của ông nhưng nó bị che

dấu dưới cái vỏ bề ngoài của Nho giáo mà thường được gọi là “dương Nho, âm

Pháp” hay “nội Pháp, ngoại Nho”.

Lão Tử là thuỷ tổ của phái Đạo gia. Trong Đạo đức Kinh, Lão Tử bàn về

chính trị không nhiều, nhưng tương đối có hệ thống. Ông nêu ra lý luận triết

học “Đạo pháp tự nhiên” và vận dụng nhuần nhuyễn, nhất quán lý luận này vào

việc lý giải lĩnh vực chính trị. Bao trùm tư tưởng chính trị của ông là tư tưởng

“vô vi nhi trị”. Đây là quan điểm cai trị xã hội hướng người cầm quyền đến

việc để xã hội tự nhiên như nó vốn có, không can thiệp bằng bất cứ cách nào,

xã hội sẽ được ổn định. “Vô vi” không phải là không làm gì cả mà là không

làm gì trái với tự nhiên, không dùng tâm mà xen vào việc của người khác,

không dùng tham vọng cá nhân mà can thiệp vào mọi việc, là hành sự thuận

9

theo quy luật tự nhiên. Theo ông, tự nhiên là không bị chi phối bởi tình cảm, ý

muốn, trí tuệ của con người, nếu có sự can thiệp của con người dù bằng bất cứ

cách nào thì chính trị cũng trở nên rắc rối. Tuy có nhiều mặt hạn chế nhưng

phương pháp “vô vi” của ông vẫn có những nhân tố hợp lý, tư tưởng chính trị

của ông vẫn có một vị trí ảnh hưởng nhất định đến ngày nay.

Sang thời kỳ hiện đại, từ sau thập niên 70 của thế kỷ XX, ở nhiều nước

châu Á, các học giả Nhật Bản, Đài Loan bắt đầu nghiên cứu VHCT. Sau năm

1980, ở Trung Quốc, việc nghiên cứu VHCT (hay còn gọi là “văn minh

chính trị”) ngày càng phổ biến rộng rãi. Văn minh chính trị ở Trung Quốc

được nhìn nhận trong mối quan hệ với thành quả của quá trình cải tạo xã hội

của loài người. Trong cuốn Trung Quốc Đại bách khoa toàn thư, quyển

Chính trị học viết: “Văn minh chính trị là sự tổng hòa các thành quả chính

trị do con người cải tạo xã hội mà có, thông thường nó biểu hiện thành mức

độ thực hiện dân chủ, tự do, bình đẳng, giải phóng con người trong một hình

thái xã hội nhất định” [49]. Tác giả Ngu Sùng Thắng (Đại học Vũ Hán)

trong bài Phân biệt khái niệm văn minh chính trị đã nêu ra:

Văn minh chính trị, xét từ trạng thái tĩnh, nó là toàn bộ thành

quả tiến bộ đạt được trong tiến trình chính trị; xét từ trạng thái

động, nó là quá trình tiến hóa cụ thể trong sự phát triển chính trị

của xã hội loài người [49].

1.1.1.2. Nghiên cứu của các nước phương Tây

Ở phương Tây, từ thời cổ đại cho đến thời đại Khai sáng, vấn đề VHCT

được nghiên cứu như đối tượng của triết học. Platon (khoảng 427 - 347 TCN)

với tác phẩm Nền cộng hoà và Aristoteles (384 - 322 TCN) với tác phẩm Chính

trị được coi là những người mở đầu cho cách tiếp cận VHCT truyền thống ở

phương Tây. Khi bàn về VHCT, cả hai nhà tư tưởng này đều đặc biệt chú ý đến

quan điểm, thái độ cơ bản của con người đối với các vấn đề như: quyền lực, tác

động của chính thể đến người dân, cách thức để quản lý các mối quan hệ xã

hội. Học thuyết chính trị - xã hội của Platon quan tâm đến vấn đề nhà nước và

10

theo ông, trong nhà nước đó, các nhà triết học là những người cầm quyền. Còn

Aristoteles thì nhấn mạnh vai trò của chính trị trong việc xác định tư cách tồn

tại của con người khi ông coi con người là “động vật chính trị”. Ông cho rằng

mục đích cao nhất của chính trị là làm sao để mọi người có thể sống và sống tốt

hơn, sứ mệnh của nhà nước, của những người cầm quyền - chủ thể chính trị -

không chỉ là đảm bảo cho mọi người sống bình thường mà còn là làm sao để

mọi người sống hạnh phúc: “Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc lợi...,

bản thân nhà nước là sự giao thiệp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt được sự

tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập” [147, tr.210].

Cho đến cuối thế kỷ XVIII, thuật ngữ “VHCT” mới xuất hiện bởi nhà triết

học cổ điển Đức I.Herder (1744 - 1803) khi ông nghiên cứu mối quan hệ tương tác

giữa văn hóa và chính trị. Trong cuốn sách Các phương pháp triết học lịch sử nhân

loại (năm 1784), lần đầu tiên ông đưa ra khái niệm “VHCT”, “sự chín muồi của

VHCT” hay “những đại biểu của VHCT” [147, tr.460].

A.Tocqueville (1805-1859), là học giả người Pháp nhưng đã viết một số

khảo luận về hệ thống chính trị của Hoa Kỳ. Nền dân chủ Mỹ là một trong những

tác phẩm nổi tiếng của ông. Trong tác phẩm này, ông đã đưa các giá trị văn hóa

lên vị trí hàng đầu trong việc phân tích về nền dân chủ ở Mỹ. Tocqueville khẳng

định: “Nếu không có những quan điểm và thói quen thích hợp về vai trò của dân

chúng thì đến cả những thể chế dân chủ sáng giá nhất cũng khó có thể tránh khỏi

sự lung lay từ cơ sở” [147, tr.462]. Nhà chính trị học nổi tiếng khác của Mỹ là

L.Pye, năm 1961, khi biên soạn Bách khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế, đã

đưa ra định nghĩa rõ hơn về VHCT:

Văn hóa chính trị là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm; nó đem

lại ý nghĩa và trật tự cho quá trình chính trị; nó đưa ra tiền đề cơ

bản và quy tắc chế ước hành vi của hệ thống chính trị; nó bao

gồm lý tưởng chính trị và quy phạm vận hành của một chính thể.

Bởi vậy, VHCT là biểu hiện hình thức tập hợp tâm lý chính trị và

góc độ chủ quan; một loại VHCT vừa là lịch sử tập thể của một

11

hệ thống chính trị, lại vừa là sản phẩm của lịch sử đời sống của

các cá thể trong hệ thống đó; do đó, nó bắt rễ sâu xa trong lịch sử

các sự kiện chung và lịch sử cá nhân [68, tr.83-84].

Nói cách khác, VHCT thuộc phương diện chủ quan trong hệ thống chính trị,

nó chế ước chế độ chính trị và xác định hành vi chính trị của con người.

Mặc dù vấn đề VHCT xuất hiện sớm như vậy, nhưng môn Nghiên cứu

VHCT lại thực sự ra đời cùng với ngành khoa học chính trị hiện đại. Trong đó,

nổi lên hai xu hướng nghiên cứu chính:

Thứ nhất, coi VHCT chỉ là chiều cạnh chủ quan của hệ thống chính trị và

quá trình chính trị.

Công trình The Civic Culture, Political Attitudes and Democracy in

Five Nations (“Văn hóa công dân - Những thái độ chính trị và nền dân chủ ở

năm quốc gia”) của hai nhà khoa học Mỹ G.Almond và S.Verba, được coi là

chuyên khảo đầu tiên khai phá và đặt nền móng cho môn Nghiên cứu VHCT

ở phương Tây. Hiện nay, nhiều công trình nghiên cứu về VHCT thường giới

thiệu một định nghĩa được thừa nhận là “kinh điển” của G.Almond. Học giả

này đã tiến hành khái quát các công trình nghiên cứu diện xã hội - văn hóa

của các quá trình chính trị để đưa ra khái niệm VHCT: “VHCT của một dân

tộc là cách chia sẻ riêng của các thành viên của dân tộc ấy những dạng thức

của sự định hướng quan tâm tới các khách thể chính trị” [147, tr.14-15]. Như

vậy, G.Almond (cùng với S.Verba) là những người đầu tiên đưa ra quan

điểm: VHCT chỉ là chiều cạnh chủ quan của hệ thống chính trị và quá trình

chính trị. Almond cho rằng VHCT “gồm các yếu tố về nhận thức, tình cảm

và giá trị. Nó hàm chứa nhận thức và ý kiến, quan niệm giá trị và tình cảm

đối với chính trị” [68, tr.83]. Verba khẳng định: VHCT không phải là chế độ

và cơ cấu chính trị, cũng không phải là mô hình hành vi chính trị: “nó không

nói về các sự việc phát sinh trong lĩnh vực chính trị mà là nói về những suy

nghĩ và niềm tin của người ta đối với các sự việc đó” [68, tr.84].

Hai ông cũng đưa ra ba loại hình cơ bản của VHCT: văn hóa chính trị bộ lạc,

văn hóa chính trị thần thuộc và văn hóa chính trị tham dự (hay văn hóa công dân).

12

Một số trường phái khoa học chính trị và các nhà nghiên cứu ở phương

Tây sau này đã dựa trên cơ sở lý thuyết khoa học về VHCT của G.Almond và

S.Verba. Tiêu biểu có thể kể đến:

- Định nghĩa của nhóm nghiên cứu thuộc Trường Đại học Tổng hợp

Berkeley (California) trong cuốn Đề cương bài giảng VHCT (năm 2006):

“VHCT được tạo thành bởi những tri nhận, những giá trị và những bộc lộ cảm

tình mà dân chúng của một cộng đồng/ tập thể nào đó mang lại cho một quá trình

mà tại đó những giá trị chân xác sẽ được định vị” [147, tr.29]. Theo trường phái

này, cả ba bộ phận hợp thành của VHCT trên đây chỉ được xem xét, phân tích

khi đặt trong mối quan hệ với hệ thống chính trị và đặc biệt là trong quá trình

chính trị, nơi mà những bộ phận này được “định vị”. Điều này có nghĩa là tương

tự như trong cách tiếp cận và định nghĩa khái niệm của G.Almond và S.Verba,

các chiều cạnh chủ quan của hệ thống chính trị và quá trình chính trị được xem

như hệ quy chiếu gốc của môn nghiên cứu về VHCT.

- Định nghĩa được công bố trong cuốn Từ điển chính trị xuất bản năm

2007 của trường phái học thuật Heidelberg (Đức): VHCT là khái niệm “dùng để

chỉ chiều cạnh chủ quan của những cơ sở xã hội của các hệ thống chính trị.

VHCT liên quan tới những bộ phận khác nhau của ý thức chính trị, những

“phong thái”, những lối nghĩ và ứng xử “điển hình” của những nhóm xã hội hoặc

của toàn xã hội. VHCT bao gồm tất cả những đặc tính chính trị cá nhân của từng

cá thể, tiềm ẩn trong những thái độ và các giá trị, bắt rễ trong những động cơ

bẩm sinh của hành vi chính trị, và có trong những hình thức bộc lộ có tính chất

biểu tượng và những ứng xử chính trị cụ thể” [147, tr.24]. Đây cũng có thể coi là

một quan điểm gợi mở những khía cạnh có tính phương pháp luận trong nghiên

cứu về VHCT.

Thứ hai, coi VHCT là một bộ phận trong chỉnh thể văn hóa chung của xã hội.

Không phải tất cả các nhà khoa học chính trị hiện đại ở phương Tây đều

dựa trên cơ sở lý thuyết khoa học về VHCT của G.Almond và S.Verba. Xu

hướng tiếp cận VHCT khác đáng chú ý ở phương Tây là coi VHCT là một bộ

phận trong chỉnh thể văn hóa chung của xã hội. Nhà sử học và chính trị học Hoa

13

Kỳ P.X.Taquar đã nhiều năm có dự định giải quyết vấn đề về cách tiếp cận và

các khái niệm, liên quan tới các phạm vi của khái niệm VHCT. Ông cho rằng: có

thể nói về VHCT như một bộ phận tự trị (tách riêng) trong chỉnh thể văn hóa

chung của xã hội. Lý giải vấn đề trên đây, quan điểm của ông có hai mặt tương

liên đáng lưu ý là: Thứ nhất, luận chứng về ưu thế của cách tiếp cận văn hóa học đối

với VHCT (khác với cách phân tích hệ thống hoặc phân tích tâm lý hẹp, chủ yếu

dùng trong khoa chính trị học). Thứ hai, trong khi phân tích phê phán khái niệm

VHCT của Almond, học giả này cũng đã xây dựng nên hàng loạt vấn đề mang tính

chất phương pháp luận, chủ yếu là để xác lập hệ hình khái niệm cho VHCT. Theo

ông, G.Almond và những người kế tục ông chỉ tập trung chú ý vào một phương

diện (dù đó là quan trọng nhất) của VHCT - đó chính là phương diện chủ quan

(nhiều khi mang tính chất tâm lý học), nhận định đặc trưng của VHCT như “một tổ

hợp những ý đồ và mục tiêu” của các nhân vật chính trị.

Các trường phái chính trị học Nga với các tên tuổi như E.A.Dodin,

G.Grat, A.X.Carmin, I.X.Piroparov… cũng đưa ra nhiều quan niệm khác nhau.

Theo E.A.Dodin:

Văn hóa chính trị là quá trình xã hội hóa chính trị, suy cho cùng là quá

trình phổ cập những giá trị và quy tắc chính trị nhất định” và “quá

trình xã hội hóa trong chừng mực nào đó đưa đến sự ra đời các thiết

chế xã hội, các giá trị và những chuẩn mực hành vi phù hợp với tiến

trình phát triển [147, tr.64-65].

Với quan điểm này, E.A.Dodin đã không đồng tình với các tác giả

phương Tây khi quy VHCT về các khuôn mẫu xác định nào đó. Bởi điều đó

thường mang tính chủ quan của nhà nghiên cứu và sẽ rất dễ nhầm lẫn với các

hiện tượng bề mặt.

Thông qua lăng kính của những yếu tố cấu trúc cơ bản, G.Grat cho rằng

VHCT được cấu trúc bởi 3 thành tố: “Cấu trúc của VHCT gồm: Văn hóa về ý thức

chính trị, văn hóa hành vi chính trị và văn hóa vận hành các hành vi chính trị của

Nhà nước” [191, tr.45].

14

Còn nhà chính trị học Liên Xô cũ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc

dùng VHCT mới để đả phá những thói quen do xã hội cũ để lại và xây dựng một

nhà nước kiểu mới. Họ phê phán các học giả Mỹ quá nhấn mạnh định nghĩa

VHCT là một thứ động cơ tâm lý, là thái độ chủ quan mà coi nhẹ vấn đề giai cấp

và lợi ích giai cấp, bỏ qua việc đời sống chính trị luôn phụ thuộc vào lợi ích giai

cấp và những mối quan hệ kinh tế nhất định. Theo họ, VHCT là thành phần quan

trọng của văn hóa tinh thần, nó thuộc về lĩnh vực thượng tầng kiến trúc, có tính

giai cấp và tính xã hội rõ ràng; nó phản ánh lợi ích, nguyện vọng và yêu cầu của

một giai cấp nhất định.

Ngoài ra, V.I.Lê-nin đưa ra khái niệm VHCT dựa trên quan niệm về mối

liên hệ chặt chẽ giữa chính trị và văn hóa. Sử dụng các thành quả đấu tranh để

xây dựng chính quyền Xô Viết, Lê-nin khẳng định: “Giờ đây, trước mắt chúng ta

đang phải thực hiện các nhiệm vụ văn hóa, cần nắm vững các kinh nghiệm chính

trị và có thể nhân rộng ra để tái hiện trong đời sống [195, tr.246].

Như vậy, VHCT ra đời từ rất sớm cả ở phương Đông và phương Tây. Có

thể nói, từ khi có chính trị thì vấn đề VHCT cũng được đặt ra. Nhưng, việc

nghiên cứu VHCT như một môn khoa học thì ra đời khá muộn. Dù vậy, với

những nghiên cứu công phu, phong phú từ nhiều góc nhìn, các tài liệu trên đã

giúp NCS có được những nhận thức khái quát về hệ thống lý thuyết cũng như

phương pháp tiếp cận VHCT. Việc kế thừa các thành tựu nghiên cứu đó có ý

nghĩa quan trọng và là việc làm hết sức cần thiết.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

1.1.2.1. Nghiên cứu phương diện thực tiễn của văn hóa chính trị truyền thống

Quá trình tiếp cận VHCT ở Việt Nam đã được bắt đầu từ khá sớm, trong

đó, chủ yếu là quan niệm về những yêu cầu làm chính trị của những chủ thể

chính trị - những nhà cầm quyền tối cao của các triều đại quân chủ.

Trong khoa học nghiên cứu VHCT, người đầu tiên trình bày VHCT Việt

Nam trong lịch sử một cách hệ thống là Nguyễn Hồng Phong trong công trình

VHCT Việt Nam - truyền thống và hiện đại [129]. Trên cơ sở những tri thức

15

chung về VHCT trong xã hội truyền thống phương Đông, tác giả này trình bày

mô hình tổ chức quản lý xã hội Việt Nam truyền thống trên hai phương diện

quốc gia và làng xã.

Nguyễn Văn Huyên và cộng sự trong công trình Bước đầu tìm hiểu những

giá trị VHCT truyền thống Việt Nam [81] đã trình bày những nhân tố hình thành

tư tưởng VHCT và những nét đặc sắc của VHCT Việt Nam trong lịch sử. Nhiều

giá trị tiêu biểu của VHCT được các nhà nghiên cứu phân tích khá sâu sắc như:

yêu nước, lấy dân làm gốc; tư tưởng chính trị độc lập tự chủ...

Thừa nhận lịch sử xã hội là do con người sáng tạo nên trong những điều

kiện lịch sử nhất định và theo những cách thức nhất định, mà cách thức này lại

do nền tảng văn hóa quy định, Phạm Hồng Tung trong công trình VHCT và lịch

sử dưới góc nhìn VHCT đã đi sâu nghiên cứu hàng loạt vấn đề của lịch sử Việt

Nam cận đại nhằm chỉ ra những khía cạnh mới và mang lại những nhận thức

mới. Đó là vấn đề ý thức dân tộc, tâm thức cộng đồng dân tộc, cuộc vận động

giải phóng và duy tân đất nước...

Lê Quý Đức, trong Giáo trình VHCT (hệ đào tạo sau Đại học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), đã có những phân tích, lý giải sâu sắc về

những vấn đề cơ bản của lịch sử VHCT Việt Nam. Theo đó, VHCT Việt Nam

trong xã hội truyền thống được ông chia làm ba thời kỳ: thời kỳ hình thành nhà

nước sơ khai (nhà nước Văn Lang - Âu Lạc), thời kỳ nhà nước Đại Việt độc lập

tự chủ, thời kỳ nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tác giả cũng đã tập trung

phân tích các thành tố trong cấu trúc của nền VHCT Việt Nam trong từng thời

kỳ cụ thể (Triết lý, tư tưởng chính trị; Thiết chế, thể chế chính trị; Công nghệ

chính trị; Nhân cách của những nhà chính trị tiêu biểu; Hệ thống ngoại hiện).

Công trình nghiên cứu mới nhất hiện nay về vấn đề thực tiễn trong VHCT

Việt Nam truyền thống là đề tài cấp Bộ trọng điểm “Các nguyên nhân làm sụp đổ

chế độ chính trị Việt Nam trong lịch sử” [45] do Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm.

Công trình này đã lý giải nguyên nhân của sự suy vong và sụp đổ của các triều đại

quân chủ Việt Nam suốt 10 thế kỷ (nguyên nhân về thể chế chính trị, từ thiết chế

16

chính trị và từ nhân cách của người cầm quyền). Từ đó, đề tài nêu ra một số bài

học đối với việc đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững chế độ chính trị Việt

Nam hiện nay như: Đặt lợi ích quốc gia dân tộc là tối thượng; Khoan sức dân, thân

dân, vì dân; Nền tảng tư tưởng ổn định; Trọng dụng nhân tài, đề cao văn hóa dân

tộc, tiếp thu sáng tạo giá trị văn hóa từ bên ngoài... Đây là những gợi ý cho NCS

khi lý giải bài học thịnh - suy của triều Trần.

Như vậy, những công trình nghiên cứu về VHCT Việt Nam trong lịch sử

nêu trên thường đề cập đến các yếu tố cụ thể của VHCT như giá trị VHCT, tư

tưởng VHCT, nhân cách nhà chính trị tiêu biểu, bài học kinh nghiệm với việc

xây dựng và phát triển VHCT Việt Nam hiện nay,... Với các kết quả nghiên cứu

đó, diện mạo chung của VHCT Việt Nam truyền thống bước đầu được phác họa.

Đây là những tài liệu tham khảo bổ ích cho NCS khi nghiên cứu một giai đoạn

của VHCT Việt Nam truyền thống.

1.1.2.2. Nghiên cứu phương diện lý luận/lý thuyết của khoa học hiện đại

Điểm chung của các công trình nghiên cứu theo hướng này là các tác giả

đều đề cập tới những vấn đề cơ bản của môn Nghiên cứu VHCT, tập trung làm rõ

một số khái niệm công cụ cơ bản được sử dụng phổ biến trong khoa học chính trị

như: khái niệm VHCT, nội dung, cấu trúc, chức năng, vai trò của VHCT. Tuy

nhiên, tùy vào các góc độ tiếp cận, mỗi tác giả lại đưa ra những quan niệm khác

nhau về VHCT. Có thể khái quát thành ba nhóm chính như sau:

1/ Nhóm thứ nhất: coi VHCT là một tổ hợp từ chỉ tài năng, sự khôn khéo

trong hoạt động chính trị, VHCT có thể thay bằng “nghệ thuật làm chính trị”.

Theo quan điểm này, nhóm tác giả Đặng Xuân Kỳ, Vũ Khiêu, Hoàng Chí

Bảo trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và phát triển con người cho rằng:

Văn hóa chính trị không phải là bản thân chính trị, mà là chính trị có

văn hóa, chính trị tác động vào con người và xã hội như một sức mạnh

văn hóa, sức mạnh không chỉ dựa vào quyền lực mà phải dựa vào sự

cảm hóa con người, thức tỉnh lương tri, lay động tâm tư, tình cảm con

người, thuyết phục, chinh phục, thu phục con người [91, tr.248].

17

Trong khi đó, Phạm Ngọc Anh và Bùi Đình Phong (trong sách Hồ Chí

Minh - văn hóa và phát triển) quan niệm:

Văn hóa chính trị là cái đẹp, cái giá trị của chính trị, tức là chính trị thấm sâu

vào tâm lý quốc dân, vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng

người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng như một sức mạnh văn hóa,

sức mạnh hợp nhất lý và tình, thuyết phục bằng cảm hóa [4, tr.63].

2/ Nhóm thứ hai: VHCT được hiểu là văn hóa trong chính trị, chỉ sự vận

dụng các yếu tố văn hóa trong lĩnh vực này, nhằm tạo ra môi trường đạo đức cho

hoạt động chính trị, làm sao cho hoạt động ấy vừa lành mạnh, vừa đạt được hiệu

quả là duy trì quyền lực.

Tiếp cận theo hướng này có nhóm nghiên cứu thuộc Viện Chính trị học

(Học viện CTQG Hồ Chí Minh) với quan niệm: VHCT là một phương diện của

văn hóa trong xã hội có giai cấp, là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần -

mà hạt nhân là các giá trị chính trị dân chủ, nhân văn, nhân đạo - được hình

thành trong thực tiễn hoạt động chính trị của các giai cấp, các tập đoàn xã hội; nó

là cái góp phần định hướng, chi phối hoạt động của các tổ chức và con người

chính trị (các nhà lãnh đạo, quản lý, các thủ lĩnh chính trị, công dân) trong quá

trình hiện thực hóa những mục tiêu chính trị nhằm phục vụ lợi ích căn bản của

một giai cấp nhất định, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Dung (và nhóm nghiên cứu thuộc Đại học

Quốc gia Hà Nội) trong Giáo trình Chính trị học [34] cho rằng: VHCT là một hệ

giá trị văn hóa được con người tiếp nhận và lựa chọn, biến nó thành nhu cầu,

thành vũ khí, phương tiện trong hoạt động chính trị.

Như vậy, hầu như các quan niệm về VHCT đã trình bày ở trên được nhìn

nhận từ góc độ triết học, chính trị học. Ở đây, VHCT được tiếp cận như một bộ

phận của chính trị học, tiếp cận từ mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa và về cơ

bản các tác giả coi văn hóa như một thuộc tính, phẩm chất của chính trị. Như vậy,

tuy có gắn VHCT với văn hóa nói chung nhưng hầu như các quan niệm, ý kiến của

các tác giả chỉ quan tâm đến trình độ, hiệu quả của hoạt động chính trị mà chưa nêu

lên được VHCT là một phương diện của văn hóa, nghĩa là thừa nhận phạm trù văn

18

hóa rộng lớn, bao trùm lên VHCT. Vì thế, tiếp cận VHCT dưới góc độ văn hóa học

để bổ sung thêm một hướng nghiên cứu là việc làm cần thiết.

3/ Nhóm thứ ba: quan niệm VHCT là một thành tố của văn hóa.

Phạm Ngọc Quang trong cuốn Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay đã định nghĩa: “Văn hóa chính trị là một

phương diện của văn hóa” [131, tr.19]. Trong cuốn “Các chuyên đề bài giảng chính

trị học” (dành cho hệ cao học chuyên ngành Chính trị học), Phan Xuân Sơn quan

niệm: “Văn hóa chính trị là một loại hình văn hóa” [140, tr.260].

Thừa nhận VHCT là một thành tố của văn hóa, Lê Quý Đức (trong Giáo

trình Văn hóa chính trị) nhận định:

VHCT là một lĩnh vực (bộ phận, thành tố) của văn hóa tổ chức xã

hội, bị quy định bởi trình độ, tính chất văn hóa của một cộng đồng

người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, quốc gia) trong việc tổ chức đời sống

cộng đồng, trong việc nắm giữ quyền lực và thực thi quyền lực của

cộng đồng, thể hiện ra như một “kiểu”, “dạng”, “nền”, “hệ thống”

chính trị nhất định trong lịch sử [49, tr.10].

Như vậy, quan điểm này đã cụ thể hóa vị trí của VHCT trong văn hóa nói

chung. Là một thành tố của văn hóa, nên VHCT cũng như văn hóa nói chung,

thể hiện “trình độ người”, nhưng ở đây là “cộng đồng người” trong vấn đề tổ

chức xã hội, cụ thể là trong tổ chức đời sống cộng đồng và trong nắm giữ quyền

lực và thực thi quyền lực cộng đồng, thuộc bộ phận văn hóa tổ chức xã hội.

1.1.2.3. Nghiên cứu mang tính ứng dụng/vận dụng trong thực tiễn văn hóa

chính trị hiện nay

Trên cơ sở những vấn đề lý luận về VHCT, nhiều công trình nghiên cứu

đã hướng đến việc vận dụng/ứng dụng vào giải quyết các vấn đề thực tiễn VHCT

Việt Nam hiện nay.

Một là, nghiên cứu thực trạng chung của VHCT. Nhiều tác giả nêu lên

thực trạng VHCT Việt Nam trên cả hai phương diện tích cực và hạn chế.

Về những mặt tích cực của VHCT Việt Nam, các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh,

Lê Văn Đính nhấn mạnh rằng VHCT mang tính chất xã hội chủ nghĩa ở nước ta

19

không ngừng phát triển cả về bề rộng và bề sâu; khẳng định cùng với chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền VHCT Việt Nam kế thừa những giá trị

VHCT truyền thống tiêu biểu của dân tộc, tạo nên một “nền VHCT Việt Nam khoa

học - cách mạng - nhân văn theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa” [201, tr.262].

Bàn về hạn chế của VHCT Việt Nam, có thể kể đến một số tác giả với những

góc nhìn sắc sảo như: Phạm Ngọc Quang trong VHCT và việc bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay [131] đã nêu lên sự kém hiểu biết về văn hóa

tranh luận, văn hóa dân chủ, văn hóa pháp quyền; bệnh quan liêu cả về tư duy, tổ

chức bộ máy, phong cách lãnh đạo, phương pháp hoạt động của các thành tố cấu

thành nên hệ thống chính trị. Từ đó, nhóm tác giả đề ra một số tố chất mà cán bộ

lãnh đạo quản lý cần đạt tới như: “tinh tế về chính trị, có năng lực đàm thoại chính

trị, có sáng kiến và khả năng tìm tòi những quyết định chính trị vốn không dễ dàng”

[131, tr.8]. Cuốn Giáo trình Chính trị học [201] nhấn mạnh đến năng lực, kỹ năng

lãnh đạo chính trị và phẩm chất đạo đức của một bộ phận lãnh đạo - quản lý chưa

ngang tầm với yêu cầu của quá trình đổi mới; tình trạng xuống cấp về đạo đức nói

chung và về đạo đức chính trị nói riêng trong một bộ phận nhân dân.

Cũng trên cơ sở phân tích một số yếu tố tích cực, tiêu cực trong VHCT,

một số nhà nghiên cứu đã hướng đến việc đề ra giải pháp để đổi mới, phát triển

VHCT hiện nay. Nguyễn An Ninh trong bài viết Khắc phục một số yếu tố tiêu

cực trong quá trình xây dựng VHCT đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay [112]

hướng đến giải pháp chung nhằm khắc phục các yếu tố tiêu cực để xây dựng một

nền VHCT đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. Lâm Quốc Tuấn,

trong sách Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay

[148] hướng đến việc phát triển VHCT của một chủ thể quan trọng của VHCT là

đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, coi đây là vấn đề then chốt của công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước.

Lồng vào trong công trình nghiên cứu về văn hóa và giá trị văn hóa nói

chung, một số học giả đã có những khảo cứu về các giá trị VHCT, tiêu biểu có: Ngô

Đức Thịnh với cuốn Giá trị văn hóa Việt Nam - truyền thống và biến đổi [163],

Trần Ngọc Thêm với Hệ giá trị Việt Nam - từ truyền thống đến hiện đại và con

20

đường tới tương lai [158]. Ngô Đức Thịnh và cộng sự đã nêu ra một số giá trị văn

hóa của dân tộc Việt Nam cũng chính là những giá trị thuộc về VHCT: tính cộng

đồng, tính cởi mở trong giao lưu và hội nhập, nghệ thuật quân sự trong đánh giặc

giữ nước. Trần Ngọc Thêm khi phác thảo ra mô hình “hệ giá trị cốt lõi trọng điểm”,

đã nêu ra hai giá trị xã hội phổ biến là: dân chủ và pháp quyền. Tác giả đã thẳng

thắn nhìn nhận những điểm hạn chế của hai giá trị này, cũng có thể hiểu là một

trong những hạn chế trong văn hóa chính trị nước ta hiện nay:

Thứ nhất là giá trị “dân chủ”:

Đi vào thực tế thì mặc dù từ khi chuyển sang thời kỳ Đổi mới, dân

chủ đã được mở rộng hơn, các quyền tự do cá nhân được coi trọng

hơn, nhưng tình trạng tha hóa quyền lực, lạm dụng quyền lực, vi

phạm và xâm phạm quyền làm chủ của dân... cũng đa dạng hơn và

nghiêm trọng hơn [158, tr.473-474].

Thứ hai là giá trị “pháp quyền”:

Từ phía dưới, người dân thiếu hiểu biết về pháp luật, coi thường

pháp luật (...). Từ phía trên, có tình trạng pháp luật chưa đầy đủ và

chưa hoàn thiện, chất lượng chưa cao, nhưng quan trọng hơn là việc

thi hành chưa nghiêm. Người dưới ứng xử tùy tiện, coi thường

pháp luật là do thiếu hiểu biết, còn người trên ứng xử tùy tiện, coi

thường pháp luật là do tự cho mình quyền đứng trên pháp luật, coi

thường dân [158, tr.483].

Hai là, nghiên cứu những vấn đề cụ thể của VHCT:

- Nghiên cứu tư tưởng chính trị, thể chế chính trị: Các phương diện như

triết lý chính trị, quan điểm về quyền lực, đường lối trị nước, luật pháp đã trở

thành nội dung của nhiều bài viết gần đây: Văn hóa trong tổ chức, sử dụng và

tuân thủ quyền lực [20] của Vũ Hoàng Công; Tư tưởng thượng tôn pháp luật

trong VHCT Việt Nam hiện nay [63] của Nguyễn Ngọc Hà.

- Nghiên cứu phương thức thực hành chính trị: Vấn đề rất quan trọng trong

phương thức thực hành chính trị là cách sử dụng người tài được nhiều tác giả đề cập

đến, chẳng hạn: Trong cuốn Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch sử

21

[32], Phan Hữu Dật đã bàn về các phương sách dùng người tiêu biểu trong lịch sử

Việt Nam thời trung đại như: trong vấn đề đào tạo, tuyển chọn người thực tài, dùng

đúng người đúng việc, vinh danh người tài... Trong cuốn “Nâng cao VHCT của cán

bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay” [148], Lâm Quốc Tuấn cũng nêu lên một

bài học dùng người trong VHCT Việt Nam truyền thống và coi đó là cơ sở để đánh

giá tài năng hay nhân cách của một ông vua, một triều đại; là một trong những tiền đề

xã hội, tác động trực tiếp tới sự tồn vong của quốc gia và sự trường tồn của dân tộc.

- Nghiên cứu con người chính trị, nhân cách chính trị.

Có thể nói con người chính trị, nhân cách của chủ thể chính trị được giới

nghiên cứu hết sức quan tâm. Có khá nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề này ở

những góc độ khác nhau.

Công trình nghiên cứu công phu và mới nhất về con người chính trị cho

đến nay phải kể đến Con người chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại [83]

của Nguyễn Văn Huyên. Từ góc độ chính trị học, cuốn sách bước đầu phân tích

làm rõ khái niệm con người chính trị nói chung như một phạm trù chính trị học

với bản chất, đặc điểm, cấu trúc của nó. Đồng thời, tài liệu này cũng đã bước đầu

phân tích con người chính trị Việt Nam trong lịch sử và hiện nay. Từ đó, nhằm

góp phần xây dựng con người chính trị Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, đây là hướng nghiên cứu chủ

yếu về lý luận, và là lý luận chính trị học.

Trong con người chính trị, thường các nhà nghiên cứu quan tâm đến nhân

cách nhà cầm quyền (người lãnh tụ, người lãnh đạo, quản lý), tiêu biểu có các bài

viết: Tư tưởng Hồ Chí Minh về VHCT [78] của Lê Như Hoa; Văn hóa chính trị

Hồ Chí Minh [127] của Bùi Đình Phong; luận án tiến sĩ Chính trị học Văn hóa

chính trị Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn [99] của Nguyễn Hữu Lập...

Ở phương diện người lãnh đạo, các tài liệu thường hướng đến mục tiêu xây

dựng một mẫu người lãnh đạo có đủ phẩm chất, tài năng, xứng tầm, đáp ứng được

yêu cầu của thời đại mới, chẳng hạn như cuốn Để trở thành người lãnh đạo giỏi

[152] của Trần Thành; Phẩm chất, năng lực người lãnh đạo theo yêu cầu của

công nghiệp hóa, hiện đại hóa [82] của Nguyễn Văn Huyên; Nâng cao VHCT của

22

cán bộ lãnh đạo quản lý ở nước ta hiện nay [148] của Lâm Quốc Tuấn; Đổi mới

văn hóa lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay [153] của Phạm Ngọc Thanh.

Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhân cách chính trị của một nhóm xã

hội - nghề nghiệp cũng bắt đầu được chú ý nghiên cứu, chẳng hạn: Văn hóa chính

trị công an nhân dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

[29] của Tạ Thành Chung... Từ góc nhìn hiện thực, các tài liệu nghiên cứu theo xu

hướng này đã có những đánh giá khá khách quan, chân thực thực trạng của VHCT

nước ta hiện nay, từ đó đưa ra được những kiến nghị nhằm xây dựng, đổi mới và

phát triển nền VHCT, trong đó trọng tâm là nhân cách người lãnh đạo, quản lý.

Đây là những gợi ý quan trọng cho luận án trong nội dung liên hệ bàn luận đến

vấn đề xây dựng VHCT nước ta giai đoạn hiện nay.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

1.2.1. Nghiên cứu chung về thời Trần, thời thịnh Trần

Thời Trần nói chung, thời thịnh Trần nói riêng vẫn luôn là đề tài hấp dẫn cho

các học giả từ các chuyên ngành khác nhau như sử học, triết học, văn học.

Trong các tài liệu về lịch sử Việt Nam, ta có thể tìm thấy các nội dung liên

quan đến bối cảnh thời Trần qua các bộ sách viết về lịch sử: Đại cương lịch sử Việt

Nam [133] của các tác giả Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm và Lê Mậu Hãn;

Việt Nam sử lược [87] của Trần Trọng Kim; Tiến trình lịch sử Việt Nam [115]

của Nguyễn Quang Ngọc; Việt Nam một thiên lịch sử [190] của Nguyễn Khắc

Viện; Những bài dã sử Việt [179] của Tạ Chí Đại Trường; Lịch sử Việt Nam,

tập 2, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV [200] của Trần Thị Vinh; Chuyện phiếm sử

học [180] của Tạ Chí Đại Trường; Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa

thế kỷ XIX [96] của Lê Thành Khôi; Sử Việt - 12 khúc tráng ca [120] của Dũng

Phan... Các tài liệu trên đã cung cấp cho NCS nhiều thông tin quý giá, nhiều

dữ kiện lịch sử trung thực, khách quan. Qua đó, bối cảnh kinh tế, chính trị, xã

hội thời Trần được tái hiện, giúp cho NCS có được những cơ sở khoa học cần thiết

để nhận diện, lý giải VHCT thời thịnh Trần. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng

khi NCS thực hiện một đề tài mà nguồn tài liệu chủ yếu là tài liệu thứ cấp. Đặc biệt,

23

có một số tài liệu thể hiện một cái nhìn mới, cách tiếp cận mới về lịch sử thời Trần,

chẳng hạn của Tạ Chí Đại Trường, không chỉ cung cấp thông tin sử liệu, mà là sự lý

giải hiện tượng lịch sử từ góc nhìn địa văn hóa thú vị (nhất là khi ông bàn về vấn đề

xuất thân của nhà Trần, vấn đề nội hôn, điền trang - thái ấp...).

Ngoài các nhà nghiên cứu Việt Nam, còn có một số học giả nước ngoài cũng

đã quan tâm đến vấn đề lịch sử thời Trần, tiêu biểu là tác giả Oliver W.Wolters với

Về việc kể chuyện lịch sử Việt Nam trong các thế kỷ XIII và XIV [118],

A.B.Pôliacốp với Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X - XIV [119]. Các tài liệu

này là kết quả của sự nghiên cứu công phu của những người ngoại quốc quan tâm

đến thời Trần và Đại Việt trong thời kỳ từ thế kỷ X đến thế kỷ XV. Có thể các nhận

định nêu ra trong các tài liệu trên chưa được kiểm chứng hoặc chưa hẳn đúng với

thực tế lịch sử, song các tác giả đã cung cấp nhiều thông tin đa chiều và khá mới mẻ

mà chưa từng được ghi chép trong các bộ quốc sử.

Có thể tìm thấy những nội dung liên quan đến thời thịnh Trần qua mảng tài

liệu nghiên cứu về các vấn đề cơ bản của thời trung đại như tư tưởng, chế độ chính

trị, về vua chúa: Chế độ quân chủ trong lịch sử quân chủ Việt Nam từ thế kỷ X

đến thế kỷ XV và những di sản của nó [126] của Nguyễn Danh Phiệt. Dày công

nhất phải kể đến các tài liệu của các tác giả: Nguyễn Tài Thư với bộ Lịch sử tư

tưởng Việt Nam [175], Nguyễn Đăng Thục với Lịch sử tư tưởng Việt Nam [167].

Trong các bộ sách công phu này, tư tưởng thời Trần được nhận diện qua các

phương diện: tư tưởng chính trị xã hội, tư tưởng triết học tôn giáo, quân sự,

ngoại giao... Vấn đề dung hòa giữa tư tưởng pháp trị và nhân trị trong quá trình

trị nước của nhà Trần cũng được phân tích, lý giải sâu sắc.

Ở phạm vi hẹp hơn là mảng tài liệu về thời Trần, thời đại Lý - Trần: Thời

Trần sau ba lần thắng giặc Nguyên - Mông [125] của Nguyễn Danh Phiệt; Kinh

tế - xã hội thời Lý - Trần [77] của Nguyễn Duy Hinh; Nhà Trần và con người

thời Trần [122] của Nguyễn Danh Phiệt, Lê Văn Lan, Trần Quốc Vượng; Kinh

tế, xã hội thời Trần thế kỷ XIII-XIV [26] của Nguyễn Thị Phương Chi. Trong đó,

các vấn đề cụ thể của lịch sử thời Trần như: bối cảnh kinh tế, lịch sử, xã hội, bộ

24

máy nhà nước, quan chế... được phân tích cụ thể, từ đó giúp xác định được vị trí

của thời thịnh Trần trong bối cảnh chung.

Ngoài ra, một số sử liệu viết dưới hình thức tiểu thuyết dã sử, huyền sử,

huyền tích, giai thoại cũng cung cấp cho NCS nhiều thông tin thú vị về thời Trần

thông qua những câu chuyện về các nhân vật trong giới cầm quyền: Việt sử giai

thoại, tập 3 [170] của Nguyễn Khắc Thuần; Hoàng đế triều Trần, cội nguồn ấn

tượng dân gian [93] của Trường Khánh; và dày công nhất là bộ tiểu thuyết 6 tập

Bão táp triều Trần [67] của Hoàng Quốc Hải,...

Các mảng tài liệu trên đã góp phần tạo nên một cái nhìn toàn cảnh về thời

Trần nói chung và thời thịnh Trần nói riêng. Từ đây, NCS có thể phóng chiếu,

hình dung và xác định được vị thế, đặc điểm của VHCT thời thịnh Trần trong

bức tranh chung đó.

1.2.2. Nghiên cứu về các phương diện của văn hóa chính trị thời thịnh Trần

Hiện chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về VHCT

thời thịnh Trần. Vấn đề này chủ yếu được lồng trong các công trình nghiên cứu

về thời trung đại, về thời đại Lý - Trần hoặc về thời Trần và mới chỉ được tiếp

cận từ các phương diện riêng lẻ:

1.2.2.1. Nghiên cứu về định hướng giá trị trong chính trị

Hai nội dung được nghiên cứu nhiều nhất của phương diện định hướng giá

trị trong chính trị là tư tưởng và thể chế:

Về tư tưởng chính trị. Đây là khía cạnh được quan tâm nhiều nhất trong

học thuật từ trước đến nay khi nghiên cứu về thời thịnh Trần, đặc biệt là chuyên

ngành triết học, tôn giáo học.

Một số công trình nghiên cứu đặt tư tưởng chính trị thời Trần trong dòng

chảy của lịch sử tư tưởng Việt Nam: chẳng hạn đặt trong hệ tư tưởng của Đại

Việt thời đại Lý - Trần (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV), tiêu biểu có thể kể đến: Tư

tưởng Việt Nam thời Lý - Trần [30] của Trương Văn Chung, Doãn Chính; Tư

tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV [85] của

Nguyễn Thị Hương; Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam từ thế kỷ X

25

đến thế kỷ XV [183] của Nguyễn Hoài Văn; Tư tưởng Việt Nam thời Trần [172]

của Trần Thuận; Tam giáo đồng nguyên thời Lý - Trần, một giá trị đặc sắc của

nền chính trị Việt Nam truyền thống [182] của Nguyễn Hoài Văn. Trong các tài

liệu này, một số vấn đề thuộc tư tưởng thời Trần đã được bàn đến, trong đó các tư

tưởng tôn giáo như: tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Nho giáo hay hiện tượng “tam

giáo đồng nguyên” đã được lý giải khá tường minh. Nhìn chung, các nghiên cứu

này cũng nhấn mạnh tinh thần nhân văn, yêu nước, đoàn kết và khát vọng độc lập,

tự chủ của nhà nước quân chủ và nhân dân Đại Việt thời đại Lý - Trần.

Trong Lịch sử tư tưởng Việt Nam [175], Nguyễn Tài Thư khẳng định:

thời Trần (và thời Lý) là “thời kỳ lịch sử mà tư tưởng chính trị và xã hội ở

nước ta có những bước tiến quan trọng” [175, tr.163], đặc biệt là tư tưởng,

nhận thức về nền độc lập dân tộc. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định: “trên cơ

sở của những thắng lợi huy hoàng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên

Mông, nhân dân ta đã có những nhận thức sâu sắc hơn về sự vững vàng của

nền độc lập tự chủ của đất nước và sức sống trường cửu của dân tộc” [175,

tr.168]. Bên cạnh quan niệm về độc lập dân tộc, tác giả cũng phân tích một số

tư tưởng chính trị khác của thời Trần: sự nhận thức về vai trò quan trọng của

nhân dân, của trăm quan, quan niệm về sự đối đãi và sử dụng các tỳ tướng và

quan lại, quan niệm về đạo đức, tư tưởng về pháp quyền. Cuốn Tư tưởng Việt

Nam thời Lý - Trần [30] của Trương Văn Chung, Doãn Chính là tập hợp các

bài viết của nhiều tác giả xoay quanh các vấn đề cốt lõi của tư tưởng chính trị

như: tinh thần độc lập, lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết chống giặc ngoại

xâm của nhà nước quân chủ và nhân dân Đại Việt thời đại Lý - Trần.

Một số tài liệu nghiên cứu về tư tưởng chính trị của các nhân vật chính trị.

Trong cuốn Tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần [30], ngoài nội dung bàn về

các vấn đề chung đã nêu, còn có một số bài tập trung nghiên cứu tư tưởng của

các nhân vật thời Trần với những tư tưởng cốt lõi như: Trần Thái Tông (Thiền

học hay là triết học nhân bản tâm linh thực nghiệm khai phóng), Thiền học Trần

Thánh Tông, Trần Nhân Tông - triết học Trúc Lâm Yên Tử,...

26

Đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng chính trị của các nhân vật chính trị tiêu

biểu thời Trần cũng là hướng tiếp cận của nhiều tác giả như: Nguyễn Đăng Thục

trong Thiền học Trần Thái Tông [168]; Nguyễn Hùng Hậu trong Góp phần tìm

hiểu tư tưởng Phật giáo Trần Thái Tông [71].

Tập bài giảng Chính trị học (Hệ cao cấp lý luận chính trị) của Nguyễn

Văn Vĩnh [202], khi bàn về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, đã khẳng định

tư tưởng chính trị thời Trần nổi bật bởi tư tưởng của Trần Quốc Tuấn. Tác giả

nhận định: “Những tư tưởng: vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, quân lính một

lòng như cha con, khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ... đã trở thành di

huấn chính trị cho mọi thời đại vì “đó là thượng sách để giữ nước” [202, tr.136].

Như vậy, dù là cái nhìn toàn thể (khi xem xét tư tưởng chính trị của thời

đại nhà Trần) hay cái nhìn cụ thể (khi xem xét tư tưởng chính trị của một số con

người chính trị tiêu biểu) thì nhìn chung, các tác giả đều khẳng định các giá trị

của tư tưởng chính trị thời Trần: tinh thần yêu nước, đoàn kết, tinh thần thân dân,

tam giáo đồng nguyên... Những giá trị ấy được hội tụ và tỏa sáng rực rỡ nhất

trong giai đoạn thịnh trị của nhà Trần. Chính vì vậy, đây là những tài liệu tham

khảo cần thiết cho NCS trong khi nhận diện VHCT thời thịnh Trần từ yếu tố

định hướng giá trị trong chính trị.

Về thể chế chính trị

Các nội dung của thể chế chính trị thời thịnh Trần (như đường lối trị nước,

chính sách, chủ trương phát triển đất nước, các quy phạm pháp luật) cũng được

nhiều nhà nghiên cứu bàn đến.

Đường lối ngoại giao cùng những chiến lược quân sự là điểm sáng rực rỡ

trong VHCT của thời thịnh Trần, được tái hiện lại và đánh giá rất cao trong các

tài liệu: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thời Trần [145] của

Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Kế sách giữ nước thời Lý - Trần [141] của Lê Đình

Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt, Tam giáo đồng nguyên thời Lý, Trần: một giá trị đặc

sắc của nền chính trị Việt Nam truyền thống [182] của Nguyễn Hoài Văn... Các

tài liệu này đã phân tích được mối quan hệ giữa các chính sách về kinh tế với

27

chính sách chính trị, quân sự, ngoại giao... và đó là sự tổng hòa trong hệ thống

thể chế chính trị đặc trưng của triều Trần.

Về phương diện giáo dục khoa cử và chế độ tuyển chọn nhân tài cho bộ

máy chính trị, có Nguyễn Văn Thịnh trong Khoa cử và văn chương khoa cử

Việt Nam thời trung đại [161], khi bàn về chế độ khoa cử thời Trần, đã khẳng

định thời Trần là “bước tiến mới của khoa cử”. Đặc biệt, theo tác giả, với khoa

thi Thái học sinh, nhà Trần đã thể hiện “một việc làm khôn khéo có tính chất

“động thái chính trị” [161, tr.37]. Đây là khoa thi “phản ánh bầu không khí tư

tưởng và học thuật của thời kỳ Tam giáo hòa hợp, mặc dù Nho giáo đang trong

xu thế vượt lên” [161, tr.37].

Như vậy, các vấn đề về đường lối trị nước, tư tưởng yêu nước, thân dân,

tinh thần tam giáo đã được nhiều tài liệu khẳng định. Còn các nội dung quan

trọng khác của phương diện định hướng giá trị chính trị như triết lý về quyền

lực chính trị chưa được bàn đến, lý tưởng chính trị độc lập tự cường với quyết

tâm củng cố triều chính, tái thiết đất nước, kháng chiến chống ngoại xâm và

hướng tới nền thái bình muôn thuở cho quốc gia... chưa được làm rõ.

1.2.2.2. Nghiên cứu về sự vận hành chính trị

Trong nội dung vận hành chính trị, các vấn đề như thiết chế bộ máy nhà

nước, hệ thống luật pháp và các phương thức để thực hiện công cuộc dựng nước,

giữ nước được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.

Trong một số công trình chung nghiên cứu về thiết chế chính trị thời trung

đại, thiết chế chính trị của thời thịnh Trần cũng được khá nhiều tài liệu đề cập: Hệ

thống quan chế thời quân chủ, “Almanach, Những nền văn minh thế giới”[162]

của Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Kim Sơn; Tiến trình lịch sử Việt Nam [115] của

Nguyễn Quang Ngọc, Chính quyền trung ương thời Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần với

vấn đề thống nhất đất nước và hiện tượng cát cứ, phân liệt [123] của Nguyễn

Danh Phiệt; Văn minh Đại Việt [75] của Nguyễn Duy Hinh.

Hệ thống thiết chế chính trị thời thịnh Trần được nhận diện cụ thể hơn

trong các tài liệu sau: bài viết Vài nhận xét về tổ chức và tính chất nhà nước thời

Trần của [102] của Phan Huy Lê; bài viết Về chế độ quân chủ quý tộc thời Trần,

[128] của Nguyễn Hồng Phong; Chế độ thượng hoàng với vương triều Trần

28

Nguyễn Hữu Tâm trong Kỷ yếu Hội thảo Thời Trần và Hưng Đạo Đại vương

Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà [136] và các cuốn sách như Thái ấp -

điền trang thời Trần (thế kỷ XIII - XIV) [25] của Nguyễn Thị Phương Chi; Văn

minh Đại Việt [75] của Nguyễn Duy Hinh; Mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam

từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX [3] của Phạm Đức Anh... Trong các tài liệu này, thiết

chế chính trị với các nội dung như: tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống quan chế,

mô hình kinh tế - chính trị kiểu thái ấp - điền trang... đã được quan tâm nghiên cứu

công phu. Phan Huy Lê, Nguyễn Hồng Phong đều đi đến khẳng định đây là mô

hình nhà nước theo kiểu “quân chủ quý tộc” với những đặc trưng như: quý tộc họ

Trần là lực lượng chủ yếu nắm giữ bộ máy chính quyền quan liêu, được hưởng

những đặc quyền đặc lợi, để duy trì sức mạnh gia tộc, nhà Trần cũng đề ra chế độ

thái ấp điền trang và thực hiện hôn nhân nội tộc. Riêng vấn đề thái ấp - điền trang

đã được Nguyễn Thị Phương Chi dày công nghiên cứu với những mô tả tỉ mỉ về

hệ thống điền trang, thái ấp và có sự đánh giá sắc sảo về vai trò cũng như hạn chế

của chúng trong vấn đề xây dựng và bảo vệ vương triều, đất nước thời Trần.

Ngoài ra, có một số tài liệu khác đã hướng đến lý giải hệ thống thiết chế,

chính quyền, bộ máy nhà nước thời Trần trên cơ sở mối quan hệ giữa chúng với

tư tưởng Phật giáo. Chẳng hạn Hoàng Đức Thắng với cuốn Mối quan hệ giữa

nhà nước quân chủ Lý - Trần với Phật giáo [156]. Trong tài liệu này, tác giả

nhấn mạnh ảnh hưởng của tinh thần khoan hòa, bác ái, tinh thần nhập thế tích

cực đối với việc hình thành một chính quyền thân dân.

Thời Trần gắn liền với ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên vĩ đại,

nên khi bàn đến câu chuyện dựng nước, giữ nước thời kỳ này, nghệ thuật quân sự

được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đặc biệt. Trong đó, phải kể đến công trình

Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII [145] của Hà Văn

Tấn, Phạm Thị Tâm. Cùng với việc mô tả tỉ mỉ diễn biến ba lần kháng chiến của

quân dân nhà Trần, tài liệu này đã phân tích nghệ thuật quân sự kết hợp ngoại giao

mà vương triều Trần vận dụng để đạt được thắng lợi oanh liệt.

Cùng với nghệ thuật quân sự, kế sách đánh giặc, trong các tài liệu trên và

một số tài liệu khác, một số kỹ năng, nghệ thuật làm chính trị khác cũng được đề

29

cập: kế sách phát triển kinh tế đa sở hữu; kế sách trị thủy và làm nông nghiệp; kế

sách đào tạo, tuyển dụng nhân tài: Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt với Kế sách

giữ nước thời Lý - Trần [141]; Phan Hữu Dật với Phương sách dùng người của

ông cha ta trong lịch sử [32].

Như vậy, dù tài liệu khá phong phú, song chưa có công trình nào tiến hành

miêu tả phương diện vận hành chính trị một cách toàn diện, từ công cụ thực hành

(với hệ thống luật pháp, chế độ, bộ máy nhà nước và quan chế) đến phương thức

thực hành (qua hoạt động quân sự, ngoại giao, quản lý xã hội, đào tạo và sử dụng

người cầm quyền) một cách toàn diện, hệ thống từ góc nhìn văn hóa học.

1.2.2.3. Nghiên cứu về nhân vật chính trị

Nhân cách chính trị cũng là tâm điểm của góc nhìn VHCT. Trên cái nhìn

tổng thể, có thể thấy nhân cách chính trị thời Trần có sức hút mạnh mẽ đối với

các nhà nghiên cứu từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn. Trong đó, các vấn đề

sau được các nhà nghiên cứu khá quan tâm:

- Nghiên cứu sự hình thành nhân cách chính trị:

Một số tài liệu đã lý giải quá trình hình thành nhân cách chính trị, phân

tích các điều kiện, nhân tố ảnh hưởng đến nhân cách. Tác giả Đỗ Lai Thúy trong

Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa [173], trong khi phân tích thời đại

và mẫu người văn hóa Lý - Trần, đã khẳng định: bối cảnh xã hội (kinh tế phát

triển, chiến công hiển hách, tinh thần khoan hòa, phóng khoáng) đã tạo ra mẫu

người văn hóa mang những nét đặc trưng của thời đại. Trí thức đại diện cho thời

đại này là: vua, quan lại, tướng lĩnh, tu sĩ, cư sĩ - những trí thức Phật học. Chính

tầng lớp trí thức này đã tạo ra nền văn hóa bác học thời Lý - Trần. Mặt khác, là

sản phẩm của thời đại, bản thân họ cũng mang đậm dấu ấn văn hóa thời đại. Mẫu

người văn hóa của thời đại này là con người vô ngã - con người phóng khoáng,

biết mang cái tiểu ngã hòa nhập vào cái đại ngã đích thực, trường tồn của vũ trụ,

đồng thời có trình độ tư duy cao, sống an nhiên, tự tại, nhân nghĩa, dũng cảm, có

tinh thần yêu nước chân chính... Những luận điểm và hướng tiếp cận trên đây

thực sự là một gợi ý thú vị cho nghiên cứu sinh khi đi sâu lý giải quá trình hình

30

thành nhân cách chính trị thời thịnh Trần, đặc biệt là sự xuất hiện những mẫu

nhân cách sáng chói, độc đáo.

Nguyễn Thị Thanh Hảo trong luận án tiến sĩ Văn hóa học Ảnh hưởng của

Phật giáo đối với văn hóa đạo đức các vương triều Lý - Trần [70] lại bàn sâu về

sự hình thành đạo đức của quân vương, quan lại, quý tộc hai vương triều Lý và

Trần như là hệ quả của Phật giáo, đặc biệt tinh thần từ bi, hỷ xả và in dấu ấn

“đức trị” trong quá trình trị nước của nhà cầm quyền.

- Nghiên cứu vai trò lịch sử của các nhân vật chính trị:

Vũ Khiêu trong cuốn Bàn về văn hiến Việt Nam [95], Nguyễn Quang Ân

trong Những gương mặt trí thức (1998), Lê Thị Thanh Hương trong Nhân cách

văn hóa trí thức Việt Nam trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế (2007), đã

tiến hành đánh giá nền văn hiến Việt Nam thông qua những trí thức xuất sắc

trong lịch sử, đã chú ý đến các nhân vật lịch sử thời Trần. Các nhân vật đó được

nhìn nhận trong mối quan hệ với thời đại và lịch sử dân tộc, với tư cách là chủ

thể, động lực tạo dựng nên nền văn hiến Việt Nam.

Trong những chủ thể chính trị thời Trần, thu hút nhất với nhiều nhà nghiên

cứu là nhân cách của hoàng đế. Chân dung các hoàng đế hiện lên vừa là nhà vua,

nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ, nhà sư... Một loạt công trình theo hướng này

đã ra đời, trong đó đáng chú ý nhất phải kể đến các tài liệu sau: Bài viết “Mẫu

hình nhân cách hoàng đế và con đường tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong triết

học và văn học khu vực Đông Á” trong sách Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa

nguồn chung (1999) của Trần Ngọc Vương. Trong tài liệu này, ông đã có những

nhận định quan trọng về mẫu nhân cách hoàng đế: mẫu hình hoàng đế là một mẫu

hình nhân cách văn hóa đặc biệt, có quyền năng và thế năng chi phối tất cả dưới

gầm trời này. Mọi nhân cách văn hóa hình thành và phát triển trong nền chuyên

chế đều quay quanh trục mẫu hình nhân cách hoàng đế.

Trường Khánh trong Hoàng đế triều Trần - cội nguồn ấn tượng dân gian

(2003) đã dựng lại chân dung các nhân vật từ những ấn tượng dân gian, có những

nhìn nhận đúng về vai trò của hoàng đế trong lịch sử dân tộc. Đáng chú ý, tác giả

31

đã có sự phân định thời Trần ra làm hai giai đoạn: thịnh Trần và mạt Trần với vai

trò của minh quân lương tướng, coi nhân cách chính trị của họ là cơ sở của sự

tồn vong của vương triều:

Thời thịnh Trần rực rỡ bởi có vua hiền, bề tôi trung hậu. Thời mạt

Trần suy vi bởi vua thiếu minh mẫn, triều thần thì phe cánh, bon chen

đua đòi, ăn chơi trụy lạc làm mất đi ngôi báu, mất đi nét đẹp truyền

thống, dẫn đến đất nước đắm chìm trong thảm họa giặc Minh đô hộ,

để cho muôn dân sống quằn quại đau thương [93, tr.41].

Đây là một hướng nghiên cứu gợi cho NCS một góc nhìn so sánh để lý

giải nguyên nhân thịnh - suy của triều Trần.

- Nghiên cứu một số mẫu nhân cách tiêu biểu:

Một số tác giả đã nghiên cứu các nhân vật lịch sử tiêu biểu với tư cách là

những mẫu nhân cách chính trị tiêu biểu, nhiều nhất là Trần Nhân Tông, Trần

Quốc Tuấn: Đỗ Thanh Dương (Trần Nhân Tông - nhân cách văn hóa lỗi lạc,

2008), Lê Mạnh Thát (Trần Nhân Tông - cuộc đời và tác phẩm, 1999), Hồ Đức

Thọ (Trần triều Hưng Đạo Đại Vương trong tâm thức dân tộc Việt, 2000), Viện

Lịch sử quân sự Việt Nam (Trần Quốc Tuấn - nhà quân sự thiên tài, 2000);

Hoàng Thúc Trâm (Trần Hưng Đạo, 2014). Ngoài ra, một số bài viết cũng bàn

sâu về con người chính trị giai đoạn này, chẳng hạn như: Trần Ngọc Vương

(Trần Nhân Tông - nhiều trong một; Trần Nhân Tông - trí giả anh minh, nhà văn

hóa kiệt xuất), Nguyễn Hữu Sơn (Trần Nhân Tông - vị hoàng đế, thiền sư, thi

sĩ)..., qua đó, các phẩm chất cao đẹp của nhân cách được nhận diện một cách

toàn diện. Đặc biệt, các bài viết đầy tâm huyết của Trần Ngọc Vương đã có

những nhận định sâu sắc về nhân cách Trần Nhân Tông đồng thời khẳng định

được vị thế, vai trò của vị hoàng đế đặc biệt của triều Trần đối với vương triều,

với dân tộc và với thời đại, với tư cách là một nhà văn hóa kiệt xuất. Theo sự

phân tích của học giả này, Trần Nhân Tông là một trí giả anh minh, nhà văn hóa

kiệt xuất, bởi không có một tì vết về đức hạnh, sự cống hiến trọn vẹn cho đời và

đạo, phụng sự cộng đồng, bởi tinh thần an nhiên tự tại, lòng khoan dung..., trong

số các quân vương thời quân chủ Việt Nam, ông là “quân vương tài hoa bậc

32

nhất”, là “một nhân cách lịch sử lỗi lạc” [205] và “đã sống một cuộc đời không

thể ước mơ cao hơn, xa hơn” [206].

Các tài liệu trên đã phác họa ra những bức tranh sinh động về các nhân vật

chính trị mà chủ yếu là các bậc minh quân, lương tướng - chủ thể chính trị quan

trọng tạo nên mô hình thời đại lý tưởng. Các tác giả đã tập trung vào những đóng

góp về võ công, văn trị và sức sống của các nhân vật lịch sử trong tâm thức dân

tộc Việt Nam mà đại diện tiêu biểu là Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn. Đây là

những nghiên cứu khá đa diện, sinh động song chưa toàn diện. Bởi lẽ thời thịnh

Trần hội tụ nhiều nhà chính trị tài năng, nhiều nhân cách thú vị, Trần Nhân Tông

và Trần Quốc Tuấn là đại diện tiêu biểu nhưng nếu bỏ qua một số nhân vật khác

thì sẽ là thiếu sót. Hơn nữa, khi bàn về nhân cách chính trị, không chỉ có nhân

cách của người cầm quyền mà còn có nhân cách của thần dân, người bị cầm

quyền và rộng hơn là con người thời đại. Vì vậy, cần có cái nhìn toàn diện, khái

quát hơn khi bàn về nhân cách chính trị giai đoạn này.

Mặt khác, nhìn chung, vấn đề nhân cách chính trị mới được bàn đến với tư

cách “con người chính trị” chung chung, hoặc những đóng góp của các nhân vật

lịch sử riêng lẻ, chưa được hệ thống hóa thành những phẩm chất nhân cách mang

tính đại diện và mang màu sắc riêng cho con người thời Trần. Hơn nữa, chưa có

tài liệu nào khai thác các mẫu hình nhân cách văn hóa, hay coi con người chính

trị là chủ thể sáng tạo và chịu tác động của nền VHCT.

1.2.2.4. Nghiên cứu về ngoại hiện chính trị

Đây là nội dung ít được các tài liệu bàn đến hoặc chưa được nghiên cứu thấu

đáo. Ta chỉ có thể tìm thấy thấp thoáng bóng dáng của chúng được phác thảo trong

một số công trình nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, tôn giáo thời Trần, như tài liệu

nghiên cứu về các biểu tượng, quy cách thể hiện quyền lực chính trị, trật tự xã hội

hay về các công trình kiến trúc cung đình, kiến trúc tôn giáo (đền, chùa, tháp...), về

trang phục cung đình và dân gian...

Ngô Đức Thọ trong Chữ húy Việt Nam qua các triều đại [166] đã thống

kê hệ thống chữ húy của các triều đại quân chủ Việt Nam, trong đó, có mô tả

những quy định về chữ húy của nhà Trần.

33

Về hệ thống công trình kiến trúc, nhóm tác giả Trương Hữu Quýnh, Đinh

Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn trong Đại cương lịch sử Việt Nam [133] đã mô tả đô

thành Thăng Long từ kiểu cấu trúc, kết cấu trong ngoài của kinh thành và cung

điện ở Thăng Long cũng như khu Tức Mặc - phủ Thiên Trường. Trong cuốn Cơ

sở văn hóa Việt Nam [8], Huỳnh Công Bá cũng đã phác thảo về các sự vật như

cung điện, chùa tháp thời Trần.

Vấn đề trang phục thời Trần cũng được khá nhiều tài liệu quan tâm trong

quá trình nghiên cứu chung về trang phục dân tộc qua các thời kỳ lịch sử. Tiêu

biểu có Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam [203] của Trịnh

Quang Vũ, Trang phục Việt Nam [146] của Đoàn Thị Tình, Ngàn năm áo mũ

[46] của Trần Quang Đức. Đặc biệt, trong Ngàn năm áo mũ - bộ sách công phu

với tham vọng dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam trong cung đình và ngoài

dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý đến thời Nguyễn (1009-1945),

tác giả đã có những phát hiện mới về trang phục thời Trần: Chế độ áo mũ của

nhà Trần kế thừa một phần của nhà Lý, tiếp tục tham khảo quy chế trang phục

của nhà Tống, thực hiện cải cách một số kiểu áo mũ cho vương hầu bá quan và

hầu như không chịu ảnh hưởng nào từ chế độ y phục của nhà Nguyên [46,

tr.106]. Đó là những gợi ý quan trọng cho NCS khi lý giải các biểu tượng, yếu tố

ngoại hiện. Tuy nhiên, đây vẫn là những nghiên cứu thiên về văn hóa trang phục,

tác giả không hoặc chưa có ý định đi sâu nghiên cứu chúng như những biểu

tượng chính trị - hệ thống ngoại hiện của VHCT giai đoạn này.

Cũng tương tự, một số công trình nghiên cứu khác, có nhắc đến một số yếu

tố của hệ thống ngoại hiện thuộc VHCT thời Trần như: trang phục, lăng mộ, thành

quách, đền đài, cung điện, xe kiệu, thuyền bè, thái ấp, chức tước, mỹ tự, danh

xưng, tế lễ, đặt tên cho quan lại và các cơ quan trong bộ máy nhà nước… Tuy

nhiên, chúng là những thông tin hoặc là đơn lẻ hoặc là được nhắc đến trong những

công trình nghiên cứu lịch sử, tôn giáo, kiến trúc... với những ý đồ nghiên cứu

khác ngoài biểu tượng VHCT (chẳng hạn nghiên cứu luật pháp, nghiên cứu thể

chế, thiết chế…).

34

Trong mấy năm gần đây, ngành khảo cổ học Việt Nam đã khai quật được

một số di chỉ liên quan đến cung điện, thành quách nhà Trần. Theo đó, ngoài

hành cung Thiên Trường và Vũ Lâm, thời Trần còn có hành cung Lỗ Giang

(Thái Bình) là hành cung dưới thời vua Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, sau

này là hành cung Kiến Xương dưới thời vua Trần Hiến Tông, nay là di tích đền

Trần - Thái Lăng. Theo Đức Văn, hành cung “có phạm vi khá rộng lớn” với kiến

trúc độc đáo như: sự độc đáo trong kỹ thuật xây dựng móng trụ (Móng trụ ở đây

theo dạng trụ kép đôi và kép ba), kỹ thuật xây dựng bó nền với hệ thống cọc gỗ

và trụ đá kiên cố, các loại ngói mũi sen lợp mái. Ngoài ra, theo tác giả, các nhà

khảo cổ đã phát hiện hàng trăm di vật, hiện vật mang giá trị biểu trưng vương

quyền như hàm rồng, mai rồng, riềm mái hình lá đề có hình rồng [181]. Đây là

một trong những cơ sở quan trọng để nghiên cứu về các yếu tố ngoại hiện vốn

mờ nhạt trong tư liệu lịch sử còn để lại.

Như vậy, những sự vật (cung điện, thành quách, trang phục cùng các

chi tiết trong công trình kiến trúc thời Trần) được mô tả với mục đích như các

cứ liệu lịch sử, văn hóa, tôn giáo chứ không phải với tư cách các yếu tố ngoại

hiện chính trị.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể rút ra một số nhận định:

- Dù thuật ngữ VHCT đã được nhắc đến từ khá sớm nhưng cho đến nay, do

sự phong phú về hướng tiếp cận nghiên cứu từ các ngành khoa học khác nhau, khái

niệm này vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận. Đặc biệt, khái niệm VHCT chưa thực sự

được quan tâm và có những kiến giải thấu đáo từ góc nhìn văn hóa học.

- Liên quan đến vấn đề VHCT thời thịnh Trần, đã có nhiều tài liệu đề cập

ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Đó là những nguồn tư liệu quý báu, bổ

ích để NCS có thể kế thừa, chắt lọc và phát triển trong luận án.

Tuy nhiên, do mục tiêu nghiên cứu, những tài liệu đó chưa quan tâm đến

việc nhận diện VHCT thời thịnh Trần một cách toàn diện và hệ thống dựa trên

một cấu trúc cơ bản của VHCT dưới góc nhìn văn hóa học. Vì vậy, mỗi tài liệu

mà NCS thu thập được hầu như mới chỉ là một mảnh ghép riêng lẻ và chủ yếu bàn

35

về một số nội dung như: định hướng giá trị trong chính trị, phương thức vận hành

chính trị và chủ yếu được lồng ghép vào trong các tài liệu về thời Trần. Một số

yếu tố khác rất quan trọng của VHCT chưa được đi sâu lý giải, chẳng hạn: nhân

cách chính trị, hệ thống ngoại hiện thì hoặc là chưa được nghiên cứu thấu đáo

hoặc chưa được định danh, nghiên cứu đúng với tư cách là thành tố của VHCT.

Như vậy, một công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống, chuyên sâu về

VHCT thời thịnh Trần - dưới ánh sáng lý luận của văn hóa học - thì chưa từng

xuất hiện. Từ thực tế đó, NCS lựa chọn đề tài luận án “Văn hóa chính trị thời

thịnh Trần” với mong muốn: 1/Góp phần hệ thống hóa và xác lập khái niệm, cấu

trúc của VHCT dưới góc nhìn văn hóa học; 2/Phân tích diện mạo của VHCT thời

thịnh Trần - thông qua các thành tố cơ bản của cấu trúc VHCT đã xác lập;

3/Đánh giá giá trị của VHCT thời thịnh Trần và bàn luận về việc vận dụng bài

học của thời Trần trong xây dựng VHCT Việt Nam hiện nay.

Tiểu kết chương 1

Tổng quan tài liệu cho thấy VHCT đã hình thành cùng với sự ra đời của

hoạt động chính trị của con người. Tuy nhiên, VHCT với tư cách là một đối

tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học thì mới xuất hiện, bắt đầu từ phương

Tây sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở Việt Nam, nghiên cứu về VHCT đã

diễn ra theo nhiều xu hướng song nhìn chung, còn đang ở những bước đi đầu

tiên trên nền tảng lý thuyết và phương pháp còn chưa hoàn bị.

Văn hóa chính trị thời thịnh Trần là vấn đề quan trọng, đã được các nhà

nghiên cứu tiếp cận trong cái nhìn đa chiều. Nhưng cho đến nay, chưa có một

công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về VHCT thời thịnh Trần dựa trên

lý thuyết VHCT từ góc nhìn văn hóa học. Đó cũng là vấn đề đặt ra đòi hỏi luận

án cần tiếp tục nghiên cứu một cách thấu đáo hơn.

36

Chương 2

QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ GIỚI THUYẾT

VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

2.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

2.1.1. Khái niệm văn hóa chính trị

2.1.1.1. Văn hóa

“Văn hóa” là từ có nguồn gốc Latinh: “colere”, sau chuyển thành

“cultura” có nghĩa là “cày cấy, vun trồng”, với nghĩa ban đầu là vun trồng đất

đai, cây cối trong nông nghiệp, sau chuyển sang nghĩa vun trồng tinh thần, trí

tuệ, nghĩa là nói đến những gì thiêng liêng, quan trọng đối với cuộc sống con

người. Đến thời Trung cổ, văn hóa được hiểu là tín ngưỡng, bởi tín ngưỡng cũng

là một điều thiêng liêng, là biểu hiện của sự phát triển cao nhất của tinh thần con

người. Ở phương Tây, khi bàn về nghĩa của từ “cultura”, người ta hay viện dẫn

câu chuyện về nhân vật Prométhée trong thần thoại Hy Lạp đã chấp nhận bị

xiềng xích để lấy được lửa về cho loài người.

Thuật ngữ văn hóa được các nhà nghiên cứu từ thời cổ đại cho đến ngày nay

nghiên cứu, tìm tòi, phân tích để làm rõ nội hàm ý nghĩa của nó. Tính đến nay, đã

có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa dựa trên các cách tiếp cận khác nhau,

chẳng hạn tiếp cận theo tính chất miêu tả, theo tính chất lịch sử, nhấn mạnh vào nếp

sống xã hội, nhấn mạnh vào sự thích ứng của con người với môi trường tự nhiên,

nhấn mạnh vào tính chất di truyền xã hội (tức khả năng học tập của con người),

nhấn mạnh vào phương thức ứng xử, nhấn mạnh vào khía cạnh tư tưởng của văn

hóa, nhấn mạnh vào phương diện giá trị của văn hóa, nhấn mạnh vào hoạt động

sáng tạo trong lịch sử, nhấn mạnh vào mô hình các thể chế xã hội, nhấn mạnh vào ý

nghĩa biểu trưng của văn hóa…

Ban đầu, văn hóa được quan niệm là có tính đồng nhất, dùng để chỉ những

gì mang tính đồng nhất trên toàn thế giới. Về sau, các nhà nghiên cứu tìm hiểu

37

và phát hiện ra rằng mỗi dân tộc khác nhau đều có những truyền thống, đặc trưng

khác nhau, và như thế có nghĩa là có những nền văn hóa khác nhau, riêng biệt.

Do vậy, các nhà văn hóa học phương Tây giải thích từ “văn hóa” theo hai trường

hợp là Culture (văn hóa nói chung - số ít) và cultures (những nền văn hóa - số

nhiều). Trong sách Nhân học - một quan niệm về tình trạng nhân sinh, Emily

A.Schultz viết:

Các nhà nhân học đôi khi phân biệt giữa văn hóa “Culture” (với chữ C

viết hoa) và những nền văn hóa “cultures” (với chữ c viết thường).

Văn hóa (viết hoa) được xem là một thuộc tính của nhân loại nói

chung - đó là khả năng học hỏi và sáng tạo ra những hành vi và quan

niệm để chủng loài có thể tồn tại được như những cơ thể sinh học.

Ngược lại, những nền văn hóa (viết thường) là những truyền thống

khác nhau bao gồm những hành vi và quan niệm mà những tập thể

người học hỏi được vì họ là thành viên của những xã hội đó. Mỗi

truyền thống có thể được gọi là một nền văn hóa riêng, mặc dù biên

giới ngăn cách một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác thường

không dễ xác định [49, tr.14-15].

Quan niệm này tương đối phù hợp với định nghĩa văn hóa do Federico

Mayor - nguyên Tổng giám đốc UNESCO, nêu ra:

Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người

trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã

hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu -

những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc [15, tr.23].

Có thể nói cách quan niệm về văn hóa theo hai trường hợp (văn hóa nói

chung - văn hóa toàn thể) và văn hóa nói riêng (các nền văn hóa) rất cần thiết để

chúng ta nghiên cứu VHCT một cách tổng quát. VHCT vừa mang tính chất, đặc

trưng của văn hóa nói chung (văn hóa toàn thể), vừa mang tính chất, đặc trưng

của văn hóa nói riêng (các nền văn hóa), song chủ yếu người ta nhấn mạnh đến

“những yếu tố xác định đặc tính riêng” của mỗi cộng đồng, của mỗi nền văn hóa

38

trong VHCT. Do vậy, mới có những mô hình VHCT khác nhau như: VHCT bộ

lạc, VHCT thần thuộc (trong xã hội nô lệ, quân chủ), VHCT tham dự (trong xã

hội tư sản). Ngoài ra, ở thời hiện đại lại có các mô hình VHCT khác nhau của

mỗi quốc gia.

2.1.1.2. Chính trị

Về phương diện ngôn ngữ, “chính trị” là một từ Hán Việt được kết hợp bởi

hai từ chính và trị. Vậy, để hiểu khái niệm chính trị, chúng ta cần chiết tự để tìm

nghĩa của hai từ này. Theo Đào Duy Anh, một trong các nghĩa của “Chính” 政 là

“sửa cho đúng, sắp đặt lại”; một trong các nghĩa của “Trị” 治 là “sửa chữa công

việc”. Và “Chính trị” 政治 là từ dùng để gọi chung những việc sắp đặt và thực hành

để sửa trị một nước [1, tr.120]. Như vậy, có thể nói, chính trị là việc tổ chức đời

sống xã hội của một cộng đồng (dân tộc, quốc gia) bằng quyền lực chung.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chính trị được hiểu là:

Toàn bộ hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp,

giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội mà cốt lõi của nó là vấn đề giành

chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia công

việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung

hoạt động nhà nước. Bất kể vấn đề chính trị nào cũng đều có liên quan

đến quyền lực của các giai cấp và nhà nước (…). Chính trị còn là sự

biểu hiện tập trung của nền văn minh, của hoạt động sáng tạo, của sự

giải phóng… [187, tr.603].

Từ góc độ từ nguyên, “chính trị” là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy

Lạp: “politicus”. Trong tiếng Hy Lạp, “polis” có nghĩa là “thành”. Người Hy

Lạp xưa kia thường xây dựng “thành bang” (một dạng đô thị có thành vây xung

quanh). Trong thành chỉ có giới chủ nô và gia đình của họ mới được ở. Ngoài

thành là dân nô lệ. Từ đó, có chữ “homo - politicus” là “người chính trị”, tức là

người ở trong thành, thuộc giới có quyền. Về sau, từ “chính trị” được dùng để

chỉ những công việc liên quan đến nhà nước, là nghệ thuật để cai trị nhà nước và

là phương pháp để thực hiện các mục tiêu của quốc gia.

39

Platon - triết gia Hy Lạp cổ đại - đã khẳng định, chính trị là nghệ thuật cai

trị và theo ông, cai trị bằng sức mạnh của quyền lực là độc tài, còn cai trị bằng

thuyết phục mới là cai trị đích thực. Sang thời hiện đại, nhà kinh tế, chính trị và xã

hội học người Đức là M.Weber cho rằng, chính trị là khát vọng tham gia vào

quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong

quốc gia hay giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. Với quan điểm này,

chính trị là sự khôn khéo, là nghệ thuật, là thủ đoạn, là trường đấu tranh, chiếm

quyền hành, tước vị mà kẻ thắng thế chưa hẳn là người tốt. Theo cách định nghĩa

của nhiều trường phái khoa học chính trị ở phương Tây, chính trị “là tất cả các

hoạt động của con người nhằm xác lập những chế định bắt buộc chung đối với

nhóm hoặc giữa các nhóm người” [147, tr.58].

Trong thực tế, chính trị đã từng là công cụ đặc quyền để tầng lớp thống trị

buộc các tầng lớp khác phải phục tùng ý chí của mình. Tuy nhiên, cùng với quá

trình dân chủ hóa, chính trị dần trở thành công việc của đông đảo quần chúng

nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tham gia vào công việc của nhà nước ở

những mức độ, phạm vi khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và văn

hóa của họ.

Như vậy, về bản chất, chính trị phản ánh một trình độ văn hóa của nhân

loại nói chung và của từng cộng đồng người nói riêng về phương diện tổ chức,

điều hành xã hội. Chính trị luôn gắn liền với con người kể từ khi nhà nước ra

đời và đó là một lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của đời sống xã hội. Mọi

thành quả lý luận và thực tiễn do con người sáng tạo ra liên quan đến việc

giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước đều thuộc về VHCT. Với cách nhìn

nhận như vậy, cùng với quá trình ra đời và phát triển của nhà nước, khái niệm

VHCT đã hình thành và từng bước hoàn thiện.

2.1.1.3. Văn hóa chính trị

Ở Việt Nam, vấn đề VHCT cho đến nay, vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất.

Như đã trình bày ở trên, có ý kiến cho rằng VHCT là nghệ thuật làm chính trị, là văn

hóa trong chính trị. Lại có quan niệm cho rằng VHCT là một bộ phận của văn hóa.

40

Để xác lập khái niệm từ góc nhìn văn hóa học, luận án đi theo quan niệm

thứ hai, khẳng định rằng, VHCT là một thành tố, một lĩnh vực của văn hóa nói

chung, có nghĩa là VHCT là một bộ phận trong văn hóa toàn thể. Tiêu biểu cho

quan niệm này, có thể dẫn ra các định nghĩa của các tác giả:

Tác giả Phạm Ngọc Quang trong cuốn “Văn hóa chính trị và việc bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay” đã định nghĩa:

Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa; nó nói lên tri thức,

năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên sự nhận thức sâu

sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến

bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của

nhân dân phù hợp sự phát triển của lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên

phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con người cùng những

thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những lợi ích giai cấp cơ

bản của chủ thể tương ứng [131, tr.19].

Tác giả Song Thành trong cuốn sách “Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất”

quan niệm:

Văn hóa chính trị là một bộ phận cấu thành của văn hóa, kết tinh trong đó

cả tri thức, lý tưởng, đạo đức và năng lực hoạt động chính trị, có ảnh

hưởng đến thái độ, hành vi chính trị của một cá nhân hay một cộng đồng

xã hội nhất định. Văn hóa chính trị được hình thành từ kinh nghiệm lịch sử

của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa chính trị hiện đại, dưới sự chi phối

của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp hay đảng cầm quyền [151, tr.86].

Hai định nghĩa trên đã thừa nhận VHCT là một bộ phận cấu thành của văn

hóa, một phương diện của văn hóa nhưng lại chưa chỉ rõ vị trí cụ thể của nó trong

văn hóa toàn thể nói chung, nghĩa là chưa nhìn khái niệm từ góc nhìn văn hóa học.

Trong cuốn “Các chuyên đề bài giảng chính trị học”, dành cho hệ đào tạo

cao học chuyên ngành Chính trị học, tác giả Phan Xuân Sơn đã đưa ra định nghĩa:

Văn hóa chính trị là một loại hình văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ giá

trị, phẩm chất, năng lực, trình độ và phương thức hoạt động chính trị,

được hình thành trên cơ sở một nền chính trị với thể chế, hệ thống và

41

thiết chế đúng đắn, khoa học, thực hiện lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc

gia, phù hợp với tiến bộ xã hội - con người [139, tr.260].

Quan niệm này, theo NCS, cũng chưa thực sự chính xác. Khi nói đến

VHCT, tất nhiên ta không phủ nhận góc độ giá trị của nó, nghĩa là xét yếu tố văn

hóa trong hoạt động chính trị. VHCT bao hàm những giá trị, mặt tích cực, tiến

bộ trong hoạt động chính trị, nó làm cho đời sống xã hội tốt đẹp hơn, là những

thứ mà con người mong muốn đạt tới và khao khát chia sẻ. Nhưng VHCT còn có

cả những tập quán, những cách ứng xử đã trở thành truyền thống, kể cả những

thủ đoạn, hay kế sách mang đặc điểm riêng của một nền chính trị mà có thể trong

một nền chính trị khác là xa lạ.

Cũng thừa nhận VHCT là một loại hình văn hóa, song nhóm tác giả của Tập

Bài giảng Chính trị học (hệ đào tạo Cao cấp Lý luận chính trị) lại khẳng định:

Văn hóa chính trị là một loại hình của văn hóa, là một phương diện

hợp thành của văn hóa trong xã hội có giai cấp và nhà nước. VHCT

là văn hóa được thể hiện trong hoạt động chính trị của con người, tổ

chức, thể chế, thiết chế chính trị [202, tr.381-382]

Thực tế, VHCT không chỉ thuộc văn hóa trong xã hội có giai cấp và nhà

nước. Bởi lẽ trong lịch sử, ngay ở Việt Nam, có những giai đoạn xã hội chưa

phân chia giai cấp, nhưng đã có VHCT (như xã hội bộ lạc, thậm chí đến thời

quân chủ, đã thực sự có giai cấp chưa, hay mới chỉ là đẳng cấp?). Mặt khác, các

tác giả đồng nhất các khái niệm mà theo NCS là khác nhau: “VHCT” và “văn

hóa của chính trị” hay “văn hóa trong hoạt động chính trị”, nghĩa là đồng nhất

một phương diện của văn hóa với một tính chất của chính trị. Văn hóa không

phải là một tính chất, thuộc tính hay phẩm chất của chính trị, trái lại, văn hóa với

chính trị là hai yếu tố độc lập trong đời sống xã hội. Hơn nữa, khi nói đến

VHCT, ta không chỉ nói đến phương diện chủ quan của chủ thể chính trị mà còn

có nhiều yếu tố cấu thành khác.

Như vậy, các định nghĩa nêu trên đã khẳng định được VHCT là một

phương diện của văn hóa. Tuy nhiên, cuối cùng vẫn thiên về quan điểm nhấn

42

mạnh yếu tố văn hóa trong chính trị hay chính trị có văn hóa mà thôi. Thiết nghĩ,

khi xem VHCT là một phương diện của văn hóa, ta cần đặt nó trong hệ thống cấu

trúc của một nền văn hóa nói chung để thấy được mối quan hệ mật thiết giữa nó

và văn hóa toàn thể (văn hóa nói chung).

Thao tác này đã được tác giả Lê Quý Đức thực hiện khi ông chia cấu trúc

văn hóa toàn thể ra làm 3 thành tố: văn hóa sản xuất vật chất, văn hóa sản xuất

tinh thần và văn hóa tổ chức xã hội. Theo ông, VHCT là một tiểu hệ thống

thuộc văn hóa tổ chức xã hội. Từ đó, cấu trúc của văn hóa toàn thể và văn hóa

nói chung được ông mô hình hóa như sau:

(VHĐĐ: Văn hóa đạo đức; VHPL: Văn hóa pháp luật; VHTT: Văn hóa

truyền thông; VHTCXH: Văn hóa tổ chức xã hội; VHSXVC: Văn hóa sản xuất vật

chất; VHSXTT: Văn hóa sản xuất tinh thần).

Về cơ bản, đây là quan điểm được kế thừa trong luận án. Tuy nhiên, để phù

hợp hơn với mạch logic của luận án, NCS đã có một số điều chỉnh. Về cấu trúc của

văn hóa, có thể chia thành ba bộ phận: văn hóa xã hội, văn hóa vật chất, văn hóa

tinh thần. VHCT thuộc văn hóa xã hội, bên cạnh các thành tố: văn hóa đạo đức, văn

hóa pháp luật, văn hóa truyền thông. Văn hóa chính trị vừa là một thành tố của văn

hóa toàn thể, cũng là một bộ phận cấu thành văn hóa xã hội. Đồng thời khi tách ra

khỏi các hệ thống lớn đó, với cấu trúc riêng, VHCT lại là một tiểu hệ thống bao

VHSXVC

VHSXTT VHCT

VHPL

VHĐĐ

VHTT

V

H

T

C

X

H

43

gồm nhiều yếu tố cấu thành (nội dung này sẽ được cụ thể hóa hơn ở phần sau khi

nêu quan niệm về cấu trúc của VHCT).

Từ đó, có thể định nghĩa VHCT: là một thành tố của văn hóa xã hội, bị quy

định bởi trình độ, tính chất văn hóa của một cộng đồng người trong việc tổ chức,

quản lý đời sống cộng đồng cũng như trong việc nắm giữ và thực thi quyền lực của

cộng đồng, thể hiện ra như một “kiểu”, “dạng”, “nền” chính trị nhất định trong

lịch sử.

Thừa nhận VHCT là một thành tố của văn hóa toàn thể, thuộc tiểu hệ

thống văn hóa xã hội, nghĩa là thấy được vị trí của VHCT trong tổng thể văn hóa

nói chung. Nói VHCT thuộc văn hóa xã hội, liên quan đến hoạt động tổ chức,

quản lý đời sống cộng đồng, nhưng là đời sống cộng đồng gắn liền với việc nắm

giữ và thực thi quyền lực. Vì vậy, nó bị quy định bởi trình độ, tính chất văn hóa

của một cộng đồng nhất định. Từ đó, nó thể hiện ra như một “kiểu”, “dạng”, “nền”

chính trị nhất định trong lịch sử, nghĩa là VHCT mang bản sắc riêng, là một dấu

hiệu nhận biết cộng đồng này với cộng đồng khác.

Thừa nhận VHCT là một thành tố của văn hóa cũng có nghĩa là xét VHCT

với tư cách một “nền văn hóa chính trị” với hệ thống cấu trúc gồm nhiều yếu tố,

chứ không chỉ có yếu tố chủ quan của cá nhân chủ thể chính trị. Và như vậy,

trong luận án, khi triển khai nghiên cứu, nhận diện VHCT thời thịnh Trần, là

NCS nghiên cứu nền VHCT - với tư cách là bộ phận của nền văn hóa Đại Việt,

chứ không phải nghiên cứu các yếu tố văn hóa trong hoạt động chính trị của con

người thời thịnh Trần.

2.1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị

Có thể nói, gắn liền với mỗi quan niệm về VHCT là mỗi cách quan niệm

về cấu trúc của VHCT tương ứng.

Thừa nhận VHCT là khái niệm chỉ chiều cạnh chủ quan của những cơ sở xã

hội của các hệ thống chính trị, G.A.Almond và S.Verba xác định 3 bộ phận hợp

thành của VHCT gồm: tri nhận (niềm tin có tính kinh nghiệm của con người), giá

trị (niềm tin có tính chất quy chuẩn), biểu lộ tình cảm (bày tỏ tình cảm, thái độ tích

cực hay tiêu cực về các đối tượng chính trị) [trích theo 68, tr.83].

44

Nhà chính trị học nổi tiếng người Mỹ L.Pye, năm 1961, khi biên soạn Bách

khoa toàn thư khoa học xã hội quốc tế, đưa ra quan niệm về cấu trúc của VHCT:

“VHCT là một hệ thống thái độ, niềm tin và tình cảm” [68, tr.83].

Quan niệm VHCT gồm cả phương diện chủ quan và khách quan,

G.Gơratrơ cho rằng cấu trúc của VHCT gồm: “văn hóa về ý thức chính trị, văn

hóa hành vi chính trị và văn hóa vận hành các hành vi chính trị của nhà nước”

[147, tr.45]. Như vậy, VHCT sẽ gồm cả yếu tố chủ quan (ý thức chính trị, hành

vi chính trị) và khách quan (sự vận hành của hành vi chính trị).

Thừa nhận VHCT mang tính giai cấp, V.I.Lênin cho rằng cấu trúc của

VHCT gồm hai yếu tố cơ bản để thực hiện những lợi ích cho giai cấp là tư tưởng

chính trị và pháp luật: “Như một dạng của hoạt động tinh thần và xã hội - thực

tiễn của mọi người, nội dung của VHCT trong xã hội xã hội chủ nghĩa bao gồm

hệ thống các tư tưởng chính trị và pháp luật, chủ yếu là phản ánh các quan hệ

kinh tế, dựa trên lập trường của giai cấp công nhân, các lợi ích và khát vọng, các

mục tiêu và nhiệm vụ của giai cấp này” [195, tr.246].

Có thể thấy, các quan niệm trên đây về VHCT đã nêu bật được một số thành

tố quan trọng cấu thành nên tổng thể cấu trúc của VHCT. Tuy nhiên, tách riêng mỗi

quan niệm đều thấy có điểm chưa hợp lý: hoặc là thiên về chiều cạnh chủ quan,

hoặc thiên về chiều cạnh khách quan, hoặc giả có cả hai nhưng lại chưa hội đủ các

thành tố cần thiết của VHCT.

Hiện nay, ở Việt Nam, cũng có nhiều phương án phân chia cấu trúc của VHCT.

- Nhóm tác giả tập Bài giảng Chính trị học (hệ Cao cấp Lý luận chính

trị) cho rằng: VHCT có một cấu trúc phức tạp, được tạo thành trong sự thống

nhất và tác động qua lại của những nhân tố cơ bản sau đây: 1.Tri thức và sự

hiểu biết về chính trị; 2.Tình cảm và đạo đức cách mạng; 3.Lý tưởng chính trị

và niềm tin khoa học; 4.Các truyền thống chính trị, các giá trị văn hóa tiêu biểu

được thiết lập trong lịch sử và được vận dụng vào hoạt động chính trị; 5.Những

phương tiện chính trị, chuẩn mực, phương thức tổ chức và hoạt động của quyền

45

lực chính trị; 6.Hệ tư tưởng, đường lối, chính sách và các quyết sách của giai

cấp cầm quyền; 7.Hành vi của chủ thể chính trị [202, tr.383-389].

Cách phân chia này đã nêu ra được khá nhiều yếu tố quan trọng trong cấu

trúc của VHCT. Tuy nhiên, đây là cấu trúc của nền VHCT hiện đại, không hoàn

toàn phù hợp với các nền VHCT truyền thống. Mặt khác, sự phân định còn chưa

thực sự logic. Chẳng hạn: không nên đồng nhất phương tiện chính trị và phương

thức chính trị bởi theo NCS, đây là hai yếu tố khác nhau trong cấu trúc một nền

VHCT. Cũng không nên tách bạch các yếu tố lý tưởng, niềm tin khoa học với hệ

tư tưởng, đường lối, chính sách, vì xét về bản chất, chúng chỉ là một hoặc nhiều

trong một mà thôi. Hơn nữa, trong cách phân chia này, một yếu tố rất quan trọng

của VHCT là nhân cách chính trị chưa được chú ý, đúng ra chưa được định danh

rõ ràng và hiểu một cách đầy đủ, ngoài việc nêu tri thức, niềm tin chính trị hay

hành vi chính trị.

- Tác giả cuốn sách Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hoá chính trị

truyền thống Việt Nam [81] cho rằng VHCT có một kết cấu phong phú và đa

dạng, bao gồm: 1- Tri thức chính trị; 2- Lý tưởng chính trị; 3- Niềm tin chính trị;

4- Hệ tư tưởng. Trong đó, hệ tư tưởng là hạt nhân của VHCT. Như vậy, cách

phân chia này chủ yếu nhấn mạnh phương diện tư tưởng, lý tưởng chính trị. Đây

rõ ràng là các yếu tố quan trọng của VHCT, tuy nhiên, thực tế, VHCT còn có các

yếu tố quan trọng khác (chẳng hạn: yếu tố con người chính trị mà cốt lõi là nhân

cách, sự vận hành chính trị và các yếu tố ngoại hiện chính trị như là sản phẩm

đặc trưng cho một nền VHCT tương ứng).

Nguyễn Hữu Lập, trong luận án Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, đã đưa ra

một cấu trúc VHCT khá đầy đủ các thành tố: con người chính trị, hoạt động thực

tiễn chính trị và các sản phẩm chính trị. Do vậy, cấu trúc VHCT được biểu hiện

ở mối quan hệ và vai trò của các thành tố nêu trên [99, tr.40]. Như vậy, VHCT

được nhìn trong tổng thể - quá trình: từ con người - chủ thể với các hoạt động

thực tiễn của nó và thông qua hoạt động đó sản sinh ra các sản phẩm chính trị.

Tuy nhiên, về cơ bản, đây vẫn là cấu trúc VHCT thuộc lĩnh vực chính trị học.

46

Mặt khác, cách phân chia này cũng còn có điểm chưa hợp lý: ban đầu tác giả

tách hai yếu tố là hoạt động thực tiễn chính trị và sản phẩm chính trị nhưng sau

đó lại cho các phương pháp, cách thức bầu cử và tham dự vào quá trình hình

thành các quyết sách chính trị thuộc sản phẩm chính trị…

Tóm lại, những quan niệm về cấu trúc của VHCT trên đây là những gợi

mở quan trọng cho NCS khi nghiên cứu các thành tố cấu thành VHCT. Tuy

nhiên, nhìn chung, đây là các quan niệm xuất phát từ khoa học chính trị và hơn

nữa chỉ bàn đến cấu trúc của VHCT hiện đại ở Việt Nam. Vì vậy, nếu áp dụng

vào nghiên cứu chuyên ngành văn hóa học nói chung, nghiên cứu VHCT truyền

thống nói riêng, thì cần phải điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.

Từ góc nhìn văn hóa học, ta sẽ có quan niệm khác về cấu trúc của VHCT.

Tiêu biểu cho quan niệm này là tác giả Lê Quý Đức trong Giáo trình Văn hóa

chính trị. Theo ông, nếu chúng ta chấp nhận quan niệm VHCT là những “kiểu”,

“dạng”, “nền” chính trị khác nhau như cách quan niệm về các nền văn hoá (văn

hóa số nhiều) thì, chúng chỉ khác nhau ở tính chất, trình độ, đặc trưng dân tộc và

thời đại còn cấu trúc cơ bản đều giống nhau với các thành tố sau: 1)Triết lý, tư

tưởng chính trị (Hệ thống định hướng); 2)Thể chế - thiết chế chính trị (Hệ thống

công cụ hành động); 3)Công nghệ chính trị; 4)Nhân cách của chủ thể chính trị;

5)Yếu tố ngoại hiện. Tác giả cũng khẳng định: “bất cứ nền VHCT nào cũng có

cấu trúc bao gồm 5 yếu tố như trên” [49, tr.23 -24].

Có thể nói quan niệm trên đã đưa ra một cấu trúc khá toàn diện cho VHCT

và về cơ bản là phù hợp với hướng nghiên cứu văn hóa học, có ý nghĩa nền tảng để

từ đó NCS kế thừa và phát triển hệ thống lý luận phục vụ luận án.

Tuy nhiên, cách phân chia này có chỗ khiến NCS băn khoăn. Một là, tác

giả tách thể chế chính trị ra khỏi hệ thống định hướng, nhưng khi diễn giải nội

dung hai yếu tố này lại có điểm trùng nhau: Ông coi thể chế chính trị bao gồm

các lý tưởng chính trị - xã hội, trong khi đó lại khẳng định “hệ thống định hướng

bao gồm các triết lý, tư tưởng chính trị. Trong triết lý chính trị còn thể hiện sứ

mệnh, nhiệm vụ và các giá trị định hướng của mỗi cộng đồng, mỗi thời đại khác

47

nhau” [49, tr.23]. Mặt khác, liệu có thể khẳng định bất cứ nền VHCT nào cũng

có cấu trúc gồm 5 yếu tố trên hay không? Chẳng hạn, yếu tố công nghệ chính trị

liệu có thể có trong tất cả các nền VHCT, kể cả VHCT bộ lạc hay VHCT thần

thuộc? Ấy là chưa kể, về mặt ngôn ngữ, với các nền VHCT ấy, khái niệm “công

nghệ” là xa lạ?

Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu quý báu của

những người đi trước, NCS nêu ra một quan niệm về cấu trúc của VHCT gồm 4

thành tố chính như sau:

1/ Định hướng giá trị trong chính trị (được thể hiện qua lý tưởng chính trị,

triết lý chính trị và đường lối chính trị). Đó có thể là quan điểm triết học, tôn giáo

hay đạo đức… nhằm lý giải nguồn gốc, bản chất chính trị từ đâu mà ra, vì sao mà

có. Trong định hướng giá trị chính trị cũng có các quan điểm, học thuyết về chính

trị, thể hiện sứ mệnh, nhiệm vụ của các chủ thể chính trị. Đó cũng là triết lý về

quyền lực, nhận thức quyền lực là thuộc về ai, phục vụ cho ai. Định hướng giá trị

trong chính trị cũng thể hiện ở đường lối trị nước của người cầm quyền và các giá

trị chuẩn mực chính trị của mỗi cộng đồng, mỗi thời đại cụ thể mong muốn đạt tới.

Yếu tố định hướng giá trị này quy định mục tiêu, chiến lược, sách lược

chính trị, do đó cũng quy định nội dung của VHCT cho mỗi cộng đồng, mỗi

thời đại.

2/ Sự vận hành chính trị: gồm công cụ vận hành và phương thức vận hành.

Công cụ vận hành: bao hàm chế độ chính trị, hệ thống luật pháp và bộ

máy quyền lực, các cơ quan quyền lực, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể

chính trị.

Phương thức vận hành: là những cách thức, quy trình tiến hành những

hoạt động trong đời sống chính trị. Nó gắn với tri thức, trình độ, kỹ năng, nghệ

thuật trong hoạt động chính trị.

3/ Nhân cách chính trị: là yếu tố cốt lõi của VHCT và có tầm ảnh hưởng

lớn đến nền VHCT. Bởi lẽ, chính trị trước hết là hoạt động có mục đích của

con người, do con người tiến hành. Cho nên con người chính trị (homo-

48

politicus) luôn luôn là tâm điểm của chính trị, dù đó là người cai trị hay là kẻ

bị trị, dù họ thuộc về tầng lớp tinh hoa (elite), lãnh đạo (leader) hay quần

chúng (masses/followers) [147, tr.59].

Nhân cách chính trị bàn đến ở đây không chỉ là nhân cách của người cầm

quyền. Thực tế, một nền VHCT không chỉ được quy định bởi nhà cầm quyền mà

còn có người dân (thần dân trong VHCT quân chủ hay công dân trong VHCT hiện

đại). Và khi xét một nền VHCT, không thể không dựa vào vai trò, trách nhiệm cũng

như quyền lợi của người dân trong nền chính trị ấy. Như vậy, nhân cách chính trị

bao gồm nhân cách của chủ thể nắm quyền lực chính trị, thực thi quyền lực chính trị

và người chịu sự tác động của quyền lực chính trị (thần dân, công dân). Trong một

xã hội dân chủ, thần dân, công dân không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể của

hoạt động chính trị và trong một nền VHCT tiến bộ, người dân chính là một chủ thể

văn hóa.

4/ Ngoại hiện chính trị: bao gồm các hình thức, cách thức, biểu tượng,

biểu hiệu (hay còn gọi là hệ thống các ký hiệu), qua đó, định hướng giá trị trong

chính trị, cách thức vận hành chính trị và nhân cách chủ thể chính trị được biểu

hiện ra một cách cụ thể, sinh động. Đây được coi như là “gương mặt bề ngoài”,

là dấu hiệu ban đầu để nhận biết một nền chính trị của một quốc gia, cộng đồng,

dân tộc bởi chúng là những biểu tượng có ý nghĩa, không phải vì tính tin cậy

khoa học, mà là chúng giúp biểu đạt các quan điểm chung bằng một thứ ngôn

ngữ rất cụ thể. Chúng như là những “bằng chứng” để giải thích hành vi của các

cá nhân và tập thể một cách hợp lý hơn. Khi nhận diện một nền VHCT, càng cần

chú trọng đến các yếu tố ngoại hiện, đặc biệt là các yếu tố biểu tượng, bởi biểu

tượng là một ngôn ngữ đặc trưng của văn hóa.

Như vậy, ta cần nhìn nhận VHCT theo một quá trình với sự tương tác qua

lại chặt chẽ của các thành tố: định hướng giá trị là yếu tố có vai trò hoa tiêu tiên

phong của VHCT. Để thực hiện định hướng giá trị đó, cần thông qua sự vận

hành chính trị (gồm công cụ, phương thức vận hành). Hiệu quả và giá trị của một

nền chính trị lại phụ thuộc vào nhân cách của chủ thể chính trị. Và cuối cùng,

49

định hướng giá trị chính trị, vận hành chính trị hay nhân cách chính trị có thể

được hiện hình qua các yếu tố ngoại hiện chính trị.

Mỗi một nền VHCT sẽ có một diện mạo và đặc điểm riêng, tuy nhiên, xét từ

phương diện cấu trúc nội tại, đây là 4 thành tố căn cốt mà các nền VHCT thường

có, tạo nên trường hoạt động chính trị của một cộng đồng. Chính vì vậy, khi xây

dựng VHCT phải chú trọng đồng thời cả 4 thành tố đó. Trong đó, phải đặc biệt chú

trọng nhân cách của chủ thể chính trị, bởi đây là thành tố có vai trò trung tâm, chi

phối sự vận hành các thành tố còn lại.

Dựa vào cách chia cấu trúc của VHCT trên đây, ta có thể nhìn thấy cái

chung của các nền VHCT và cả sự khác nhau của chúng khi chỉ ra tính chất,

trình độ và đặc trưng của mỗi yếu tố trong mỗi nền VHCT khi so sánh với nhau.

2.2. GIỚI THUYẾT VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

2.2.1. Khái lược về triều Trần

Trong khoảng một phần tư đầu của thế kỷ XIII, Đại Việt lâm vào khủng

hoảng trầm trọng. Chính quyền trung ương nhà Lý suy yếu. Các cuộc hỗn

chiến giữa các tập đoàn cát cứ diễn ra liên miên, đời sống nhân dân trăm bề

cực khổ. Lúc bấy giờ, họ Trần (ở Hải Ấp - Thái Bình) nổi lên là một thế lực

cát cứ mạnh nhất. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), dòng họ này “vốn

người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên Kinh đến ở

hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp. Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra

Thừa, đời đời làm nghề đánh cá” [105, tr.7]. Tập đoàn họ Trần đã chiếm đóng

một vùng châu thổ rộng lớn đó là vùng ven biển Thái Bình - Nam Định, là cơ

sở kinh tế - xã hội vững chắc với sự thành thạo trong nghề chài lưới và nông

nghiệp ven biển.

Sau sự kiện 1209, với việc đón Lý Cao Tông từ Quy Hóa trở về Thăng

Long, phò tá hoàng tử Sảm dẹp loạn kinh thành và lên ngôi (tức Lý Huệ

Tông), anh em họ Trần đã lập đại công với nhà Lý. Đặc biệt hơn, hai gia tộc

Lý - Trần còn có mối quan hệ thân tình bởi cuộc hôn phối giữa nữ tử họ Trần

(Trần Thị Dung) với hoàng tử Sảm. Gia tộc Trần nhờ đó đã rộng đường bước

50

vào cung đình và tham gia chính sự cùng nhà Lý. Nhiều nhân vật họ Trần đã

nắm các địa vị quan trọng trong triều đình lúc bấy giờ như: Trần Thị Dung

làm hoàng hậu, Trần Tự Khánh được phong tước hầu, Trần Thừa làm Nội thị

phán thủ (và sau đó thay Trần Tự Khánh làm Phụ quốc Thái úy), Trần Thủ Độ

làm Điện tiền chỉ huy sứ, Trần Cảnh làm Chi hậu chính chi ứng cục... Họ

Trần ngày càng chiếm ưu thế so với các tập đoàn cát cứ khác, khống chế được

chính quyền trung ương đang tàn tạ. Khi vua Lý Huệ Tông hóa điên, giang

sơn nhà Lý trao vào tay công chúa Chiêu Thánh - Lý Chiêu Hoàng, mới 7 tuổi

và thực quyền đã thuộc về họ Trần.

Dưới sự dàn xếp của Trần Thừa và Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết

hôn với Trần Cảnh, lúc ấy cũng chỉ mới 8 tuổi. Vào ngày 12 tháng chạp năm

Ất Dậu 1225 (tức ngày 11-01-1226), Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho

chồng, danh chính ngôn thuận chuyển giao quyền lực sang cho họ Trần. Cuộc

thay đổi triều đại, chính quyền đó diễn ra một cách êm thấm, hầu như không

gây xáo trộn gì đến đời sống xã hội. Vương nghiệp nhà Trần bắt đầu từ đây

cho đến năm 1400, nếu không tính thời hậu Trần (Giản Định Đế: 1407-1409;

Trùng Quang Đế: 1409-1413), thì tồn tại 175 năm với 12 đời vua.

Để tăng cường quyền lực và lợi ích dòng họ, nhà Trần chủ trương “tông

tử duy thành”, ưu tiên quý tộc đồng tộc, thực hiện chế độ thái thượng hoàng

và hôn nhân nội tộc, đồng thời kết hợp với việc tuyển dụng nhân tài trong dân

gian thông qua nhiều con đường khác nhau vào bộ máy chính quyền.

Triều Trần là một trong những triều đại phát triển đỉnh cao của lịch sử các

triều đại quân chủ Việt Nam với những đặc điểm khác biệt với các triều đại trước

đó và đặc biệt khác so với các triều Lê, Nguyễn sau này. Từ Tiền Lê đến Lý, đất

nước đang từ một quốc gia mới bắt đầu xác lập và dựng quyền tự chủ, chính

quyền non trẻ đang trên đà ổn định và hoàn thiện. Lúc này, Phật giáo thịnh hành,

chi phối toàn bộ đời sống chính trị, văn hóa, xã hội từ quý tộc đến thứ dân, từ triều

đình đến dân gian. Đến Lê, Nguyễn, đất nước chịu sự chi phối của ý thức hệ Nho

giáo và cũng đã đạt đến đỉnh cao của chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền.

51

Còn triều Trần, là triều đại theo chế độ quân chủ quý tộc tông tộc (hay

quý tộc đồng tộc, sẽ được trình bày cụ thể hơn ở phần sau). Nhà Trần thay thế

nhà Lý đã mở ra một thời kỳ phát triển ở trình độ cao hơn của xã hội Đại Việt.

Triều Trần, nhất là giai đoạn thịnh Trần, là một trong những thời kỳ đáng tự hào

bậc nhất trong lịch sử Việt.

Vậy căn nguyên nào khiến triều Trần đạt tới đỉnh cao rực rỡ đó? Nghiên

cứu VHCT thời thịnh Trần sẽ góp phần tìm ra chìa khóa để giải đáp cho vấn đề

lịch sử quan trọng và thú vị này.

2.2.2. Quan niệm về thời thịnh Trần

Trong số những tài liệu hiện có, không có bộ quốc sử nào chính thức

phân chia thời Trần ra các giai đoạn thịnh - suy. Các tài liệu thông sử cũng như

các công trình nghiên cứu khác mà NCS thu thập được cũng hầu như không có

sự phân tách rạch ròi. Tuy nhiên, ý niệm về sự phân biệt hai giai đoạn thịnh trị

và suy vong của nhà Trần không phải là không có. Có thể thấy điều này qua một

số tài liệu có nhắc đến giai đoạn đầu của thời Trần bằng các tên gọi khác nhau:

Trong Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII (tái

bản lần thứ hai, 1970), hai tác giả Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm có dùng thuật

ngữ thời “Trần sơ” để nói về giai đoạn đầu thời Trần [145, tr.24]. Tuy nhiên,

người đọc không rõ ý đồ của tác giả, liệu có phải nói “Trần sơ” để phân biệt với

“Hậu trần”, “Trần mạt” hay không, bởi lẽ sau đó, không xuất hiện các thuật ngữ

mang tính đối xứng này nữa.

Tác giả Trường Khánh, trong Hoàng đế triều Trần - cội nguồn ấn tượng

dân gian (2002), đã chia thời Trần thành “thịnh Trần” và “mạt Trần” căn cứ vào

nhân cách của người cầm quyền:

Thời thịnh Trần rực rỡ bởi có vua hiền, bề tôi trung hậu. Thời mạt

Trần suy vi bởi vua thiếu minh mẫn, triều thần thì phe cánh, bon

chen đua đòi, ăn chơi trụy lạc làm mất đi ngôi báu, mất đi nét đẹp

truyền thống, dẫn đến đất nước đắm chìm trong thảm họa giặc Minh

đô hộ, để cho muôn dân sống quằn quại đau thương [93, tr.41].

52

Cũng chính trong cuốn sách này, tác giả đã có sự phân định rõ hơn về mặt

thời gian giữa hai giai đoạn đó và gọi chúng bằng những thuật ngữ khác: thời

“hoàng kim” và thời “suy thoái”:

Song thời hoàng kim, hào khí Đông A đã qua đi, những ý niệm, lời

trăng trối tốt đẹp của các vị hoàng đế, đại vương lo cho hậu duệ cũng

lùi vào dĩ vãng. Từ thời Trần Hiến Tông (1329-1341) nối ngôi, gánh

nặng đè trên vai thượng hoàng Minh Tông bởi triều thần nảy sinh bè

đảng, nội loạn trong nước phát sinh. Vua lên ngôi lúc 10 tuổi, năm 23

tuổi đã qua đời, chưa đóng góp được gì đáng kể. Phải chăng đây là

ông vua đầu tiên của đời Trần hư vị, mở đầu sự suy thoái của đế triều

Trần đã một thời hào hùng, nhân loại phải kính nể [93, tr.21].

Theo đó, hai giai đoạn thịnh trị và suy thoái của thời Trần được tác giả

chọn cột mốc thời gian là năm 1329 (khi Trần Hiến Tông lên ngôi), tuy nhiên

chưa tiến hành phân tích, lý giải cụ thể.

Đến năm 2004, nhà nghiên cứu Trần Đức Cường - Viện trưởng viện Sử

học, khi viết Lời giới thiệu cho cuốn Nhà Trần và con người thời Trần, cũng có

nhắc đến thời thịnh Trần: “Trong thời gian hưng thịnh của mình (vào thế kỷ XIII

và nửa đầu thế kỷ XIV), nhà Trần đã tích cực đẩy mạnh cuộc phục hưng dân

tộc” [188, tr.5]. Vậy, theo tác giả này, thời thịnh Trần nằm trong khung thời gian

từ thế kỷ XIII đến nửa đầu thế kỷ XIV, không xác định năm cụ thể.

Học giả Trần Quốc Vượng - người đã dày công nghiên cứu về thời Trần,

cũng có một số lần gián tiếp nêu lên quan niệm về thời kỳ thịnh trị của nhà Trần:

Năm 2002, khi bàn về vua Minh Tông, Trần Quốc Vượng đã kết luận “là

ông vua của thời thịnh - vãn Trần” [93, tr.21]. Như vậy, có thể hiểu vua Minh

Tông làm vua ở thời kỳ thịnh - vãn của nhà Trần, và muốn biết thời kỳ thịnh -

vãn của nhà Trần thì chỉ cần tra thời gian ông tại vị (1314-1329). Nhưng vấn đề

là cách nói này lại khiến người đọc mập mờ ranh giới giữa thịnh và vãn, và

không rõ có phải ông định đồng nhất vãn như là suy hay không?

53

Trong bài viết “Đôi điều về nhà Trần - đức thánh Trần: cội rễ lịch sử và sự

phát triển trong bối cảnh văn hóa Đại Việt thế kỷ XIII-XIV” (trích cuốn sách

Nhà Trần và con người thời Trần), khi bàn về vấn đề quyền lực, Trần Quốc

Vượng lại viết: “Nhà Trần phát tích, dựng nghiệp 175 năm nhưng phát triển

chừng hơn 100 năm, còn suy thoái trì trệ kéo dài khoảng sáu chục năm cuối

cùng (có thể đặt mốc từ Dụ Tông - nhưng vẫn gắng trỗi lên thời Nghệ Tông)”

[188, tr.48]. Như vậy, nếu lấy thời điểm Trần Dụ Tông lên ngôi làm phân giới

giữa thời kỳ thịnh trị và suy thoái của nhà Trần, thì có thể hiểu năm 1341 là cột

mốc. Và theo đó, thời thịnh trị sẽ kéo dài 116 năm (từ 1225-1341), 59 năm còn

lại (1341-1400) là thời kỳ suy thoái của nhà Trần.

Do chưa được xác định rạch ròi và thống nhất trong tài liệu quốc sử cũng

như tài liệu nghiên cứu khoa học, thuật ngữ “thời thịnh Trần” chỉ được coi là

cách nói nôm, nói tắt, hầu như chỉ dùng cho thời Trần mà ít dùng cho các thời kỳ

khác trong lịch sử các triều đại quân chủ Việt Nam.

Tuy nhiên, trên thực tế, cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch

sử, theo quy luật tất yếu khách quan, triều Trần cũng có giai đoạn hình thành,

phát triển thịnh trị rồi dần bộc lộ những hạn chế, suy thoái và cuối cùng đi đến

sụp đổ.

Còn từ phương diện lý luận, liệu ta có thể lý giải một cách khoa học thuật

ngữ “thịnh Trần”, dựa trên những tiêu chí cơ bản? Tất nhiên, cho đến nay, như

nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Thị Phương Chi, “chưa có ai chính thức đưa ra

một bộ tiêu chí để xác định thế nào là một thời kỳ thịnh trị” [Nguồn: Tư liệu

phỏng vấn chuyên gia - Phụ lục 12]. Và việc này cũng không đơn giản, vì có thể

thời kỳ này phát triển về mặt này nhưng lại hạn chế về mặt khác. Nhưng, dựa trên

kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cũng như của NCS, căn cứ vào thực tế

lịch sử, có thể thấy, thường một thời kỳ được coi là thịnh trị là thời kỳ có sự phát

triển đồng đều về các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Chẳng hạn:

Kinh tế, phát triển, bách tính ấm no; Có vua sáng tôi hiền, nội bộ triều đình đoàn

kết, không có nội chiến cát cứ; Văn hóa phát triển, thuần phong mỹ tục được giữ

gìn; Xã hội ổn định, dân chúng an sinh.

54

Phóng chiếu vào giai đoạn đầu của thời Trần, có thể thấy:

Thứ nhất, về kinh tế: Do nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế, nhà

Trần chăm lo phát triển các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương

nghiệp. Đặc biệt, hệ thống điền trang - thái ấp, đã giúp phát triển nông nghiệp, tận

dụng đất hoang hóa..., từ đó nhanh chóng vực dậy nền kinh tế suy yếu từ cuối thời

Lý để lại. Trừ những năm bị thiên tai và chiến tranh tàn phá, hầu như thời kỳ đầu

của nhà Trần ít có hiện tượng mất mùa, đói kém, suy thoái về kinh tế xảy ra.

Thứ hai, về chính trị: Thay thế triều Lý, triều Trần đã mở ra một thời kỳ

tiếp tục phát triển cao hơn của xã hội Đại Việt. Chính quyền nhà Trần, “trong thế

kỷ XIII vững vàng mà năng động, đã tạo ra một nền chính trị thống nhất và ổn

định đất nước cho đến giữa thế kỷ XIV” [133, tr.173]. Thời kỳ thịnh trị của triều

Trần đạt thành tựu trong công cuộc bang giao và chống ngoại xâm, giữ được

bình ổn ở các vùng biên giới. Với ba lần giành thắng lợi oanh liệt trước quân

xâm lược Mông - Nguyên, Đại Việt đã thành một trong số ít quốc gia Đông Nam

Á đầu tiên chiến thắng đế quốc Mông Cổ hùng mạnh.

Trong một thế kỷ, triều đình không có binh biến, quốc gia không có nội

chiến, hậu cung không có tranh đoạt. Đó là thời kỳ chính trị ổn định, được điều

hành bởi người cầm quyền là những bậc vua sáng tôi hiền, trên dưới một lòng

đoàn kết. ĐVSKTT chép: trong hoàng tộc thì “cha con, anh em hòa thuận vui vẻ”

[105, tr.40], trong triều đình thì “các vương hầu không ai là không hòa thuận,

kính sợ và cũng không ai phạm lỗi khinh nhờn, kiêu căng” [105, tr.40].

Thứ ba, về xã hội: Nhờ chăm lo phát triển kinh tế, ổn định chính trị, trong

thời kỳ đầu của triều Trần, xã hội thái bình, nhân dân no ấm, được đảm bảo an

sinh, các giai tầng trong xã hội được chung sống hài hòa. Đúng như ĐVSKTT

nhận xét, vào thời thịnh Trần “quốc gia vô sự, nhân dân yên vui” [105, tr.21].

Thứ tư, về văn hóa: Thời thịnh Trần đạt đến đỉnh cao võ công và văn trị với

những nhân cách văn hóa kiệt xuất, có sự phát triển đồng bộ cả về văn hóa dân gian

lẫn cung đình với di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú. Đây là thời kỳ tỏa

55

hào quang sáng chói trong lịch sử Việt Nam, đóng vai trò đặc biệt trong lịch sử văn

hóa dân tộc, góp phần làm nên kỷ nguyên rực rỡ của văn minh Đại Việt.

Với những biện pháp quyết liệt và tư duy khai phóng, nhà Trần đã tạo ra

một sự thay đổi lớn lao về mọi mặt từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, đem

lại cho đất nước một bộ mặt tươi đẹp, đưa Đại Việt thành một trong những quốc

gia hùng mạnh của Đông Nam Á thế kỷ XIII.

Trên cơ sở đó, có thể thấy, trong giai đoạn trị vì của Trần Thái Tông (ở

ngôi 1225-1258), Trần Thánh Tông (ở ngôi 1258-1278), Trần Nhân Tông (ở

ngôi 1278-1293), Trần Anh Tông (ở ngôi 1293-1314), Trần Minh Tông (ở

ngôi 1314-1329), Đại Việt ổn định, phát triển thịnh vượng. Đây là thời kỳ

thịnh trị, tiến bộ mà sử sách và dân gian vẫn tôn xưng là thời kỳ “Nguyên

Phong nhi trị”, “Nhân Hiếu nhị hoàng”, “Anh Minh thịnh thế”.

Năm 1329, vua Trần Minh Tông nhường ngôi cho con là thái tử Vượng,

lui về Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Tất nhiên, cũng như các thượng

hoàng trước đó, dù không ở ngai vàng, nhưng thượng hoàng Minh Tông vẫn

không xa rời chính sự, vẫn còn đóng góp cho triều đình và đất nước. Ngài vẫn

giúp vua Hiến Tông - Trần Vượng (mới 10 tuổi) và sau đó nữa là Dụ Tông -

Trần Hạo (mới 6 tuổi) điều hành triều chính, đề ra các chính sách trị nước tích

cực. Tuy vậy, xét từ phương diện chính danh, vai trò của Trần Minh Tông là

trên cương vị thượng hoàng - cố vấn tối cao, còn người có quyền uy tối thượng

đối với chính sự lại vẫn là vua tại vị, mà lúc đó họ đều là hai ấu chúa ít kinh

nghiệm chính trường, nên đã bắt đầu tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Nội loạn liên tiếp xảy

ra, nhân dân mất mùa, đói kém, các nước lân bang dòm ngó và chống phá bờ cõi

Đại Việt.

Mặt khác, thời điểm những năm cuối khi còn nắm vương quyền, Trần

Minh Tông đã phạm một sai lầm chính trị mà các triều vua trước đó của nhà

Trần không hề có đó là giết oan nhạc phụ - Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc

Chẩn. Đây chính là hệ quả của mâu thuẫn hậu cung, của sự tranh quyền đoạt vị

và là biểu hiện đầu tiên của sự suy thoái dẫn đến sụp đổ của triều Trần sau này.

Như vậy, sự phân chia giai đoạn thịnh - suy của thời Trần chỉ mang

tính tương đối. Tuy nhiên, nếu cần một cột mốc để xác định thời thịnh

56

Trần, theo NCS, khả dĩ nhất là chọn mốc từ 1225 đến 1329. Kể từ sau 1329

có thể tính vào thời mạt Trần và không thuộc đối tượng nghiên cứu chính

của luận án.

2.2.3. Tiền đề hình thành văn hóa chính trị thời thịnh Trần

2.2.3.1. Về kinh tế

Thứ nhất, phát triển khá đa dạng về ngành nghề

Về nông nghiệp, thời Trần mở mang trồng trọt, chăn nuôi gia súc và nuôi

thủy sản. Trong đó, nghề trồng lúa phát triển nhất. Một sứ giả nhà Nguyên (Trần

Phu) đã ghi lại rằng ở Đại Việt vào thời Trần, “lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy

vào độ rét nhất của mùa đông, lúa vẫn tốt bời bời” [26, tr.68]. Không chỉ có

trồng lúa, thời Trần còn trồng nhiều vụ hoa màu khác: “Nông nghiệp thời Trần

đã đạt đến trình độ thâm canh tăng vụ khá cao. Ngoài lúa, nhân dân còn trồng

nhiều thứ hoa màu, trồng dâu nuôi tằm và gia đình nào cũng có vườn cây ăn quả

với các thứ hoa quả nhiệt đới phong phú” [26, tr.68].

Tiểu thủ công nghiệp thời Trần khá phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu xây

dựng và phát triển của triều đại nói riêng, đất nước nói chung. Lúc bấy giờ, trong

nhân dân, nghề thủ công đã phát triển thành những làng nghề: làng gốm, làng

rèn, làng dệt, làng chạm khắc đá, làng làm nón. Thủ công nghiệp nhà nước có

những quan xưởng như xưởng đúc tiền, xưởng làm đồ gốm, xưởng sản xuất vũ

khí, đóng chiến thuyền phục vụ quân sự... Năm 1262, triều đình lệnh cho các đạo

làm đồ binh khí, đóng chiến thuyền, tập trận thủy và lục quân ở chín bãi phù sa

sông Bạch Hạc.

Thương nghiệp xuất hiện muộn hơn các ngành nông nghiệp và thủ công

nghiệp. Nhưng do nhà Trần coi trọng thương mại và không có chủ trương ức

thương như các triều đại sau, nên thương nghiệp đã có cơ hội phát triển khá

mạnh mẽ. Hàng hóa dùng để buôn bán trao đổi lúc này là những sản phẩm thủ

công phong phú được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau. Sách Đảo di chí lược

(Uông Đại Uyên - đời Nguyên) chép: “hàng trao đổi thì dùng các thứ như tre,

lĩnh, lụa các màu, vải thanh bố, lược ngà, giấy, đồng, thau, sắt... lưu thông sử

57

dụng tiền đồng” [38, tr.32]. Hoạt động thương nghiệp vào thời Trần, nhất là thời

Trần Nhân Tông, hết sức tấp nập. Điều này đã được phó sứ Trần Phu mô tả chi

tiết: từ việc mua bán ở các chợ quê: “Chợ thôn xóm hai tháng họp một lần, trăm

thứ hàng hóa tụ tập lại ở đây. Cứ năm dặm thì dựng một ngôi nhà, bốn mặt đều

đặt chõng để làm nơi họp chợ” (Cương trung thi tập) [38, tr.32] đến các hải

cảng: “Phủ Tinh Hoa (tức Hoan Châu), cách thành Giao Châu hơn hai trăm dặm.

Các phiên thuyền của hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền rất đông.

Thật là một trấn lớn” (An Nam tức sự) [38, tr.33].

Sự phát triển kinh tế giúp Đại Việt thời Trần đảm bảo thực túc binh

cường, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng nền chính trị vững mạnh, xã hội ổn

định, hài hòa, đất nước thịnh vượng.

Thứ hai, chủ trương đa sở hữu (về ruộng đất).

Khác với một số triều đại quân chủ khác trong lịch sử, thời Trần tồn tại nhiều

hình thức sở hữu ruộng đất. Theo nghiên cứu của nhiều học giả, ruộng đất thời Trần

có hai loại hình sở hữu là quan điền và dân điền (hay công hữu và tư hữu).

Hình thức công hữu gồm hai loại: ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý

và ruộng đất công làng xã.

Phần ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý không nhiều, chủ yếu là các

phần ruộng sơn lăng, tịch điền, đồn điền, ruộng quốc khố. Ruộng sơn lăng thuộc

ruộng công do dân sở tại cày cấy, chỉ nộp một ít hoa lợi để bảo vệ, chăm sóc

phần lăng mộ; tịch điền dùng hoa lợi dành riêng cho việc thờ cúng tôn miếu; đồn

điền là ruộng do hoạt động khẩn hoang lập đồn điền, hoa lợi hoàn toàn nhập vào

kho nhà nước; ruộng quốc khố là ruộng công, thu hoạch từ hoa lợi đem trữ vào

kho của nhà nước.

Phần ruộng đất công làng xã, mặc dù thuộc sở hữu nhà nước, nhưng vẫn do

làng xã quản lý. Ngoài ra, điểm độc đáo của nhà Trần là, ruộng đất công làng xã

còn được dùng để phân phong cho các vương hầu, quý tộc làm thái ấp, thực ấp (ấp

thang mộc), loại ruộng này chiếm số lượng không nhỏ [26, tr.29]. Mặc dù là đất

công làng xã nhưng quyền chủ động phân phong lại thuộc về vua và triều đình. Hoa

58

lợi của loại ruộng đất này được nộp vào thái ấp. Ruộng ban cấp này không được

thừa kế và có thể bị tịch thu và ban cấp cho người khác nếu vương hầu, quý tộc

phạm tội.

Hình thức tư hữu, vốn đã được phát triển từ thời Lý, đến thời Trần ngày càng

phát triển cao hơn, do sự thay đổi trong chính sách ruộng đất của nhà nước (chính

sách bán ruộng công làm ruộng tư, thừa kế, vay mượn ruộng đất, bảo vệ ruộng đất

của dân; khai hoang, mở mang diện tích canh tác, phát triển nông nghiệp...).

Có bốn hình thức tư hữu phổ biến: sở hữu nhỏ của nông dân, sở hữu lớn

của điền chủ, nhà giàu; sở hữu điền trang của vương hầu, quý tộc và sở hữu của

nhà chùa.

Trong đó, chế độ sở hữu nhỏ về ruộng đất của nông dân đã chiếm một địa

vị quan trọng trong nền kinh tế. Chính sách thuế ban hành năm 1242 yêu cầu nhân

đinh có ruộng phải nộp tiền thóc [105, tr.20], khi đắp đê, đo xem mất bao nhiêu

ruộng của dân, sau đó cứ theo giá mà trả lại tiền [105, tr.23]. Tư liệu văn khắc

(bia, minh chuông) cho biết, nhiều người đã cúng ruộng cho chùa, có người còn

cúng hàng mẫu ruộng [26, tr.56-59]. Nhà Trần vì thế đã tạo mọi cơ hội để đảm

bảo quyền sở hữu này.

Ruộng của điền chủ, nhà giàu và quan chức cũng chiếm vị trí quan trọng

không kém. Sử cũ không ghi chép cụ thể về loại ruộng này, tuy nhiên, lại ghi chép

các thông tin liên quan như vào những năm đói kém mất mùa, nhà nước ra lệnh

quyên thóc của nhà giàu để chẩn cấp cho dân, hay tính số trả bằng tiền hoặc quan

tước. Tư liệu văn bia, minh chuông cũng ghi rõ [26, tr.55-56].

Bên cạnh đó, còn có ruộng chùa. Theo tác giả Nguyễn Thị Phương Chi,

dựa vào sự kiện nhiều tầng lớp nhân dân cúng ruộng vào chùa, có thể hình

dung “sở hữu ruộng chùa khá lớn” [26, tr.59].

Đáng chú ý nhất là hình thức sở hữu của các vương hầu, quý tộc với hệ

thống điền trang. Điền trang là một hình thức sở hữu (đại sở hữu) ruộng đất chủ

yếu của vương hầu, được triều đình chính thức thừa nhận vào năm 1266:

“Tháng 10 (1266 - NCS), vua Trần Thánh Tông xuống chiếu cho vương hầu,

59

công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm

nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang, lập thành điền trang. Vương hầu có trang thực

bắt đầu từ đấy” [105, tr.38]. Do có sở hữu riêng, các vương tôn quý tộc có được

quyền tự chủ, quyền lợi nhất định. Do vậy, nhà Trần đã tránh khỏi những nguy

cơ tranh giành quyền lực nồi da xáo thịt mà trong thời quân chủ thường khó

tránh. Đây có thể coi như chiếc nôi nuôi dưỡng những tài năng, nhân cách lớn

trong giai đoạn này.

Như vậy, ngoại trừ tầng lớp nô tỳ, nông nô, còn lại, các tầng lớp khác

trong xã hội lúc bấy giờ, ít nhiều đều có quyền tư hữu nhất định. Có thể nói, nền

kinh tế đa sở hữu này đã giúp dung hòa các mối quan hệ trong nội bộ hoàng tộc

nhà Trần cũng như rút ngắn khoảng cách giữa nhà cầm quyền với dân, tạo cơ sở

cho một nền VHCT cởi mở, khai phóng.

2.2.3.2. Về chính trị

Chính trị đầu thế kỷ XIII nổi lên hai vấn đề có sự ảnh hưởng rất lớn đến

VHCT thời thịnh Trần:

* Sự khủng hoảng của chính quyền triều Lý

Nước Đại Việt vào đầu thời Trần phải đối mặt với nhiều khó khăn, trong

đó có khó khăn lớn của một triều đại vừa bước lên vũ đài chính trị, bước đầu

lãnh đạo đất nước trong tình trạng đất nước khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt.

Vào cuối triều Lý, trên ngai vàng phần lớn là ấu chúa mệnh yểu, quyền

hành nằm trong tay ngoại thích và lộng thần. Càng về cuối, vua quan càng ham

hưởng lạc, không đảm đương nổi việc nước, nội bộ triều đình nảy sinh nhiều

mâu thuẫn. Chính quyền trung ương suy yếu, bộ máy triều chính quá rệu rã,

không còn uy lực, triều đình không có những chính sách nào hữu hiệu để ích

nước lợi dân. Tệ hỗn quân, hỗn quan ngày càng phổ biến. Hoạt động giáo dục và

khoa cử không nghiêm, gian thần được cưng chiều, người hiền tài bị bạc đãi.

Quả thật “triều đình cuối đời nhà Lý không còn chi là nghiêm trang, chẳng khác

gì vua tôi trên sân khấu, nếu chẳng phải điên cuồng [141, tr.19].

60

Tình hình ở các địa phương cũng hết sức rối loạn, giặc cướp nổi lên như

ong. Sau sự kiện Phạm Bỉnh Di bị triều đình xử tội, tướng của Di là Quách Bốc

kéo quân vào triều đình nổi loạn, Đại Việt chìm trong hỗn chiến giữa các thế lực

cát cứ. Loạn lạc vào đến Thăng Long, vua Lý phải chạy khỏi kinh thành.

Chiến tranh đã làm tổn hao nặng nề về sức người sức của, cộng với mất

mùa đói kém, thiên tai, dịch bệnh hoành hành khiến đời sống người dân lúc bấy

giờ vô cùng cơ cực. Hàng loạt nông dân trong các làng xã người Việt và các tộc

người miền núi đã nổi dậy. Sự ân hận của vua Lý Cao Tông khi xuống chiếu

hoàn lại ruộng đất, sản nghiệp cho dân (mà trước đó bắt sung công để phục vụ

nhu cầu ăn chơi hưởng lạc của vua quan) quá muộn màng, không thể cứu vãn

tình thế.

Bản chất và nhiệm vụ cơ bản trước hết của nhà nước Đại Việt thời Trần là

chức năng tổ chức, quản lý nền kinh tế - xã hội, khắc phục khủng hoảng cuối thời

Lý, muốn vậy phải phát triển bộ máy nhà nước trung ương tập quyền đủ mạnh để

có thể đảm đương được trọng trách. Nhiệm vụ khó khăn, nặng nề và trọng đại này

cũng đòi hỏi nhà Trần phải có một đường lối chính trị, sách lược đúng đắn, phù

hợp để ổn định chính trị, phát triển kinh tế, huy động được tối đa sức mạnh của

dân tộc. Nền chính trị mà nhà Trần hướng tới xây dựng phải là nền chính trị hợp

lòng dân, vì dân, an dân.

* Cuộc xâm lược của đế quốc Mông - Nguyên

Cùng với nhiệm vụ xây dựng đất nước và củng cố vương triều, một

nhiệm vụ đặc biệt của nhà nước thời Trần là tổ chức, lãnh đạo toàn dân tiến

hành cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền quốc gia và độc lập

dân tộc. Nước Đại Việt ở thế kỷ XIII, trong 30 năm (từ 1258 đến 1288), phải

tiến hành ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên khét tiếng

thiện chiến và tàn bạo.

Tính đến đầu thế kỷ XIII, đế chế Mông Cổ đã tung hoành khắp thế giới.

Nhiều nền văn minh ở châu Âu và châu Á đã lần lượt sụp đổ dưới vó ngựa của

đội quân này. C.Mác đã viết về Trung Á sau chiến tranh với Mông Cổ như sau:

“Nghệ thuật, những thư viện phong phú, nền công nghiệp ưu việt, cung điện và

61

giáo đường - tất cả sạch không” [145, tr.44]. Vào thời điểm nhà Trần lên ngôi,

bản đồ Mông Cổ đã vô cùng rộng lớn. Trừ Mông Cổ ra, đế quốc Mông Cổ bao

gồm cả vùng Bắc Trung Quốc, Tuoc-ke-xtan, Trung Á và vùng thảo nguyên bao

la từ sông Iếc-tư-sơ đến sông Vôn-ga, phần lớn đất I-răng và đất Cáp-ca-dơ.

Những cuộc tung hoành của đội quân này đã “làm cả châu Âu bị chấn động”

[145, tr.49]. Đến năm 1279, khi chiếm trọn Trung Quốc, lập nên nhà Nguyên,

một đế quốc rộng mênh mông đã được thành lập từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình

Dương nhưng đế chế này vẫn ôm mộng bành trướng ra các nước khác ở Đông và

Đông Nam Á. Khi bắt đầu cuộc chiến với Đại Việt, họ đã có sự chuẩn bị lâu dài,

có tiềm lực kinh tế và quân sự rất hùng hậu. Đặt trong bối cảnh đó để thấy được

tính cam go, ác liệt và cũng là tính chất vĩ đại của cuộc kháng chiến của quân

dân thời Trần.

Cuộc kháng chiến oai hùng mà ác liệt đó đã đặt con người thời Trần trước

một thử thách lớn lao, một lựa chọn quan trọng: vì cá nhân hay cộng đồng, vì gia

tộc hay quốc gia; sống hèn nhát hay hy sinh vì nghĩa cả vinh quang? Đồng thời

nó cũng là một thử thách đối với sự vận hành của nền chính trị, đó là nền chính

trị lấy hệ tư tưởng nào làm hệ quy chiếu? Và cuối cùng họ đã lựa chọn lẽ sống vì

cộng đồng, lựa chọn hệ tư tưởng gắn liền sự tồn vong của quốc gia. Chính điều

này đã tạo sự thống nhất quyền lợi, gắn bó nghĩa vụ giữa cá nhân và cộng đồng,

gia tộc và quốc gia, tạo nên tinh thần xả thân, quyết chiến cho con người thời đại

Đông A. Con người thời thịnh Trần là con người có vóc dáng kỳ vĩ mang tầm

thời đại, là kiểu anh hùng - nghệ sĩ với những bản hùng ca, hùng văn thiên cổ.

Đó là con người anh hùng, “duy lý tưởng”, khác với con người “duy cảm”, con

người hưởng thụ như giai đoạn mạt Trần hay một số giai đoạn suy vong của các

triều đại khác.

Có thể nói hai nhiệm vụ hệ trọng và cần kíp này là một thử thách cam go

để làm bộc lộ tất cả nhiệt tình, tài năng và ý chí cũng như tinh thần yêu nước của

con người thời thịnh Trần, thời kỳ mà đất nước đang trên đà của cuộc phục hưng

mạnh mẽ.

62

2.2.3.3. Về văn hóa

Thứ nhất, truyền thống văn hóa của dân tộc

Có thể nói đây là cội rễ cho sự hình thành nền VHCT thời thịnh Trần. Sẽ

không có một nền VHCT thời thịnh Trần với nhiều điểm tiến bộ, nhân văn nếu

như không có truyền thống văn hóa quý báu của cha ông để lại. Dòng máu anh

hùng, yêu nước, tự cường, tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung đã là mạch

ngầm chảy mãi trong tâm hồn, khí phách của người Việt từ thời Hùng Vương

dựng nước, trải qua các triều đại Triệu, Ngô, Đinh, Tiền Lê, rồi nhà Lý... chưa hề

vơi cạn.

Truyền thống đó đã được bồi đắp theo thời gian, trở thành nhu cầu, khát

vọng cao đẹp của nhân dân nhiều thế kỷ, trở thành giá trị văn hóa tiêu biểu của

dân tộc ta. Đến thế kỷ XIII, truyền thống ấy đã trở thành hào khí yêu nước quật

khởi, thành tinh thần thân dân, khoan dung khai phóng mang hơi thở của thời đại

Đông A. Truyền thống đó, giá trị văn hóa đó cũng chính là bệ phóng để cho

VHCT thời thịnh Trần được thăng hoa lên những tầm cao mới. Sự kế thừa và

phát huy truyền thống văn hóa này sẽ được luận án phân tích kỹ hơn ở chương 3

- khi bàn về đường lối chính trị, phương thức quản lý xã hội, nhân cách cũng như

các yếu tố ngoại hiện mang ý nghĩa biểu tượng của VHCT.

Thứ hai, tinh thần tam giáo đồng tôn

Phải khẳng định rằng, ngay từ thời Bắc thuộc, ở Việt Nam đã không chỉ

có Phật giáo mà còn có cả Nho giáo và Đạo giáo (cả tư tưởng Lão Trang). Ba tôn

giáo này tồn tại cùng nhau và có những ảnh hưởng nhất định với nhau. Trong đó,

Phật giáo đã linh hoạt tiếp thu cả tư tưởng Nho giáo, tư tưởng Lão Trang và tín

ngưỡng dân gian. Tinh thần tam giáo đồng tôn (hay tam giáo đồng nguyên, tam

giáo tịnh tồn) của thời Trần đã được ươm mầm và nuôi dưỡng từ đó.

Bản thân mỗi tôn giáo rõ ràng đều có giá trị riêng. Nho giáo thiên về phục

vụ nhiệm vụ chính trị, giúp ích việc thi cử, tuyển dụng nhân tài cho bộ máy

chính quyền quân chủ. Phật giáo, Đạo giáo nghiêng về đáp ứng đời sống tâm

linh, tinh thần của con người, nêu cao lòng từ thiện, đem đến triết lý về đời

người, về giải thoát, đáp ứng nhu cầu lý giải các vấn đề nhân sinh. Đại Việt thời

63

Lý - Trần đã tiếp tục đón nhận một cách cởi mở ba tôn giáo lớn ấy. Chính vua

Trần Thái Tông, khi đã giác ngộ, cũng đã thể hiện tư tưởng tam giáo đồng

nguyên trong Khóa hư lục: “Vị minh nhân vọng phân tam giáo/Liễu đắc để đồng

ngộ nhất tâm (“Người đời u mê muốn phân chia tam giáo/ Khi đạt được gốc cội

rồi đều giác ngộ một tâm”) [24, tr.62].

Tam giáo đồng tôn không chỉ là một hiện tượng tôn giáo mà, do dư âm và

sức lan tỏa của nó, đã mở ra một chiều kích rộng dài, tạo một bầu không khí cởi

mở, khai phóng trong đời sống chính trị, tư tưởng của xã hội.

Thứ ba, ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tông

Phật giáo vào Việt Nam khá sớm. Trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên độc

lập, đã có vai trò của Phật giáo, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những giáo lý

đạo Phật chưa hiện thực hóa vào công cuộc dựng nước và phát triển đất nước. Đến

thời Lý, nhà nước đã thực thi hệ thống chính sách để phát huy những mặt tích cực

của Phật giáo đối với đất nước và xã hội. Vào thời thịnh Trần, Phật giáo phát triển

về cả bề rộng lẫn chiều sâu với “phân nửa thiên hạ đi tu” và sự xuất hiện của rất

nhiều bậc quân vương uyên thâm về giáo lý đạo Phật. Tính đến thời điểm đó, đạo

Phật bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và

có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống, văn hóa, tư tưởng của xã hội.

Cũng như thời Lý, ở thời Trần, trong hệ thống đạo Phật, Thiền là tông

phái chủ đạo. Thiền tông ở Việt Nam thời đại Lý - Trần là Nam tông Lục tổ

Huệ Năng, với chủ trương đốn ngộ, vô ngôn, tông phái này bớt đi tính cách trí

thức của Bắc tông Thần Tú và trở nên bình dân hơn. Đặc biệt, đến thời Trần,

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ra đời, chủ trương nhập thế, thích hợp với tinh

thần thời đại. Mang ý thức khẳng định độc lập, tự chủ của dân tộc, Thiền tông

thời Trần đã tạo được sự gắn bó làm một giữa con người Phật tử với người dân

xây dựng đất nước và người chiến sĩ cứu nước. Tinh thần nhập thế cùng với

tinh thần vô chấp, phóng khoáng của Thiền tông khi bắt gặp hào khí Đông A

ngút trời đã thăng hoa, phát huy hết những điểm tích cực, tiến bộ nhất. Và có

thể nói, Phật giáo nhập thế chính là một “đặc sản” của thời Trần.

64

Ở thời Trần, Thiền tông không hoàn toàn chỉ là một tôn giáo, mà nói như

tác giả Đỗ Lai Thúy, với tầng lớp trí thức và giới cầm quyền thời bấy giờ, nó còn

là “một hệ tư tưởng triết học để xây dựng được con người phù hợp với thời đại:

dũng cảm, tự tin, cởi mở, nhân ái, bao dung…” [173, tr.169] cũng là xây dựng

nên một mẫu người văn hóa đặc trưng - mẫu người “vô ngã” [173, tr.171]. Đó

cũng là những phẩm chất văn hóa tạo nên nhân cách chính trị tuyệt đẹp và độc

đáo trong giai đoạn thịnh trị của nhà Trần.

Mặt khác, chính Phật giáo Thiền tông với quan niệm “vật ngã dữ đồng” -

con người không sai biệt với vạn vật, đã tạo ra cho con người thời Trần tinh thần

nhân ái, thương yêu vạn vật, thương yêu con người. Lòng nhân ái gắn liền với

tinh thần vị tha, buông bỏ hận thù... đã góp phần tạo nên nền VHCT thời thịnh

Trần màu sắc thân dân, khoan dung khai phóng đậm nét.

2.2.3.4. Về xã hội và con người

Sự tồn tại của nhiều tầng lớp trong xã hội

Triều Trần cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử, đứng đầu

nhà nước và triều đình là vua, người có địa vị độc tôn. Nhưng ở thời Trần, cùng

vua còn có thượng hoàng (cha của vua đang tại vị, đã nhường ngôi cho con), dù

không trực tiếp ở ngôi chí tôn nhưng thực quyền rất lớn.

Tầng lớp quý tộc đồng tộc. Thời thịnh Trần, đây là “tập đoàn thống trị xã

hội” và là “chỗ dựa chính yếu của triều đình” [26, tr.127]. Họ được triều đình ưu

đãi, có đặc quyền, đặc lợi. Về chính trị, họ được phong vương, giữ chức vụ cao

trong triều đình. Về kinh tế, họ được ban cấp những vùng đất rộng lớn làm thái ấp

để hưởng bổng lộc mà không phải nộp tô thuế cho nhà nước. Ngoài ra, họ được

hưởng nhiều chế độ đặc biệt khác như chế độ lính hầu, tước phẩm và trang phục.

Theo Nguyễn Thị Phương Chi, lính hầu của quý tộc nhà Trần “nhiều thì một nghìn

người, ít thì một trăm người” [26, tr.128]. Theo ghi chép của người Nguyên (Trần

Cương Trung trong Cố sự giao ngôn): “Quan phẩm của chế độ nhà Trần cao thấp,

cứ nhìn tán thì phân biệt được, các bậc khanh tướng thì dùng 3 tán màu xanh, thứ

nữa thì 2 tán, thứ nữa thì 1 tán màu tía. Có lẽ chỉ người trong họ được dùng, người

ngoài không được dùng” [26, tr.128].

65

Tầng lớp quý tộc quan lại, ở đây có thể là những trí thức Nho học đỗ đạt,

có thể là những người tài trong dân gian được triều đình trọng dụng, bổ nhiệm

làm quan, giữ các chức vụ khác nhau trong triều chính. Vào giai đoạn thịnh trị

của nhà Trần, khi tầng lớp quý tộc đồng tộc còn nắm giữ vị trí lãnh đạo đất nước,

tầng lớp quan lại chưa thực sự chiếm ưu thế về địa vị chính trị nhưng do tài năng

và trí tuệ uyên bác, họ đã đóng góp rất lớn cho đất nước, tiêu biểu như: Lê Văn

Hưu, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Phạm Ngũ Lão, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn

Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát, Đoàn Nhữ Hài...

Trong thời thịnh Trần, tầng lớp bô lão có vai trò rất quan trọng và được

vua Trần trân trọng, được quyền tham gia và quyết định cả những việc chính sự.

Trong làng xã, bô lão là những người đại diện của thần dân làm lễ tế thần và chia

công điền. Trong thời điểm hệ trọng của quốc gia, các bô lão đã được vua Trần

tham vấn về kế sách đánh giặc.

Tầng lớp nhà giàu, thường gồm điền chủ, thân hào ở địa phương, thương

gia và tiểu nông có ruộng tư. Họ là những người có tài sản khá lớn và với khả

năng kinh tế đó, họ đã đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế cũng như xã hội và

chính trị thời thịnh Trần.

Tầng lớp nông dân chiếm số lượng đông đảo trong xã hội. Họ làm việc

trong các làng xã và thái ấp. Trong làng xã, nông dân cày cấy trên ruộng công thì

có nghĩa vụ nộp tô thuế cho nhà nước. Trong thái ấp, nông dân cày cấy trên

ruộng đất được phong cấp của quý tộc có nghĩa vụ nộp tô thuế cho chủ, tuy

nhiên, họ không mang thân phận lệ thuộc như nô tỳ, nông nô. Tất nhiên, ở thái

ấp, họ vẫn lệ thuộc vào chủ nhưng có thời hạn, khi có công việc thì theo hầu chủ,

khi nhàn rỗi thì lao động sản xuất. Nông dân có vai trò quan trọng với quốc gia

và triều đình. Với số lượng đông đảo, họ là lực lượng chính trong các việc đào

sông, đắp đê, đóng thuế. Ở thời thịnh Trần, người nông dân được trân trọng,

quan tâm nên được hưởng cuộc sống thái bình, và họ đã thực hiện tốt nghĩa vụ

với nhà nước.

Tầng lớp nô tỳ - gia nô. Tầng lớp này khá đông đảo, có vai trò khá quan

trọng. Nô tỳ thời Trần chủ yếu làm việc trong các thái ấp - điền trang của quý

tộc, vương hầu nên sử sách thường chép là “gia nô”. Họ có thể làm nhiều công

66

việc khác nhau. Một bộ phận phục vụ cho chủ như theo hầu, giặt giũ, nấu

nướng, hầu trà nước, quét dọn nhà cửa, làm vườn,... Một bộ phận khác thì lao

động sản xuất như: trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thủy hải sản, sản xuất gạch

ngói, đúc đồng, nung vôi, rèn, mộc, nuôi tằm, dệt vải, may vá, đan lát,... Ngoài

ra, trong nhà chùa còn có “hương hỏa nô” là những người chuyên canh tác

ruộng chùa và phụng sự hương hỏa. Tuy nhiên, đó là công việc lúc đất nước

thái bình. Lúc quốc gia hữu sự, tầng lớp này lại thành lực lượng chiến đấu,

tham gia quân đội, được huấn luyện quân sự, thành quân “vương hầu, gia

đồng” dưới sự chỉ huy của chủ. Ở thời Trần, tầng lớp này cũng được một số

quyền lợi nhất định như có thể được giải phóng để thành nông dân; trong điền

trang, họ được phép kết hôn. Như vậy, nô tỳ - gia nô là tầng lớp thấp kém trong

xã hội, nhưng không hoàn toàn bị mất tự do và bị bóc lột ngược đãi trong thời

Trần. Họ lao động sản xuất ra nhiều của cải vật chất phục vụ cho cuộc sống của

gia chủ và là lực lượng đông đảo đóng góp công sức không nhỏ cho công cuộc

bảo vệ độc lập quốc gia.

Tóm lại, dù tầng lớp xã hội phong phú, đa dạng và khá phức tạp, tuy

nhiên, ở thời thịnh Trần, xã hội chưa phân hóa thành những đẳng cấp đối lập.

Giữa tầng lớp này với tầng lớp khác vẫn còn mối liên hệ gắn bó, hài hòa, giữa

vua và quan, hoàng tộc và thứ dân chưa có sự phân biệt khắt khe và khoảng cách

quá lớn. Điều này đã tạo cho xã hội một bầu không khí hài hòa, dễ chịu, làm cơ

sở cho một nền VHCT khai phóng, thân dân.

Xuất thân của quý tộc Trần

Không thể lý giải nền VHCT thời thịnh Trần với những biểu hiện thú vị,

độc đáo nếu như không bàn đến yếu tố xuất thân của nhà Trần. Theo các tài liệu

cổ sử và thông sử, tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề đánh cá ở vùng ven sông biển,

sau đó định cư lên bờ ở hương Tức Mặc, Hiển Khánh (phủ Thiên Trường, Nam

Định) rồi chuyển sang Lưu Xá (huyện Long Hưng, Thái Bình), trở thành những

hào trưởng có thế lực về kinh tế, quân sự và chính trị. Trước khi bước vào vị trí

tối cao của triều đình, họ đã là một tập đoàn lớn mạnh, giàu có, không còn là anh

vạn chài nữa.

67

Phải thừa nhận, ở quý tộc Trần đã có một cuộc “lột xác”, ở đây là quá

trình quý tộc hóa, trí thức hóa, văn hóa hóa để biến những người con dân chài ưa

vũ dũng thành những quý tộc có trí tuệ và đặc biệt là có tự trọng cao. Bằng trí

tuệ và lòng tự trọng, họ đã tự nâng cao năng lực văn hóa cho mình và cho gia tộc

mình. Nhưng trong thẳm sâu huyết quản của họ, vẫn là dòng máu làng vạn chài

kết nối cội nguồn không bao giờ được phép lãng quên. Vua Trần Nhân Tông đã

từng nói rõ về nguồn gốc họ Trần và có ý làm cho con cháu không quên gốc tích

đó: “Nhà ta vốn người ở vùng hạ lưu (thủy tổ người Hiển Khánh), đời đời

chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên

xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc” [105, tr.82]. Song dấu ấn gốc tích đó

còn đậm nét trong các hành vi ứng xử của vua quan nhà Trần ngay cả khi họ đã

sống ở kinh thành Thăng Long.

Xuất thân từ tầng lớp bình dân quen nghề sông nước, họ Trần có truyền

thống ưa thực dụng phóng khoáng, ít bị những lễ nghĩa Nho giáo khắt khe ràng

buộc. Chính vì vậy, trong quá trình tham gia đời sống chính trị, những minh

quân, lương tướng, trung thần thời thịnh Trần đã không hề tỏ ra quan liêu, trái

lại, gần đời sống thực tế, gần dân, hiểu dân, thương dân. Mặt khác, xuất thân vạn

chài quen với cái nắng gió, mênh mông trời biển đã tạo nên ở con người thời đại

khí chất anh hùng, hào hiệp, tinh thần phóng khoáng, khoan dung. Đúng như

nhận định của học giả Trần Quốc Vượng: “Xuất thân dân chài ven biển, nhà

Trần mang lên kinh đô Thăng Long chất dân dã, chất biển, cái tinh thần phóng

khoáng, khỏe khoắn và cởi mở hơn” [210].

Như vậy, các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nêu trên, ở những

mức độ khác nhau, đã thành cơ sở, tiền đề quan trọng dẫn đến sự hình thành VHCT

thời thịnh Trần, đó cũng là những nhân tố quy định diện mạo và đặc điểm riêng của

VHCT giai đoạn này. Cũng có thể khẳng định, trong các yếu tố quan trọng đó, Phật

giáo Thiền tông có vị trí đặc biệt. Bàn về vai trò và tác động của Thiền tông với

VHCT thời thịnh Trần, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy nhận định: “Thiền tông đóng

vai trò không phải như là một trong những yếu tố, mà là yếu tố chủ đạo, yếu tố làm

nên tinh thần thời đại của thời Trần” [Tư liệu phỏng vấn chuyên gia - Phụ lục 12].

68

Tiểu kết chương 2

Trên cơ sở kế thừa thành tựu khoa học của những nhà nghiên cứu đi

trước, NCS đã nêu ra quan niệm về VHCT xuất phát từ góc nhìn văn hoá học.

Cách nhìn mới này cần thiết cho việc nghiên cứu, khảo sát một nền VHCT với

một cấu trúc rõ ràng (mà cụ thể là việc khảo sát, nhận diện VHCT ở thời thịnh

Trần được thực hiện trong Luận án).

Thời thịnh Trần (1225-1329) là giai đoạn đáng tự hào bậc nhất của vương

triều Trần, trong đó VHCT đã hình thành và phát triển cùng với dòng chảy văn

hóa dân tộc. Các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của thế kỷ XIII

đã được luận án phân tích, lý giải với tư cách là những tiền đề khai sinh ra

VHCT thời thịnh Trần với những giá trị riêng. Những giới thuyết ban đầu này

chính là nền tảng để từ đó luận án đi sâu miêu tả, nhận diện diện mạo và giá trị

của VHCT thời thịnh Trần ở các chương tiếp theo.

69

Chương 3

DIỆN MẠO CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

3.1. ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ TRONG CHÍNH TRỊ

Định hướng giá trị trong chính trị thể hiện những giá trị, chuẩn mực chính trị

mà mỗi cá nhân, cộng đồng trong một thời đại cụ thể mong muốn đạt tới và ao ước

chia sẻ. Trong VHCT thời thịnh Trần, định hướng giá trị trong chính trị chủ yếu

được thể hiện qua lý tưởng củng cố, phát triển bộ máy triều chính cũng như lý

tưởng xây dựng và bảo vệ đất nước; ở triết lý về quyền lực và đường lối trị nước

của người cầm quyền.

3.1.1. Lý tưởng chính trị

Khi nói đến lý tưởng chính trị là ta nói đến quan điểm, mục tiêu chính trị.

Mục tiêu chính trị của một thời đại chính là mục tiêu hướng đến xã hội tốt đẹp lý

tưởng. Trong VHCT của vương triều quân chủ, nhất là vương triều quân chủ

phương Đông theo hệ tư tưởng Nho giáo, một xã hội lý tưởng là xã hội thái bình,

không chiến tranh loạn lạc, dân chúng yên vui, xã hội kiểu “Nghiêu Thuấn”.

Vương triều Trần, do bối cảnh lịch sử hào hùng chống ngoại xâm và củng cố phát

triển bộ máy chính quyền quân chủ, lý tưởng độc lập - tự cường trở thành lý tưởng

chính trị cao nhất. Đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc gắn với việc củng cố, phát

triển triều chính hướng tới nền thái bình bền vững trên tinh thần tự cường, tự tôn

dân tộc là mục tiêu mà con người thời thịnh Trần khao khát vươn tới.

3.1.1.1. Ý thức củng cố triều chính, tái thiết đất nước

Như đã trình bày ở trên, buổi hoàng hôn triều Lý đã để lại gam màu xám cho

bức tranh triều chính và đất nước cuối thế kỷ XII - đầu thế kỷ XIII. Từ kinh tế,

chính trị đến văn hóa, xã hội Đại Việt lúc bấy giờ đều lâm vào khủng hoảng nặng

nề. Vì vậy, tái thiết đất nước gắn với việc củng cố và phát triển triều chính là yêu

cầu thực tiễn cấp bách đặt ra cho người đứng đầu nhà nước.

Bộ máy nhà nước cuối thời Lý vừa lỏng lẻo, rệu rã vừa cồng kềnh khó kiểm

soát. Hệ thống quan chế cũng chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nước lúc

bấy giờ. Nhận rõ thực trạng đó, nhà Trần đã nhanh chóng sắp xếp lại bộ máy nhà

nước từ trung ương đến địa phương, lập lại trật tự chính trị - xã hội từ tổ chức quân

70

đội, hành chính, đến luật pháp, kinh tế, giáo dục, thi cử, tôn giáo và văn hóa, từ đối

nội đến đối ngoại. Để thiết lập bộ máy triều chính, quan chế và xây dựng một chính

quyền mới theo mô hình nhà nước quân chủ chặt chẽ, với quyền lực tập trung vào

tay dòng họ là chủ yếu, nhà Trần đã bắt tay vào xây dựng một nhà nước quân chủ

tông tộc. Mặt khác, nhà Trần chăm lo đào tạo, tuyển dụng nhân tài bổ sung vào bộ

máy chính quyền trung ương và địa phương, chú trọng phát triển đội ngũ quan lại

Nho học thay cho trí thức Phật học trước đó. Bộ máy nhà nước được tổ chức tinh

gọn, chặt chẽ, hệ thống và quy củ hơn.

Một thực tế dễ dàng nhận thấy là sau khi họ Trần lên nắm quyền, bằng

những nỗ lực tối đa của người cầm quyền và thần dân cả nước, Đại Việt đã được

phục hưng, kinh tế khởi sắc, chính trị dần ổn định, quốc phòng đảm bảo. Đời

sống trăm họ càng lúc càng bình ổn, chấm dứt tình trạng đói kém, loạn ly cuối

thời Lý.

Như vậy, ý thức chính trị về việc củng cố và phát triển chính quyền nhà

nước quân chủ tập trung của nhà Trần trước hết là xuất phát từ quyền lợi của giới

quý tộc, nhưng đồng thời cũng nhằm bảo vệ quyền độc lập tự trị của đất nước.

Vì vậy, lý tưởng của quý tộc Trần phù hợp với nguyện vọng của thần dân cũng

như yêu cầu của đất nước và thời đại.

3.1.1.2. Quyết tâm bảo vệ độc lập - chủ quyền quốc gia, khẳng định bản

lĩnh Đại Việt

Trong cuộc đối đầu không cân sức với Mông - Nguyên, thế lực ngoại xâm

hùng mạnh, thiện chiến, không ít lần vận mệnh dân tộc ta “ngàn cân treo sợi

tóc”. Yêu cầu chiến đấu để giữ vững nền độc lập dân tộc là cần kíp và đó cũng là

thử thách của tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ chủ quyền quốc

gia, khẳng định bản lĩnh Đại Việt. Quyết tâm đó thể hiện từ những mệnh lệnh,

chiếu chỉ của người đứng đầu. Chẳng hạn, năm 1284, vua Trần lại truyền cho cả

nước sắm sửa binh khí và ra lệnh: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có

giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn

tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” [105, tr.53].

Hào khí, quyết tâm ấy còn thể hiện ở hình ảnh thanh gươm sáng lòa trên

tay “sát Thát” của các tướng lĩnh và lời đồng thanh hô “đánh” của bô lão tại hội

71

nghị Diên Hồng... Thời Trần cũng có những cá nhân anh hùng, mang tầm vóc

thời đại. Bản lĩnh của Trần Thủ Độ: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng

lo”, quyết tâm của Trần Quốc Tuấn: “Bệ hạ hãy chém đầu thần trước rồi hãy

hàng”... là những minh chứng hùng hồn cho tinh thần tự cường, bất khuất.

Quyết tâm của con người thời Trần còn thể hiện ở ý thức khẳng định bản

lĩnh Đại Việt. Là một nước nhỏ, dân ít nhưng Đại Việt không coi mình là nhược

tiểu. Đặc biệt, bắt đầu từ thời kỳ tự chủ, khi cha ông ta vươn mình thoát khỏi

nghìn năm Bắc thuộc, gây dựng được nền độc lập tự chủ, tinh thần tự cường

càng trỗi dậy mạnh mẽ và trở thành ý thức chính trị chi phối. Đến thời thịnh

Trần, ý thức chính trị này được thể hiện ở nhiều phương diện, bao phủ cả tư

tưởng thời đại: Chiến lược ngoại giao khôn khéo, mềm mỏng mà kiên quyết với

nhà Nguyên; Sự tổ chức bộ máy triều chính, quan chế, chế độ áo mũ và kiến trúc

dân gian cũng như cung đình... nhiều phần không theo mô thức Trung Hoa; Sự

lựa chọn “thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” của

những cá nhân anh hùng; Bản lĩnh văn hóa khi tiếp biến yếu tố ngoại sinh thành

yếu tố nội sinh; Sáng tạo và phổ biến chữ Nôm như một thứ “quốc hồn, quốc

túy” của người Việt. Đặc biệt, tinh thần “tam giáo đồng tôn” và sự ra đời của

Phật giáo Thiền tông như một ngã rẽ bất ngờ trên lối mòn độc đạo của Nho giáo

và văn hóa Trung Hoa mà nhà Nguyên và tiền triều của họ luôn muốn áp đặt cho

các “man tộc”...

3.1.1.3. Ước vọng về một nền thái bình bền vững

Đây là lý tưởng chính trị thể hiện rất rõ tinh thần thời thịnh Trần, một thời

đại anh hùng, quật khởi và rất lạc quan. Vương triều Trần cùng với thần dân của

họ đã chiến đấu, hy sinh, đã nỗ lực phục hưng đất nước... không chỉ vì mục tiêu

trước mắt là củng cố vương triều quân chủ dòng họ, không chỉ vì bảo vệ chủ

quyền, độc lập quốc gia hay chứng tỏ tinh thần tự cường, tự chủ... Mà xa hơn

nữa, là nhắm đến mục tiêu gây dựng một nền thái bình muôn thuở cho non sông,

xã tắc. Thượng tướng Trần Quang Khải trên con đường hộ giá hai vua về kinh

sau ngày đại thắng đã lòng tự nhủ lòng: “Thái bình đương trí lực/ Vạn cổ thử

giang san” (Thái bình nên gắng sức/Non nước ấy ngàn thu” (Tụng giá hoàn kinh

sư) [24, tr.424]. Với trận Chương Dương, Hàm Tử lẫy lừng, quân dân nhà Trần

72

đã giành thắng lợi oanh liệt, đất nước sạch bóng quân thù, giữ vẹn độc lập, gây

dựng được nền thái bình hiện tại. Nhưng, con người đã đi qua khói lửa chiến

tranh mới biết giá trị to lớn của hòa bình, nên càng quyết tâm gìn giữ. Hơn thế,

trong thế tương quan giữa Trung Hoa và Đại Việt, đó là thứ hòa bình không dễ

dàng có được nhưng có thể dễ dàng mất đi. Vì vậy, trong cảnh thái bình, cần

gắng sức hơn để non sông gấm vóc ngàn năm được thái bình mãi mãi. Đó không

chỉ là mong muốn của cá nhân thượng tướng Trần Quang Khải, đó là lý tưởng

chính trị của cả thời đại.

Còn vua Trần Nhân Tông ngày đại thắng trở về Chiêu Lăng làm lễ tế ở

tông miếu, nhìn vết bùn lấm trên con ngựa đá trong hiện tại mà suy tư đến

chuyện nghìn năm của non sông: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà thiên

cổ điện kim âu” (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/Non sông nghìn thuở vững âu

vàng) [24, tr.483]. Ở đây, có một cái nhìn biện chứng, giữa cái động (lao thạch

mã) và cái tĩnh (điện kim âu), cái khoảnh khắc (lưỡng hồi) và cái trường thời

gian (thiên cổ). Phải chăng, cái bị giày xéo, rúng động và đau thương trong thời

khắc cụ thể đã qua chính là vì và để, là cơ sở cho quyết tâm xây dựng cái thái

bình bền vững muôn sau? Những đau thương, uất hận của bậc quân vương đã

được biến thành quyết tâm chính trị cho cả thời đại.

Như vậy, từ ý thức củng cố triều chính, phục hưng đất nước đến ý chí giữ

gìn độc lập, chủ quyền, khẳng định bản lĩnh rồi ước vọng về nền thái bình vĩnh

cửu, đó là sợi dây nối kết quá khứ, hiện tại và tương lai, trở thành tư tưởng chính

trị mang tính định hướng xuyên suốt, thể hiện tầm nhìn chiến lược xa rộng, tầm

cao VHCT thời thịnh Trần. Cũng nhờ sự định hướng giá trị này, nền VHCT thời

thịnh Trần đã có cuộc hành trình tự tin, kiêu hãnh và để lại những vết son lộng

lẫy trên con đường lịch sử của dân tộc.

3.1.2. Triết lý về quyền lực

3.1.2.1. Nhận thức về vai trò, sức mạnh của dân

Theo tư tưởng Nho giáo nguyên thủy, quyền lực của giai cấp thống trị tuy

rất lớn nhưng không phải là tuyệt đối. Quyền lực tuyệt đối là quyền lực của dân,

do vậy, người cầm quyền phải biết thương yêu, kính trọng dân. Quan điểm này

hầu như xuyên suốt các triều đại quân chủ Việt Nam, nhất là trong giai đoạn

73

thịnh trị. Đặc biệt, thời đại Lý - Trần, khi sự phân chia đẳng cấp chưa thật rõ nét,

khoảng cách giữa người cầm quyền và dân chúng còn nhỏ, quyền lực chính trị

gắn với vai trò của dân càng được nhận thức sâu sắc. Người cầm quyền giai đoạn

này coi quyền lực gắn liền với trách nhiệm đạo đức, gắn với nguyện vọng của

thần dân, được thần dân trao gửi, ủy thác.

Do xuất thân dân vạn chài quen nghề sông nước có cuộc sống phóng

khoáng và dân dã; được chắp cánh bởi tinh thần vô chấp của giáo lý Thiền tông

với tinh thần vô chấp, phóng khoáng, bác ái, bao dung, nhà cầm quyền thời thịnh

Trần đã dễ dàng nhận thức được về vai trò, sức mạnh của dân. Đặc biệt bối cảnh

cuộc xâm lược của đế quốc Mông - Nguyên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho triều

Trần là muốn bảo vệ đất nước, bảo vệ ngai vàng và quyền lợi của mình, người

cầm quyền phải dựa vào dân, tôn trọng thần dân. Nhận thức của nhà Trần về vai

trò, sức mạnh của dân có thể khái quát ở ba góc độ:

Một là, đánh giá đúng vai trò của dân chúng đối với cá nhân anh hùng.

Người cầm quyền thời thịnh Trần đã thẳng thắn thừa nhận vai trò quyết định của

dân chúng đối với thành bại của cá nhân anh hùng. Hưng Đạo Đại vương Trần

Quốc Tuấn - một đại diện cho anh tài, tinh hoa của thời đại - đã từng khẳng định

vai trò của gia nô: “Chim hồng hộc muốn bay cao thì phải nhờ ở sáu trụ cánh.

Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng chỉ là chim thường thôi” [105,

tr.55]. Theo đó, những cá nhân anh hùng chỉ có thể làm nên sự nghiệp khi biết

dựa vào sự giúp đỡ, ủng hộ, đồng lòng của dân chúng. Ở đây, ông đã xác định

được vai trò sáng tạo lịch sử của người dân, tính năng động chủ quan của con

người. Với vị thế của Hưng Đạo Đại Vương, đây là một tư tưởng tiến bộ, vượt

qua ranh giới chật hẹp của đẳng cấp.

Hai là, đánh giá đúng vai trò quyết định của dân chúng đối với sự tồn tại

của vương triều. Vương triều là do hoàng đế ngự trị, nhưng bảo vệ sự an nguy

của vương triều lại không chỉ có hoàng tộc hay triều thần mà còn có thần dân.

Lịch sử triều Trần đã chứng minh, có những cảnh ngộ mà sự xuất hiện của gia nô

đã ảnh hưởng đến sự tồn vong của vương triều. Chính vua Trần Nhân Tông, khi

phải chạy khỏi kinh thành Thăng Long, bên cạnh có những người gia nô đi theo

hộ giá, đã cảm mến mà thừa nhận rằng: “Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, khi

74

quốc gia lắm hoạn nạn thì chỉ có bọn chúng (gia nô) có mặt” [105, tr.72]. Chính

những con người thuộc tầng lớp “đáy” của xã hội ấy là kẻ luôn trung thành, bảo

vệ sự an nguy của nhà vua, cũng chính là bảo vệ ngai vàng, bảo vệ vương triều.

Đây cũng là một nhận thức hiếm có trong thời đại quân chủ.

Ba là, đánh giá đúng vai trò của dân trong sự thống nhất, độc lập, bền

vững của quốc gia. Đối với những người cầm quyền thời thịnh Trần, dân chúng

là lực lượng chiến đấu hùng mạnh, là nơi hội tụ những tiềm lực về kinh tế và

quốc phòng bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ quyền quốc gia.

Với niềm tin “chúng chí thành thành” (ý chí nhân dân là bức thành vững chắc),

triều Trần - mà đại diện là Trần Quốc Tuấn - chủ trương lấy nông dân làm nguồn

bổ sung dồi dào, vô tận cho quân đội thông qua hình thức “bách tính giai vi

binh” (trăm họ đều là binh lính), “tận dân vi binh” (mỗi người dân là một người

lính). Dân chúng được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược quân sự giữ thành,

giữ nước và việc nới sức dân là kế sách lâu dài của sự hưng thịnh trường tồn của

quốc gia: “Khoan sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Đây là triết lý có tính phổ biến

cũng là bài học giữ nước sâu sắc cho không chỉ các triều đại quân chủ ở nước ta.

Như vậy, đối với nhà cầm quyền thời thịnh Trần, người dân trở thành một

thực thể chính trị, là lực lượng xã hội chủ yếu, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp

chiến tranh vệ quốc cũng như trong việc duy trì trật tự xã hội, phát triển đất nước.

3.1.2.2. Thái độ đối với quyền lực của người cầm quyền

Nhận thức được vai trò của dân, nên người cầm quyền thời thịnh Trần

cũng nhận thức được giới hạn của quyền lực mà mình nắm giữ. Trên cái nhìn

tổng thể, ở thời thịnh Trần, nhà cầm quyền từ bậc thiên tử đến quan lại, tướng

lĩnh đầu triều, đều nhận thức được quyền lực của mình không phải là tuyệt đối,

nên không cho phép bản thân vượt quá giới hạn. Trần Thủ Độ là đại công thần

khai quốc (theo ĐVSKTT: “Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của

ông cả”) [105, tr.36] song không vì thế mà Thủ Độ thao túng hết quyền lực. Trái

lại, khi vua Thái Tông còn nhỏ tuổi, ông đã thay vua chấp chính và trả lại quyền

khi vua trưởng thành. Trần Quốc Tuấn đã không những không theo lời cha

“giành thiên hạ” mà suốt cuộc đời giữ trọn đạo tôi trung: được vua Trần đặc cách

trao quyền phong tước, nhưng ông không hề sử dụng quyền đó một lần; được

75

giao quyền tể tướng thay cho Quang Khải nhưng ông nhất quyết từ chối; dù

trong tay nắm trọng quyền bính, tự chủ việc quân, việc nước nhưng không mảy

may có ý lộng quyền, thoán đoạt vương vị.

Đặc biệt đáng nói là thái độ với quyền lực của những người có quyền lực

tối cao. Từ xưa đến nay, ngai vàng là biểu tượng quyền uy tột đỉnh mà thiên hạ

từng ra sức tranh đoạt. Thế nhưng, thời kỳ thịnh trị của nhà Trần đã làm nên một

ngoại lệ. Bản thân vua Trần Thái Tông không khao khát làm vua và có khi ông

đã coi ngai vàng như “chiếc giày rách”. Sau khi bị ép lập công chúa Thuận Thiên

(vợ của anh trai) làm hoàng hậu, nhà vua đã rời bỏ hoàng cung lên Yên Tử. Chỉ

đến khi nghe sư Phù Vân khuyên: “Phàm là bậc nhân quân, phải lấy ý muốn của

thiên hạ làm ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của

mình. Nay muôn dân đã muốn rước bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được” [24,

tr.29], ông đành phải hồi cung. Đó là sự trở về của tinh thần nhập thế tích cực

của Thiền tông Việt Nam, nhập thế là vì thiên hạ (tức dân chúng, đất nước) chứ

không phải vì lợi ích cá nhân hạn hẹp. Đó là hành động của người giác ngộ chứ

không phải tìm cầu danh lợi, đam mê quyền thế.

Trần Thái Tông trở lại triều đình nhưng đến 40 tuổi thì đã nhường ngôi.

Theo gương ông, các vua Trần không ai tham quyền cố vị. Họ đều khổ công học

sách thánh hiền, mở mang trí tuệ, nhân sinh quan, ở ngôi một thời gian rồi nhường

ngôi cho Hoàng thái tử, làm Thái thượng hoàng. Hậu duệ Trần Thái Tông không

ai ở ngôi đến tuổi 40 (trừ trường hợp đặc biệt là Trần Nghệ Tông 49 tuổi mới làm

vua nhưng chỉ ở ngôi 3 năm rồi nhường lại cho con). Thái thượng hoàng lui về

quê hương Tức Mặc để tu dưỡng đức hạnh, nghiên cứu đạo Thiền, nghiên cứu

cách trị quốc an dân. Tuy không còn ngự triều, không ở ngôi vua, nhưng họ vẫn

không quên chính sự. Vì truyền thống tốt đẹp này, ở thời thịnh Trần, chưa xảy ra

bi kịch của sự tranh quyền đoạt vị. Trần Quốc Khang không tranh giành ngai vị

mà còn rất hòa hiếu với em (Trần Thánh Tông). Trần Minh Tông sẵn sàng trả lại

ngôi vua cho tiểu hoàng nam (con đích trưởng) và không may người con đích ấy

mệnh yểu, nhà vua trong lòng rất thương xót [105, tr.146]. Xét đến cùng, với nhà

cầm quyền thời thịnh Trần, quyền lực cũng chỉ là phương tiện để người đứng đầu

đất nước thực hiện lý tưởng quốc thái dân an. Do có nền tảng của chế độ quân chủ

76

tông tộc, cộng với sức lan tỏa của tinh thần vô chấp, phóng khoáng của Thiền

tông, thay vì chìm đắm trong quyền lực, danh vọng, họ sẵn sàng buông bỏ tham

vọng cá nhân vì đại cục quốc gia, vì an nguy của xã tắc.

Biết được giới hạn của quyền lực, không ham mê quyền lực, nhưng với tư

cách là những chủ thể chính trị quan trọng của thời đại, các nhà cầm quyền thời thịnh

Trần đã biết sử dụng quyền lực đúng đắn, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực và những

hậu quả do quyền lực quá lớn gây ra. Khác với thời Lê coi người cầm quyền mặc

nhiên là những người quân tử, vì vậy phải lấy cái lễ mà đãi họ, những người đứng

đầu nhà nước thời Trần tự tiết chế quyền lực, coi mỗi người cầm quyền đều là kẻ có

khả năng phạm tội, nên cần phải có biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa. (Điều này sẽ

được chứng minh rõ hơn trong phần sau khi bàn về luật pháp và chính sách an dân).

3.1.3. Đường lối trị nước

Không thể phủ nhận rằng đường lối chính trị thời thịnh Trần cũng như

đường lối chính trị trong VHCT thời kỳ độc lập tự chủ về cơ bản là thống nhất

trên cơ sở bảo vệ lợi ích của dân tộc, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Trung

Hoa. Nhưng, do đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, nhà cầm quyền thời thịnh Trần

có đường lối trị nước mang những nét riêng. Nếu như thời Lý, đường lối trị nước

chủ yếu ảnh hưởng bởi tư tưởng Phật giáo; thời Lê sơ, Mạc đến Nguyễn, đường

lối chính trị chịu ảnh hưởng nhiều bởi Nho giáo hay kết hợp “nội Pháp, ngoại

Nho”..., thì đường lối chính trị thời thịnh Trần có sự dung hợp giữa tư tưởng Phật

giáo, Nho giáo và tinh thần dân tộc. Vì thế, đường lối chính trị thời kỳ này mang

tính đức trị, mềm dẻo, hài hòa trên tinh thần vì dân, khoan dung khai phóng.

3.1.3.1. Đường lối chính trị vì dân

Trước hết, phải khẳng định, ở thời thịnh Trần, dân là cơ sở của đường lối

trị nước của nhà cầm quyền. Vua Trần Minh Tông từng khẳng định: “Trẫm là

cha mẹ dân, nếu dân sinh mắc vào cảnh lầm than thì phải cứu gấp, chả lẽ đi so

đo khó dễ, lợi hại hay sao?” [105, tr.124]. Nhà vua coi việc lo cho dân là trách

nhiệm như cha mẹ lo cho con, là sự lựa chọn không hề toan tính thiệt hơn và

quên đi sự an nguy của bản thân mình.

Trong quá trình lãnh đạo đất nước, nhà cầm quyền luôn biết dựa vào dân,

“khoan thư sức dân”. Họ coi việc lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân là nhiệm

77

vụ hàng đầu trong đạo trị nước. Từ việc đi vi hành để ngầm thấu hiểu nguyện vọng

của dân để có những quyết sách kịp thời, phù hợp trong quá trình trị nước đến việc

hỏi ý kiến của thần dân trước những quyết định quan trọng mang tầm đại sự quốc

gia hay chủ trương “khoan sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, nhà Trần đã trao cho

dân quyền quyết định vận mệnh của cộng đồng, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ

của họ. Và đó là một trong những lý do vì sao trong cuộc đối đầu tưởng chừng

không cân sức với quân Mông - Nguyên, chúng ta lại thắng lợi oanh liệt.

Đó cũng là đường lối chính trị hướng tới mục đích an dân. Người cầm

quyền thời thịnh Trần đã luôn luôn coi việc đảm bảo đời sống cho dân là mục

tiêu của việc trị nước. Từ đó, họ đã đưa ra các chính sách nhằm đảm bảo cuộc

sống của thần dân về cả vật chất lẫn tinh thần như:

Một là, chính sách trọng nông. Nhà Trần đã chăm lo cho đời sống người

dân bằng việc chú trọng phát triển kinh tế, đặc biệt là chính sách trọng nông. Để

khôi phục lại sức sản xuất bị đình đốn cuối thời Lý, triều đình đã chú trọng tổ

chức khai khẩn đất hoang, đắp đê phòng lụt, phát triển sản xuất nông nghiệp.

Ngoài ra, bằng việc bán ruộng công cho nông dân làm ruộng tư, kịp thời giảm

thuế hay miễn thuế cho dân mỗi khi thiên tai, mùa màng thất bát …, nhà Trần đã

tạo cơ hội cho dân nghèo thay đổi thân phận manh lệ, sớm khắc phục tình trạng

suy thoái kinh tế, đói kém, loạn ly, phiêu tán trong nhân dân, đưa nền kinh tế

phát triển vững mạnh, vừa có tác dụng an dân trong thời bình, vừa tạo tiềm lực

kinh tế quan trọng cho thời chiến.

Hai là, chính sách đoàn kết, hòa hợp dân tộc, tôn giáo. Với chủ trương tam

giáo đồng tôn nói trên, nhà Trần đã tạo điều kiện cho các tư tưởng của nước ngoài

du nhập vào nước ta. Các bậc minh quân và những nhà tư tưởng lớn thời Trần đã

khéo léo biến những giáo lý ngoại sinh thành những tín điều yêu nước, thương

dân, phù hợp với văn hóa dân tộc và nguyện vọng, tâm thức của người dân cả

nước. Dù phải củng cố, phát triển bộ máy quyền lực, bình trị thiên hạ hay mở rộng

cương vực quốc gia, phải tiến hành những cuộc chiến tranh chinh phạt với các

nước láng giềng hay các tộc người thiểu số nhưng khác với một số triều đại khác

sau này, nhà Trần đã hạn chế tối đa các cuộc chiến tranh phân quyền, cát cứ, nồi

da xáo thịt, tránh nạn binh đao, loạn lạc gây lầm than, ly tán cho dân… Ngoại trừ

78

những thời đoạn phải đương đầu với thế lực ngoại xâm, còn lại, không khí hòa

bình bao trùm cuộc sống con người thời thịnh Trần. Với các tộc người thiểu số,

nhà Trần không “cải thổ quy lưu” như nhà Nguyễn mà thực hiện chính sách “ki

mi” để đoàn kết kinh thổ. Bằng chính sách ngoại giao và nội trị mềm dẻo, nhà

Trần đã tạo được quan hệ hòa bình, hữu nghị, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ

quốc gia cũng như đoàn kết các dân tộc anh em trong cả nước.

Ba là, chính sách phòng, chống tham nhũng. Tham quan ô lại là nguồn

gốc của sự thống khổ của bách tính, vì vậy, phòng chống tham nhũng là một

cách để nhà Trần an dân. Trần Nhân Tông giữa đường dừng xa giá để xử lại vụ án

oan sai do em của đại thần Đỗ Khắc Chung gây ra, trả lại quyền bình đẳng pháp

luật cho người dân vô tội. Trần Minh Tông nghiêm khắc yêu cầu gia đình cung tần

phải trả lại ruộng đất đã chiếm đoạt cho dân. Trần Anh Tông trách phạt hình quan

vì tội “không biết suy xét tình lý” để quan nô Hoàng Hộc “gian ngoan xảo quyệt”

đến nỗi “người dân trong hương phải chịu tội vu cáo” [105, tr.112]. Trong lúc

nước nhà lâm nạn ngoại xâm, trước khi ra trận, Trần Quốc Tuấn đã ra quân luật

cho tướng sĩ, vương hầu: “Các vương hầu và tướng sĩ, ai nấy cần phải giữ phép

tắc, đi đâu không được nhiễu dân” [105, tr.122]. Trần Thủ Độ đã từng dọa chặt

ngón chân kẻ nhờ Thiên Cực công chúa xin cho chức câu đương và đã không ngần

ngại khen ngợi người quân hiệu vì anh ta dám can ngăn Linh Từ quốc mẫu không

được đi kiệu qua thềm cấm [105, tr.36]… Đó là những ứng xử nhỏ nhưng thể hiện

tầm tư tưởng lớn, nhất quán, thái độ kiên quyết, nghiêm khắc của nhà Trần.

Khác với triều Lý, dưới triều Trần, bắt đầu từ 1236, chế độ lương bổng

cho quan lại đã được định ra và dần thành hệ thống. Đây là kế sách khôn ngoan

của nhà Trần, làm cho đội ngũ quan lại giữ thanh liêm, chống nhiễu sách nhân

dân, chống tham nhũng trong hệ thống cơ quan nhà nước.

Chính sách phòng, chống tham nhũng đã ngăn chặn mối nguy gây ra

thống khổ của dân lành, trả lại quyền bình đẳng pháp luật, đảm bảo cuộc sống

bình yên cho muôn dân.

3.1.3.2. Đường lối chính trị khoan dung, khai phóng

Trong quá trình trị nước, về cả đường lối ngoại giao cũng như nội trị, nhà

Trần luôn chủ trương hòa bình, đối thoại, khoan dung, khai phóng.

79

Trong đường lối ngoại giao, nhà Trần luôn giữ quan hệ hòa hiếu với

Chiêm Thành, Ai Lao, Mông - Nguyên …, hạn chế tối đa đối đầu, xung đột. Và

nếu có xảy ra chiến tranh, thì triều Trần cũng cố gắng kết hợp sức mạnh quân sự

với sức mạnh ngoại giao, vừa tổ chức kháng chiến vừa tranh thủ cơ hội bang

giao để trì hoãn, kéo dài thời gian hòa bình. Và khi đã đứng trên đài cao chiến

thắng, nhà Trần vẫn kịp thời có động thái ngoại giao hữu nghị để xoa dịu quan

hệ với kẻ thù bại trận: tạo điều kiện cho tù binh về nước an toàn, chôn cất tướng

giặc bại trận, cho các sứ đoàn sang thương thảo và cống nộp... nhằm ngăn chặn

sự tái diễn chiến tranh, giữ hòa bình ổn định lâu dài. Bởi vì nhà Trần hiểu rõ

không thể dùng chiến tranh để vĩnh viễn dập tắt chiến tranh.

Trong đường lối đối nội, nhà Trần luôn chủ trương khoan thứ, hài hòa.

Những hiềm khích trong gia tộc (giữa vua Trần Thái Tông với An Sinh vương

Trần Liễu, Trần Quốc Tuấn với vương tôn trong chi thứ họ Trần), bất hòa trong

nội bộ triều đình (Trần Nhân Tông hòa giải hai quan đại thần là Lê Tòng Giáo và

Đinh Củng Viên)... đều được hóa giải bằng lòng khoan dung. Những chính sách

khoan hồng, dung thứ đối với những lỗi lầm, sai trái của con người cũng đã được

nhà Trần thực hiện (chuyện tiểu tốt Hoàng Cự Đà được tha tội phạm thượng, Trần

Khánh Dư được phục chức và giao làm Phó đô tướng quân, đốt thư biểu xin hàng

của tướng lĩnh nhằm yên lòng kẻ phản trắc...). Đặt lợi ích quốc gia cao hơn lợi ích

cá nhân, gia đình, nên vua quan, tướng lĩnh triều Trần đã vượt qua được những rào

cản của tư thù nhỏ hẹp để vẹn toàn đại cục, đoàn kết trong ngoài, trên dưới - một

điều kiện căn cốt để ổn định chính trị, đất nước thái bình.

Đường lối trị nước hài hòa, khoan dung của nhà Trần còn thể hiện ở thái

độ chấp nhận dung chứa những sự khác biệt: Về tôn giáo, không như nhà Lê độc

tôn Nho giáo, nhà Trần chủ trương tam giáo đồng tôn. Có thể nói nhà Trần đóng

vai trò như “trọng tài” công minh, coi trọng cả nhà nho, nhà sư và đạo sĩ. Những

kỳ thi tam giáo đã sớm được tổ chức một cách nghiêm túc nhằm kết nối những

con người theo tư tưởng khác nhau và góp phần hiện thực hóa những giáo lý đa

dạng đó vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Nhà Trần đã vượt qua

những lối tư duy cảm tính, nhận thức chủ quan và định kiến - rào cản của sự

khoan dung, đối thoại - để những yếu tố dị biệt trong từng tôn giáo thống nhất

80

được với nhau (trên nền tảng của văn hóa dân tộc)… Về địa vị xã hội, nhà Trần

đã rút ngắn khoảng cách giữa vua với quan, triều đình với dân chúng, cái chính

thống và cái phi chính thống, tạo cho xã hội một bầu không khí hòa đồng, cởi

mở... Về tri thức, vượt qua nỗi sợ vì sự vượt trội của tài năng, nhà Trần chủ

trương trọng dụng nhân tài, coi trọng học vấn, chăm lo phát triển giáo dục và thi

cử. Nhờ đường lối cầu hiền thông thoáng, nhà Trần đã thu hút tối đa người tài để

họ đóng góp hết mình cho đất nước, xã hội.

Có thể coi đối thoại khoan dung trở thành một trong những nguyên tắc khôn

ngoan để nhà Trần duy trì hòa bình, độc lập dân tộc. Đường lối chính trị đó không

chỉ thể hiện tầm nhìn chiến lược xa rộng, tầm cao văn hóa của nhà Trần mà còn là

biểu hiện đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam - dân tộc bao dung, yêu chuộng hòa

bình, đồng thời cũng là biểu hiện đẹp của văn hóa đối thoại, hòa giải yêu thương…

mà nhân loại tiến bộ ngày nay đang phấn đấu vươn tới.

3.2. SỰ VẬN HÀNH CHÍNH TRỊ

3.2.1. Công cụ vận hành

3.2.1.1. Chế độ quân chủ tông tộc

Để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã

thiết lập chế độ quân chủ tông tộc - một mô hình nhà nước độc đáo trong hệ

thống quyền lực của nhà nước quân chủ Việt Nam. Quá trình quý tộc hóa họ

Trần đồng thời là quá trình nắm giữ chính quyền kéo dài đến cuối thế kỷ XIV.

Vua Trần tự mình đề cao vị trí bản thân, nhưng cũng ý thức rõ sự nhất

thống giữa quyền lợi cá nhân và dòng họ, giữa gia tộc và quốc gia. Năm 1250,

Trần Thái Tông “xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quan gia” [105, tr.24] nâng

cao hơn tính chất tông tộc và tập trung của triều đình. So với triều Lý, tầng lớp

quý tộc đồng tộc nhà Trần được củng cố vững chắc hơn, trở thành một đẳng cấp

riêng biệt mà nhiều vua Trần có ý thức bảo vệ. Trần Thánh Tông từng khẳng định:

“Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp của tổ tông phải cùng hưởng

phú quý với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi tôn, được cả

thiên hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt. Lo

thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho con cháu để

chúng đừng bao giờ quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã tắc” [105,

81

tr.39]. Từ tình cảm hòa đồng vua tôi, nhà Trần đã nâng lên thành phương châm

chính trị, chiến lược chính trị “tông tử duy thành”.

Sự liên kết dòng họ nắm chính quyền như một nguyên tắc mà các vua Trần

cố gắng thực hiện. Người nắm chính quyền được bổ nhiệm theo dòng họ (mà

trước hết là nội tộc). Hầu hết các chức vụ cao nhất trong triều đều giao cho tôn

thất: “Phàm người tôn thất vào chính phủ, hoặc là thái sư, thái phó, thái bảo, thái

úy hoặc là Tư đồ, Tả Hữu tướng quốc đều kiêm làm Kiểm hiệu đặc tiến nghi đồng

tam ty bình chương sự” [142, tr.15]. Còn chức phiêu kỵ tướng quân chỉ dành riêng

cho hoàng tử. Theo quy chế “quý tộc hóa”, hoàng tử cả nhà Trần được phong tước

Đại vương, còn các hoàng tử còn lại được phong tước Vương (trừ trường hợp

Trần Quốc Tuấn được đặc cách). Công chúa thì được tôn là “kim chi, ngọc diệp”.

Cháu ba đời của những người này được phong là Quận vương, cháu bốn đời được

phong là Minh tự và cháu năm đời được phong Thượng phẩm. Ngoài ra, các chức

vị quan trọng ở các địa phương (lộ, phủ) hầu hết cũng đều do tôn thất nhà Trần

đảm nhiệm. Nho sĩ phần lớn chỉ giữ những chức vụ viên chức thừa hành ở cấp

thấp. Triều đình cũng phái các vương hầu đi trấn trị các lộ phủ quan trọng trong

nước: Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang coi giữ Diễn Châu - Nghệ An;

Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và con cháu ông coi giữ Thanh Hóa; Nhân Huệ

Vương Trần Khánh Dư coi giữ trấn Vân Đồn - Quảng Ninh.

Để đảm bảo quyền lợi cho gia tộc, nhà Trần đã thực hiện những biện pháp

cần thiết để giữ gìn uy tín dòng họ. Chẳng hạn, trong chiến tranh, quý tộc nào

đầu hàng giặc, trốn chạy sang Trung Hoa đều bị kết án vắng mặt, xử tội chết

hoặc lưu đày, tịch thu gia sản, xóa bỏ quốc tính (Trần Kiện, Trần Lộng bị đổi

sang họ Mai, Trần Ích Tắc bị gọi bằng “Ả Trần”…). Nhà Trần đặt phủ Tông

nhân để quản lý họ hàng. Đời vua Trần Thánh Tông, Nhân Túc Vương được

giao chức Nhập nội phán đại tông chính để trông coi các công việc biên soạn gia

phả và theo dõi, giúp đỡ người trong họ.

Để xây dựng, duy trì nền chính trị quân chủ tông tộc, nhà Trần thực hiện

chế độ thượng hoàng, chế độ thái ấp - điền trang và chế độ hôn nhân nội tộc.

ĐVSKTT ghi lại: năm Nguyên Phong thứ 8 (1258), ngày 24 tháng 2, vua Trần

Thái Tông nhường ngôi cho Hoàng thái tử Hoảng, kể từ đó, con đã lớn thì cho

82

nối ngôi chính, còn cha lui ở cung Thánh Từ, xưng là Thượng hoàng, cùng trông

coi chính sự. Thực ra truyền ngôi chỉ để yên việc sau, phòng lúc vội vàng, chứ

mọi việc đều do Thượng hoàng quyết định. Vua kế vị không khác gì hoàng thái

tử cả [142, tr.31]. Chế độ này được duy trì có hệ thống suốt cả thời kỳ thịnh trị

của nhà Trần.

Quý tộc Trần sở hữu điền trang, được phong cấp thái ấp và dưới quyền họ

có nô tỳ, gia nô đông đảo. Mỗi thái ấp - điền trang lại đóng giữ ở một vị trí chiến

lược quan trọng, có vai trò như những căn cứ quân sự, những vệ tinh chính trị bảo

vệ đắc lực cho kinh thành Thăng Long, đã càng gia tăng sức mạnh cho triều đình.

Nhà Trần đã thực hiện hôn nhân nội tộc (hay “đồng tộc giao hôn”). Nhiều

vị vua, vương hầu, tôn thất đã lấy người trong họ, đôi khi quan hệ khá gần gũi.

Rõ ràng đó là quan hệ không nằm ngoài tính toán chính trị, trở thành một quy

chế để nhà Trần bảo vệ tông tộc của mình. Nếu xét từ phương diện văn hóa, vấn

đề hôn nhân nội tộc không phải là hiện tượng cá biệt của nhà Trần, mà vốn là

đặc điểm của một số tộc người ở vùng Đông Nam Á. Nhà Trần cũng muốn kế

tục nhà Đinh, Tiền Lê, Lý tạo sự chính danh bằng mẫu hệ. Truyền ngôi theo phụ

hệ, nhưng phải được xác nhận bằng mẫu hệ. Đó là biểu hiện của tính chất song

hệ trong xã hội Việt Nam cổ truyền.

Trong thế kỷ XIII đến nửa đầu thế kỷ XIV, tập đoàn quý tộc Trần có

nhiều đóng góp tích cực, làm vẻ vang cho không chỉ gia tộc Trần mà cho cả quốc

gia Đại Việt. Do sự gắn bó quyền lợi cao cả (vì độc lập tự do cho dân tộc), quý

tộc họ Trần đã xích lại gần với các tầng lớp nhân dân, kể cả nô tỳ, gia nô. Họ đã

thành điểm tựa vững chắc, đáng tin cậy cho sự tồn vong của chính quyền lúc bấy

giờ. Vì thế, ở giai đoạn thịnh Trần, họ vẫn là một đẳng cấp có vai trò chính trị

tích cực. Đến giai đoạn sau, khi mâu thuẫn giữa tầng lớp quí tộc đồng tộc với

tầng lớp Nho sĩ quan lại lên cao, nhà Trần lâm vào khủng hoảng. Tầng lớp quan

liêu Nho sĩ lúc bấy giờ chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo và muốn

chuyển chế độ nhà Trần sang mô hình Nho giáo. Không thể phủ nhận mặt canh

tân tiến bộ của xu hướng cải cách đó, nhưng mặt khác, nó lại mang tính chất

vọng ngoại, thiếu tinh thần độc lập tự chủ đáng quý trước đó của quý tộc Trần.

83

3.2.1.2. Luật pháp

Để đáp ứng nhu cầu củng cố bộ máy chính quyền và phát triển đất nước,

ngay từ thời điểm đầu tiên đảm nhận trọng trách lãnh đạo triều chính, nhà Trần

đã chú trọng đến luật pháp, tăng cường tính pháp trị của nhà nước. Luật pháp trở

thành công cụ vận hành chính trị hữu hiệu thời thịnh Trần.

Thứ nhất, về hệ thống các văn bản pháp luật

Tháng 2 năm 1226, chưa đầy 2 tháng sau khi lên ngôi, vua Trần Thái

Tông đã định luật lệnh, điều lệ. Và 5 năm sau (năm 1230), tiến hành “khảo xét

các luật lệ của triều trước, soạn thành Quốc triều thông chế và sửa đổi hình luật

lễ nghi, gồm 20 quyển” [142, tr.12]. Sau vài lần sửa chữa, bổ sung, triều đình lại

ban hành bộ Quốc triều hình luật. Sự ổn định xã hội và phát triển đất nước đã

ngày càng đi vào khuôn khổ của luật pháp. Giai đoạn sau, năm 1341, Trương

Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn được giao biên soạn bộ Hoàng triều đại điển

và bộ Hình thư để ban hành.

Để tổ chức xã hội, quản lý đất nước theo đường lối chính trị đã được vạch

ra, nhà Trần sau đó đã cho soạn thảo và ban hành thêm nhiều văn bản pháp luật,

các đạo dụ, các chiếu sắc, các quy định có tính pháp lý. Chẳng hạn, năm 1230,

định tội đồ có mức độ khác nhau. Năm 1244, định các cách thức về luật hình.

Triều Trần đã đặt ra những quy định, những cơ chế điều tiết hành vi để tránh

những quyết định sai lầm do quyền lực quá lớn gây ra: Chẳng hạn, ngay từ năm

1227, vua Trần Thái Tông đã tuyên bố các điều khoản của lễ Minh thệ, và đây là lời

tuyên thệ mà quan lại triều Trần phải thuộc nằm lòng: “Làm tôi tận trung, làm quan

trong sạch. Ai trái lời thề, thần minh giết chết” [105, tr.11]. Triều Trần cũng quy

định vua không được đọc Thực lục (tài liệu được ghi chép trung thực những hành

vi, lời nói của vua và những sự kiện diễn ra trong thời kỳ vua trị vì). Quy định này

là cách khiến vua phải thận trọng, cân nhắc mỗi khi phát ngôn và hành động.

Thứ hai, về hệ thống cơ quan thực thi pháp luật

Nhà Trần rất chú ý tăng cường các cơ quan thanh tra, giám sát và tòa án.

Lúc bấy giờ ở triều đình có Thẩm hình viện chuyên xét xử ngục tụng, có cơ quan

hình án là Bình bạc ty (năm 1265 đổi thành An phủ sứ). Ở kinh đô Thăng Long

có Ngự sử đài gồm các chức: thị ngự sử, giám sát ngự sử, ngự sử trung tán, ngự

84

sử trung thừa, ngự sử đại phu với chức năng giữ gìn phong hóa, pháp độ. Cạnh

Ngự sử đài còn có Đăng văn kiểm sát viện và các quan giám thị đại phu, tả hữu

nạp ngôn. Ở các lộ, phủ cũng đều có cơ quan xét xử. Để tăng tính nghiêm minh

cho pháp luật, nhà Trần tuyển chọn các quan chức phụ trách hình án theo tiêu chí

thanh liêm, trung trực. Trên danh nghĩa, nhà vua là người có quyền quyết định

tối hậu trong các vụ trọng án. Sau cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, nhà

Trần lại tăng cường thêm bộ phận thanh tra, kiểm sát ở các địa phương (phủ, lộ).

Nhà Trần đã đặt ra cơ quan đặc biệt là phủ Tông nhân để theo dõi

hoàng tộc. Điều này đã đưa quan lại, quý tộc, hoàng gia vào khuôn phép,

khiến cho họ có trách nhiệm trước pháp luật hơn. Hơn thế, triều đình còn định

ra chức Gián quan để can ngăn vua (chức duy nhất được phép nói trái ý vua

mà không bị trị tội).

Những việc làm này đã tạo nên một khung pháp lý chặt chẽ, để nhằm định

hướng triều đình và dân chúng vào trách nhiệm và nghĩa vụ trước pháp luật. Và

thực tế ở thời thịnh Trần, sự ổn định xã hội và phát triển đất nước đã ngày càng

đi vào khuôn khổ của luật pháp.

Như vậy, mặc dù chưa đạt đến mức hoàn bị hay trở thành mô hình pháp

quyền quân chủ cao nhất (mà lịch sử Việt Nam biết đến) như ở triều Lê nhưng

pháp luật trong thời thịnh Trần cũng đã thể hiện những điểm tiến bộ, vừa phản

ánh được thiện chí và năng lực quản lý xã hội của người cầm quyền vừa đáp ứng

được những nguyện vọng chính đáng của thần dân. Vì thế, từ vua quan đến thứ

dân đều đề cao pháp luật, luôn tuân thủ nghiêm túc luật lệ, nguyên tắc, điển chế.

Rõ ràng, pháp luật thời kỳ này đã thể hiện được một thể chế chính trị thượng tôn

pháp luật và hợp lòng người.

3.2.1.3. Bộ máy quyền lực

Để điều hành xã hội, thực thi pháp luật, bộ máy quyền lực nhà nước thời

thịnh Trần đã được xây dựng, củng cố về cả hai phương diện tổ chức chính

quyền và quan chế.

Về tổ chức chính quyền

Kế thừa tổ chức bộ máy chính quyền từ thời Lý, nhưng nhà Trần đã điều

chỉnh, củng cố, tăng cường vững chắc hơn và phù hợp hơn với yêu cầu mới.

85

Bộ máy chính quyền cấp trung ương được nhà Trần tổ chức khá hoàn

chỉnh. Các cơ quan chức năng của triều đình trung ương được chia thành quán,

các, sảnh, viện, cục, đài. Bộ máy chính quyền địa phương cũng được sắp xếp lại,

tinh gọn và thống nhất hơn so với triều Lý. Từ năm 1242, nhà Trần đã đổi 24 lộ

thời Lý thành 12 lộ, đem lại sự tinh giản và vì thế tạo nên một bộ máy nhà nước

hoạt động hiệu quả hơn.

Đặc biệt, sự tồn tại của hệ thống thái ấp - điền trang là một điểm độc đáo trong

tổ chức bộ máy nhà nước thời Trần. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Phương Chi,

thời Trần có khoảng 15 thái ấp [200, tr.467] và có khoảng 14 điền trang, tiêu biểu các

thái ấp của Trần Thủ Độ (ở Quắc Hương), Trần Quốc Tuấn (ở Vạn Kiếp), Trần Quốc

Chẩn (ở Chí Linh), Trần Nhật Duật (ở Thanh Hóa), Trần Quốc Khang (ở Diễn

Châu)… [25, tr.122]. Phần lớn các thái ấp đều nằm trong những vùng trọng yếu của

đất nước, đặc biệt trên trục đường Bắc - Nam nối hai trung tâm chính trị lớn nhất Đại

Việt lúc bấy giờ: Thăng Long - Thiên Trường. Như vậy, thái ấp gắn liền với điền

trang, không chỉ là một cơ sở kinh tế mà còn là một chính sách quân sự nằm trong

chiến lược “di dân giữ đất” của triều Trần, vì thế có vai trò như một căn cứ quân sự -

chính trị trong thời bình cũng như thời chiến. Ở thời kỳ thịnh trị, thái ấp - điền trang

đã thể hiện được vai trò tích cực trong việc giúp rập cho triều đình quản lý đất nước.

Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi

chầu thì về kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Điều này có nghĩa là vương hầu, tôn thất

đều có quyền tự chủ riêng không chỉ về kinh tế mà cả chính trị, quân sự. Nhưng thời

thịnh Trần, khi còn vua sáng tôi hiền, vương hầu ở thái ấp - điền trang nhưng không

có hiện tượng lạm quyền phản loạn, chống lại triều đình.

Như vậy, về tổ chức nhà nước, chính quyền thời Trần là chính quyền nhà

nước trung ương tập quyền theo chế độ quân chủ tông tộc. Triều đình Thăng

Long trong thế kỷ XIII trước hết là tổ chức chính quyền của họ Trần. Đó là một

bộ máy nhà nước khá chặt chẽ, quy củ và tinh gọn mà theo như Phan Huy Chú

thì “các chức trong ngoài lớn nhỏ đều có thống thuộc” [27, tr.532].

Về hệ thống quan chế

Ở triều đình trung ương, hệ thống quan chế có thể khái quát như sau: đứng

đầu là vua, sau đến tể tướng, thứ tướng, tri mật viện sự và hành khiển môn hạ

86

sảnh. Sau đó là hai ban văn, võ. Về ngạch văn, có các chức Tam thái, Tam thiếu,

Tam tư. Các chức quan có trách nhiệm cụ thể trong triều là Hành khiển, giúp

việc sau có Thượng thư, Thị lang. Về ngạch võ, có chức Phiêu kỵ tướng quân,

Tiết chế tướng quân. Chức quan đứng đầu kinh thành được tuyển chọn chặt chẽ,

với tiêu chuẩn cao, phải trải qua chức An phủ sứ các lộ, rồi An phủ sứ phủ Thiên

Trường và kinh qua Thẩm hình viện, sau đó mới được xét bổ nhiệm.

Bên cạnh các chức quan quản lý, đời Trần ngày càng phát triển các chức

quan chuyên môn như: Bí thư sảnh (phụ trách văn thư, thực lục); Quốc Học viện

(phụ trách về giáo dục); Chuyển vận sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ (phụ trách về

kinh tế); Hàn lâm viện, Quốc sử viện (phụ trách về lịch sử, văn hóa); Thái y viện

(phụ trách về sức khỏe); Thái chúc ty (phụ trách việc cầu đảo, lễ nhạc)... Đặc

biệt, với chức Hà đê sứ (năm 1248) và Đồn điền sứ (năm 1344), lần đầu tiên

trong lịch sử, trong bộ máy Nhà nước đã hình thành một hệ thống cơ quan

chuyên trách về đê điều và khẩn hoang, góp phần giải tỏa nỗi lo âu của bách tính

khi mà đời sống hoàn toàn phụ thuộc vào sự rủi may từ thiên nhiên của họ. Đây

là bóng dáng của một nền văn hóa trọng nông, chăm lo đời sống nông dân, nông

nghiệp rất đặc trưng của xã hội Việt Nam cổ truyền.

Mặt khác, khác với các triều đại trước, trong quan chế, thời Trần coi trọng

vai trò của người “theo văn học” (có trình độ học vấn). Chẳng hạn, chức Hành

khiển lúc đầu chỉ dùng hoạn quan, đến đời Trần Thánh Tông thì dùng người văn

học như trường hợp Nguyễn Trung Ngạn, Lê Cư Nhân. Hay năm 1267, các chức

quan ở quán, các, sảnh, viện đều chọn các nho sinh hay chữ cho làm, người có tri

thức văn học được giữ quyền bính bắt đầu từ đấy. Điều này lý giải vì sao thời

thịnh Trần phát triển thịnh đạt, không chỉ về võ công mà còn cả về văn trị và

xuất hiện những mẫu người anh hùng - nghệ sĩ độc đáo.

Ở cấp địa phương cũng có hệ thống quan chế do triều đình cắt đặt tương ứng

với mỗi đơn vị hành chính như đứng đầu lộ là chức An phủ sứ, phủ có chức Trấn

phủ sứ, châu có chức Thông phán, Thiêm phán, huyện có chức Lệnh uý, Chủ bạ.

Chính quyền cơ sở là xã được nhà Trần quản lý chặt chẽ hơn trước. Năm

1242, nhà Trần đặt chức Đại tư xã hàm ngũ phẩm và Tiểu tư xã hàm lục phẩm,

quản lý từng xã hoặc từng cụm gồm hai, ba, bốn xã. Ngạch xã quan có Xã chính,

87

Xã sử, Xã giám... Tầng lớp bô lão trong các làng xã giữ một vai trò quan trọng,

khi có việc quốc gia đại sự, bô lão được triệu vời để bàn kế sách (như hội nghị

Diên Hồng). Điều này thể hiện văn hóa trọng xỉ và phản ánh nền dân chủ tự trị

làng xã trong một xã hội khai phóng và thân dân.

Khác với một số triều đại quân chủ Việt Nam sau đó, nhà Trần đã cố gắng

tinh gọn bộ máy quyền lực. Có một lần nhìn sổ bạ của vua Anh Tông, thượng

hoàng Nhân Tông không hài lòng và phê bên cạnh: “Sao một nước bé bằng bàn

tay mà lại phong quan tước nhiều thế này?” Từ đó, vua càng thận trọng trong khi

ban chức tước [105, tr.111]. Nhà Trần đã ý thức được tác hại của bộ máy quan

chế cồng kềnh, mà nói như nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát:

Tư tưởng chủ trương “quan nhiều dân chết”, mà Ngô Thời Nhiệm sau

này đã nêu lên, phải nói là có nguồn gốc từ tư tưởng này của vua Trần

Nhân Tông. Có thể nói quan điểm nhà nước như một dịch vụ, chứ

không phải một nơi để khai thác làm giàu cho những người có chức có

quyền đã xuất hiện từ lâu tại nước ta, chắc chắn là từ thời vua Trần

Nhân Tông [155].

Đứng về danh hiệu quan tước, có phần mô phỏng thiết chế của nhà Tống,

triều đình là bộ máy nhà nước cao nhất, đứng đầu là vua. Nhưng, như đã nêu

trên, do thực hiện chế độ quân chủ tông tộc, triều Trần có một vị trí đứng cao

hơn vua về thực quyền là Thái thượng hoàng. Cũng là chế độ chính trị trong đó

có hai người/hai thế lực cùng nắm quyền cai trị đất nước, tuy nhiên, khác với

“lưỡng đầu chế” ở các triều đại Hồ, Mạc, Lê, Nguyễn, thời Trần, do hai vua (hay

thượng hoàng và vua) có cùng huyết thống nên xét về mặt quan hệ là gần gũi và

về mặt quyền lợi là không đối lập, không tranh chấp. Vì vậy, hai vị nguyên thủ

nhà Trần có sự gắn bó, chia sẻ, đồng thuận vì mục tiêu chung. Chế độ Thượng

hoàng có những tác dụng tích cực đối với vương triều Trần cũng như đất nước.

Thứ nhất, đó là cách để “tạo nguồn” - rèn luyện người kế vị ngai vàng (trở thành

người có tài, đức, đủ sức quản lý đất nước). Chính nhờ có quá trình “tập sự làm

vua” đó, các vị thái tử nhà Trần đã chủ động, thuần thục, bản lĩnh vững vàng khi

lên ngôi, không rơi vào tình trạng bị động, non nớt của các ấu chúa như cuối thời

Lý hay một số triều đại sau đó; Thứ hai, đó là biện pháp để chia sẻ trách nhiệm,

88

tạo mối đoàn kết hoàng tộc (thượng hoàng và vua đã trở thành trung tâm lãnh

đạo quốc gia, hạt nhân của khối đại đoàn kết triều đình và đất nước); Thứ ba,

nhằm bảo đảm tính liên tục và ổn định trong kế thừa ngôi vua, ngăn chặn sự

tranh quyền đoạt vị vốn thường xảy ra trong hoàng tộc; Thứ tư, hạn chế được

tính chuyên quyền độc đoán của nhà vua. Dù không phải là hiện tượng độc nhất

vô nhị trong lịch sử các triều đại quân chủ nước ta cũng như trên thế giới, nhưng

ở nhà Trần, việc nhường ngôi đã được thực hiện liên tục, có hệ thống và thể hiện

rõ văn hóa của người cầm quyền. Sau triều Mạc, “thượng hoàng chế” không còn

tồn tại nhưng vẫn còn đọng dư âm trong niềm ngưỡng vọng của các bậc quốc

chủ khác. Hãy đọc lời “châu phê” của vua Tự Đức sau này: “Phép truyền ngôi

vua này cũng hay, có thể bắt chước được” [132, tr.486].

Có thể nói, so với các triều đại trước đó, thời thịnh Trần có bước phát

triển với trình độ cao hơn, cả về bộ máy chính quyền cũng như quan chế và để

lại những dấu ấn riêng biệt độc đáo so với tất cả các triều đại quân chủ khác

trong lịch sử dân tộc. Vì thế, “trong khoảng 160 năm, duy trì chính trị giáo hóa,

kể cũng là chế độ hay của một đời” [27, tr.532].

3.2.2. Phương thức vận hành

3.2.2.1. Trong hoạt động đối nội

Trong hoạt động đối nội, phương thức vận hành chính trị chủ yếu biểu

hiện ở phương thức quản lý xã hội và phương thức đào tạo, tuyển dụng người

cầm quyền.

* Phương thức quản lý xã hội của nhà nước được thể hiện thông qua việc

xây dựng, ban hành các chính sách và thực thi các chính sách của triều đình.

Về ban hành chính sách: Chính sách thể hiện ở các đạo dụ, chỉ dụ, chiếu,

biểu,... Những chính sách này luôn được triều đình công bố rộng rãi, công khai

cho bề tôi và thần dân được biết và thực hiện.

Để chuẩn bị cho việc xây dựng chính sách, triều đình căn cứ vào những

tấu trình của các quan trong triều, các tấu chương của các địa phương, các quan

lại được cử để khảo sát thực tế (như quan Khâm sai, Trung sứ, Kinh lược sử).

Kênh thông tin thứ hai là triều đình nghe ý kiến trực tiếp của người dân.

Điển hình là hội nghị Bình Than (hỏi ý kiến tướng sĩ về kế sách đánh giặc), hội

89

nghị Diên Hồng (nghe nguyện vọng của bô lão - đại diện cho toàn dân - xem nên

hòa hay đánh). Đặc biệt, thời Trần, nhà vua rất hay vi hành. Vua Trần Thái Tông

đã thổ lộ ở tác phẩm Thiền tông chỉ nam: “Trẫm muốn đi chơi, ngầm nghe lời

nói của dân để xét ý muốn của họ ngõ hầu thấu hiểu sự khó nhọc của họ thế nào”

[167, tr.517]. Vua Trần Anh Tông cũng rất “thích vi hành, cứ đêm đến lại lên

kiệu, cùng với hơn chục thị vệ đi khắp trong kinh kỳ, gà gáy mới trở về cung”

[105, tr.82]. Chính những cuộc vi hành đó đã rút ngắn khoảng cách giữa thiên tử

và muôn dân, và người cầm quyền đã lắng nghe được nhiều nguyện vọng, để có

những quyết sách kịp thời, phù hợp trong quá trình trị nước.

Về thực thi chính sách: Nhà nước đã quản lý xã hội thông qua bộ máy

chính quyền và quan chế chặt chẽ từ trung ương đến địa phương để tổ chức thực

hiện các chính sách đã được ban hành. Triều đình yêu cầu các bộ, sảnh, viện...

đến các nha môn của phủ, huyện, châu và xã phải thi hành các luật lệ và chính

sách quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chẳng hạn, chính sách ngụ binh ư

nông, chính sách khuyến nông, chính sách giáo dục, chính sách hậu đãi nhân

tài... trong thời kỳ thịnh trị của nhà Trần đã được thực thi nghiêm túc và mang lại

hiệu quả xã hội không nhỏ.

* Phương thức đào tạo, sử dụng người cầm quyền

- Đào tạo người cầm quyền

Do yêu cầu về củng cố, phát triển bộ máy nhà nước, cần đến đội ngũ quan

lại kinh qua Nho học, nên việc học tập và phát triển đạo Nho của nhà Trần rất

được chú trọng. Công cuộc đào tạo nhân tài của nhà Trần được đẩy mạnh hơn,

quy củ hơn so với nhà Lý.

Nếu như thời Lý, việc học chủ yếu trong phạm vi nhà chùa (nhà chùa là

trường học, nhà sư là thầy giáo…) thì đến thời Trần, phạm vi, mạng lưới giáo

dục, cơ sở vật chất cho việc đào tạo nhân tài đã được mở rộng, phát triển hơn

nhiều. Ngoài Quốc Tử Giám có từ thời Lý, các vua Trần lập Quốc Tử Viện để

giảng Tứ Thư, Ngũ Kinh, chú trọng đào tạo các trí thức Nho học thay cho các trí

thức Phật học trước đó [105, tr.26]. Đối tượng giáo dục của Quốc Tử Viện ban

đầu chỉ dành cho hoàng tử, rồi con cái nhà quan (thời điểm 1236), dần mở rộng

ra cho phép các nho sĩ trong cả nước (1253), thậm chí đến năm 1276, vua Trần

90

cho phép cả con em nhà thường dân học giỏi vào đây để học [105, tr.31]. Song

song với việc mở trường đào tạo Nho sĩ, nhà Trần lập Giảng Võ đường để luyện

tập võ nghệ (1253). Tại các lộ, các trường học cũng được mở để dạy dân chúng.

Cùng với các trường Quốc học, một số trường tư cũng được mở ra, có cả bậc học

cao ngang với trường Quốc học, có nhiều học sinh thi đỗ Thái học sinh, tiêu biểu

là trường của thầy Chu Văn An, trường của Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc.

Triều đình cũng tổ chức thu thập sách vở, cho in Tứ Thư, Ngũ Kinh và

nhiều tài liệu khác. Các thư viện được lập ra đảm bảo nhu cầu đọc tài liệu của

nho sinh. Chức Giáo thụ ở các phủ, châu được đặt ra để trông coi việc học, hoa

lợi từ ruộng đất ở các địa phương đó được dùng vào lĩnh vực này.

Ngoài ra, còn có một hình thức giáo dục khác được thực hiện hiệu quả ở thời

thịnh Trần là vua (hoặc thượng hoàng) viết bài minh để dạy người kế vị. Chẳng hạn,

năm 1251, vua Trần Thái Tông “tự viết bài minh ban cho các hoàng tử, dạy về trung,

hiếu, hòa, tốn, ôn, lương, cung, kiệm” [105, tr.23]. Điều đó cho thấy, vua Trần cũng

rất chú trọng giáo dục về đạo đức cho người cầm quyền. Những nội dung trong bài

minh đó là những phẩm chất cần có của một người cai trị thiên hạ.

- Tuyển chọn nhân tài cho bộ máy nhà nước

Để huy động tối đa nhân tài vào bộ máy nhà nước, triều đình đã tiến hành

tuyển chọn người theo nhiều phương thức khác nhau;

Thứ nhất là qua khoa cử, tuyển cử. Nếu như nhà Lý chỉ mở các khoa thi

Minh kinh bác học và Nho học Tam trường khi nào triều đình cần tuyển chọn

người tài ra giúp nước thì nhà Trần lại chủ động mở các khoa thi định kỳ. Đặc

biệt, nhà Trần đã tiên phong trong việc tổ chức thi Thái học sinh để lấy tiến sĩ

(bắt đầu từ năm 1232 đời Trần Thái Tông). Để tránh việc “phân biệt đối xử”,

khuyến khích nhân tài, năm 1256, triều đình tổ chức thi lấy cả Kinh trạng

nguyên và Trại trạng nguyên. Ngoài ra, nhiều kỳ thi khác cũng được mở ra để

tuyển chọn người tài cho bộ máy quan lại (thi lại viên chọn người làm trong các

sảnh viện; thi viết, tính toán và thi nghiệp vụ cho những người làm việc ở các cơ

quan văn phòng, y dược và tế lễ) [105, tr.11]. Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần

đã tổ chức được 19 khoa thi, lấy đỗ 283 người, tuyển chọn được nhiều người tài,

trong đó có những nhân tài tuổi còn rất nhỏ.

91

Thứ hai, là nhiệm tử (tập ấm), nghĩa là vua truyền ngôi cho thái tử. Điều

đáng nói là, hầu hết vua Trần sẵn sàng nhường ngôi cho hoàng thái tử kế vị lúc

năng lực chính trị còn dồi dào, lui vào hậu trường để cho con “tập sự” việc triều

chính. Vì sớm có cơ hội “tập dượt làm vua”, các thái tử có thể chủ động, thuần

thục khi chính thức lên nắm quyền chính sự.

Thứ ba là thông qua chế độ tiến cử, bảo cử (giới thiệu và bảo lãnh). Việc

này phải kể đến công lao của các vương tôn, quý tộc nhà Trần. Họ thường nuôi

trong thái ấp nhiều môn khách và tiến cử người tài cho đất nước. Chiêu Quốc

Vương Trần Ích Tắc, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là những người khéo

tiến cử người tài. Nhiều anh tài tuấn kiệt trong giai đoạn này đã từng là môn khách

của hai ông.

Ngoài ra, nhà Trần còn tuyển chọn người tài thông qua việc “ứng cử”.

Nghĩa là vua xuống chiếu cầu hiền, ai tự thấy mình đủ tài năng thì về với triều

đình để phò vua, giúp nước. Năm 1272, vua Thánh Tông “xuống chiếu tìm

người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám,

tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ Thư, Ngũ Kinh, sung vào hầu nơi

vua đọc sách” [105, tr.41].

Với cách thức tuyển dụng nhân tài phong phú của nhà Trần, người tài có

rất nhiều “cửa” để bước chân vào bộ máy nhà nước, thực hiện lý tưởng “phò

vua, giúp nước, cứu đời”.

- Sử dụng nhân tài

Phương thức sử dụng người tài của nhà Trần có ba điểm đáng lưu ý:

Một là, chọn thực tài. Không như các triều đại sau, nhất là các triều đại

chịu sự chi phối mạnh mẽ của giáo dục Nho học, triều Trần chưa câu nệ về tiêu

chuẩn khoa bảng, mà căn cứ chủ yếu vào thực tài, luôn chú trọng đến tài năng

thực sự khi tuyển chọn và giao trọng trách cho quan lại và tướng lĩnh. Trần Thủ

Độ xuất thân võ biền, học vấn thấp, nhưng có tài thao lược nên được tôn làm

Quốc Thượng phụ, được ủy thác nhiều việc đại sự quốc gia. Phạm Ngũ Lão xuất

thân bình dân, vì tài năng vượt trội, đã được phong đến chức Điện súy Thượng

tướng quân và nhiều ân điển khác.

92

Trọng tài nên nhà Trần dùng người không kể thân - sơ. Dù nhà Trần ưu

tiên nội tộc, nhưng không vì thế mà dùng người dễ dãi, phong tước bừa bãi cho

thân nhân. Vua Anh Tông đối với người tôn thất như Bảo Hưng thân yêu hết

mực, nhưng không trao cho việc chính sự, vì không có tài. Nguyễn Sĩ Cố và Chu

Bộ, vốn là cận thần của thái tử Mạnh (sau này là vua Minh Tông), lại phục vụ

Thượng hoàng Anh Tông khó nhọc lâu ngày, nhưng vì “tài không thể dùng

được, nên đặt họ vào chức nhàn tản và đều cho bổng lộc tước trật ưu hậu cả mà

không trao cho thực quyền” [105, tr.112]. Còn như Nhữ Hài, chỉ là một nho sinh

thôi, nhưng vì có tài, nên được cất nhắc hết sức nhanh chóng. Tài năng là tiêu chí

đầu tiên khi tuyển chọn quan lại, nếu không có tài năng thì dù là thân vương, tôn

thất cũng không dùng. Đặc biệt, đối với những chức vụ lớn và hệ trọng nhất

trong triều đình, như Hành khiển hay Tể tướng thì nhà Trần lại càng cẩn trọng:

“Chức tể tướng thì chọn người hiền trong tôn thất, có đạo đức, có tài nghệ, thông

hiểu thi thư thì cho làm” [105, tr.12]. Khi vua Thái Tông định cho anh của Trần

Thủ Độ (An Quốc) làm tể tướng, Thủ Độ đã kiên quyết can vua: “An Quốc là

anh thần, nếu cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An

Quốc thì không thể cử An Quốc. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều

đình sẽ ra làm sao?” [105, tr.37].

Việc tôn trọng thực tài, công tư phân minh trong dùng người của nhà Trần đã

khiến cho những người tài lúc bấy giờ không phải chịu bất công, ấm ức và dốc lòng

phụng sự triều đình.

Hai là, chọn đúng người, giao đúng việc. Ở thời điểm thịnh trị của nhà

Trần, người có tài năng thường được tin dùng đúng vị trí, hợp sở trường của

họ. Các nho sinh hay chữ được chọn dùng ở quán, các, sảnh, viện [105, tr.39].

Với người có sức khỏe, giỏi võ nghệ thì được chọn sung vào quân Túc vệ

thượng đô [105, tr.19]… Trần Quang Khải giỏi tập hợp và tổ chức công việc

triều chính cũng như nhân sự, nên được nhà Trần cho làm trụ cột triều đình

trong nhiều năm. Nguyễn Trung Ngạn vốn công minh, trong việc xử phạt đều

đúng mực nên được giao việc trông coi Thẩm hình. Trần Nhật Duật văn võ

song toàn, giỏi ngoại giao, thông thạo nhiều ngôn ngữ, vì thế được phong làm

Thái úy quốc công, giữ quyền Tể tướng và giữ trọng trách của triều đình trong

93

suốt bốn đời vua [105, tr.49]… Cách làm này đã tạo “đất” cho người tài “dụng

võ”, mang hết tài năng của mình giúp ích cho triều đình và đất nước.

Ba là, tổ chức khảo hạch chặt chẽ. Sau khi đã tổ chức thi cử, chọn được

người đỗ cao vào giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước, nhà Trần

lại cẩn trọng tiến hành kiểm tra, khảo hạch để thanh lọc quan lại. Chẳng hạn,

năm 1246, triều đình xét duyệt các quan văn võ trong ngoài và theo lệ, “cứ 15

năm một lần xét duyệt, 10 năm thăng tước một cấp, 15 năm thăng chức một bậc.

Chức quan nào khuyết thì chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều khuyết thì

lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt thì bổ chức ấy” [105, tr.22]. Hay khi

lựa chọn người phụ trách An phủ sứ (năm 1265: chọn những người đã từng trông

coi các lộ, sau đó qua khảo duyệt để được về trông coi phủ Thiên Trường, rồi lại

qua khảo duyệt lần nữa mới được về làm An Phủ sứ ở kinh [105, tr.37]. Đây là

những phương pháp hữu hiệu để phát hiện nhân tài bổ sung vào các chức vụ

quan trọng của triều đình. Mặt khác, nó giúp tăng cường sức mạnh của bộ máy

nhà nước, kích thích sự rèn luyện của bản thân người tài.

Chính sách trọng dụng nhân tài là sự kế thừa truyền thống văn hóa của

dân tộc Việt Nam ở tinh thần trọng tài, hiếu học, song đã được nhà Trần phát

huy tận độ và thu được hiệu quả lớn.

3.2.2.2. Trong hoạt động đối ngoại

* Phương thức kháng chiến chống ngoại xâm

Thứ nhất, về xây dựng, tổ chức quân đội:

Tiếp nối thời Lý, thời Trần cũng duy trì lực lượng vũ trang với ba thứ

quân:1/Cấm quân (hay túc vệ quân) là quân của triều đình; 2/Quân địa phương;

3/Quân vương hầu gia đồng (ở các thái ấp - điền trang).

Lực lượng chiến đấu thời Trần khá đa dạng: bộ binh, kỵ binh, tượng binh,

thủy binh. Tượng binh kết hợp với bộ binh đã làm cho quân địch lắm phen thất điên

bát đảo. Kỵ binh tuy chưa nhiều nhưng khá mạnh bởi thường được sử dụng bất ngờ

trong chiến đấu, đặc biệt lúc truy kích địch. Đặc biệt, vốn xuất thân dân chài ven

biển, lại ưa chuộng võ nghệ, nhà Trần ý thức được vai trò của sông biển và thủy

quân. Thủy binh nước ta vốn đã nổi tiếng từ thời Ngô - Đinh - Tiền Lê - Lý, đến

thời Trần, trở thành đội quân tinh nhuệ, thạo nghề sông nước, giỏi thủy chiến. Điều

94

này cũng đã được chính quân Mông - Nguyên thừa nhận: quân đội của họ “không

thi thố được tài năng” khi đụng phải thủy quân Đại Việt [155].

Nhà Trần đã tập trung trang bị vũ khí chiến đấu. Để tăng sức mạnh thủy

chiến, chiến thuyền rất được chú trọng. Sứ nhà Nguyên là Trần Phu đã tả về

chiến thuyền Đại Việt thời Trần trong An Nam tức sự: “Thuyền nhẹ và dài, ván

rất mỏng, đuôi thuyền như cánh chim uyên ương, hai bên nổi cao, dùng đến ba

mươi tên lính để chèo, phần lớn là có đến trăm tên, chạy nhanh như bay” [155].

Trong kháng chiến chống Mông - Nguyên, có những đạo quân đã được trang bị

hàng ngàn chiếc thuyền, trong đó có cả chiến thuyền và thuyền vận tải như đạo

quân của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp. Theo sử nhà Nguyên, quân Đại Việt vào

năm 1285 đã dùng tới pháo [155]. Việc chế tạo cung tên, giáo mác, gươm đao...

cũng được quan tâm. Theo tác giả Lê Mạnh Thát, trong hai cuộc chiến tranh

1285 và 1288, nhiều tên tướng địch chắc chắn là đã bỏ mạng vì trúng tên độc của

quân ta (như A Bát Xích) [155]. Ngoài ra, theo An Nam tức sự, còn một loại vũ

khí khác được sử dụng ở thời Trần là thủy nỏ: “Nỏ nước, một tên khác là xá sa,

người bắn dùng hơi để bắn xa được ba mươi bộ. Bắn trúng thì thấy có cái bóng

màu hồng và ngứa thì liền lấy dao khoét bỏ mảnh thịt đó đi. Không thế thì

ngứa cho đến chết” [155].

Cùng với việc tổ chức quân đội và trang bị vũ khí, nhà Trần rất chú trọng

rèn luyện quân sĩ. Triều đình cho lập Giảng Võ đường và Trường đua, cùng với

Điện Giảng võ và Xạ đình thời Lý, có thể coi đây là “trường học quân sự cấp cao

đầu tiên ở nước ta” [141, tr.148]. Tại đây, vua và các vương hầu, tướng lĩnh

được học binh thư, binh pháp, học cách bài binh bố trận và nghệ thuật chiến đấu.

Thời Trần nổi tiếng với hai bộ “bí kíp” là Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí

truyền thư của Trần Quốc Tuấn. Trong việc rèn luyện và sử dụng tướng sĩ, thời

Trần, mà tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn, chủ trương “bạt dụng lương tướng”. Vì

vậy, thời thịnh Trần đã tuyển chọn, đào tạo được nhiều tướng lĩnh tài ba.

Sau khi có đủ tướng sĩ, vũ khí, triều đình lại tổ chức tập trận lớn để rèn

luyện kỹ năng chiến đấu, quen với chiến trận, địa hình và nâng cao sĩ khí trước

khi bước vào trận chiến cam go thực sự. Chẳng hạn, năm 1283, vua Trần Nhân

Tông đích thân chỉ huy các vương hầu, tướng lĩnh thao diễn chiến trận. Năm

95

1286, nhà vua lại hạ lệnh cho Trần Quốc Tuấn cùng các vương hầu, tướng lĩnh

“kiểm duyệt quân đội, làm đồ binh khí, đóng thêm chiến thuyền rồi mở cuộc tập

trận” [141, tr.62]. Việc làm này đã nâng cao chất lượng quân đội, tạo nên thế chủ

động trong mọi tình huống.

Thứ hai, về phương thức điều hành quân đội kháng chiến.

Để điều hành quân đội kháng chiến, nhà Trần đã thực hiện các chiến lược và

thế trận linh hoạt như: thế trận “cử quốc nghênh địch” (cả nước đánh giặc); chiến

lược “trường kỳ kháng chiến” (đánh lâu dài, kiên trì và kết hợp rút lui chiến lược

để đối phó với thế tấn công vũ bão của địch); chiến thuật “dĩ đoản chế trường”

(hay “dĩ đoản binh, chế trường trận”, thực chất là chiến thuật đánh nhanh thắng

nhanh, đánh bất ngờ trong tình thế tương quan lực lượng không cân sức và tâm

thế đánh lâu dài dựa vào đại quân của địch). Đó là những phương thức hoàn toàn

phù hợp với điều kiện con người cũng như địa quân sự của nước ta thời Trần, vì

thế đã phát huy được hiệu quả tối ưu, giúp quân dân nhà Trần giành được thắng

lợi vang dội.

Trong số đó,“cử quốc nghênh địch” là một thế trận thể hiện rõ VHCT

thời thịnh Trần. Vào thế kỷ XIII, Đại Việt vẫn là một nước đất không rộng,

người không đông, tiềm lực kinh tế, quốc phòng hạn chế, quân đội thường trực

rất nhỏ bé. Vì vậy, cần thực hiện thế trận cả nước đánh giặc để huy động tối đa

sức mạnh toàn dân. Thực tế trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên,

đã đánh địch bằng sức mạnh tổng hợp. Các trai tráng gia nhập quân đội làm cho

quân số tăng lên nhanh chóng. Những người không tham gia quân ngũ thì phối

hợp cùng quân đội đánh địch. Có nhiều làng xã tự tổ chức bố phòng như một cứ

điểm khiến địch không thể thâm nhập. Nhất là những việc nắm tình hình địch,

chuẩn bị trận địa, nghi binh…, quân đội đều phải dựa vào dân. Dân binh miền

núi phối hợp với quân miền xuôi và quân đội triều đình để đánh chặn địch ngay

từ biên giới. Khi quân triều đình rút về xuôi, dân binh miền núi vẫn tiếp tục đánh

du kích tiêu hao, quấy nhiễu, cắt đứt đường vận chuyển lương thực… khiến cho

vùng địch chiếm luôn bị nhiễu loạn. Trong trận quyết chiến chiến lược Bạch

Đằng (năm 1288), vai trò của dân chúng trong việc chuẩn bị trận địa và phối hợp

đánh địch là rất to lớn. Các tài liệu còn ghi lại chuyện bà hàng nước ở bến đò báo

96

cho Trần Quốc Tuấn tình hình thủy triều, chuyện người dân dùng kế nghi binh

lừa địch, phá cầu chặn toán quân bộ đi trên bờ phối hợp với thủy quân của địch,

cùng quân đội chuẩn bị trận địa bãi cọc trên sông, các bè mảng hỏa công… tất cả

đã thể hiện một cuộc “chiến tranh nhân dân”, cả nước đánh giặc rộng lớn. Điều

đó cho thấy sự đồng thuận trong xã hội, sự gắn bó đoàn kết trên dưới một lòng từ

vua quan đến thứ dân và cho thấy vai trò quan trọng của dân chúng đối với sự

tồn vong của đất nước cũng như sự thịnh suy của một vương triều.

Đúng như nhận xét của nhà sử học Phan Huy Chú: “Thời Trần, ai cũng là

binh nên mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh” [28, tr.9]. Chiến

lược cả nước đánh giặc, chiến tranh nhân dân làm nên thắng lợi oanh liệt cho

thời Trần đã được kế thừa và trở thành “nội dung cốt lõi nhất, cơ bản nhất của

nghệ thuật quân sự Việt Nam” [163, tr.213].

* Phương thức ngoại giao

Cho đến thế kỷ XIII, quốc gia Đại Việt vẫn tồn tại và phát triển trong mối

quan hệ phức tạp và không mấy thuận lợi với các nước láng giềng, đặc biệt là láng

giềng ở hai đầu đất nước: phía bắc (Trung Hoa, chủ yếu là nhà Nguyên) và phía

Nam (chủ yếu là Chiêm Thành). Trong cái thế “lưỡng đầu thọ địch” ấy, để có một

nền thái bình yên ổn cho trăm họ, người đứng đầu đất nước buộc phải có những kế

sách bang giao khôn khéo.

Hòa hảo nhưng cương quyết với Chiêm Thành. Trong quan hệ đối ngoại với

các nước phía Nam, Chiêm Thành được nhà Trần hết sức quan tâm, bởi lẽ: Một

mặt, cho đến thời kỳ này, quan hệ giữa Đại Việt với Chiêm Thành chưa được bình

ổn. Mặc dù đã thần phục Đại Việt, thường mang sản vật tiến cống, tuy nhiên,

Chiêm Thành lại nằm trong mục tiêu liên kết, lợi dụng để thực hiện mưu đồ thôn

tính Đại Việt của phương Bắc. Thế tay ba Trung Hoa - Đại Việt - Chiêm Thành đã

khiến Đại Việt rơi vào “gọng kìm” nguy hiểm.

Các triều đại trước đó, kể cả triều Lý, chỉ có thể chinh phục Chiêm Thành

bằng sức mạnh quân sự và các biện pháp cứng rắn khác. Nhà Trần đã kế tục nhà

Lý trong đối ngoại với chúa Chiêm nhưng có chiến lược linh hoạt hơn và đã tạo

được uy thế chính trị của Đại Việt chủ yếu bằng con đường ngoại giao hòa bình -

điều mà nhà Lý trước đó chưa thực hiện được triệt để. Cùng với việc ngự giá

97

thân chinh, triều Trần đã khéo léo dùng các biện pháp giao hảo, kể cả các cuộc

hôn nhân chính trị. Vào năm Tân Sửu (1301), trong chuyến vân du phương Nam,

thượng hoàng Trần Nhân Tông đã ở lại Chiêm Thành đến 8 tháng và hứa gả con gái

mình (công chúa Huyền Trân) cho vua Chiêm (Chế Mân). Về sau, khi lời hứa hôn

được hiện thực hóa, Đại Việt đã nhận được một món sính lễ không hề nhỏ là hai

châu Ô, Lý. Nhưng quan trọng hơn, nhờ đó mà mối quan hệ Việt - Chiêm càng

được thắt chặt và như vậy là đã giải được bài toán trong quan hệ hai nước một cách

ổn thỏa, không cần đến “cùng binh độc vũ”, đồng thời giúp nới lỏng một gọng kìm

từ phương Nam, cởi bỏ được một mối lo cho Đại Việt.

Nhún nhường nhưng bản lĩnh trước nhà Nguyên. Cũng như các giai đoạn

trước và sau này, ở thời Trần, quan hệ với Trung Hoa nổi lên hàng đầu và trở

thành mối quan tâm đặc biệt. Các tập đoàn quân chủ cầm đầu đế chế Trung Hoa

tự cho mình quyền “che chở”, “định đoạt” của “Thiên triều” đối với một nước

nhỏ ở phía nam, mặc dù ách đô hộ của họ với nước ta đã thực sự chấm dứt từ

đầu thế kỷ X. Để giải quyết tình huống đó, nhà Trần đã thực hiện biện pháp

ngoại giao mềm dẻo nhưng cũng đầy bản lĩnh.

Trước hết là thái độ mềm dẻo, có phần nhún nhường: Đại Việt chấp nhận

sắc phong, chấp nhận phong vương, cống nạp dưới dạng “biếu”, “tặng”; cử sứ

giả thăm viếng, chúc tụng. Nhà Trần còn gả cả công chúa An Tư (em út của

Thánh Tông) cho Thoát Hoan để làm “thư giãn nạn nước”. Sau khi chiến tranh

kết thúc, với tư cách người chiến thắng, Đại Việt luôn tỏ thiện chí như tạo điều

kiện cho quân bại trận rút về nước, trao trả tù binh, cử người đi sứ sang Nguyên

để tái thiết quan hệ hòa bình... Điều đó đã phần nào xoa dịu được mối quan hệ

căng thẳng và nhất thời kìm hãm được ý định phục thù, rửa hận của nhà Nguyên với

Đại Việt. Trong hoàn cảnh và tương quan thời điểm đó, đối sách mềm dẻo, thái

độ thần phục là cần thiết để có được hòa bình.

Tuy nhiên, nhà cầm quyền Đại Việt hiểu rõ rằng, các thế lực quân chủ

phương Bắc có tham vọng lớn về quyền bá chủ đối với lân bang. Nếu các nước

nhỏ quá nhún nhường thì sớm muộn cũng bị thâu tóm. Chính vì vậy, trong bang

giao, ta luôn giữ bề ngoài mềm mỏng nhưng lại ngầm tỏ rõ thái độ hết sức kiên

quyết dựa trên bản lĩnh và tinh thần tự tôn dân tộc. Trong những năm đầu lên

98

nắm chính sự, trong đối ngoại với Trung Hoa, nhà Trần đứng trước hai thế lực là

nhà Nam Tống (đang cầm quyền) và đế quốc Mông Cổ (đang âm mưu bành

trướng, thôn tính Trung Hoa). Ban đầu, để tỏ thiện chí với nhà Tống, ta đã kiên

quyết đối phó với Mông Cổ. Đến 1257 - khi nhà Tống tan rã, Mông Cổ bắt đầu

chiến dịch xâm lược Đại Việt, để hòa hoãn, thăm dò và chuẩn bị đối phó, ta lại đặt

quan hệ thông hiếu với Mông Cổ. Khi nhận thức được âm mưu hòa bình nô dịch

của Mông Cổ, nhà Trần đã có chiến lược đối phó khôn khéo: vừa không dứt khoát

cự tuyệt vừa tìm cách thoái thác, trì hoãn tránh chiến tranh để công cuộc kháng

chiến được chuẩn bị chu toàn. Nhưng, khi Hốt Tất Liệt chuyển từ đối đầu bằng

ngoại giao sang đối đầu về quân sự, nhà Trần tỏ thái độ kiên quyết: vô hiệu hóa

con bài Trần Di Ái, không giúp Hốt Tất Liệt binh lương đánh Chiêm Thành,

không cho con em làm con tin, nhận chiếu thư không lạy, lệ cống chỉ thực hiện

chiếu lệ 3 năm một lần, nhiều lần thác bệnh để không sang chầu Nguyên... Trong

những cuộc gặp gỡ với nhà Nguyên, các sứ giả, sứ thần của ta cũng luôn tỏ rõ bản

lĩnh khiến cho tướng giặc mấy phen kiềng nể: “Nước nó còn có người giỏi, chưa

dễ mưu tính được” [105, tr.56]. Hơn thế, khác với các triều đại trước, khi lên ngôi,

các vua Trần không dâng biểu cầu phong. Điều này đã khiến cho nhà Nguyên phật

ý: “Vì nhà Nguyên rất bất bình với nhà Trần, cho nên về sau, dù có sính sứ đi lại,

mà lễ sách phong suốt đời nhà Nguyên không thi hành nữa” [105, tr.90].

Nhà Trần đã cố gắng thực hiện đường lối ngoại giao linh hoạt và tranh thủ

tối đa những thời điểm hòa bình quý giá để hàn gắn vết thương chiến tranh đã

qua, chuẩn bị lực lượng cho những cuộc chiến tranh sắp tới. Những chiến lược

ngoại giao khôn khéo đó kết hợp với các chiến thuật quân sự tài tình đã đưa quân

và dân ta thời Trần đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhận xét về nghệ

thuật bang giao của triều Trần với nhà Nguyên, sử gia Phan Huy Chú viết:

Nước ta đời nhà Trần ứng tiếp với sứ nhà Nguyên, khi cương, khi nhu,

đều là đắc thế cả, cho nên từ năm Trùng Hưng về sau mới có thể hết việc

binh đao, mà Bắc sứ thường thường phải khuất phục. Trong khoảng hơn

trăm năm, ngăn được sự dòm ngó của Trung Quốc mà tăng thêm thanh

danh cho văn hiến nước nhà, đó là nhờ có sự giao tiếp đắc nghi giúp sức

vậy [28, tr.618].

99

3.3. NHÂN CÁCH CHÍNH TRỊ

Trong diện mạo nền VHCT thời thịnh Trần, nhân cách chính trị đóng vai

trò hết sức đặc biệt, nó vừa là điểm sáng, vừa là nơi quy tụ những tinh hoa của

nền chính trị. Có thể nói không thể có một nền VHCT thời thịnh Trần với những

đặc trưng độc đáo nếu như không có vai trò của những nhân cách chính trị.

Nhân cách chính trị thời thịnh Trần là điểm thú vị có thể khai thác từ

nhiều khía cạnh khác nhau. Dưới góc nhìn văn hóa học, luận án nhấn mạnh vào

những giá trị của nhân cách thông qua một số phẩm chất tiêu biểu.

3.3.1. Phẩm chất tiêu biểu của con người thời thịnh Trần

3.3.1.1. Tố chất “anh hùng - nghệ sĩ”

Có thể nói đây là phẩm chất độc đáo tạo nên hấp lực mạnh mẽ của con

người thời thịnh Trần. Hiếm có giai đoạn lịch sử nào xuất hiện nhiều trang anh

hùng tuấn kiệt như thời thịnh Trần, nhưng điều thú vị hơn, đó không chỉ là con

người ưa vũ dũng, chỉ biết chiến bào yên ngựa xông pha nơi chiến địa. Ở thời

thịnh Trần, từ hoàng đế đến quan lại đầu triều, từ văn thần đến võ tướng..., có

một bộ phận không nhỏ không chỉ biết đánh giặc mà còn biết làm thơ, không chỉ

là anh hùng mà còn là người nghệ sĩ. Họ vừa là chính khách bản lĩnh, vừa là nhà

quân sự tài ba, là võ tướng quả cảm lại vừa là nhà thơ, nhà văn lớn. Tay họ vừa

chắc giáo gươm quyết chiến với quân thù lại vừa mềm mại bút hoa để gieo nên

những áng văn thơ trữ tình, diễm lệ. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn kêu

gọi tướng sĩ giết giặc lập công bằng bản “thiên cổ hùng văn” (Hịch tướng sĩ).

Thượng tướng Trần Quang Khải từng “múa giáo non sông trải mấy thâu” lại làm

thơ để ca khúc khải hoàn (Tụng giá hoàn kinh sư). Điện súy Thượng tướng quân

Phạm Ngũ Lão tỏ bày nam nhi chí qua những vần thơ trăn trở (Thuật hoài)...

Các bậc minh quân triều Trần cũng đã để lại sự nghiệp trước tác đồ sộ với

những áng văn thơ tài hoa, tinh tế. Đặc biệt, vua Trần Nhân Tông trên con đường

chạy giặc đã dùng thơ để gieo niềm tin chiến lược ở ba quân tướng lĩnh: “Cối Kê

cựu sự quân tu ký/Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” (Cối Kê việc cũ người nên

nhớ/Hoan Diễn còn kia chục vạn quân) (Quân tu ký) [24, tr.54]. Hai câu thơ

ngắn, nhưng tỏ rõ một tầm nhìn chiến lược, một bản lĩnh lớn lao. Nhà vua liên

hệ tích “Cối Kê” thời Xuân Thu Chiến Quốc (lúc Việt Vương Câu Tiễn phải lui

100

quân về Cối Kê để dưỡng quân đợi thời, đánh bại được Ngô vương Phù Sai, lập

nên nước Việt cường thịnh, bao gồm cả lãnh thổ nước Ngô) - với việc châu

Hoan, châu Ái (thuộc vùng Thanh Hóa - Nghệ Tĩnh ngày nay) của nước Đại Việt

lúc bấy giờ, vẫn còn ém giữ được 10 vạn quân, sẵn sàng chờ lệnh xung trận

chiến đấu chống quân Nguyên trong thời điểm đó. Câu thơ nhắc đến “thập vạn

binh” không chỉ là lời động viên Trần Quốc Tuấn mà còn hé lộ tia sáng lạc quan

cho hàng vạn tướng sĩ trong trận quyết tử với quân thù. Bằng phong thái ung

dung tự tại trong tầm nhìn và trong chỉ đạo chiến lược, Trần Nhân Tông đã đem

lại cho quân dân nhà Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.

Tố chất nghệ sĩ của những bậc anh hùng thời thịnh Trần còn thể hiện ở

tâm hồn khoáng đạt, đa cảm và nhạy cảm. Trần Quốc Tuấn đã từng rơi những

giọt nước mắt đau thương cho con voi chiến trung thành để rồi quyết một trận

sống mái với quân thù làm nên đại thắng ở cửa sông Bạch Đằng lịch sử. Danh

tướng Phạm Ngũ Lão vừa đi qua chiến công oanh liệt lại vừa ngậm ngùi nỗi thẹn

với non sông: “Công danh nam tử còn vương nợ/ Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ

Hầu” (Thuật hoài) [24, tr.113]. Thượng tướng Trần Quang Khải nhớ về tráng chí,

vỗ thanh gươm cũ trong men say nồng nàn của rượu và của hồn thơ: “Khử sầu

lại hữu tam bôi tửu/ Phủ kiếm du du ức cố sơn” - Tiêu khiển nay nhờ ba chén

rượu/ Vỗ thanh gươm cũ nhớ non xưa (Xuân nhật hữu cảm - Cảm hứng ngày

xuân II) [24, tr.434-435]. Và cũng chính con người đó, khi đã thành vị lão tướng

tóc trắng ngang đầu vẫn hăng hái tráng chí muốn quật ngã gió đông để ngâm một

vần thơ: “Sinh bình đảm khí luân khuân tại/ Túy đảo đông phong phú nhất thi”

(Riêng chí khí dũng lược lúc bình sinh hãy còn nguyên đó/Say ngả nghiêng

trước gió đông, ngâm lên một bài thơ - Xuân nhật hữu cảm I - Cảm hứng ngày

xuân I) [24, tr.434-435].

Tâm hồn tinh tế của Trần Nhân Tông đã rung động với tất cả những gì

nhỏ nhặt, đời thường nhất. Ông xao xuyến với một nhành mai (Tảo mai - Hoa

mai sớm), bâng khuâng trong một sáng mùa xuân trong trẻo (Xuân hiểu - Sáng

mùa xuân), thanh thản thả hồn vào buổi chiều bình yên (Thiên Trường vãn vọng

- Dạo ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường), suy tư trước một ngày thu nơi chùa

vắng (Lạng Châu vãn cảnh - Cảnh chiều ở châu Lạng)... Ông lắng nghe được

101

những cung bậc cảm xúc của con người, từ nỗi niềm người khuê phụ (Khuê oán

- Nỗi oán hận của người khuê nữ) đến tiếng sáo của mục đồng, thậm chí cả

những vật dụng vô tri vô giác như chiếc gối kê tay (Trúc nô minh” - Bài minh

trúc nô). Có lúc ông mở lòng với mọi buồn vui sống động của cuộc đời, có lúc

lại chìm vào nội tâm trầm tư trong cõi thiền sâu lắng. Trong sáng tác của ông, có

cả dòng thơ chiến trận lẫn dòng thơ thế sự, từ lối thơ xướng họa đến tức sự, từ

thơ bang giao đến vịnh cảnh non sông tươi đẹp,... Từ tâm sự buồn vui đời

thường đến những vấn đề liên quan vận mệnh quốc gia đều trở thành đề tài hấp

dẫn trong thơ ông. Ở đề tài nào, thể loại nào, người nghệ sĩ ấy cũng có những tác

phẩm hay, đẹp về lời thơ, sâu xa về ý tứ, tinh tế về xúc cảm... làm rung động

lòng người.

Anh hùng và nghệ sĩ, chính khách và thi nhân, hai con người đó không

tách rời nhau mà hòa quyện, gắn bó với nhau. Chính lý trí tỉnh táo và bản lĩnh

kiên cường của chính khách, anh hùng đã tạo điểm tựa cho hồn thơ nâng cánh và

ngược lại, tâm hồn nghệ sĩ đã làm cho con người anh hùng trở nên đời thường

hơn, gần gũi hơn.

Tố chất “anh hùng - nghệ sĩ” đã rọi chiếu một gam màu lấp lánh điểm tô

thêm cho bức tranh nhân cách tuyệt đẹp thời thịnh Trần - một giai đoạn lịch sử

hào hùng và hào hoa bậc nhất ở nước ta thời trung đại.

3.3.1.2. Ý thức tự trọng

“Tự trọng”, hiểu theo cách chiết tự chữ Hán là “tôn trọng bản thân”. Theo Từ

điển Tiếng Việt, “tự trọng” có nghĩa là “coi trọng và giữ gìn phẩm cách, danh dự

của mình” [121, tr.1671]... Hiểu rộng ra, đó là cách con người hành xử sao cho

không hổ thẹn với mọi người và với lương tâm chính mình, là cách con người biết

xấu hổ vì chưa tròn bổn phận hay vì lỗi lầm. Đó là sự tự ý thức, tự giác cao độ từ

trong chính bản thân con người chứ không phải từ tha nhân, từ những luật lệ, định

chế bên ngoài gò ép. Trước sự lựa chọn giữa “lợi” và “nghĩa”, người tự trọng sẽ

chọn nghĩa, bỏ lợi. Trọng nghĩa khinh lợi chính là một trong những nguyên tắc sống

của người tự trọng. Với nghĩa đó, có thể nói con người thời thịnh Trần chính là

những biểu tượng cao đẹp của lòng tự trọng.

102

Nhân cách con người được bộc lộ rõ nhất khi đặt họ trước quan hệ lợi ích.

Trần Bình Trọng thà chết vinh chứ không sống nhục. Trần Thủ Độ kiên quyết

can vua không nên để anh trai cùng mình làm Tể tướng, và từng bước chuyển

giao quyền lực khi vua trưởng thành. Trần Quốc Tuấn không lợi dụng cơ hội để

nắm quyền Tể tướng, không sử dụng đặc quyền phong tước hiệu cho kẻ khác mà

vua Thái Tông giao cho. Ông đã gạt bỏ lợi ích cá nhân để giữ được lợi ích cho

triều đình, cho đất nước, là tấm gương trung quân ái quốc, luôn lấy giang sơn

làm trọng, coi việc bảo vệ tông miếu, xã tắc làm đầu. Ông chiến đấu hy sinh

không phải vì mục đích “lập thân dương danh” như những kẻ sĩ bình thường,

ông lập bao công trạng không phải để lưu bảng vàng bia đá hay được triều đình

thưởng công… Đối với ông, danh lợi như phù vân nên sẵn sàng buông bỏ một

cách thanh thản.

Có ý thức tự trọng, con người thời thịnh Trần luôn biết tự xấu hổ. Vì tự

trọng, Trần Quốc Toản đã bóp nát quả cam ở ngoài lề hội nghị Bình Than để

triệu tập ngàn quân xông pha vào trận chiến khiến quân thù khiếp đảm. Vì tự

trọng, một tướng lĩnh lập bao kỳ tích như Phạm Ngũ Lão lại tự thấy hổ thẹn vì

cảm thấy mình chưa bằng Gia Cát Khổng Minh. Cũng vì tự trọng, vua Trần Thái

Tông đã từ bỏ ngai vàng. Sau câu chuyện công chúa Thuận Thiên, nhà vua tự

thấy lòng hổ thẹn, đang đêm rời hoàng cung lên Yên Tử. Ý định tu hành, xa rời

quyền thế của ông không được thực hiện, nhưng đã thành sự khởi đầu cho một lẽ

sống, một lựa chọn thanh cao cho các hậu duệ của mình. Các vua thời thịnh Trần

đều nhường ngôi, phần đa trong đó cuối cùng đi vào cõi chân tu. Lựa chọn đó

không phải chỉ là tìm đường lánh đời, chọn cách giải thoát cho bản thân, mà cao

hơn, là sự lựa chọn cho một triều đại đầy tự trọng và ý thức cao về liêm sỉ.

Ý thức tự trọng không chỉ có ở quý tộc, trí thức mà còn có ở những

thường dân, trở thành nhân cách của cộng đồng Đại Việt, thành tinh thần thời

đại. Một thời đại không có lòng tự trọng sẽ không thể có tinh thần yêu nước, ý

thức xả thân, quyết chiến với quân thù để giữ vững độc lập, tự do, chủ quyền

thiêng liêng của tổ quốc. Hình ảnh cánh tay “sát Thát” của hàng vạn hùng binh,

tiếng hô vang quyết đánh của hàng trăm bô lão... là những biểu tượng đẹp cho

103

lòng tự trọng của một thời đại anh hùng, quật khởi, không chịu khuất phục,

không chịu mất nước, không chịu đồng hóa...

3.3.1.3. Tinh thần “vô ngã”

Không thể phủ nhận mẫu người “vô ngã” là mẫu người văn hóa tiêu biểu,

đặc trưng của thời đại Lý - Trần - thời đại thấm nhuần triết lý văn hóa Phật giáo.

Nhưng có lẽ do thời Trần cởi mở, khai phóng hơn nên con người vô ngã đó mới

thực sự thăng hoa và đạt đến cảnh giới tuyệt đối của nó.

Theo tác giả Đỗ Lai Thúy, con người vô ngã “không có nghĩa là nó không

còn bản ngã, cái tôi nữa mà là nó nhận thức được cái tiểu ngã của mỗi người còn

đầy giới hạn, đầy thành kiến, giả tạm, không thật. Bởi vậy, phải vượt qua nó,

đúng hơn, phải đưa cái tiểu ngã hòa nhập vào đại ngã là cái trường tồn cùng vũ

trụ” [173, tr.171-172].

Vô ngã là quên mình, quên giới hạn giữa mình và vạn vật, chủ thể và khách

thể (vật ngã câu vong). Vì vậy, mới có bậc thiên tử nói với vương tôn và quần thần:

“Thiên hạ là thiên hạ của tổ tông”, rồi xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là “quan

gia”... Đạt đến cảnh giới giác ngộ về lẽ sắc không, nhà cầm quyền thời thịnh Trần

không tham đắm vinh hoa phú quý. Những người ở đỉnh cao quyền quý sẵn sàng

lựa chọn lối sống đơn sơ, đạm bạc, tận lực lo cho dân cho nước. Điều này sau này

được Trần Nhân Tông thổ lộ trong Cư trần lạc đạo phú: “Dứt trừ nhân ngã, thì ra

tướng thực kim cương… ăn rau, ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay;

Vận giấy, vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc” [167, tr.9-10].

Mang tinh thần vô ngã, con người thời thịnh Trần cũng là con người

“vô úy” (không sợ hãi). Đó là thời đại của những quân vương dám rời hoàng

cung, xông pha tên đạn, những trung thần lương tướng quả cảm, xả thân. Trần

Thái Tông, Trần Thánh Tông, đặc biệt Trần Nhân Tông ngay cả khi thành

thái thượng hoàng vẫn thân hành đốc chiến, trong lúc chạy giặc vẫn ung

dung và động viên tướng sĩ lạc quan về tiền đồ của đất nước. Trần Thủ Độ,

Trần Quốc Tuấn dám đem sinh mạng ra để động viên vua, khuyên vua không

nhụt chí, đầu hàng; Trần Bình Trọng thà chết chứ không chịu làm vương cho

nhà Nguyên; Lê Phụ Trần một mình xông vào giữa trận tiền mà phong thái

hiên ngang, mặt không đổi sắc; Đỗ Thiên Hư “thà chết ở cửa quân dinh chứ

104

không muốn chết ở trong giường nệm” [105, tr.133]. Đó cũng là những gia

nô như Dã Tượng quên mình cứu chủ, là người quân hiệu dám ngăn kiệu

Linh Từ quốc mẫu không cho qua thềm cấm, là kẻ đàn hặc dám tố cáo Thủ

Độ lạm quyền...

Con người vô ngã cũng là con người nhân ái, khoan dung. Thời thịnh

Trần, vua thì “lấy thân mình đưa đường cho thiên hạ”, quan lại thì gần dân, yêu

dân. Mang tinh thần vô ngã, con người thời đại ấy cũng sống trong sự khoan hòa,

dung thứ. Họ biết bỏ qua lỗi lầm, hóa giải hiềm khích, xỏa bỏ hận thù để sống

trong bầu không khí “khoan, giản, an, lạc”.

Mang tinh thần vô ngã, con người thời thịnh Trần cũng là con người sôi

nổi khát vọng, con người không chấp nhận những thực tại tầm thường.

Trước hết, đó là khát vọng độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ chúng ta đã

giành được từ đầu thế kỷ X, nhưng nhiều thế kỷ sau đó giang sơn vẫn chưa bể

lặng sóng yên. Những thế lực ngoại xâm vẫn ngày đêm dòm ngó Đại Việt. Sang

thế kỷ XIII, cha ông ta phải đương đầu với đội quân xâm lược hùng mạnh và

thiện chiến bậc nhất của thời đại. Khát vọng độc lập tự chủ đã trở thành lý tưởng

của thời đại, là tấm gương phản chiếu xã hội. Khát vọng đó gắn liền với tinh thần

quyết chiến quyết thắng, tinh thần “Đông A” trong mỗi người và trong nghìn vạn

người. Từ vua, quan, tướng lĩnh đầu triều đến hàng binh sĩ, gia nô và trăm họ

đều chung khát vọng cháy bỏng đó.

Đó cũng là khát vọng khai phóng của thời đại. Ở thời Trần, Nho giáo chưa

thống trị xã hội, cho nên con người chưa bị câu thúc vào các khuôn phép của lễ

giáo khắt khe. Có thể nói, triều Trần là triều đại khai phóng nhất trong lịch sử

các triều đại quân chủ Việt Nam. Đây là thời đại của khoan dung, thời đại có thể

dung chứa mọi sự khác biệt, thời đại con người có thể theo đuổi những lý tưởng

và khát vọng, thi triển hết năng lực bản thân. Con người thời đại ấy, từ hoàng đế,

quan lại, tướng lĩnh đến thứ dân và cả nô tỳ, gia nô… chưa bị những rào cản về

địa vị xã hội nên sống trong bầu không khí hài hòa, đại đồng.

Điều đáng nói hơn, con người thời thịnh Trần mang khát vọng nhân bản -

khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, mà có lẽ câu chuyện tình của Trần Quốc Tuấn

là một minh chứng “hùng hồn” nhất. Trần Quốc Tuấn đem lòng yêu công chúa

105

Thiên Thành, nhưng nàng lại bị gả cho con trai Nhân Đạo Vương và phải đến ở

trong dinh của Nhân Đạo Vương chờ ngày đại hôn. Đêm trước ngày làm lễ kết

tóc của công chúa, Quốc Tuấn đột nhập và “tư thông” cùng nàng. Có lẽ cần nhìn

nhận sau hành động tưởng chừng liều lĩnh, mạo phạm đó là ứng xử rất “người”

của Trần Quốc Tuấn, đó là con người dám yêu và dám khẳng định, bảo vệ, đấu

tranh giành giữ tình yêu của mình. Trong thời đại mà hôn nhân thường được

định sẵn, hạnh phúc không có quyền lựa chọn, thì rõ ràng đó là một cuộc xé rào

ngoạn mục. Ở đây, có khí chất phóng khoáng của người vạn chài ven biển quen

đầu sóng ngọn gió, có cái ngang tàng của vị anh hùng tung hoành nơi chiến địa

và có cả trái tim sục sôi khát vọng tình yêu của một con người đời thường.

Như vậy, con người vô ngã với những phẩm chất hoàn toàn phù hợp với

yêu cầu của thời đại như dũng cảm, tự tin, cởi mở, nhân ái, bao dung, giàu khát

vọng… đã trở thành một trong những kiểu nhân cách tiêu biểu và thú vị của thời

thịnh Trần.

3.3.2. “Minh quân - trung thần” - biểu mẫu lý tưởng của con người

thời thịnh Trần

Trong VHCT vương triều quân chủ, kiểu nhân cách “minh quân - trung

thần” là một biểu mẫu lý tưởng. Cặp đôi này luôn song hành cùng nhau, nhất là

trong xã hội thịnh trị, đối lập với cặp đôi “hôn quân - gian thần”. Thời điểm

thịnh trị của vương triều, lúc vua thực hành “vương đạo” thì sẽ sinh ra minh

quân và tất nhiên xoay quanh là các vệ tinh “trung thần”. Ngược lại, giai đoạn

suy vong, lúc vua thực thi “bá đạo”, vệ tinh xoay quanh sẽ là các “gian thần”. Có

thể nói, trong lịch sử các triều đại quân chủ Việt Nam, chưa bao giờ xuất hiện

nhiều minh quân, trung thần, lương tướng như ở thời thịnh trị của nhà Trần. Đây

là mẫu nhân cách hội tụ những tinh hoa phẩm giá cao đẹp của cả thời đại và làm

tỏa sáng những giá trị của VHCT thời thịnh Trần.

Các bậc quân vương thời thịnh Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,

Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông) đều hội đủ những tố chất cần

thiết của một minh quân tài cao đức trọng. Đó trước hết là những con người có trí

tuệ vượt trội. Phần lớn trong số họ đều tồn tại “nhiều trong một”: vừa là nhà chính

trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, lại vừa là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn lớn.

106

Bằng trí tuệ sáng suốt, họ là những người sáng nghiệp nhà Trần, xứng đáng là

người lãnh đạo tối cao của vương triều và đất nước. Họ đã đề ra đường lối chính

trị đúng đắn để gây dựng, củng cố triều chính, trị quốc an dân, giữ vững độc lập,

chủ quyền của quốc gia. Dưới sự cầm quyền của họ, đất nước thái bình, phát triển

về mọi mặt, đời sống trăm họ được đảm bảo.

Mặt khác, đó cũng là những con người có phẩm chất đạo đức cao đẹp như

tinh thần khoan dung, nhân hậu, yêu nước thương dân. Nhưng có lẽ điểm sáng

rực rỡ nhất ở các bậc minh quân triều Trần là tinh thần dấn thân, buông xả. Nắm

trong tay quyền uy tối thượng, có đủ điều kiện để lựa chọn cho mình một đời

sống vinh hoa ở chốn cửu trùng, nhưng họ lựa chọn lẽ sống dấn thân. Các minh

quân triều Trần, kể cả khi đã là thượng hoàng, vẫn sẵn sàng ngự giá thân chinh,

xông pha nơi binh lửa. Trong khoảng trăm năm thịnh trị của nhà Trần, hầu hết

các vị hoàng đế đều sẵn sàng nhường ngôi cho con khi tuổi còn trẻ, tạo nên

truyền thống tốt đẹp trong triều đại nhà Trần. Đây là căn nguyên để khiến thời

thịnh Trần trở thành một trong những thời kỳ thái bình, yên ổn nhất trong lịch sử

các triều đại quân chủ nước ta.

Song hành cùng các đấng minh quân là các bậc trung thần, lương tướng.

Đó là những con người tài năng về võ công hoặc văn trị. Nhiều tướng soái dũng

lược thời thịnh Trần có công giết giặc cứu nước như Trần Quốc Tuấn, Trần Thủ

Độ, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Lê Phụ Trần... Nhiều

bậc văn thần tài cao học rộng như Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài,

Trần Thì Kiến... có công lao trong xây dựng triều đình và phát triển nền văn hóa

dân tộc. Đặc biệt, thời thịnh Trần xuất hiện nhiều bậc tuổi trẻ tài cao như Trần

Quốc Toản (16 tuổi tự dẫn ngàn binh ra trận), Nguyễn Hiền (13 tuổi đỗ Trạng

nguyên), Đặng Ma La (14 tuổi đỗ Thám hoa), Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi đỗ

Hoàng giáp), Lê Văn Hưu (18 tuổi đỗ Bảng nhãn)...

Không chỉ tài năng, có công lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ

quốc, họ còn là những bề tôi trung nghĩa, liêm khiết. Có rất nhiều trọng thần, võ

tướng anh hùng quả cảm, xả thân vì nghĩa cả. Trần Thủ Độ xin được chém đầu

để can vua, Lê Phụ Trần lấy thân mình cứu chủ. Hay những văn thần liêm chính,

chí công vô tư: Trần Thủ Độ giúp nhà Trần gây dựng cơ đồ, suốt đời làm việc

107

công tâm, “giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất” [105, tr.37]; Mạc Đĩnh Chi

không vì bạc vàng mà đánh mất liêm sỉ, sống cuộc đời một vị quan văn thanh

bần, trong sạch. Trần Quốc Tuấn gạt mối thù riêng vì lợi ích chung, không ham

đắm vinh hoa và quyền lực, Lê Cư Nhân “thà chịu trách phạt chứ không dám lừa

dối” [105, tr.144]... Những võ tướng anh hùng, những văn thần liêm chính ấy đã

sống đúng như lời thề trong lễ Minh thệ thiêng liêng: “làm tôi tận trung, làm

quan trong sạch”.

Minh quân - trung thần là sự hội tụ, kết tinh của con người thời đại Đông

A, và trong số đó có những nhân cách phát triển đến đỉnh cao, trở thành những

nhân cách văn hóa với phẩm chất đạo đức cao đẹp, trí tuệ vượt trội và có sức lan

tỏa mạnh mẽ, có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Sau đây, xin bàn thêm về sức sống của

hai bậc minh quân, trung thần tiêu biểu là vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo

Đại vương Trần Quốc Tuấn.

Trong lịch sử triều Trần cũng như các triều đại quân chủ Việt Nam,

Trần Nhân Tông là bậc quân vương đức, tài trọn vẹn nhất. Ông là vị “Phật

Hoàng” - vừa là vua của trần thế lại vừa là giáo chủ một tôn giáo. Cuộc đời và

sự nghiệp của Trần Nhân Tông đã thành biểu tượng đẹp về trí tuệ và nhân

cách, sống trong niềm ngưỡng vọng của nhân dân qua nhiều thế kỷ. Khi ngài

băng, dân chúng vào xem chật cả cung điện, tể tướng cầm roi xua đuổi mà

vẫn không giãn ra được. Vua Anh Tông phải cho người hát điệu Long ngâm

để thu hút đám đông tò mò, cung điện mới rộng đường đưa linh cữu [105,

tr.102]. Uy linh của Trần Nhân Tông được sử sách ghi lại: Khi Phật hoàng

viên tịch, hầu cận đem hỏa thiêu và nhặt được xá lỵ, đem gửi vào tháp của

Ngọa Vân Am (Yên Tử). Xá lỵ cất chứa lâu ngày không nát. Sau năm thế kỷ,

đến đời vua Quang Trung, có viên trấn thủ định phá tháp để lấy đồng. Nhưng

khi mới phá được hai tầng thì thấy có một cái hòm trong đó đựng hai viên xá

lỵ tròn bằng đầu ngón tay, sắc sáng lóng lánh. Cuối cùng, phải trả lại chỗ cũ

và xây lại tháp như cũ [27, tr.810].

Ngày nay, trên đỉnh thiêng Yên Tử vẫn luôn nườm nượp khách thập

phương tụ hội về chiêm bái. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài là đề tài lớn để con

cháu muốn đời sau khám phá, học hỏi.

108

Không phải ngẫu nhiên, năm 2012, một cuộc Hội nghị mang tên Trần

Nhân Tông về Hoà giải tổ chức tại Harvard Faculty Club, Đại học Harvard (Mỹ)

“Tran Nhan Tong Academi” đã được thành lập, giải thưởng quốc tế Trần Nhân

Tông về Hòa giải và Yêu thương được ra đời nhằm quảng bá, thúc đẩy ứng dụng

những giá trị tư tưởng về lòng khoan dung, hòa giải và yêu thương của Trần

Nhân Tông trên phạm vi toàn thế giới. Hiện nay, địa chỉ Trannhantong.net đã

được rất nhiều người trong cũng như ngoài nước truy cập. Tại cổng điện tử này,

bước đầu đã có các tư liệu giới thiệu những nghiên cứu, các thành quả trong việc

ứng dụng tư tưởng, giá trị cao quý của Trần Nhân Tông vào cuộc sống. Quả thật,

Trần Nhân Tông “đã sống một cuộc đời không còn gì đáng để có thể ước mơ cao

hơn, xa hơn!” [206].

Còn Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn dường như cũng có một thứ

“hấp lực” kỳ lạ. Uy danh của ông cũng thành huyền thoại, trở thành nỗi khiếp

hãi của quân thù, niềm trân quý của triều đình, niềm ngưỡng vọng của ba quân

và niềm tôn kính của dân chúng. Uy danh của Đại vương “vang đến giặc Bắc,

chúng thường gọi là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi rõ tên”

[105, tr.86]. Lúc còn tại thế, ông luôn được nhà Trần trọng dụng. Nhiều việc

đại sự quốc gia, Trần Quốc Tuấn đều được triều đình ủy thác. Trong lúc thế

nước nguy nan, triều đình luôn cần ông hiến kế và nhiều kế sách của ông đã trở

thành phương châm chính trị, thành nghệ thuật dựng nước và giữ nước không

chỉ của nhà Trần. Vua Trần cho dựng sinh từ Hưng Đạo Đại vương. Khi ông

mất, vua tự soạn văn bia ca ngợi ông, coi đền thờ ông như vương miếu, cho

phụng thờ, nghi lễ như thờ đức Khổng phu tử, lại nhớ Đại vương khôn nguôi

nên sai tạc tượng bằng gỗ đàn hương ngày đêm hương lửa, phàm có việc gì hệ

trọng quốc gia đều đến cầu xin và đều linh ứng. Riêng các châu huyện ở Lạng

Giang - nơi ông từng cầm quân trấn giữ và liên tiếp hai lần đánh bại giặc

Nguyên - “hễ có tai nạn bệnh dịch, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi

có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào

cũng có thắng lớn” [105, tr.81].

Có thể nói có rất ít triều đại trong lịch sử Việt Nam có nhiều vị “Thánh”

đi vào tâm thức dân gian như triều Trần. Có đến cả một hệ thống Trần triều

109

nhập vào đạo Tứ Phủ. Riêng Trần Hưng Đạo thì được tôn xưng làm Đức Thánh

Trần (Đức Thánh Cha). Ông cùng với vua chúa, bộ tướng của nhà Trần được

thờ phụng ở hầu khắp mọi nơi trong nước. Nhiều đền thờ Hưng Đạo Vương

được xây dựng với rất nhiều hoành phi, câu đối, chuông đồng, bia đá, thần phả

ca ngợi công lao sự nghiệp của ông như: chuyện Thanh Tiên đồng tử, Đức

Thánh Trần diệt Phạm Nhan, thần phù hộ phụ nữ và trẻ em, có tài bắt ma, trừ

tà, chữa được bệnh hữu sinh vô dưỡng… Cứ đến ngày rằm, mồng một, ngày

Tết Nguyên đán, hay ngày giỗ Cha (20/8 âm lịch hàng năm), tại đền Kiếp Bạc

lại mở hội lớn với các hoạt động rất phong phú, thu hút đông đảo khách thập

phương. Theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ngô Đức Thịnh:

Từ Trần Hưng Đạo đến Đức Thánh Trần là một hiện tượng “độc nhất

vô nhị” của lịch sử và văn hóa Việt Nam.(…). Có thể nói, không có

một nhân vật “bằng xương bằng thịt” nào trước ông và sau ông lại

được dân chúng thờ phụng một cách thành kính và phổ biến đến như

vậy [136, tr.92].

Nhân cách Trần Quốc Tuấn đã vượt ra ngoài cương vực quốc gia khi mấy

thế kỷ sau, năm 1984, The new Encyclopedia Britannica -Tân Bách khoa toàn thư

Anh quốc - đã ghi danh ông vào một trong 10 vị tướng kiệt xuất mọi thời đại.

Trải mọi biến thiên, thăng trầm của lịch sử, hai con người kiệt xuất của 8

thế kỷ trước ấy vẫn sống mãi trong lòng nhân dân như một huyền thoại chưa hề

xưa cũ. Họ là hình mẫu lý tưởng cho kiểu người “minh quân - trung thần” không

chỉ ở trí tuệ vượt trội, ở đạo đức trong sáng mà còn ở tầm ảnh hưởng sâu rộng,

sức lan tỏa mạnh mẽ vượt thời gian, không gian. Thế cho nên, hơn cả nhân cách,

họ đã thành những nhân cách văn hóa.

Như vậy, “minh quân - trung thần” luôn song hành cùng nhau, tương hỗ

lẫn nhau, trở thành một cặp “giai ngẫu”: bởi có minh quân nên mới có trung thần

lương tướng; có bề tôi tận tụy mới có thiên tử bao dung. Và điều đáng nói là,

chính cuộc hạnh ngộ và mối lương duyên của họ đã sản sinh ra những giá trị đẹp

và độc đáo cho VHCT thời thịnh Trần. Điều đó cũng phản ánh tính tất yếu và

biện chứng trong quy luật tồn vong của một vương triều: vương triều nào xuất

hiện nhiều minh quân - trung thần, vương triều ấy sẽ thịnh vượng và bền vững.

110

3.4. NGOẠI HIỆN CHÍNH TRỊ

Ngoại hiện chính trị là những yếu tố vật thể và phi vật thể, những hình

thức, cách thức, biểu tượng... qua đó thể hiện sinh động giá trị định hướng chính

trị, phương thức vận hành chính trị, nhân cách chủ thể chính trị.

Trong các yếu tố ngoại hiện chính trị, yếu tố biểu thị quyền lực, trật tự xã

hội có thể coi là những yếu tố tiêu biểu. Ngoài ra, do thời thịnh Trần là giai đoạn

lịch sử hết sức đặc biệt, đó là thời đại của “hào khí Đông A”, vì vậy, khi nghiên

cứu yếu tố ngoại hiện chính trị, luận án chú ý đến các yếu tố biểu thị tinh thần

thời đại.

3.4.1. Yếu tố biểu thị quyền lực và sự tôn nghiêm

Văn hóa chính trị gắn liền với quyền lực, quyền lực đi liền với sự tôn

nghiêm mà một chế độ chính trị cần tuân thủ. Có thể thấy biểu hiện của quyền

lực và sự tôn nghiêm của triều đại quân chủ qua các yếu tố tiêu biểu: lăng miếu -

xã tắc, cung điện, thành quách, thái ấp, ngai vàng, thềm cấm, chữ húy, linh vật,

lễ nghi và hệ thống huyền sử, huyền tích... Tôn miếu - xã tắc là hai yếu tố có giá

trị cao nhất, thường được coi là hai mục tiêu có ý nghĩa cốt tử ngang nhau đối

với vận mệnh của vương triều. Cung điện “gợi ý tưởng về sự nguy nga tráng lệ,

về những kho báu và những bí mật (...). Là quyền lực, là giàu sang, là học thức,

cung điện tượng trưng cho tất cả những gì không thuộc về những con người

thường” [17, tr.225]. Ngai vàng “tượng trưng cho quyền lực thần thánh của vua

chúa” [17, tr.631]. Còn lễ nghi, “trong đạo trị nước, lễ là cần hơn cả. Lễ để nhận

rõ việc hiềm nghi, chia ra người trên kẻ dưới, tỏ rõ vật nọ phẩm kia” [28, tr.702].

Huyền sử, huyền tích là những yếu tố ngoại hiện lý giải về nguồn gốc vương

triều, sự sinh thành của các bậc thiên tử hoặc người tài trí vượt trội được xã hội

ngưỡng mộ, chúng làm lạ hóa, thiêng hóa về sức mạnh, quyền uy của triều đại

cũng như bất tử hóa những con người có những đóng góp phi thường cho cộng

đồng, đất nước. Linh vật là các con vật huyền thoại hoặc có thật được thiêng hóa,

được con người sáng tạo và sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt

ý tưởng và niềm tin tâm linh, tôn giáo hoặc dùng để biểu tượng cho bản sắc của

một cộng đồng, hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc mang những đặc tính

111

huyền bí, năng lực siêu nhiên có thể chi phối nhân sinh, vũ trụ… Hệ thống các

yếu tố ngoại hiện đó ở thời thịnh Trần không hàm chứa những ngoại lệ.

Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ các yếu tố, các biểu tượng, sẽ thấy chúng

mang những màu sắc riêng của thời thịnh Trần. Chẳng hạn, về hệ thống công

trình kiến trúc gắn với cuộc sống của vua quan, quý tộc Trần: Hệ thống thái ấp -

điền trang chiếm giữ các vị trí cơ yếu trên các trục đường quan trọng từ trung

ương ra các địa phương, biểu thị quyền lực của vương tôn, quý tộc đồng thời thể

hiện tính chất quân chủ tông tộc của nền chính trị. Ngoài kinh đô Thăng Long

còn có phủ Thiên Trường với cung Trùng Quang (là nơi ngự của các vị thượng

hoàng), cung Trùng Hoa (nơi vua ngự khi về chầu thượng hoàng) phản ánh

“thượng hoàng chế”. Đặc biệt, nhìn vào địa thế đặt kinh đô (Thăng Long), hành

cung nghỉ dưỡng của Thượng hoàng (Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định) và

lăng miếu (Long Hưng, Thái Bình), ta thấy một tam giác chính trị và từ tam giác

đó tỏa ra các tọa độ khác, thể hiện tầm tư tưởng, hoài bão chính trị và trường

hoạt động chính trị rộng lớn của nhà Trần.

Sau đây, luận án sẽ trình bày rõ hơn về hai yếu tố ngoại hiện tiêu biểu của

VHCT thời thịnh Trần, đó là hệ thống lễ nghi và linh vật.

Về lễ nghi, ở thời Trần nhìn chung là kiệm ước, giản dị. Tuy nhiên, thời

kỳ này thực hành nhiều lễ nghi hơn so với các triều đại trước đó, trong đó có

những nghi lễ đặc biệt riêng có ở thời Trần hoặc những nghi lễ được thực hành

với sắc thái riêng:

Lễ lên ngôi và tấn phong thái thượng hoàng: khác với các triều đại khác, kể cả

giai đoạn sau của triều Trần, ở thời thịnh Trần, lễ lên ngôi của vua đều theo lối

nhường ngôi. Nghĩa là vua mới được lên ngôi không phải vì tranh quyền đoạt vị,

cũng không phải trong thế bị động khi vua cũ băng hà mà hoàn toàn chủ động, nên

đều là việc vui mừng trọn vẹn. Theo sử gia Phan Huy Chú: “Đời nhà Trần, từ Thái

Tông về sau, đều làm theo lối nhường ngôi, vua thừa tự lên ngôi, toàn dùng lễ vui

mừng” [27, tr.801]. Đó quả là “gia pháp riêng của triều đại ấy mà không giống các

triều đại khác” [27, tr.801].

Triều Trần là triều đại đầu tiên tiến hành lễ tấn phong thái thượng hoàng và

thực hiện nó một cách hệ thống, nhất quán, đặc biệt trong thời kỳ thịnh trị. Lễ này

112

được bắt đầu năm 1258 (năm Thiệu Long thứ 1 - đời vua Thánh Tông) và lần cuối

cùng là năm 1329 (năm Khai Hựu thứ 1, đời vua Hiến Tông). Cùng với lễ lên ngôi

nói trên, lễ tấn phong thái thượng hoàng thể hiện đặc điểm của “thượng hoàng

chế”, cho thấy quan điểm về quyền lực, cách ứng xử với quyền lực của nhà Trần.

Lễ ăn thề (ở đây bàn về lễ Minh thệ): Hằng năm, vào ngày 4 tháng 4, tể

tướng và trăm quan đến trực ngoài cửa thành từ lúc gà gáy, tờ mờ sáng thì tiến

vào triều. Vua ngự ở cửa Hữu Lang điện Đại Minh, trăm quan mặc nhung phục

lạy hai lạy rồi lui ra. Ai nấy đều thành đội ngũ, nghi trượng theo hầu ra cửa Tây

thành, đến đền thờ núi Đồng Cổ, họp nhau lại uống máu ăn thề. Quan Trung thư

kiểm chính tuyên đọc lời thề rằng: “Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai

trái thề này, thần minh giết chết”. Đọc xong, tể tướng sai đóng cửa điểm danh,

người nào vắng mặt phải phạt 5 quan tiền. Ngày hôm ấy, trai gái bốn phương

đứng chật ních bên đường để xem như ngày hội lớn [105, tr.10].

Lễ này thực ra đã có từ triều Lý. Các vua Lý cho rằng thần núi Đồng Cổ

đã có công giúp Lý Thái Tông đánh thắng Chiêm Thành, sau lại thác mộng báo

cho biết âm mưu làm phản của ba vương Vũ Đức, Đông Chinh, Dực Thánh nên

đã dựng đền thờ trong đại nội, bên hữu chùa Thánh Thọ. Hằng năm, các quan

phải đến thề ở đền để tỏ lòng trung thành với nhà vua. Nhà Trần cũng theo lệ ấy

nhưng được kế thừa một cách sáng tạo: đó là lễ hội thề này không chỉ thể hiện

chữ trung với vua và triều đình mà còn thể hiện chữ “hiếu” với dân. Điều đó cho

thấy nền văn hóa chính trị thân dân, là sự tự ý thức về trách nhiệm của người

cầm quyền đối với dân chúng.

Lễ quốc tang: quốc tang là một trong những việc hệ trọng nhất của triều

đình và quốc gia. Thời Trần có những sự kiện trong tang tế hết sức đặc biệt.

Chẳng hạn, khi vua Nhân Tông mất, lúc sắp sửa rước quan tài, người xem đứng

chật cả cung điện, quan tể tướng cầm roi xua đuổi cũng không giãn ra được. Mãi

đến khi cho người hát điệu Long ngâm, mọi người nghe thấy, rủ nhau đến xem,

cung điện thưa bớt người, mới rước quan tài đi được. Hơn thế, thân thế của thiên

tử lại do nhà sư hầu cận đem đốt ở hỏa đàn rồi lấy một nửa xá lỵ gửi ở bảo tháp,

mãi đến hai năm sau mới xây lăng và an táng. Hay việc vua Minh Tông nghe theo

di mệnh của ông nội (Nhân Tông), phụ táng bà nội (Tuyên Từ thái hoàng thái hậu)

113

vào Đức Lăng, không sợ hãi trước lời can gián của các quan (cho rằng lăng tẩm là

không nên đụng chạm); không câu nệ âm dương họa phúc (theo lời các quan chôn

năm ấy khắc hại người chủ tế) để hoàn thành việc hiếu với mẫu hậu (Thuận Thánh

Bảo Từ hoàng thái hậu): “Nếu chắc sang năm ta không chết thì có thể hoãn việc

an táng. Nếu sang năm ta chết thì an táng mẫu hậu chả hơn là ta chết mà không

làm được ư?” [27, tr.811]. Những điều trên, theo quan điểm và lễ nghi Nho giáo,

bị coi là việc lạ, trái lễ, “khoan hậu có thừa mà nghiêm khắc thì không đủ” [105,

tr.102]. Nhưng ngày nay, chúng ta nhìn lại, rõ ràng điều đó có thể coi là ứng xử

“tòng quyền” linh hoạt, không câu nệ lễ nghi mà lại rất trọng nghĩa tình, thể hiện

tư duy cởi mở, khai phóng của nhà Trần mà ít triều đại quân chủ có được. Ứng xử

chính trị đó của nhà cầm quyền tiêu biểu cho VHCT thời thịnh Trần: hướng đến

cái thiện căn, vì cái Thiện lớn, họ sẵn sàng vượt qua mọi giới luật.

Linh vật: Thời thịnh Trần có sự xuất hiện nhiều linh vật với tư cách là

yếu tố ngoại hiện chính trị như rồng, sư tử/nghê, kỳ lân... Ở đây, luận án phân

tích biểu tượng rồng như một minh chứng cho quyền lực chính trị. Rồng là linh

vật, vốn không có thật, chỉ tồn tại trong tưởng tượng, trong niềm ngưỡng vọng

về sức mạnh quyền uy, ở đây là quyền lực của vua, cũng chính là của một vương

triều. Theo Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, rồng “là sức mạnh thần thánh,

sáng tạo, xếp đặt, rồng đương nhiên là biểu tượng của đế vương” [17, tr.781].

Triều đại quân chủ nào trong lịch sử nước ta cũng dùng biểu tượng rồng để biểu

thị cho vương quyền. Qua biểu tượng rồng, ta sẽ thấy được quyền uy của vua và

triều đại. Trong VHCT thời thịnh Trần, biểu tượng rồng không nằm ngoài ý

nghĩa đó.

Dựa vào những hình tượng được vẽ và chạm khắc trên các chi tiết của

chùa, tháp, vật dụng... còn lại ngày nay, ta có thể thấy rồng thời Trần dáng dấp

gần giống rồng thời Lý (dạng rồng giun uốn lượn). Nhưng rồng Trần có thân

hình uốn khúc doãng hơn, uốn lượn tự do hơn. Đầu rồng có sừng, nhưng chỉ nhú

lên một chút như sừng hươu. Mình vẩy rõ hơn, thân to, mập, khỏe khoắn, chân

thay đổi có khi có bốn móng. Bờm, râu, móng chân rồng thời Trần ngắn hơn

rồng thời Lý nhưng không có vẻ táo bạo như thời Hồ, cũng không dữ dằn, mạnh

mẽ kiểu rồng Lê, Nguyễn. Giữa thời Trần xuất hiện rồng uốn hình yên ngựa,

114

dáng dấp dũng mãnh - bóng dáng của cuộc sống chinh chiến của quân dân thời

Trần. Như vậy, rồng thời Trần vừa thể hiện tinh thần thượng võ, tinh thần cởi

mở, khai phóng, vừa mang khát vọng vươn lên của vương triều Trần và hào khí

của cả thời đại Đông A.

3.4.2. Biểu thị trật tự xã hội

Trật tự xã hội biểu hiện qua các yếu tố từ những trang phục, nghi trượng,

ngựa xe, danh xưng, tước hiệu... Tùy trên dưới cao thấp trong xã hội, các

phương diện biểu hiện này sẽ được quy định cho tương xứng và đúng trật tự.

Tước hiệu của vương tôn, quý tộc thể hiện trật tự trên dưới, gần xa

trong quan hệ của hoàng tộc. Năm 1241, đời vua Thái Tông, tiến hành phong

tước cho con vua: hoàng tử trưởng Hoảng (hoàng đích trưởng tử) phong là

Đông cung thái tử, hoàng tử thứ hai, thứ ba phong Đại vương, Vương. Sau đó

đến Thượng vị hầu. Con trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ

thì phong thượng vị hầu, coi đó là chế độ lâu dài [105, tr.18]. Năm 1267,

“định ngọc diệp phái chính dòng họ vua của vương hầu, công chúa để phong

ấm, gọi là “kim chi ngọc diệp”. Cháu 3 đời được phong tước hầu hay quận

vương, cháu 4 đời được ban tước minh tự, cháu 5 đời được ban tước thượng

phẩm [105, tr.38].

Trong hệ thống các yếu tố ngoại hiện biểu thị trật tự xã hội thời thịnh

Trần, đáng lưu ý nhất là các danh xưng. Ở đây, luận án muốn nhấn mạnh một số

danh xưng đặc biệt thời Trần:

Thái thượng hoàng (hay thượng hoàng): là danh xưng xuất phát từ chế độ

thái thượng hoàng. Như đã nói ở phần trên, Thái thượng hoàng là chức danh của

vua sau khi tự nguyện nhường ngôi cho thái tử. Dù không chính danh tại vị,

nhưng Thái thượng hoàng có quyền cao hơn vua, khi có việc quốc gia hệ trọng,

vẫn phải chờ thượng hoàng xem xét, quyết định. Thượng hoàng ở cung điện

riêng (phủ Thiên Trường), nhà vua phải có nghĩa vụ chầu hầu, yết kiến, thọ giáo.

Vì thế mới có sự kiện năm Kỷ Hợi (1290), khi vua Anh Tông uống rượu xương

bồ say khướt, không biết Thượng hoàng Nhân Tông ngự giá kinh sư. Thượng

hoàng nổi giận, xuống chiếu buộc vua và triều thần ngay ngày hôm sau phải tới

phủ Thiên Trường để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội. Vua phải thành khẩn

115

dâng biểu tạ tội nhưng vẫn bị quở phạt: “Trẫm còn có con khác cũng có thể nối

ngôi được. Trẫm đang sống mà người còn như thế, huống chi sau này?” [105,

tr.77]. Như vậy, với vai trò Thái Thượng hoàng, danh xưng này chứa đựng

quyền lực chính trị độc đáo của nhà Trần.

Quan gia: (官家). Theo ĐVSKTT, vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 19

(1250), Trần Thái Tông “xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là Quan gia (國家)”

[105, tr.24]. Đến năm 1277, vua Trần Thánh Tông lại hỏi Uy Văn vương Quốc

Toại nghĩa chữ “Quan gia”, Toại đáp: “Năm đời Đế lấy thiên hạ làm của công

(quan), ba đời Vương lấy thiên hạ làm của nhà (gia), nên gọi là quan gia” [105,

tr.45]. Như vậy, “Quan gia” là sự kết hợp giữa “quan” và “gia”, thể hiện sự hài hòa,

thống nhất giữa quyền lợi quốc gia và gia tộc, giữa cá nhân người nắm giữ vương

quyền và dòng họ. “Của công” này trước hết là của chung của gia tộc Trần, như vua

Trần Thánh Tông từng nói: “Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tông, người nối nghiệp

của tổ tông phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ” [105, tr.39]. Quan niệm

này không mới nhưng lại mang hàm nghĩa thái độ của vua Trần với vấn đề quyền

lực và là sự định danh riêng cho chế độ quân chủ tông tộc của triều Trần.

3.4.3. Yếu tố biểu thị tinh thần thời đại

Biểu thị hào khí yêu nước

Tinh thần thời đại của thời thịnh Trần thể hiện hào khí yêu nước, ý thức về

độc lập, chủ quyền quốc gia. Hào khí đó được thể hiện ra qua rất nhiều yếu tố ngoại

hiện: từ biểu tượng “sát Thát” trên cánh tay của những tướng sĩ thời Trần, bãi cọc

Bạch Đằng sừng sững, lá cờ trượng nghĩa của các đoàn quân xông trận đến các hội

nghị toàn quân, toàn dân như Diên Hồng, Bình Than. Ngoài ra, kho tàng thơ văn

với những tác phẩm bất hủ như: Hịch tướng sĩ văn (Trần Quốc Tuấn), Bạch

Đằng giang phú (Trương Hán Siêu), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải),

Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão)... cũng là những yếu tố ngoại hiện tái hiện một thời

đại anh hùng, thời đại của “hào khí Đông A” rực lửa. Trong đó, đáng chú ý là

biểu tượng Lá cờ thêu sáu chữ vàng.

Tại hội nghị Bình Than, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản vì còn nhỏ tuổi

nên vua không cho dự bàn, trong lòng hổ thẹn, phẫn khích, tay cầm quả cam,

116

bóp nát lúc nào không biết. Sau đó, Toản lui về, huy động hơn nghìn gia nô và

thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền. Trong đoàn quân xông trận tung bay

lá cờ thêu 6 chữ vàng: “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Sức mạnh vẫy vùng từ

lá cờ đại nghĩa ấy đã làm cho quân địch khiếp đảm lui tránh. Lá cờ - cùng với

hành động “bóp nát quả cam” - là biểu tượng của tinh thần can đảm, dấn thân, xả

thân đầy trách nhiệm và tự trọng, của lòng yêu nước sục sôi và ý chí, quyết tâm

chiến đấu bảo vệ giang sơn của chàng hào kiệt trẻ tuổi, cũng chính là biểu tượng

của “nam nhi chí” thời Trần. Đồng thời, biểu tượng này cho thấy hào khí hừng

hực của một thời đại mà lòng yêu nước, ý chí chiến đấu bảo vệ non sông là

không chỉ của riêng ai, là sức mạnh có khả năng lan tỏa không giới hạn.

Biểu thị tinh thần khoan dung, khai phóng

Tinh thần cởi mở, bao dung, chấp nhận những khác biệt: tôn trọng tự do

tín ngưỡng, tôn trọng hiền tài... được biểu thị qua nhiều yếu tố ngoại hiện từ văn

học, nghệ thuật, công trình kiến trúc, tôn giáo tín ngưỡng,... Chẳng hạn, để biểu

thị thái độ khai phóng đối với nhân tài, các cơ sở đào tạo nhân tài như Quốc Tử

Giám, Giảng võ đường được xây dựng. Ngoài ra còn có các hình thức tôn vinh,

khen thưởng người tài, người có công cũng là những yếu tố ngoại hiện đáng chú

ý: Phong chức tước, phong mỹ tự cho người tài. Với nho sinh đỗ cao thì cho dẫn

đi du ngoạn đường phố ba ngày. Với người lập công với nước thì hoặc là thăng

chức, ban tước, ban quốc tính, gươm báu, áo ngự, phi ngư phù hoặc là vẽ tranh

chân dung và chép vào sự tích. Ngoài ra, các vua Trần còn dùng thơ văn, các bức

họa quý để khen thưởng cho các hiền sĩ. Bên cạnh đó, nhà Trần cũng động viên

nhân tài qua chính sách đãi ngộ thân nhân của họ (như việc triều đình giao trọng

trách cho các con cháu của Trần Quốc Tuấn, cho con của Phạm Ngũ Lão làm

quan…). Thậm chí ở thời Trần, còn có việc dựng sinh từ (đền thờ khi còn sống),

tiêu biểu có hai vị trung thần lương tướng được vua Trần cho dựng sinh từ, khắc

văn bia để tỏ lòng đặc biệt quý mến là Thái sư Trần Thủ Độ và Hưng Đạo Đại

vương Trần Quốc Tuấn.

Tinh thần “tam giáo đồng tôn” cũng được biểu hiện qua hệ thống ngoại

hiện sinh động. Cũng như thời Lý, đạo Phật ở thời Trần được coi trọng hơn cả,

117

song trên thực tế, vương triều Trần cũng không dấu nổi niềm hâm mộ với Đạo

giáo. ĐVSKTT cũng như tư liệu của sứ thần nhà Nguyên đã miêu tả trang phục

của một số vua quan thời Trần đẫm sắc màu Đạo giáo như sau: Trần Nhật Duật

“mặc áo lông, đội mũ, trông như đạo sĩ”[105, tr.129]. Lụa bọc tóc màu trắng của

Trần Nhân Tông được sứ thần Trần Cương Trung ví: “trông xa như Luân cân

của đạo sĩ” [46, tr.109]. Còn vua Trần Minh Tông mặc áo tràng vạt bằng là màu

vàng, đội mũ có thao dự yến tiệc đước sứ giả nhà Nguyên khen: “thanh thoát như

thần tiên” [105, tr.107].

Ngoài ra, còn rất nhiều yếu tố thể hiện sự hài hòa tam giáo. Ở thời thịnh

Trần vừa có việc đắp tượng và xây dựng trùng tu chùa tháp thờ Phật (chùa Chân

Giáo, tháp Phổ Minh, tháp Báo Thiên, am Ngọa Vân...) vừa có việc xây Quốc Tử

viện, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và thất thập nhị hiền để thờ, vừa có việc

cho đạo sĩ ở trong cung cầu tự cho vua, cho các nhà phong thủy đi thực hiện các

lễ trấn yểm những vùng núi sông có tà khí... Quốc sử còn chép việc Chiêu Văn

Vương Trần Nhật Duật “rất hâm mộ huyền giáo, thông hiểu xung điển”. Khi vua

Minh Tông còn nhỏ, bị ốm, từng sai Nhật Duật làm phù phép trấn áp cho yên”

[105, tr.129]. Năm 1299, vua Anh Tông cho in sách Phật giáo pháp sự, Đạo

trường tân văn và Công văn cách thức ban hành trong cả nước [105, tr.82]. Quân

vương, quý tộc nhà Trần vừa thông thạo sách vở thánh hiền vừa tham thiền ngộ

đạo, vừa làm thơ tỏ bày nam nhi chí vừa viết kệ thấm thía triết lý vô thường...

Tinh thần tam giáo cũng được thể hiện một cách độc đáo qua bức họa nổi

tiếng Trúc Lâm Đại sĩ xuất sơn chi đồ. Đây là họa phẩm được vẽ vào khoảng

cuối thế kỷ XIV-đầu thế kỷ XV, miêu tả sự kiện Phật hoàng Trần Nhân Tông tu

hành đắc đạo, trở về kinh thành, vua Trần Anh Tông cùng đoàn Tụng quan

nghênh đón. Điểm độc đáo là trong tranh có đến 82 nhân vật, trong đó có mặt cả

tăng sĩ, đạo sĩ và nho sĩ. Đây có thể coi là một trong những biểu tượng thú vị

nhất cho cuộc hạnh ngộ tam giáo thời Trần.

Như vậy, qua một số yếu tố ngoại hiện tiêu biểu trên, ta thấy được khát

vọng quyền uy của vương triều quân chủ, hào khí của thời đại. Nó cũng là hình

bóng của một nền VHCT thân dân, khai phóng trong một thời đại “khoan-giản-

118

an-lạc” khi mà sự phân chia đẳng cấp chưa rõ nét, khoảng cách giữa người cầm

quyền và dân chúng chưa quá xa, các giới luật cũng chưa hà khắc, lễ nghi cũng

chưa thật sự câu nệ.

Tiểu kết chương 3

Chương 3 tiến hành phân tích diện mạo của VHCT thời thịnh Trần qua hệ

thống 4 thành tố: định hướng giá trị trong chính trị, vận hành chính trị, nhân cách

chính trị, ngoại hiện chính trị. Yếu tố định hướng giá trị chính trị thời thịnh Trần

được thể hiện chủ yếu ở triết lý về quyền lực, đường lối chính trị thân dân, khoan

dung khai phóng, ở lý tưởng độc lập - tự cường gắn liền với nhiệm vụ củng cố,

phát triển triều chính và chống ngoại xâm. Định hướng đó đã được hiện thực hóa

bằng công cụ vận hành chính trị (chế độ quân chủ tông tộc, luật pháp nghiêm

khắc, bộ máy quyền lực tinh gọn, hiệu quả nhưng khá vững chắc mang màu sắc

quân chủ tông tộc), phương thức vận hành chính trị (chống ngoại xâm, quản lý xã

hội, đào tạo tuyển dụng người cầm quyền cho bộ máy nhà nước). Nhân cách chính

trị thời thịnh Trần với các phẩm chất tiêu biểu (anh hùng - nghệ sĩ, tinh thần vô

ngã, giàu tự trọng), được hội tụ và tỏa sáng ở cặp hình tượng “minh quân - trung

thần” đã làm nên vẻ đẹp, giá trị riêng của VHCT thời thịnh Trần. Và cuối cùng,

VHCT cũng được hiện hình qua yếu tố ngoại hiện thể hiện quyền uy, trật tự xã hội

và tinh thần thời đại. Bốn thành tố này có mối quan hệ hữu cơ, tạo thành chỉnh thể

thống nhất. Sự nhận diện này sẽ không chỉ cho thấy cấu trúc nội tại mà còn làm

nổi bật những đặc điểm tạo nên giá trị riêng của VHCT thời thịnh Trần. Điều này

sẽ được bàn kỹ hơn ở chương tiếp theo.

119

Chương 4

GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

THỜI THỊNH TRẦN VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

4.1.1. Tinh thần yêu nước - đoàn kết

Yêu nước là giá trị hàng đầu trong bảng giá trị văn hóa Việt Nam. Ở thời

thịnh Trần, tinh thần yêu nước gắn liền với tinh thần đoàn kết cao độ. Như đã phân

tích ở trên, chế độ chính trị thời Trần là chế độ quân chủ tông tộc, được kiến tạo,

quản lý và điều hành chủ yếu bởi quý tộc nhà Trần. Tuy nhiên, VHCT thời Trần

không mang tính chuyên quyền độc đoán của một bộ phận người lãnh đạo ích kỷ.

Trái lại, giữa quý tộc nhà Trần và thần dân có sự hài hòa, gắn bó, quyền lợi gia tộc

và quyền lợi quốc gia có sự thống nhất cao. Chính sự thống nhất này đã tạo nên

tinh thần hài hòa, đoàn kết rất nổi bật trong nội bộ triều đình cũng như trong toàn

thể quân dân Đại Việt. Không thể phủ nhận tầng lớp thống trị nhà Trần có tất cả

những đặc quyền, đặc lợi, có một lối sống khác biệt với đông đảo dân chúng. Song

họ vẫn mang trong mình những yếu tố tích cực, đóng góp quan trọng vào sự

nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước.

Sự thống nhất này nằm ngay trong hành động thay thế nhà Lý của nhà

Trần. Yêu cầu cấp bách lúc bấy giờ là ổn định chính trị trong nước và chuẩn bị

đối phó với nguy cơ ngoại xâm luôn rình rập. Trong khi đó, người nắm quyền

chính trị (nhà Lý) đã hết vai trò lịch sử, buộc nhà Trần phải bước lên vũ đại

chính trị. Chính vì vậy, việc phế truất nhà Lý đang suy thoái chính là “loại bỏ

một chướng ngại trên con đường phát triển của dân tộc, nhằm khắc phục sự

khủng hoảng lòng tin, sự suy giảm nội lực và sự mất phương hướng chính trị ở

một bộ phận dân chúng” [141, tr.27]. Sự thay ngôi đổi chủ này là kịp thời, hợp

với đòi hỏi tất yếu khách quan của lịch sử. Hành động đó đã vượt xa khuôn khổ

của những lợi ích tông tộc hẹp hòi, gắn lợi ích của nhà Trần với trăm họ, với sự

tồn vong của đất nước.

120

Để củng cố quyền lực của nội bộ dòng họ, nhà Trần đã dành phần lớn vị

trí trong bộ máy quyền lực cho quý tộc vương tôn. Tuy nhiên, vì lợi ích của quốc

gia, nhà Trần cũng đã “chia sẻ quyền lực” bằng cách tuyển chọn thêm nhân tài

bổ sung vào bộ máy quan lại. Cách làm này đã giúp triều đình huy động được tối

đa sức mạnh trong cả nước, xây dựng đội ngũ nhà cầm quyền vững mạnh, đủ sức

quản lý triều chính đáp ứng những yêu cầu ngày càng phức tạp lúc bấy giờ.

Tất nhiên, bộ máy nhà nước thời thịnh Trần vẫn là bộ máy thống trị quân

chủ, nhưng lúc này, quyền lợi của tầng lớp thống trị còn thống nhất với quyền lợi

của quốc gia, quý tộc và hoàng tộc còn đại diện cho trăm họ cho nên đó vẫn là

bộ máy quản lý quốc gia, lãnh đạo công cuộc giữ nước và phát triển đất nước

hữu ích.

Tinh thần yêu nước, đoàn kết, thống nhất trên dưới một lòng không chỉ

trong nội bộ hoàng tộc, triều đình mà lan truyền ra cả dân chúng, trên dưới một

lòng gắn bó “tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Cũng chính vì đoàn kết được toàn dân nên trong thời thịnh Trần chỉ có một cuộc

làm phản ở đạo Đà Giang vào năm 1280. Đây là một hiện tượng hiếm có trong

lịch sử. Yêu nước gắn liền với đại đoàn kết tạo thành giá trị tốt đẹp trong VHCT

thời thịnh Trần, là ngọn cờ tập hợp sức mạnh để quân dân nhà Trần giành nhiều

thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giữ nước và phát triển đất nước.

4.1.2. Tinh thần thân dân

Tư tưởng thân dân không phải là hiện tượng đột khởi của thời thịnh

Trần. Nhưng có thể nói, ở giai đoạn này, nó được đặc biệt đề cao, trở thành một

tư tưởng chính trị mang tính chính thống, chi phối không nhỏ đến VHCT thời

đại, với những biểu hiện rõ nét, độc đáo hơn hẳn so với các triều đại quân chủ

khác trong lịch sử Việt Nam. Tinh thần thân dân trong VHCT thời thịnh Trần

có thể khái quát ở ba phương diện: thái độ gần dân, thương dân; trọng dân;

chính sách an dân.

Một là, gần dân, thương dân

Có thể nói hiếm có triều đại quân chủ nào mà người cầm quyền giữ cách

ứng xử hòa mục, gần gũi với người dân như triều Trần. Lúc chiến tranh loạn lạc

121

hay đất nước gặp cảnh nguy nan, vua Trần Nhân Tông đã từng cùng nông dân

Trần Lai chia bát cơm gạo xấu, từng nhiều đêm cấp tốc vi hành khi hay tin ngoài

hoàng cung có hỏa hoạn; vua Minh Tông đã từng thân chinh đi xem sửa đê khi

nước sông lên to; Hưng Đạo Đại Vương từng uống rượu với các dân binh trên

đường chinh chiến. Trong cảnh thái bình, thượng hoàng Nhân Tông vẫn thường

thiết yến và ban lụa cho bô lão ở thôn quê và cũng chính ngài đã lặn lội khắp các

chốn thôn quê để chỉ dạy cho muôn dân, giúp dân trừ bỏ các dâm từ, thực hành

Thập thiện. Vào những năm được mùa, trong những ngày hội, vua quan còn

cùng dân chúng nắm tay nhau múa hát chung vui. Lúc vua băng hà, dân chúng

đến tiễn đưa chật cả cung điện, tể tướng phải đích thân dẹp đường...

Điều này, đến thế kỷ XV, thời điểm thịnh đạt nhất của Tống Nho ở Việt

Nam, những đại nho thần như Ngô Sĩ Liên, đã khó chấp nhận: “Nhà Trần khoan

hậu thì có thừa mà nghiêm khắc thì không đủ vậy” [105, tr.102]. Bởi lẽ kể từ giai

đoạn cuối Trần (thế kỷ XIV), khi mà quý tộc có ý thức mình là kẻ thống trị, tách

biệt với cộng đồng chung, mối quan hệ xã hội giữa quý tộc và dân chúng đã có

màu sắc giữa ông chủ và kẻ lệ thuộc, tình cảm hòa ái ấy đã nhạt dần.

Gần dân, nên người cầm quyền thời thịnh Trần đã rất hiểu dân, thương

dân. Vua Trần Minh Tông đã đặt mình trong quan hệ ruột thịt với cộng đồng:

“Sinh dân nhất thị ngã đồng bào/ Tứ hải hà tâm sử khốn cùng? (Ta cùng với

dân cùng một bọc mà ra. Cớ sao lại làm cho bốn biển phải khổ?). Đặc biệt đáng

nói ở thời thịnh Trần, tình cảm yêu thương của bậc thiên tử với trăm họ rộng

lớn và bao phủ khắp các tầng lớp xã hội, kể cả hạng nô tỳ, gia nô. Vua Trần

Nhân Tông “từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường, hễ gặp gia đồng của vương

hầu thì tất gọi tên chúng mà hỏi: “Chủ mày ở đâu?”, rồi răn các vệ sĩ không

được thét đuổi” [105, tr.172].

Hai là, trọng dân, “khoan sức dân”

Gần dân nên nhà cầm quyền thời thịnh Trần rất hiểu dân và trọng dân. Họ

nhận thức được vai trò, đóng góp của dân chúng đối với xã hội.

Với việc thừa nhận vai trò của dân đối với sự thành bại của cá nhân anh

hùng, với sự tồn vong của vương triều và đất nước như đã phân tích ở trên, nhà

122

Trần đã thể hiện bước phát triển trong tư tưởng thân dân so với các triều đại

trước đó. Minh quân, lương tướng thời thịnh Trần đã xác định được vai trò sáng

tạo lịch sử của người dân, tính năng động chủ quan của con người, coi họ là lực

lượng xã hội chủ yếu, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp giữ nước và phát

triển đất nước. Tư tưởng đó đã vượt qua ranh giới chật hẹp của đẳng cấp, thể

hiện niềm tin vào sức mạnh của người dân, là một nhận thức tiến bộ, hiếm có

trong thời đại quân chủ. Hiểu được sức mạnh của dân, nhà cầm quyền cũng biết

dựa vào dân, “khoan sức dân”. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, họ biết tranh

thủ lắng nghe ý kiến của người dân. Đặc biệt, họ đã huy động được tối đa sức

người sức của trong nhân dân vào cuộc chiến tranh giữ thành, giữ nước vĩ đại.

Ba là, chính sách an dân

Khác thời Lý, ở thời Trần, do kết hợp đường lối nhân trị và pháp trị, tư tưởng

thân dân đã được thể hiện quyết liệt bằng các chính sách của nhà nước hướng đến

mục đích an dân. Với đường lối ngoại giao và nội trị kịp thời, phù hợp, đời sống

bách tính đã thay đổi về mọi mặt. Không còn đói kém, loạn ly; được sống tự do,

bình đẳng, an lạc trong môi trường xã hội hài hòa, khai phóng. Chính sách an dân,

vì dân đã làm nền tảng cho Đại Việt có cuộc sống ổn định, thực túc, binh cường.

Tư tưởng thân dân đã thành cơ sở của đường lối trị nước thời thịnh Trần. Đó là

một trong những ngọn cờ để tập hợp sức mạnh hùng hậu của toàn dân, làm nên một

cuộc “chiến tranh nhân dân” vĩ đại. Ngoài ra, thân dân cũng chính là một trong những

“phương thuốc tích cực nhất để giải nọc độc vọng ngoại, giải Hán hóa” [210].

4.1.3. Tinh thần khoan dung, khai phóng

Khác với một số triều đại trước và sau đó, triều Trần, ở giai đoạn thịnh trị,

được điều hành bởi tầng lớp quý tộc xuất thân bình dân quen nghề sông nước và

mang tinh thần thượng võ ưa thực dụng, phóng khoáng, lại được nâng cánh bởi

luồng tư tưởng khoan dung của Phật giáo Nam Tông. Vì thế, VHCT giai đoạn

này đã thấm nhuần tinh thần khoan dung, khai phóng. Tinh thần ấy không chỉ

biểu hiện ở những chủ trương, đường lối trị nước của người cầm quyền như đã

phân tích ở trên mà còn thấm sâu trong đời sống tinh thần của thần dân trăm họ

123

và lan tỏa khắp trong đời sống chính trị, xã hội của cả thời đại, tạo thành một

trong những giá trị nổi bật của VHCT giai đoạn này. Tinh thần khoan dung khai

phóng thể hiện qua những ứng xử của con người thời thịnh Trần đối với các

phương diện sau:

Thứ nhất, ứng xử với chiến tranh

Chiến tranh là đỉnh điểm của xung đột, là sự thất bại của đối thoại, sự bất

lực của khoan dung. Con người thời thịnh Trần đặc biệt yêu chuộng hòa bình,

căm ghét chiến tranh, xung đột và luôn có đường lối ngoại giao đối thoại, hợp

tác. Trong 175 năm trị vì của nhà Trần nói chung và khoảng 100 năm thịnh Trần,

dân tộc ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, đặc biệt là ba lần kháng chiến

chống quân xâm lược Mông - Nguyên, nhưng đó là những cuộc chiến tranh vệ

quốc vĩ đại. Trong trăm năm thịnh trị của triều Trần, diễn ra không ít cuộc chiến

tranh, có chiến tranh dẹp loạn, có chiến tranh vệ quốc, nhưng đó là những cuộc

chiến bất đắc dĩ, những cuộc chiến để con người Đại Việt bảo vệ và hướng tới

hòa bình.

Thứ hai, ứng xử với vấn đề “nhân quyền”

Một số quyền cơ bản nhất của con người như quyền được sống, quyền

hạnh phúc đã được đảm bảo trong thời thịnh trị của nhà Trần. Điển hình nhất

phải kể đến vấn đề số phận con người sau chiến tranh. Sau mỗi cuộc chiến, tù

binh không những không bị giết hại, không bị ngược đãi mà được ta nuôi sống tử

tế, chu cấp ngựa, chiến thuyền và lương thảo cho về nước an toàn. Sử sách còn

khen ngợi chuyện vua Nhân Tông khi nhìn thấy thủ cấp của tướng giặc Toa Đô,

đã tỏ lòng thương hại, rồi cởi áo ngự, sai quân đem liệm chôn… Tấm lòng nhân

ái, bao dung không chỉ có ở những nhà chính trị lãnh đạo quốc gia mà còn có ở

trong những người dân Đại Việt. Trạng nguyên Lý Đạo Tái - sau này là thiền sư

Huyền Quang (1254-1334) - còn làm bài thơ Ai phù lỗ (Thương người lính giặc

bị bắt) với tất cả lòng xúc động cho số phận binh sĩ - số phận con người... Đây rõ

ràng không chỉ là hành động cao thượng với kẻ bại trận, mà còn thể hiện tầm cao

của VHCT và đạo đức nhân văn, tiệm cận với khát vọng nhân bản, nhân quyền

của nhân loại tiến bộ.

124

Thời đại quân chủ là thời đại mà những định chế, định kiến, lễ giáo khắt

khe tiết chế, trói buộc con người, đặc biệt đối với những vấn đề luyến ái. Tuy

nhiên, dựa vào bệ phóng của hôn nhân nội tộc, thời Trần đã có những câu

chuyện vượt ra ngoài khuôn khổ bởi những nhân vật “khác thường”. Những cuộc

hôn nhân trong hoàng tộc nhà Trần đã bị các Nho gia chỉ trích là “làm thói chó

lợn” [105, tr.9]; “hôn nhân bất chính”, “trái lễ” [105, tr.25]; “coi thường đạo vợ

chồng” [105, tr.31]; “thất tiết” [105, tr.33]… Nhưng, nếu chúng ta nhìn nhận lịch

sử với cái nhìn công tâm hơn thì sẽ thấy những câu chuyện khác thường ấy lại có

một mạch ngầm của khát vọng nhân bản, “nhân quyền” mà các minh quân triều

Trần đã khơi dòng và ít nhiều có ý thức bảo vệ.

Thứ ba, ứng xử với sự khác biệt

Trong chế độ quân chủ, khuôn phép và trật tự xã hội là những nguyên tắc

cần tuân thủ. Nhưng, thời thịnh Trần đã chấp nhận dung chứa những thứ ngoài

khuôn khổ, tôn trọng những khác biệt:

Một là, về tôn giáo, thời Trần dung hòa tam giáo. Con người thời thịnh

Trần tìm thấy trong mỗi “giáo” những điều bổ ích cho sự phát triển của chế độ

quân chủ và của đất nước, của xã hội, đón nhận những tinh hoa của chúng đồng

thời biến đổi cho phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Có thể coi hiện tượng

“tam giáo đồng nguyên” hay “tam giáo đồng tôn” là một minh chứng đẹp đẽ, một

nét son cho văn hóa khoan dung triều Trần. Dù vẫn giữ vai trò lớn trong xã hội

nhưng các trí thức Phật giáo không có sự kỳ thị, bài xích các tư tưởng khác. Vì

vậy, các tôn giáo, tín ngưỡng đã được chung sống dung hòa. Đó là nét đặc sắc của

đời sống tôn giáo thời Trần, vừa tiếp nối, vừa phát triển truyền thống thời Lý.

Hai là, về vị thế xã hội, thời Trần chưa phân biệt quá khắt khe về vị thế xã

hội, mà có sự hòa đồng giữa các tầng lớp, giữa vua và quan, giữa quý tộc với thứ

dân, giữa cái chính thống và phi chính thống.

Trước hết, đó là sự hòa đồng giữa quân và thần. Vua Thánh Tông “xuống

chiếu cho các vương hầu tôn thất, khi bãi triều thì vào trong điện và lan đình. Vua

cùng ăn uống với họ. Hôm nào trời tối không về được thì xếp gối dài, trải khăn rộng,

kê giường liền cùng ngủ với nhau để tỏ hết lòng yêu quý nhau” [105, tr.39-40].

125

Sự hòa đồng đã lan rộng từ hoàng cung ra khắp dân gian. Giữa nhà cầm

quyền và tầng lớp bình dân đôi khi không còn khoảng cách. Lúc chiến tranh loạn

lạc hay đất nước thái bình thịnh trị, vua Trần và dân chúng đã đồng cam cộng

khổ, sát cánh kề vai. Nhà Trần đã không tự coi mình là tầng lớp quý tộc hay kẻ

thống trị đứng cao hơn cộng đồng, coi thường dân chúng.

Sự hài hòa trong ứng xử đời thường ấy đã góp phần tạo nên màu sắc hài hòa

giữa văn hóa dân gian và văn hóa cung đình. Các nghệ thuật dân gian cũng được

trình diễn trong sinh hoạt và nghi lễ cung đình. Trong triều có “đại nhạc” dùng

trong đại lễ, còn “tiểu nhạc” dùng cả trong sinh hoạt văn hóa quý tộc và dân gian.

Trong các lễ hội truyền thống, vua quan và nhân dân cùng nắm tay nhau múa hát

không phân biệt. Có buổi yến tiệc trong hoàng cung, khi vua quan cùng nhau uống

rượu, múa hát, một vị quan đã “đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh” [105, tr.25].

Tín ngưỡng phồn thực dân gian đã vượt qua bức tường thành kiên cố để vào chốn

hoàng cung thâm nghiêm. Đây là hiện tượng hiếm có trong thời quân chủ và tạo nên

sự kỳ thị trong con mắt Nho gia các triều đại sau này.

Trong chế độ quân chủ hướng tới “khuôn vàng, thước ngọc”, cái chính

thống được trân trọng và bảo vệ bao nhiêu thì cái phi chính thống càng dễ bị “hắt

hủi” chừng ấy. Nhưng với tư tưởng khai phóng, nhà Trần đã thừa nhận cái “phi

chính thống”. Điển hình nhất là ứng xử của vua Trần Minh Tông: Khi có người

dâng sớ nói rằng hiện dân gian có nhiều kẻ du thủ du thực, đến tuổi già vẫn không

có tên trong sổ bộ, mà lại không đóng góp phu thuế và sưu dịch, đã trả lời:

“Không như thế, thì sao có thể thành đời thái bình? Ngươi muốn ta trách phạt họ

thì có được việc gì không?” [105, tr.148]. Như vậy, trong sự hình dung của nhà

vua, “đời thái bình” không phải là một xã hội mà tất thảy mọi thứ đều nằm trong

khuôn phép định sẵn. Những kẻ du thủ du thực nói trên, theo suy nghĩ của ông,

chính là những cái ngoài khuôn khổ, là cái phi chính thống khác biệt với cái chính

thống nhưng cũng có quyền được tồn tại trong sự bao dung, không thành kiến của

cuộc đời. Đây là cách tư duy cởi mở, hiện đại, tiệm cận với tư duy của con người

ở thời đại dân chủ hôm nay.

126

Ba là, về tri thức, thời thịnh Trần trọng dụng nhân tài. Người tài, với trí tuệ,

tri thức phát triển ở trình độ cao và thường không chịu trói mình trong vòng cương

tỏa, đã vô tình vượt lên trên số đông người thường, tạo thành một sự khu biệt,

khác biệt. Trong xã hội quân chủ, xã hội mà vị quân vương có quyền năng tối cao,

tài năng vượt trội thường khó được chấp nhận, thậm chí bị đố kỵ, bị vùi dập, kìm

hãm hoặc bị lợi dụng. Với nỗi ám ảnh sợ người tài vượt lên tiếm quyền, không ít

hoàng đế trong các triều đại quân chủ Việt Nam đã rơi vào sai lầm, khiến tài năng

bị lãng phí đáng tiếc. Nhưng nhà Trần đã vượt qua tư duy thiển cận và ích kỷ đó,

có cái nhìn khai phóng, khoan dung. Chính vì vậy, ở thời kỳ thịnh đạt của nhà

Trần, học vấn được coi trọng, giáo dục và thi cử được chăm lo phát triển. Các rào

cản, ranh giới về: trưởng - ấu, sang - hèn, giàu - nghèo, thân - sơ, công - tội… đã

được dỡ bỏ để rộng đường đón đợi tài năng. Đây là điểm độc đáo hầu như vô tiền

khoáng hậu trong lịch sử quân chủ Việt Nam.

Hiếm có triều đại quân chủ nào ở nước ta có bầu không khí xã hội “thông

thoáng” và “đủ rộng” để dung chứa mọi sự khác biệt như thời thịnh Trần. Có lẽ

vì thế, trong giai đoạn này, từ quý tộc, văn nhân, võ tướng, thường dân cho đến

gia nô, nô tỳ, thậm chí tù binh, tù nhân đều có cơ hội sống “hòa quang đồng

trần”. Triều Trần quả là triều đại của khoan dung, khai phóng.

Hạn chế trong văn hóa chính trị thời thịnh Trần

Thời thịnh Trần là giai đoạn thịnh trị vào hàng bậc nhất trong lịch sử các

triều đại quân chủ Việt Nam. Đó là giai đoạn của minh quân - trung thần, xã hội

thịnh trị, mọi mặt đời sống được ổn định và phát triển. Điều đó chứng tỏ sự ưu

việt của nền VHCT giai đoạn này. Tuy nhiên, xét một cách khách quan, ngay

bản thân nền VHCT ấy đã manh nha những yếu tố tiêu cực, thậm chí là mầm họa

dẫn đến sự suy vong của triều đại. Có thể nêu ra một số hạn chế nổi bật:

Thứ nhất, về định hướng giá trị trong chính trị

Đường lối chính trị thời thịnh Trần là đường lối thân dân. Nhưng khái

niệm dân ở đây chưa bao hàm toàn bộ các lớp người trong xã hội. Tuy vua, quan

nhà Trần có đề cập đến dân, nhưng là người dân chung chung. Tuy người cầm

127

quyền có lưu tâm, thương xót đến gia nô, thừa nhận vai trò quan trọng của họ,

nhưng đó mới chỉ là ở những tình huống cụ thể, đơn lẻ, chưa mang tính đại diện.

Hơn thế, sự thừa nhận vai trò của dân mới chỉ dừng lại ở những quan

điểm, ý kiến, chưa được thể chế hóa bằng luật pháp. Luật pháp nhà Trần chưa có

quy định bảo vệ gia nô, về cơ bản vẫn khẳng định và củng cố sự phân chia đẳng

cấp. Đại quý tộc được pháp luật bảo vệ các đặc quyền, đặc lợi. Còn người dân,

đặc biệt là tầng lớp nô tỳ, gia nô vẫn mang thân phận thấp bé, phụ thuộc, vẫn

chịu cảnh bất bình. Quốc sử còn ghi lại những chuyện như gia nô và chủ có tội

trạng ngang nhau, song chủ thì được dùng tiền để chuộc tội, còn gia nô bị xử

lăng trì. Tầng lớp thấp bé ấy cũng không được tuyển vào quân đội triều đình,

không được làm quan cả khi đã lập công. Chính thượng hoàng Minh Tông, khi

nghị công ban thưởng, đã phán rằng: “Gia nô tuy có chút công lao, nhưng không

được dự vào quan tước triều đình” [105, tr.135]. Thậm chí, “việc mua bán,

chuyển nhượng và gán vợ con làm nô tì là công khai và hợp pháp. Tầng lớp nô,

nô tì bị coi như một “vật” sở hữu” [133, tr.186].

Dù mang tư duy tiến bộ, khai phóng, thân dân, nhà cầm quyền thời thịnh

Trần vẫn chưa thực sự vượt ra khỏi những hạn chế nhất định của thời đại. Tinh

thần thân dân vẫn chưa thoát khỏi những ràng buộc của tư duy Nho giáo, những

chế ước của chế độ quân chủ Nho giáo.

Thứ hai, về công cụ vận hành chính trị

Trong tổ chức chính quyền, bộ máy nhà nước thời thịnh Trần có ưu điểm

là quy củ, tinh gọn. Tuy nhiên, đó vẫn là bộ máy chưa hoàn chỉnh, có điểm còn

thiếu chặt chẽ, đặc biệt là tên gọi một số đơn vị hành chính chưa đảm bảo sự

thống nhất, nhiều tầng bậc của bộ máy chưa nằm trong quan hệ thống thuộc.

Theo tài liệu quốc sử mới nhất, tổ chức chính quyền địa phương thời Trần đã

từng tồn tại các tên gọi: phủ - lộ - trấn, châu, huyện, giáp - hương, giang, trường,

trại sách, kiều, xã, trang. Trong đó, có những tên gọi cho biết cùng cấp hành

chính như phủ - lộ - trấn, giáp - hương; trại, sách dùng cho miền núi; giang dùng

cho dọc bờ sông, chưa rõ ngang với cấp nào [200, tr.374].

128

Nền VHCT thời thịnh Trần mang tính chất quân chủ tông tộc được cụ thể

hóa bằng chế độ thái thượng hoàng, chế độ thái ấp - điền trang và chế độ hôn

nhân nội tộc. Ở thời điểm thịnh trị của vương triều, khi người cầm quyền tối cao

thực thi vương đạo, khi còn vua sáng tôi hiền, với tinh thần khai phóng, khoan

dung, mở rộng cửa để trọng đãi nhân tài, chủ trương này đã được thực thi hiệu

quả, được đại đa số vương hầu tôn thất cũng như quý tộc quan liêu ủng hộ. Tuy

nhiên, không thể nói rằng chủ trương trên không nằm trong chiến lược khoanh

vùng quyền lực. Những vị trí tối cao trong triều đình, dù đã dành cho người hiền

năng, thì cũng là người hiền năng trong tôn thất. Từ vua đến vương hầu đều chọn

người trong họ kết hôn. Ngai vua là sự trao truyền cha - con mặc định. Thái ấp -

điền trang phần lớn thuộc về quý tộc họ Trần. Tất cả đan dệt thành tấm lưới lớn

tuy mềm mại, phóng khoáng nhưng lại kiên cố và chăng bủa trọn vẹn quyền lực

họ Trần mà ngoại tộc bất khả xâm phạm.

Trong giai đoạn thịnh trị, quyền lực được kiểm soát, thì nhà nước quân

chủ tông tộc bộc lộ nhiều ưu điểm, nhưng nó lại là mầm họa cho giai đoạn sau.

Việc trao quyền cho một tầng lớp vương hầu, tôn thất tiềm ẩn nguy cơ phân

quyền, cát cứ, gây nên sự bất công, bất bình dẫn đến những cuộc nổi loạn chống

lại triều đình về sau. Ngoài ra, xét từ góc độ văn hóa, việc duy trì đồng tộc giao

hôn lâu dài dẫn đến suy thoái giống nòi mà có lẽ các quân vương sau này của

nhà Trần đã phải gánh chịu.

Thứ ba, về nhân cách chính trị

Thời thịnh Trần xuất hiện những kiểu nhân cách “nước đôi”: Trần Thủ Độ

vừa là người nhiều thủ đoạn, quyết đoán đến tàn nhẫn, lại vừa là người cương

trực, vị công vô tư, là bề tôi có tài thao lược, tận trung tận lực với triều đình, có

công khai mở nhà Trần. Trần Khánh Dư vừa là quan tham lại vừa là tướng lĩnh tài

ba, lập đại công trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước. Trần Khắc Chung vừa là bề

tôi thông minh, dũng cảm lại vừa là một gian thần thực dụng, cơ hội. Trần Ích Tắc

vừa là vị vương tôn đa tài, trọng tài, có công đào tạo và tiến cử nhiều người tài cho

đất nước nhưng đồng thời cũng là kẻ cậy tài và khao khát làm vua dẫn đến phản

129

bội... Và ngay cả Trần Thái Tông theo đánh giá của ĐVSKTT thì “chốn buồng the

có nhiều hổ thẹn” [105, tr.7], Trần Minh Tông trong những năm cuối cùng tại vị

đã phạm sai lầm nghiêm trọng là giết oan nhạc phụ... Họ đã đi đến những thái cực

cực đoan nên cũng chạm đến những giới hạn thị phi của người đời.

Đây là một điểm thú vị trong VHCT thời kỳ thịnh trị của nhà Trần. Những

thái cực nhân cách ấy là bóng hình của một xã hội cởi mở, khoan dung nhưng

cũng tồn tại quá nhiều xung lực. Trong xã hội bình trị, cuộc đối trọng giữa các

xung lực sẽ kết thúc có hậu: mặt tích cực sẽ thắng thế, được phát huy tối đa tính

ưu việt của mình. Nhưng trong xã hội loạn lạc, khi không còn minh quân trung

thần, không còn thể chế đúng đắn, thì những mặt tiêu cực trong con người sẽ

phát tác và gây những nguy hại không nhỏ cho xã hội.

Như vậy, VHCT thời Trần không phải là thập toàn hoàn mỹ, có những

điểm tiến bộ, tích cực và chứa đựng giá trị văn hóa tốt đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh

đó, có một số điểm còn hạn chế, và có một số điểm chỉ phù hợp và phát huy tính

tích cực ở thời thịnh Trần, nhưng có thể lại là mầm họa nếu thuộc về giai đoạn

lịch sử khác.

Xét một cách sâu xa, đây là một hiện tượng mang tính quy luật của lịch sử

mà vẫn được gọi là “nguyên lý quả lắc”. Sau giai đoạn thịnh trị, phát triển đỉnh

cao, một chế độ chính trị hoặc một triều đại sẽ nảy sinh nguy cơ có thể đẩy lịch

sử sang tình trạng suy thoái. Nguy cơ này mang tính dự báo hết sức quan trọng.

Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng VHCT, cần chú ý đến quy luật và sự dự

báo này để có thể dẫn bánh xe lịch sử đi đúng quỹ đạo phù hợp.

4.2. BÀI HỌC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ

NƯỚC TA HIỆN NAY TỪ KINH NGHIỆM CỦA THỜI TRẦN

4.2.1. Sự tương đồng về nhiệm vụ chính trị giữa Đại Việt thời thịnh

Trần và Việt Nam hiện nay

Thời thịnh Trần đã cách xa chúng ta gần 8 thế kỷ, nhưng có những điểm

tương đồng hoặc rất gần nhau về nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là yêu cầu của sự

130

nghiệp bảo vệ quyền độc lập, tự chủ cũng như xây dựng, phát triển đất nước,

phát triển nền văn hóa dân tộc, đấu tranh cho sự nghiệp hòa bình, hợp tác...

Yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, phát triển đất nước, phát triển nền

văn hóa dân tộc

Nhà Trần vừa bước lên vũ đài chính trị đã phải gánh trên vai nhiều nhiệm

vụ khó khăn, nặng nề: phải củng cố lại triều chính, bộ máy chính quyền trung

ương đến địa phương vốn đã rệu rã; phải vực dậy nền kinh tế vốn đã trì trệ, phải

thay đổi đời sống nhân dân vốn đã chìm trong đau khổ của đói kém, loạn ly, phải

tiến hành cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược vốn đang rắp tâm xâm chiếm

lãnh thổ và đồng hóa văn hóa Đại Việt.

Còn thời đại ngày nay, chúng ta cũng phải đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo

vệ tổ quốc, phát triển đất nước đó nhưng trong hoàn cảnh mới với những tiêu chí

mới: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược

của cách mạng Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, cùng với đường lối

xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta luôn đặt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

là nhiệm vụ chiến lược sống còn. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, quy luật dựng nước đi đôi

với giữ nước, được biểu hiện tập trung ở hai nhiệm vụ chiến lược có mối quan hệ

gắn bó hữu cơ với nhau là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đất nước ta ngày nay vừa đi ra từ những cuộc chiến tranh vệ quốc ác liệt

với những vết thương hãy còn nặng nề. Chúng ta tiến hành công cuộc xây dựng

và phát triển từ một điểm xuất phát rất thấp kém, lạc hậu. Nguy cơ tụt hậu xa

hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ tự diễn

biến hòa bình, nguy cơ chệch hướng chính trị và mất bản sắc văn hóa dân tộc

đang là những mối lo của đất nước ta hiện nay. Yêu cầu và nhiệm vụ chính trị

đặt ra là phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh,

bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để đảm bảo

cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.

131

Nền văn hóa Việt Nam đã có một lịch sử hình thành, phát triển lâu dài và đã

tạo dựng được những nét bản sắc độc đáo trong dòng chảy chung của văn hóa nhân

loại. Tuy nhiên, bối cảnh mới hiện nay, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước và xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã đặt văn

hóa dân tộc ta trước những thử thách không nhỏ. Làm sao để giữ gìn được bản sắc

của văn hóa dân tộc, nhưng không đi ngược lại xu thế phát triển chung của văn hóa

nhân loại tiến bộ? Làm sao để vừa mở cửa hội nhập, đón nhận những làn gió tươi

mới từ bên ngoài nhưng lại có khả năng miễn dịch với khí độc? Làm sao để giao

lưu và tiếp biến văn hóa một cách an toàn và hiệu quả, biến những yếu tố ngoại sinh

thành yếu tố nội sinh? Làm sao để làm bạn, học hỏi thế giới xung quanh mà không

đánh mất chính mình?

Yêu cầu đấu tranh cho sự nghiệp hòa bình và phát triển

Thời Trần, cha ông ta không chỉ tiến hành công việc đối ngoại thông qua

đấu tranh về các mặt trận chính trị, quân sự với các nước lân bang mà còn trên

mặt trận ngoại giao theo tinh thần đối thoại, hòa bình, hợp tác vì phát triển. Triều

đình thời thịnh Trần đã nhận thức rõ, đó là con đường khôn khéo để giữ vững

chủ quyền lãnh thổ, là cách để hạn chế tổn hao sức người sức của, tránh lầm

than, ly tán cho dân. Nhà Trần đã linh hoạt, lúc cương lúc nhu, vừa hòa hảo

nhưng kiên quyết với Chiêm Thành, vừa nhún nhường nhưng bản lĩnh trước nhà

Nguyên. Chúng ta đã bình dẹp được Ai Lao, thuyết phục được Chiêm Thành và

ba lần đại thắng Mông - Nguyên... Nhưng ngoại bang vẫn không nguôi dã tâm

xâm lược, không từ bỏ mộng bành trướng bá quyền. Hòa bình có được không dễ

dàng và bền vững, đòi hỏi dân tộc ta luôn không ngừng đấu tranh để bảo vệ.

Những bậc minh quân, văn thần tài trí của Đại Việt đã đấu tranh không mệt mỏi

vì sự nghiệp hòa bình.

Nội hàm của vấn đề bảo vệ Tổ quốc được mở rộng và bao trùm hơn, thể hiện

tính toàn diện, tổng thể của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nhiệm

vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc gắn liền với mục tiêu giữ vững môi trường ổn định

của quốc gia và mối quan hệ hòa bình, hữu nghị với các nước trong khu vực và

132

quốc tế. Để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình

mới, rất cần tranh thủ cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế… Đây

là một trong những kinh nghiệm lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của

đất nước ta, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh phức tạp của

tình hình thế giới, khu vực hiện nay, vấn đề kiên quyết và kiên trì đấu tranh bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam là một trong những

phương châm, phương pháp cơ bản để giải quyết những mâu thuẫn, khác biệt đối

với chủ quyền của quốc gia, dân tộc giữa các nước. Bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn

vẹn lãnh thổ phải kiên quyết, song quá trình đấu tranh phải kiên trì, dựa vào luật

pháp quốc tế, dựa vào sức mạnh của cộng đồng quốc tế, sức mạnh của đại đoàn kết

toàn dân tộc để đấu tranh.

Thực tế cho thấy, không một mô hình chính trị nào, dù là lý tưởng, có thể

áp dụng cho tất cả các chế độ, các giai đoạn lịch sử. Bởi một chế độ chính trị

hình thành, tồn tại hay suy vong là chịu sự chi phối bởi thực tiễn và mục đích

của chủ thể chính trị. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là không có sự kế thừa,

tiếp nối truyền thống. Từ những kinh nghiệm trong quá khứ, ta có thể rút ra

những bài học cho hiện tại và tương lai, để nhận thức rõ hơn và giải quyết tốt

hơn những vấn đề đặt ra đối với đất nước và xã hội trong hoàn cảnh mới.

Thời Trần, đặc biệt là giai đoạn thịnh trị, với sự nghiệp giữ nước và phát

triển đất nước vĩ đại, đã để lại một kho tàng tri thức và kinh nghiệm vô cùng

phong phú và quí báu trong công tác quản lý xã hội, trong việc xây dựng một nền

VHCT tiến bộ. Trong đó, nhiều tri thức, kinh nghiệm đã trở thành những lớp trầm

tích lắng đọng giữ nguyên được những giá trị thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với

công tác xây dựng và phát triển VHCT trong giai đoạn hiện nay.

Dân tộc Việt Nam ngày nay, nối tiếp truyền thống, gìn giữ và xây dựng

đất nước, bước vào thời kỳ hội nhập, hội tụ đủ những điều kiện bên trong và bên

ngoài để có thể chung tay đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước, đóng góp

vào sự phát triển hòa bình, thịnh vượng của toàn thể nhân loại. Như vậy, vấn đề

kế thừa và phát huy những giá trị của VHCT thời thịnh Trần như tinh thần yêu

133

nước, tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung, yêu chuộng sự hòa bình, hòa

hợp... vừa là niềm tự hào, vừa là nhiệm vụ, vừa là mục tiêu để ngày nay chúng ta

kiến tạo một hình ảnh Việt Nam văn minh và cường thịnh.

4.2.2. Bài học về xây dựng nền văn hóa chính trị yêu nước - đại đoàn kết

Một nét son rực rỡ của VHCT thời thịnh Trần là thể hiện cao độ tinh thần

yêu nước và đoàn kết. Lòng yêu nước thời thịnh Trần có ở mọi con người, mọi

tầng lớp và thường trực trong mọi cảnh ngộ nguy nan. Nhà Trần dù trong lúc

tháo thứ nguy cấp, vua phải rời khỏi hoàng cung chạy giặc, vẫn kiên quyết một

niềm tin vào sức mạnh nội tại của dân tộc, quyết không “nhập Tống”. Khác với

một số triều đại quân chủ khác trong lịch sử nước ta, triều Trần đã xây dựng được

một xã hội hài hòa, một nền chính trị đoàn kết, thống nhất cao độ. Nhà Trần đã

giương cao ngọn cờ yêu nước, dẹp loạn ngoại xâm, luôn có sự thống nhất cao giữa

quyền lợi gia tộc và dân tộc, đặc biệt lúc đất nước lâm nguy, lợi ích dân tộc đã

được đề lên hàng tối thượng. Vì lợi ích quốc gia, quý tộc nhà Trần đã quên đi

những hiềm khích cá nhân, những mối hận gia tộc hay quyền lợi tông tộc hẹp hòi,

một lòng vì đại cục. Điều đó đã thu phục nhân tâm, được đại đa số thần dân tin

tưởng và ủng hộ, tạo nên sức mạnh to lớn để quân dân nhà Trần giành thắng lợi

oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên, làm nên một trong những

giai đoạn thịnh trị bậc nhất trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam.

Đến giai đoạn mạt Trần, lý tưởng yêu nước - đoàn kết tan vỡ cùng với sự rạn

nứt trong quan hệ triều đình, sự lục đục bè phái, tranh chấp ngôi vị, sự bất mãn và

ích kỷ của đội ngũ quý tộc nhà Trần và trăm quan,... (cùng với những hạn chế yếu

kém trong quản lý kinh tế của triều đình, thiếu vắng một hệ thống chính trị vững

mạnh và sự vắng bóng của các bậc minh quân) đã dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của nhà

Trần. Đây cũng là bài học có ý nghĩa sống còn đối với Việt Nam hiện nay.

Bước vào thời kỳ Đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa, hệ giá trị văn hóa

truyền thống Việt Nam cũng có nhiều biến đổi để phù hợp với hoàn cảnh mới,

nhưng ở bất cứ giai đoạn lịch sử nào, các giá trị văn hóa yêu nước, đoàn kết vẫn

giữ nguyên vị trí đứng đầu trong quan niệm của người dân bởi đó là những giá

trị căn cốt, góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

134

Tư tưởng yêu nước ngày nay gắn liền với ý thức thực hiện hai nhiệm vụ

chính trị trọng yếu: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc trước hết là

bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc

gia. Đất nước tạm không còn chiến tranh, nhưng những nguy cơ tiềm ẩn về xung

đột hay đe dọa chủ quyền quốc gia thì còn đó. Cuộc đấu tranh để gìn giữ độc lập

luôn là cuộc đấu tranh mềm dẻo nhưng kiên quyết, không khoan nhượng trên cơ

sở tôn trọng hòa bình, hòa hợp với các nước lân bang và tôn trọng luật pháp quốc

tế. Bảo vệ Tổ quốc cũng là bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội

chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

và nền văn hóa dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để

xây dựng, phát triển đất nước.

Trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, sức mạnh bên trong của đất nước, sức

mạnh của chế độ chính trị, sức mạnh của nền kinh tế và tiềm lực quốc gia, sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định. Lịch sử hàng ngàn năm

dựng nước và giữ nước với những chiến công hiển hách, trong đó có những

chiến công của thời Trần, đã để lại một bài học quý báu rằng sự phát triển và

thịnh vượng của đất nước trong mọi lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã

hội và quốc phòng chỉ có thể có được nếu dựa trên một nền tảng sâu xa, vững

chắc, đó là sự đoàn kết của toàn dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo của mình,

Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ tư tưởng chính trị về đoàn kết dân tộc:

“Đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực

và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [42, tr.159].

Đoàn kết trong thời đại ngày nay bao gồm sự đoàn kết từ trong nội bộ

Đảng, chính quyền, từ trung ương, chính phủ đến tất cả các ban, bộ, ngành và

đến toàn thể nhân dân. Đoàn kết trong tư tưởng chính trị, trong mục tiêu xây

dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết giai cấp, dân tộc và đoàn kết tôn giáo.

Đoàn kết dựa trên tinh thần yêu nước nhằm đạt đến mục tiêu độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết gắn liền với tinh thần dân chủ, lắng nghe, tôn trọng

135

và đáp ứng nguyện vọng của đại đa số quần chúng nhân dân, từ đó tập hợp được

đông đảo nhân dân dưới ngọn cờ chung. Đoàn kết cũng chính là khoan dung,

chấp nhận mọi sự khác biệt, bỏ qua những lỗi lầm quá khứ để hướng tới tương

lai, nên nó cũng gắn liền với tinh thần hòa giải dân tộc. Trong thời đại ngày nay,

đoàn kết có phạm vi rộng hơn, không chỉ đoàn kết dân tộc mà còn là đoàn kết

thời đại, gắn liền với đoàn kết quốc tế, ở sự đồng tâm hiệp lực với tất cả nhân

loại tiến bộ trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình và thịnh vượng chung.

Trong thời gian gần đây, có nhiều ý kiến đề xuất nguyện vọng về sự ban

hành của “Luật Đoàn kết”. Điều đó phần nào cho thấy tầm quan trọng, cần thiết

lưu tâm của tinh thần đoàn kết đối với sự phát triển của quốc gia cũng như sự

tồn vong của chế độ chính trị. Nhưng quan trọng là nếu bộ luật đó ra đời thì

phải thể hiện được tinh thần cao thượng, nhân văn của dân tộc Việt Nam, cũng

là những giá trị mà nhân loại tiến bộ trân trọng, khao khát vươn tới và chia sẻ.

Ngoài ra, bộ luật ấy cũng cần dựa trên nguyên tắc: Thượng tôn lợi ích dân tộc,

phải đặt lợi ích dân tộc lên trên mọi lợi ích nhóm, phe phái, giai cấp, tôn giáo…

Đây cũng là bài học sâu sắc mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra khi tổng kết

30 năm đổi mới đất nước: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”

[42, tr.69-70].

4.2.3. Bài học về xây dựng nền văn hóa chính trị dân chủ

Tư tưởng về một nền chính trị thân dân là giá trị đặc thù nhất và quý giá

nhất trong lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, thường xuyên chi phối sự phát

triển của dân tộc, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự

do, chống áp bức bóc lột và tiến bộ xã hội của nhân dân ta. Tư tưởng thân dân đã

trở thành chuẩn mực để người dân Việt Nam đánh giá về một nền chính trị. Biểu

hiện cao nhất của chính trị là dân chủ, nó tồn tại vì/ phục vụ lợi ích quốc gia dân

tộc, lợi ích của nhân dân như là sứ mệnh và mục đích của nó. Nói cách khác

quyền và lợi ích của tổ quốc và của nhân dân phải được phát huy cao nhất.

Ở thời kỳ thịnh trị của mình, nhà Trần đã thực thi đường lối trị nước thân

dân. Đường lối chính trị đó đã giúp triều đình có thể “khoan sức dân”, tranh thủ

136

được tối đa sự đồng thuận xã hội. Nhưng đến cuối triều Trần, chính quyền xa rời

dân. Vua say mê hưởng lạc, không thấu hết sự lầm than của trăm họ, vương hầu

tự do chiếm đất công và bóc lột nông dân tàn bạo, khởi nghĩa nông nô nổi lên

khắp nơi. Chính quyền mục ruỗng ngay từ những thái ấp - điền trang vốn rất

kiên cố và chế độ quân chủ nhà Trần đi đến sụp đổ là một tất yếu của lịch sử.

Tư tưởng thân dân thời thịnh Trần là một trong những bài học về lẽ thịnh -

suy của triều đại nhà Trần nói riêng, của các triều đại, các chế độ chính trị nói

chung. Trong lịch sử, dù ở thời kỳ nào, triều đại nào, dù đối với một thể chế

chính trị nào, vai trò của người dân vẫn là quyết định. Lịch sử đã chứng minh,

triều đại nào biết đề cao tư tưởng thân dân, chế độ nào thực hành nền chính trị vì

dân, thì triều đại ấy, chế độ ấy bền vững và thịnh trị. Ngược lại, triều đại đó, chế

độ đó sẽ suy yếu hoặc diệt vong nếu xa rời nhân dân, không tin tưởng nhân dân

hay đi ngược lại lợi ích và nguyện vọng của dân chúng. Quan điểm coi dân như

ruột thịt, trao cho dân quyền quyết định vận mệnh dân tộc và “khoan sức dân để

lấy kế sâu rễ bền gốc” cũng như nỗ lực thực thi chính sách an dân… của thời

thịnh Trần có thể coi như triết lý chính trị cho mọi thời đại, cho tất cả những

nhà cầm quyền trong quá trình thực hiện đường lối chính trị tiến bộ, yêu nước,

nhân nghĩa. Chính vì vậy, việc tìm hiểu, kế thừa và phát huy tư tưởng thân dân

của thời thịnh Trần là việc làm thực sự ý nghĩa và cần thiết.

Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã

hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nghĩa là đang hướng đến

một nền chính trị tiến bộ, dân chủ, trong đó, người dân thực sự được đảm bảo

quyền làm chủ một cách toàn diện. Vấn đề dân chủ, thân dân đang được xem là

một trong những vấn đề hệ trọng của quốc gia.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với

quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, được pháp

luật bảo đảm, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là một hình thức thể hiện quyền tự do,

bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Dân chủ xã

hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự

137

phát triển đất nước. Vấn đề thực hành dân chủ đã và đang được Đảng quan tâm.

Những chủ trương, đường lối của Đảng về việc thực hành dân chủ và mở rộng

dân chủ hiện nay về cơ bản là phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, lợi ích

của đa số nhân dân.

Qua các kỳ Đại hội từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng

luôn xác định phải xây dựng, triển khai toàn diện và đồng bộ nền dân chủ xã hội

chủ nghĩa, và trên thực tế, quá trình thực hành dân chủ đã đạt được những thành

quả to lớn. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định

một số kết quả nhất định trong vấn đề thực hành dân chủ như: “Dân chủ xã hội

chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng”, “Quyền làm chủ của nhân dân

được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực

tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế” [42, tr.167].

Thực tế hơn 30 năm đổi mới cho thấy, việc coi trọng dân chủ như một động lực

và nỗ lực thực hành dân chủ đã giúp chúng ta khai thác, phát huy hiệu quả mọi

nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người, tạo nên sức mạnh, nội lực thúc đẩy

sự phát triển đất nước.

Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội XII cũng chỉ ra một số yếu kém của

việc phát huy dân chủ trong thời gian qua: “Nhận thức về dân chủ trong một bộ

phận cán bộ, đảng viên, nhân dân còn hạn chế. Tình trạng tách rời, thậm chí đối

lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ

của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc

thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng

dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh

quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” [42, tr.168]. Như vậy, vấn đề đặt ra trong quá

trình thực hành dân chủ là cần phải khắc phục các yếu kém từ nhận thức đến

hành động. Dân chủ phải được nhận thức đúng và việc thực hành dân chủ phải

đảm bảo hiệu quả và tính thực chất, tránh tình trạng dân chủ hình thức gây mất

niềm tin trong nhân dân, tạo cơ hội cho lực lượng thù địch lợi dụng chống phá.

Dân chủ cũng phải thực hiện từ trong ra ngoài, từ trong nội bộ Đảng, chính

quyền đoàn thể ra đến xã hội. Dân chủ phải gắn liền với kỷ cương, quốc pháp.

138

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có những diễn

biến phức tạp: các thế lực thù địch đang dùng chiêu bài “dân chủ” để chống phá

cách mạng Việt Nam. Trước bối cảnh đó, việc củng cố, tăng cường tính dân chủ

để tạo sự đồng thuận trong Đảng, trong các tầng lớp nhân dân là rất cần thiết.

Bởi lẽ đó là một phương thức quan trọng để tập hợp sức mạnh, tạo thành bức

tường thành vững chắc nhằm đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, bảo vệ

vững chắc thành quả cách mạng cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Giá trị của nền VHCT dân chủ thực sự là ở sự hài lòng, đồng lòng của

người dân đối với chính phủ, đối với chính sách của nhà nước. Mọi người dân

không chỉ được quan tâm, chăm lo, đảm bảo đời sống về cả vật chất lẫn tinh thần

mà còn phải được tôn trọng, được quyền lên tiếng để nói ra tâm tư, nguyện vọng

chính đáng của mình cũng như có cơ hội đóng góp sức mình cho công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước... Nền VHCT dân chủ là nền VHCT mà mọi chính

sách của nhà nước và chính phủ đều nhằm mục đích vì dân, an dân. Người lãnh

đạo phải tạo mọi điều kiện để người dân được tự do sáng tạo chân chính, được

quyền hưởng thụ văn hóa chính đáng, cũng chính là được giữ vai trò chủ thể văn

hóa của mình.

4.2.4. Bài học về xây dựng nền văn hóa chính trị tôn trọng hiền tài, trí thức

Đối với sự tồn tại, phát triển của một chế độ chính trị, một triều đại cũng

như đối với sự hưng vong của một cộng đồng, quốc gia, người hiền tài có vai trò

hết sức quan trọng. Chính sách đối với hiền tài trở thành một nhiệm vụ chính trị

mà bất cứ chính phủ hay nhà cầm quyền nào cũng cần phải lưu tâm.

Với tư duy khai phóng, với những chính sách thiết thực, hiệu quả trong

đào tạo, tuyển chọn và sử dụng nhân tài, nhà Trần đã phát huy được sĩ khí cả

nước trong trị quốc và đánh giặc, sản sinh rất nhiều anh tài, tuấn kiệt trên mọi

phương diện: chính trị, quân sự, ngoại giao, lịch sử, pháp lý, thi ca… Đây cũng

là lý do giải thích vì sao dù xuất thân dân chài, chuộng võ nghệ, nhưng sau khi

bước lên vũ đài chính trị, vua quan, quý tộc nhà Trần đã nhanh chóng trở thành

những người có học vấn cao, trong đó có những nhà trí thức lớn, văn võ kiêm

139

toàn, ở tầm cao của trí tuệ dân tộc. Đó là những con người đảm đương công

cuộc xây dựng đất nước thời bình và cũng là những tướng soái dũng lược trong

thời chiến, đã cống hiến lớn lao cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển

đất nước lúc bấy giờ. Chính sách trọng dụng nhân tài đã giúp nhà Trần ổn định

chính trị, phát triển văn hóa, xây dựng vương triều và quốc gia cường thịnh

trong hơn trăm năm.

Đến giai đoạn mạt Trần, khi người cầm quyền tối cao không còn đủ sáng

suốt, bao dung, dẫn đến tin dùng kẻ bất tài, gian nịnh, trù dập tài năng, không ít

người tài trở thành “nhà văn hóa cô đơn” như: Chu Văn An, Trần Nguyên Đán,

Đỗ Lễ, Trương Đỗ, Nguyễn Bẩm... Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến

sự cáo chung tất yếu của triều đại này, đồng thời cũng là bài học cho các triều đại

cũng như các chế độ chính trị khác.

Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế càng đòi hỏi một đội ngũ cán bộ ngày càng

đông đảo, vững mạnh về mọi mặt, cũng có nghĩa là đòi hỏi phải có nhiều nhân

tài. Việc xây dựng đội ngũ trí thức tài năng, chân chính là nhiệm vụ quan trọng

và cấp thiết. Vấn đề giáo dục - đào tạo con người, phát triển nguồn nhân lực đã

được đưa lên thành quốc sách, thành một nội dung quan trọng trong các chủ

trương, đường lối phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước, được thể hiện

trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong các văn bản

luật như Luật Giáo dục, Luật Cán bộ - công chức...

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong việc thực thi. Công tác tổ chức

giáo dục, đào tạo vẫn còn bị bệnh thành tích chi phối. Công tác tuyển dụng nhân

sự vẫn còn nhiều nạn tham nhũng, công tư bất minh. Khi đánh giá những tồn tại,

yếu kém của giáo dục đào tạo nước ta, NQHNTW lần thứ tám khóa XI đã phân

tích nguyên nhân: “Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện

đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có

mặt nghiêm trọng hơn” [40]. Điều đó đã tạo cơ hội cho không ít kẻ bất tài, xu

nịnh đắc ý còn người tài năng, trung thực thì khốn đốn, bất bình... Hiện thực này

không khỏi khiến chúng ta suy tư về quá khứ và rút ra những bài học kinh

140

nghiệm thấm thía, kế thừa và phát huy nó trong công cuộc xây dựng và phát triển

đất nước hôm nay.

Thứ nhất, trong đào tạo và bồi dưỡng nhân tài

Việc đào tạo nhân tài cần phải có cơ chế, chính sách toàn diện, đồng bộ, đổi

mới căn bản để nhằm mục đích đào tạo được nhiều nhân tài ở nhiều cấp độ, nhiều

lĩnh vực bằng nhiều loại hình thích hợp, có chất lượng, hiệu quả cao nhất. Công tác

giáo dục, đào tạo hiện nay, tất nhiên không thể theo mô hình thời quân chủ là học để

đi thi và làm quan, mà phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có

khả năng thích nghi với công việc, hình thành đội ngũ nhân lực năng động và sáng

tạo, đáp ứng những yêu cầu mới ở thế kỷ XXI. Giáo dục cần hướng đến mục tiêu là

“Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.

Cần thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục, xây dựng một xã hội học

tập, thành lập và tổ chức thực hiện tốt Quỹ quốc gia về đào tạo tài năng, nhất là

tài năng trẻ và Quỹ ủng hộ phát triển tài năng của đất nước. Mặt khác, tổ chức

bồi dưỡng cho nhân tài những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết ở nhiều lĩnh vực

để nhằm phát triển con người toàn diện.

Thứ hai, trong sử dụng và đãi ngộ nhân tài

Chính sách thu hút, tuyển dụng, trọng dụng và đãi ngộ người tài có vai trò

hết sức quan trọng và trở thành một yếu tố mang tầm chiến lược của quốc gia.

Việc sử dụng nhân tài là công việc hệ trọng, cần có những chính sách phù hợp

mới có thể huy động tối đa tài năng, không để tài năng bị lãng phí. Với người tài

năng, nếu biết đãi ngộ, sử dụng một cách thích đáng thì sẽ thành động lực mạnh

mẽ cho sự phát triển đất nước. Ngược lại, nếu người tài bị ngược đãi, sẽ gây tâm

lý bất bình, làm lãng phí nguồn lực và cản trở sự tiến bộ xã hội.

Khác với thời quân chủ, xã hội thời nay thông thoáng hơn nên cũng có

thái độ cởi mở hơn với người tài. Nhiều cá nhân tài năng có nhiều cơ hội để thi

thố. Tuy nhiên, trong khi chúng ta tiến hành mở cửa hội nhập khu vực và quốc

tế, cơ hội cho người tài được thi thố cũng nhiều nhưng nguy cơ lãng phí tài năng

cũng không ít. Cần có chính sách linh hoạt trong sử dụng nhân tài để sao cho vừa

tránh tình trạng “chảy máu chất xám” vừa thu hút được nhiều tài năng trở về

141

cống hiến cho nước nhà, nhất là những người trẻ tuổi. Cần đẩy mạnh và thực

hiện tốt hơn nữa công tác trẻ hóa đội ngũ cán bộ, giao trọng trách cho cán bộ trẻ

đủ “tâm” và “tầm” để khuyến khích tài năng, tạo cơ hội cho người trẻ tuổi sớm

vào cuộc, đóng góp sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Cần thực hiện việc bổ nhiệm, đề bạt kịp thời, chính xác và xứng đáng với

năng lực, đóng góp của người tài. Với những tài năng lớn, cần có chế độ đãi ngộ

đặc biệt để khuyến khích, động viên họ đóng góp hết mình vào công cuộc xây

dựng và phát triển đất nước. Lựa chọn một số trí thức có năng lực, trí tuệ nổi trội

để bồi dưỡng họ trở thành những nhân tài trên một số lĩnh vực trọng điểm, mũi

nhọn, có kế hoạch dài hơi với đối tượng này để phát triển nguồn nhân lực trong

tương lai mang tầm chiến lược.

Đặc biệt, để cho người thực tài, người trí thức chân chính không rơi vào

tâm lý bi quan, chán nản và không yên tâm công tác, trong công tác nhân sự,

tuyển dụng cán bộ phải hết sức công tâm, khách quan, chặt chẽ, kỹ lưỡng. Trong

thời gian qua, việc tuyển dụng cán bộ dựa vào “quan hệ, tiền tệ, hậu duệ” không

phải ít, khiến không ít người tài bị bỏ rơi và nhiều kẻ bất tài đắc chí. Chính vì

vậy, công tác thi tuyển cán bộ cần thực hiện một cách công khai, minh bạch, chí

công vô tư. Khi sử dụng cán bộ, cần cẩn trọng, dùng đúng người, đúng việc để

phát huy tối đa những lợi thế của nguồn nhân lực. Ở những vị trí quan trọng, chủ

chốt, cần tuyển dụng người hội đủ hai yếu tố “đức” và “tài” mới đủ sức đảm

đương nhiệm vụ mà tổ quốc và nhân dân giao phó. Công tác sử dụng cán bộ, quy

hoạch cán bộ cũng cần thực hiện đúng quy trình, tránh tình trạng đốt cháy giai

đoạn, thăng tiến nhảy vọt và vượt cấp tạo cơ hội cho một số kẻ lợi dụng để tham

nhũng, mua quan bán chức như một số cơ quan, đơn vị vừa qua.

Đồng thời, cần có chính sách thi khảo hạch chặt chẽ, thường xuyên để

thanh lọc đội ngũ cán bộ, tránh tình trạng “vàng thau lẫn lộn” và tạo điều kiện

cho nhân tài tự rèn luyện, trau dồi, phát triển bản thân. Mặt khác, cần có cơ chế,

quy định xử phạt nghiêm khắc đối với những tệ nạn như tham nhũng, chạy chức,

chạy quyền của những kẻ bất tài, gian dối và cơ hội. Có như thế mới thể hiện

142

thái độ trân quý tài năng, mới động viên, khích lệ được những tài năng thực sự

vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước nói chung, VHCT nói riêng.

Nghị quyết số 26-NQ/TW (Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành TW Đảng

khóa XII) ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là

cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đã đặt ra

vấn đề chọn lọc, sử dụng đúng cán bộ, ngăn chặn tình trạng chạy chức chạy

quyền, để lọt cán bộ không xứng đáng đồng thời khẳng định “không có vùng

cấm” trong xử lý sai phạm về công tác cán bộ. Đây là bước đột phá trong công

tác cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, cần được kịp thời triển khai và thực

hiện hiệu quả.

Nhân tài có vai trò quan trọng với quốc gia: “Hiền tài là nguyên khí quốc

gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế

nước yếu mà thấp hèn” (Thân Nhân Trung), cho nên bài học về việc trọng dụng

nhân tài cũng chính là bài học thấm thía về lẽ thịnh - suy của một dân tộc mà triều

Trần để lại cho hậu thế. Nhìn lại chính sách đối với nhân tài thời thịnh Trần, thiết

nghĩ đến hôm nay, chúng ta vẫn còn nhiều điều cần học hỏi. Tất nhiên, có một số

điểm trong công tác đào tạo, tuyển dụng nhân tài của thế kỷ XIII, đến hôm nay

không còn phù hợp nữa. Nhưng có thể nói, thái độ và ứng xử trân quý người tài,

tư duy khai phóng và những chính sách thiết thực, tiến bộ của nhà Trần, thì chưa

hề xưa cũ. Từ việc chăm lo giáo dục, khoa cử, đến đường lối cầu hiền rộng mở để

huy động tối đa nhân tài trong xã hội, rồi cách thức dùng người đúng khả năng,

chọn người thực tài, nhất là thái độ chí công vô tư trong tuyển dụng, không để cho

kẻ bất tài, gian nịnh có cơ hội lộng hành còn người thực tài bất đắc chí… đều là

những nguyên tắc quý báu cho chúng ta khi muốn xây dựng một xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh, xây dựng đất nước cường thịnh cũng như tự tin trong công

cuộc mở cửa, hội nhập với bạn bè quốc tế.

4.2.5. Bài học về xây dựng nền văn hóa chính trị khoan dung, hướng

tới hòa bình, hợp tác vì phát triển

“Khoan dung” là khái niệm xuất hiện khá sớm trong văn hóa Á Đông.

Ngày nay, khái niệm này được mở rộng hàm nghĩa và trở thành một vấn đề

143

mang tính thời sự toàn cầu, là mối quan tâm của nhân loại tiến bộ. Nó được đặt

ra trong bối cảnh tính đa dạng ở từng quốc gia và trên toàn thế giới đang bị xâm

hại nghiêm trọng bởi các quan điểm chính trị, tôn giáo cực đoan, hẹp hòi kéo

theo nguy cơ “xung đột văn hóa” và nhiều xung đột khác về kinh tế, chính trị, xã

hội dẫn đến những tranh chấp, khủng bố, chiến tranh… đang diễn ra ngày càng

phổ biến và phức tạp. Yêu cầu về sự chung sống hòa bình, thái độ khoan dung,

đối thoại, tôn trọng sự khác biệt của các nền văn hóa trên thế giới đặt ra cấp

thiết. Ngày 16-11-1995, tại Hội nghị toàn thể lần thứ 28, UNESCO đã khởi

xướng “Ngày Khoan dung quốc tế”, thông qua bản Tuyên bố về các nguyên tắc

(nguyên lý) của khoan dung. Trong bản tuyên bố này, khoan dung được định

nghĩa là “tôn trọng, chấp nhận và cảm thông đối với tính đa dạng của các nền

văn hóa trên thế giới, các hình thức biểu hiện và các cách thức tồn tại của con

người. Lòng khoan dung được nuôi dưỡng bởi kiến thức, sự cởi mở, sự giao tiếp,

sự tự do tư tưởng, khả năng nhận thức và đức tin. Khoan dung là hài hòa trong

khác biệt. Khoan dung vừa là một bổn phận đạo đức, vừa là một đòi hỏi pháp lý

và chính trị” [56]. Như vậy, quan điểm của UNESCO hàm chứa một ý niệm mới

mẻ về lòng khoan dung. Theo đó, khoan dung không chỉ là một lối hành xử có

văn hóa giữa các cá nhân trong một cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng

đồng khác mà quan trọng hơn, khoan dung còn là một nghĩa vụ chính trị mà tất

cả các nhà nước đều phải có trách nhiệm thực hiện. Nó thuộc phạm trù VHCT

mà bất cứ chủ thể chính trị tiến bộ nào cũng phải thấm nhuần và cố gắng để hiện

thực hóa.

Điều đáng nói là những vấn đề mang tầm thời đại và tính phổ quát của

nhân loại ấy, đã được đặc biệt đề cao, coi trọng và thực thi rất hiệu quả với

những cách thức độc đáo ở đất nước ta, ngay từ thời đại nhà Trần - khi mà các

chủ thể chính trị chưa biết và chưa đề cập đến những khái niệm lý luận, những

nguyên lý của khoan dung. Những ứng xử đẹp như bao dung với lỗi lầm, dùng

lòng khoan dung để hóa giải mâu thuẫn chính trị, tinh thần yêu chuộng hòa bình,

phản đối chiến tranh, đề cao nhân quyền, tôn trọng sự khác biệt… mà nhà Trần

đã thực hiện chính là những vấn đề cốt lõi và vĩnh cửu của văn hóa khoan dung.

144

Nhưng cần lưu ý là tinh thần khoan dung khai phóng hôm nay không chỉ đơn

thuần là lòng bác ái, ôn hòa trong đường lối chính trị. Nó còn là sự mở cửa khai

phóng tài năng, sáng tạo của con người, là thái độ chấp nhận những sự đa dạng văn

hóa, là tinh thần đối thoại hòa hợp để cùng tồn tại, phát triển..., nghĩa là phải xây

dựng một nền “văn hóa mở”. Đây là điều hết sức quan trọng bởi lẽ nó sẽ là con

đường để hội tụ tinh hoa nhân loại kết hợp với sức mạnh nội tại của dân tộc, tạo nên

nguồn lực mạnh mẽ cho phát triển mà theo cách nói của tác giả Phan Hồng Giang,

Bùi Hoài Sơn: “mở cửa về văn hóa sẽ giúp một cộng đồng nâng cao năng lực tiếp

nhận các giá trị tiến bộ và loại bỏ những gì lạc hậu và cản trở sự phát triển, cũng tức

là nâng cao năng lực cạnh tranh của chính cộng đồng” [57, tr.37].

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế nhiều biến động hiện nay,

sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước của chúng ta không thể tách rời triết lí

khoan dung và tinh thần hợp tác, yêu chuộng hòa bình. Việt Nam đã hưởng ứng

sự kiện Năm quốc tế Khoan dung (The United Nations Years for Tolerance)

(2015) như một sự hòa nhịp khát vọng hòa hợp, đồng thuận cao của nhân loại

tiến bộ. Trong mọi đường lối chính trị ngoại giao cũng như nội trị, Đảng và Nhà

nước ta luôn đề cao tinh thần khoan dung, hướng tới hòa bình, hợp tác vì sự phát

triển bền vững. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào

việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và

trên thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ

quyền của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt

về lợi ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu

biết và tôn trọng lẫn nhau. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong

muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp

tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng

có lợi. Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa

phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là

thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ

lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác

145

cùng có lợi với các quốc gia, luôn nhất quán sử dụng các biện pháp hòa bình và

tận dụng mọi cơ hội, mọi kênh đối thoại để giải quyết tình hình hiện nay một

cách hòa bình. Trong bài phát biểu đề dẫn tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 12 ở

Singapore, trong đó nhấn mạnh việc xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình,

hợp tác, thịnh vượng, vị nguyên thủ quốc gia - đại diện cho chính phủ và nhân

dân Việt Nam - đã khẳng định niềm tin sâu sắc vào tương lai tươi sáng trong hợp

tác phát triển của khu vực. Đó cũng chính là phương châm, là điểm cốt lõi trong

đường lối chính trị của nước ta thời đại ngày nay.

Tuy nhiên, trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đang diễn biến

ngày càng phức tạp, sự chống phá của các thế lực thù trong, giặc ngoài, âm mưu

“diễn biến hòa bình” đang tiềm ẩn những nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ,

thì tinh thần khoan dung, yêu chuộng hòa bình, hợp tác và phát triển cần dựa trên trí

tuệ thực tế, tỉnh táo. Trong thời gian tham dự Diễn đàn kinh tế Thế giới về Đông Á

2014, khi trả lời phỏng vấn của Hãng tin AP (Mỹ) và Reuters (Anh) về tình hình

Biển Đông cũng như các biện pháp giải quyết của Việt Nam, vị nguyên thủ quốc

gia Việt Nam đã khẳng định: “Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị

nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng

biển và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một

thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó” [35].

4.2.6. Bài học về xây dựng nhân cách chính trị cho nhà cầm quyền

Thứ nhất, nhà cầm quyền cần xác định thái độ đúng đối với quyền lực

Trong giai đoạn thịnh trị của triều Trần, đại đa số người cầm quyền coi

quyền lực là thứ quyền năng không tuyệt đối, không phải sở hữu duy nhất của cá

nhân. Chính nhận thức đúng đắn đó đã ngăn ngừa hiện tượng tha hóa quyền lực.

Ở thời thịnh Trần, không có hiện tượng tranh quyền đoạt vị, hoàng tộc và quần

thần sống chan hòa trong sự chia sẻ quyền lực và trách nhiệm. Các đời vua nối

tiếp nhau nhường ngôi cho con thậm chí sẵn sàng từ bỏ vinh hoa phú quý để

sống kiếp tu hành khổ hạnh chốn thâm sơn cùng cốc.

146

Đây là một bài học lớn cho mọi nhà chính trị ở mọi thời đại. Người cầm

quyền chân chính cần có nhận thức đúng về quyền lực chân chính. Hiện nay,

Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, tham gia vào

quá trình toàn cầu hóa, vấn đề tha hóa quyền lực đang là nguy cơ lớn đối với

VHCT nước ta. Hiện tượng phân chia quyền lực, lợi ích nhóm, một bộ phận

sẵn sàng dẫm lên các giá trị để đạt được tham vọng quyền lực... không phải

không phổ biến. Trong thời gian gần đây nổi lên nhiều vụ án mà tội phạm

chính là những người nắm giữ những trọng trách, địa vị cao trong bộ máy

quyền lực nhưng đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn, đi ngược lại niềm tin và

sự giao phó của nhân dân. Vấn đề đặt ra là phải làm sao cho những người nắm

quyền nhận thức được giá trị đích thực của quyền lực chân chính để không

mơ hồ, đề cao hay thần thánh hóa quyền lực, không biến quyền lực thành mục

tiêu cuối cùng để rồi sẵn sàng giành lấy quyền lực bằng mọi giá hay dễ dàng

sa đọa vì quyền lực, mà ngược lại, khi cần, sẵn sàng buông xả quyền lực, vì

lợi ích chung.

Ở thời thịnh Trần, vua quan thanh liêm cũng bởi vì họ ý thức được

quyền lực là thứ cần được kiểm soát và hạn chế. Trong giai đoạn thịnh trị của

mình, vương triều Trần đã xây dựng nhiều điều luật để ngăn ngừa, đe dọa và

xử phạt các tội phạm liên quan đến lạm quyền, lộng quyền và tham nhũng của

đội ngũ quan liêu, quý tộc. Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề kiểm soát quyền

lực, đấu tranh chống tha hóa quyền lực, thanh lọc đội ngũ cán bộ lãnh đạo

càng đặt ra cấp thiết. Cùng với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, xây dựng Chính phủ “liêm chính”, tăng cường giáo dục đạo đức

công dân, đạo đức công quyền, chúng ta cần xây dựng một thể chế chính trị

dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch và nâng cao vai trò kiểm soát xã hội

của nhân dân... Cần cơ cấu và phân bổ lại chức năng, quyền hạn của các cơ

quan nhà nước theo hướng kiểm soát và điều chỉnh lẫn nhau để Nhà nước thật

sự là một cơ thể thống nhất và có khả năng tự kiểm soát, tự điều chỉnh, có khả

năng sửa sai nhanh nhất. Cần có sự đổi mới căn bản nội dung và phương thức

147

lãnh đạo của Đảng, trong đó có phương thức lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật

sự của nhân dân, bảo đảm quyền lực là của nhân dân. Đó chính là những công

cụ mới để kiểm soát quyền lực trong thời đại ngày nay, mà nếu thực hiện tốt

sẽ xây dựng nền VHCT tiến bộ và đủ sức đề kháng cao với căn bệnh tha hóa

quyền lực.

Thứ hai, nhà cầm quyền cần có tinh thần dấn thân

Phần nhân cách đẹp nhất của nhà cầm quyền thời thịnh Trần là tinh thần

dấn thân, xả thân vì nghĩa lớn, vì lợi ích dân tộc và hạnh phúc của thần dân.

Thấm nhuần triết lý Thiền tông, đạt đến “cảnh giới vô ngã”, vua và vương hầu,

thái tử không phải là kẻ ngồi trong chốn cửu trùng để hưởng vinh hoa mà sẵn

sàng xông pha nơi lam chướng nghìn trùng, binh đao nguy hiểm. Quan lại và

tướng lĩnh đầu triều sẵn sàng xả thân cứu chúa, sẵn sàng dùng sinh mạng để giữ

trọn lời thề quyết tử giết giặc lập công. Không phải thời thịnh Trần không có

những kẻ “tham sinh uý tử”, “bảo mạng cầu an” như Trần Ích Tắc, Trần Kiện,

Trần Nhật Hiệu... Nhưng đại đa số người cầm quyền thời thịnh Trần là những

người quả cảm, vị quốc vong thân. Có thể thấy toàn bộ cuộc đời của các bậc

minh quân, lương tướng trong giai đoạn thịnh trị của nhà Trần đã luôn sống với

tinh thần “vô ngã vị tư” ấy. Cuộc đời, hành trạng và sự nghiệp của họ đã là

những minh chứng xác thực và sinh động nhất cho triết lý xả thân: “Tựu nhược

dĩ thân vi thiên hạ chi tiên dã” (Lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên

hạ) [tựa sách Thiền tông chỉ nam]. Hành động đó càng được nhân lên giá trị khi

họ chính là những người đứng đầu đất nước, nó có ý nghĩa nêu gương, khơi dậy

hào khí cho cả thời đại, có khả năng động viên tinh thần của hàng vạn con người,

quy tụ trăm họ vào ngọn cờ đại nghĩa.

Giai đoạn hậu Trần, khi đất nước đã thái bình, tan bóng ngoại xâm, vua

không phải thân hành chiến bào lưng ngựa, thần không phải “quyết tử cho tổ

quốc quyết sinh” thì nhu cầu hưởng thụ lại tăng lên ở những người cầm quyền.

Lúc này vua quan ăn chơi sa đọa, thích hưởng thụ, ngại xông pha. Điều đó đã

148

khiến cho chính quyền ngày một xa dân, người cầm quyền không còn chung lợi

ích với trăm họ. Vương triều vì thế đã lung lay, mục ruỗng từ gốc rễ dẫn đến sụp

đổ sau đó.

Hôm nay, chúng ta đang xây dựng một đất nước văn minh mà trong đó

phương châm của chính phủ là “liêm chính, kiến tạo và hành động” có lẽ cũng

không phải không có nguồn cội từ văn hóa dấn thân của nhà cầm thời thịnh Trần.

Để thu phục nhân tâm, người lãnh đạo không phải là người đứng ở vị trí cao nhất

với những đặc quyền đặc lợi mà trái lại phải là những con người liêm chính, vị

công vô tư, những con người dám hành động, dám dấn thân vì lý tưởng chung

của nhân dân, của dân tộc. Đó cũng phải là những con người biết đấu tranh với

nhu cầu hưởng thụ vị kỷ của cá nhân để sống và làm việc vị tha, xứng đáng với

trách nhiệm mà nhân dân đã giao phó và ủy quyền.

Thứ ba, nhà cầm quyền cần có tự trọng và liêm sỉ cao

Nhận thức đúng về quyền lực chân chính, để không tham quyền cố vị,

không tranh giành quyền lực, không ham mê hưởng thụ, mà sẵn sàng buông xả

và dấn thân, đó là con đường để người cầm quyền tìm ra giá trị của lòng tự trọng

và liêm sỉ. Để xây dựng một nền VHCT tiến bộ, không thể không xây dựng nhân

cách của người cầm quyền, để xây dựng nhân cách người cầm quyền, không thể

không hình thành ở họ lòng tự trọng, liêm sỉ.

Đây là một bài học lớn cho những người nắm quyền trong hệ thống chính

trị. Bởi như đã nói ở trên, lòng tự trọng sẽ được thử thách quyết liệt khi đặt con

người trong quan hệ lợi ích, liêm sỉ con người phải được đánh giá khi đứng giữa

cái được và mất, cá nhân và cộng đồng. Người cầm quyền là người đại diện cho

lợi ích cộng đồng, vì vậy, sự thử thách này mới giúp đánh giá đúng nhân cách

của họ. Chọn nghĩa hay lợi, vị công hay vị tư? Sự lựa chọn sẽ là đáp án cho câu

hỏi về tự trọng và liêm sỉ.

Thời thịnh Trần hội tụ những con người tự trọng, ý thức cao về liêm sỉ.

Lòng tự trọng đã hun đúc nên ý chí quyết chiến với quân thù, giành giữ non sông

gấm vóc, giúp cho nội bộ triều đình đoàn kết, bỏ qua những tỵ hiềm, lợi ích hẹp

149

hòi vì đại cục quốc gia. Lòng tự trọng cũng giúp cho triều Trần tự tin đối thoại

với Trung Hoa, vượt thoát khỏi âm mưu đồng hóa. Lòng tự trọng cũng giúp cho

mỗi con người tự hoàn thiện chính mình, sống cao thượng hơn, xứng đáng hơn.

Tuy nhiên, không thể không nói đến vai trò nêu gương của nhà cầm quyền,

những đấng minh quân, trung thần, lương tướng... mà nhân cách còn chói sáng

mãi mãi. Cũng chính luồng ánh sáng rực rỡ đó sẽ soi rọi để chúng ta nhìn nhận

rõ hơn cho nhân cách chính trị hôm nay.

Trong NQHNTW lần thứ tư khóa XI, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có sự suy thoái về đạo đức, lối sống.

Hiện tượng tha hóa quyền lực, ham mê hưởng thụ, lộng quyền, lạm quyền, tham

nhũng, bòn rút của công, thiếu tinh thần trách nhiệm... đã và đang diễn ra phổ

biến trong giới cầm quyền thời gian gần đây. Con người đã đi quá những giới

hạn cho phép, và không tự thấy hổ thẹn với chính mình và mọi người, lòng tự

trọng và liêm sỉ ở một bộ phận cán bộ hiện nay đang đáng báo động.

Không phải không có những cán bộ đảng viên liêm khiết, chính trực.

Không phải không có một số người lãnh đạo khi tự thấy mình có khiếm khuyết

đã trung thực, thẳng thắn tự phê bình, tự nhận lỗi, hoặc tự từ chức. Nhưng làm

sao để nó trở thành một thứ văn hóa trong người cầm quyền, thành một thói quen

ứng xử chính trị dựa trên lương tri và trách nhiệm, khi những người lãnh đạo

thấy mình có thiếu sót, khuyết điểm, hay không còn xứng đáng đảm nhận được

nhiệm vụ. Văn hóa từ chức là một trong những biểu hiện sinh động, cụ thể và

thiết thực nhất về một nền chính trị văn minh dựa trên phẩm giá, lòng tự trọng và

bản lĩnh của những nhà lãnh đạo thực sự có tâm huyết và dũng khí.

Chức vụ gắn liền với quyền lợi và quyền hành, chức vụ càng cao thì

quyền lợi và quyền hành càng lớn. Làm sao để người giữ chức vụ sử dụng

quyền hành phù hợp và không vì quyền lợi cá nhân mà dẫm đạp lên lợi ích

cộng đồng? Đây cũng chính là lời giải cho công cuộc xây dựng nền VHCT

Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước hoàn

cảnh mới.

150

Tiểu kết chương 4

Trên cơ sở sự phân tích diện mạo của VHCT ở chương 3, chương 4

khái quát giá trị và những hạn chế của VHCT thời thịnh Trần. Đó là nền

VHCT thể hiện tinh thần yêu nước - đoàn kết, thân dân, khoan dung khai

phóng. Bên cạnh những giá trị to lớn, VHCT thời thịnh Trần cũng còn một số

hạn chế trong quan niệm về dân, trong chế độ quân chủ tông tộc và trong nhân

cách của người cầm quyền.

Do tương đồng về nhiệm vụ chính trị, những bài học từ VHCT thời thịnh

Trần để lại như: Xây dựng một nền VHCT yêu nước, đoàn kết; thân dân; trọng

dụng nhân tài; khoan dung khai phóng hướng tới hòa bình, hợp tác vì phát triển...

thì vẫn có ý nghĩa thiết thực đối với việc xây dựng và phát triển nền VHCT ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay.

151

KẾT LUẬN

1. Văn hóa chính trị là một thành tố của văn hóa, có vai trò quan trọng

trong lịch sử văn hóa dân tộc và trong đời sống chính trị - xã hội của một quốc gia.

Chính vì thế, vấn đề VHCT đã được các nhà khoa học trên thế giới cũng như Việt

Nam quan tâm nghiên cứu với nhiều xu hướng tiếp cận khác nhau và bước đầu

hình thành những hệ hình khái niệm phong phú.

Từ cách tiếp cận văn hóa học, luận án quan niệm VHCT là một thành tố của

văn hóa nói chung, thuộc tiểu hệ văn hóa xã hội. Thuật ngữ “VHCT” ở đây được

hiểu là một nền VHCT với hệ thống cấu trúc bao gồm 4 thành tố: định hướng giá trị

trong chính trị, sự vận hành chính trị, nhân cách chính trị và ngoại hiện chính trị. Có

thể coi đây là những thành tố căn cốt, có mối quan hệ hữu cơ, tạo nên một chỉnh thể

thống nhất mà các nền VHCT thường có, tạo nên trường hoạt động chính trị của

một cộng đồng.

2. Thời thịnh Trần (1225-1329) là giai đoạn bình trị, thịnh vượng bậc nhất

của vương triều Trần. Đây là giai đoạn đất nước có sự phát triển đồng bộ về mọi

mặt và có những phương diện đạt đến đỉnh cao rực rỡ, tạo ra một nền VHCT độc

với những nét riêng hầu như không lặp lại trong lịch sử các vương triều quân chủ

Việt Nam.

Dựa trên cấu trúc VHCT chung, diện mạo VHCT thời thịnh Trần đã được

luận án tiến hành miêu tả, lý giải. Đó là nền VHCT dựa trên lý tưởng độc lập tự

cường, triết lý quyền lực dựa vào sức mạnh của dân, đường lối chính trị thân dân,

khoan dung - khai phóng. Nền VHCT ấy được vận hành trên cơ sở chế độ quân

chủ tông tộc, bộ máy nhà nước và quan chế khá quy củ và tinh gọn, qua hệ thống

luật pháp nghiêm minh với phương thức quản lý xã hội, đào tạo tuyển dụng người

cầm quyền độc đáo. Chủ thể của nền VHCT đó là con người thời thịnh Trần với

những phẩm chất tiêu biểu như ý thức tự trọng, tinh thần vô ngã, tố chất “anh

hùng - nghệ sĩ” mà đỉnh cao là mẫu nhân cách “minh quân - trung thần”. Diện

mạo và giá trị của VHCT thời thịnh Trần được bộc lộ qua hệ thống ngoại hiện

152

chính trị mang màu sắc riêng với các biểu tượng mang tinh thần thời đại, quyền

lực và sự tôn nghiêm, biểu thị trật tự xã hội.

3. Do những tiền đề đặc biệt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, VHCT

thời thịnh Trần đã hội đủ và thăng hoa những giá trị như yêu nước - đoàn kết, thân

dân, khoan dung - khai phóng... Bên cạnh đó, nền VHCT này vẫn còn những hạn

chế trong nhận thức về dân, trong chế độ và bộ máy nhà nước theo mô hình quân

chủ tông tộc, trong nhân cách của người cầm quyền.

“Ôn cố nhi tri tân”, nghiên cứu VHCT thời thịnh Trần là một cách để ta

giải mã lẽ thịnh - suy của triều Trần nói riêng, của các triều đại, các chế độ chính

trị nói chung. Công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế đang đặt ra nhiều

vấn đề mới cho khoa học chính trị, cho VHCT Việt Nam. Nền VHCT hiện nay

phải vừa phù hợp với yêu cầu thời đại vừa kế thừa được những tinh hoa tốt đẹp

của truyền thống. Vấn đề xây dựng nền VHCT yêu nước, đoàn kết; xây dựng

nền VHCT dân chủ, tôn trọng hiền tài; xây dựng nền VHCT khoan dung hướng

tới hòa bình, hợp tác vì phát triển; xây dựng nhân cách nhà chính trị dấn thân, tự

trọng..., mà nhà Trần để lại là những bài học sâu sắc và quý giá mà chúng ta cần

phải kế thừa và phát huy một cách nghiêm túc nhằm đạt đến một nền VHCT Việt

Nam văn minh, tiến bộ, vì con người, hợp lòng người.

153

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nghiêm Thị Thu Nga (2014), “Đóng góp của nhà Nho với nền giáo dục Việt

Nam thời trung đại”, Tạp chí Giáo dục, (327), tr.12-15.

2. Nghiêm Thị Thu Nga (2017), “Giá trị văn hóa trong chính sách trọng dụng

nhân tài của nhà Trần”, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, (20), tr.63-68.

3. Nghiêm Thị Thu Nga (2017), “Đóng góp tiêu biểu của Trần Nhân Tông với

văn hóa Việt Nam”, Thông tin Văn hóa và Phát triển, (53), tr.26-33.

4. Nghiêm Thị Thu Nga (2017), “Văn hóa chính trị thời Trần qua triết lý về

quyền lực của người cầm quyền”, Thông tin Văn hóa và Phát triển,

(54), tr.18-23.

5. Nghiêm Thị Thu Nga (2017), “Một số điểm độc đáo về tư tưởng thân dân

thời Trần”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (398), tr.6-9.

6. Nghiêm Thị Thu Nga (2018), “Giá trị của văn hóa chính trị thời thịnh Trần -

nhìn từ nhân cách chính trị”, Thông tin Văn hóa và Phát triển, (56),

tr.41-48.

7. Nghiêm Thị Thu Nga (2018), “Một số giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị thời

thịnh Trần”, Tạp chí Thế giới di sản, (143), tr.45-50.

8. Nghiêm Thị Thu Nga (2018), “Sức sống của văn hóa khoan dung thời thịnh

Trần”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (407), tr.19-22.

154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu tiếng Việt

1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, (tái bản), Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội

2. Đào Duy Anh (2008), Hán Việt từ điển giản yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Phạm Đức Anh (2016), Mô hình tổ chức nhà nước ở Việt Nam thế kỷ X - XIX, Nxb

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

4. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh - văn hóa và phát

triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

5. Hoàng Tuấn Anh và cộng sự (2012), Xây dựng nhân cách văn hóa, những bài

học kinh nghiệm trong lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

6. Nguyễn Quang Ân (chủ biên) (1998), Những gương mặt trí thức, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

7. Trần Đình Ba (2015), Nhưng điều lạ thời Trần, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

8. Huỳnh Công Bá (2012), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.

9. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

10. Hoàng Chí Bảo (2005), “Văn hóa chính trị và cuộc vận động quần chúng

nhân dân trong tình trạng hiện nay”, Tạp chíDân vận, (1), tr.15-18.

11. A.A.Belik (2000),Văn hóa học - những lý thuyết về nhân học văn hóa, Nxb

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

12. Nguyễn Lương Bích (1968), “Một điểm nổi bật trong đường lối chỉ đạo

chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta thời Lý - Trần: Vấn đề tổ

chức hậu phương”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (115).

13. Trần Văn Bính (2000), Vai trò của văn hóa trong hoạt động chính trị của

Đảng ta hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.

14. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và

ảnh hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

155

15. Bộ Văn hóa thông tin và thể thao (1992), Thập kỷ văn hóa thế giới vì phát

triển, Hà Nội.

16. A.X.Carmin (2012), Văn hóa học, Nxb Moscow, Saint Petersburg, (Hoàng

Vinh dịch).

17. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (1997), Từ điển Biểu tượng văn hóa thế

giới, Nxb Đà Nẵng - Trường viết văn Nguyễn Du.

18. E.A.Ơ-cơ-lat Nhi-co-va (2008), Xã hội học văn hóa, Saint Petersburg,

(Hoàng Vinh dịch).

19. Đoàn Trung Còn (1996), Đại học - Trung dung, Nxb Thuận Hóa, Huế.

20. Vũ Hoàng Công (2004), Văn hóa trong tổ chức, sử dụng và tuân thủ quyền

lực, Tạp chí Lý luận chính trị, (11)

21. Quỳnh Cư, Văn Lang, Nguyễn Anh (1999), Danh nhân Việt Nam, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

22. Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2001), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên,

Hà Nội.

23. Nguyễn Đổng Chi (1976), “Vấn đề chiếm hữu nô lệ thời Lý - Trần”, Tạp chí

Nghiên cứu Lịch sử, (4).

24. Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên) (1988), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Phương Chi (2002), Thái ấp - điền trang thời Trần (thế kỷ XIII -

XIV), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

26. Nguyễn Thị Phương Chi (2009), Kinh tế, xã hội thời Trần (thế kỷ XIII -

XIV), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Phan Huy Chú (1998), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

28. Phan Huy Chú (1998), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

29. Tạ Thành Chung (2017), Văn hóa chính trị công an nhân dân trong điều kiện

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Chính trị

học, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.

156

30. Trương Văn Chung, Doãn Chính (Đồng chủ biên) (2008), Tư tưởng Việt

Nam thời Lý - Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Thiều Chửu (1999), Hán Việt tự điển, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

32. Phan Hữu Dật (1994), Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch

sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Phan Đại Doãn (1999), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2010), Giáo trình chính trị học, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

35. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2014), trả lời phỏng vấn của Hãng tin AP

(Mỹ) và Reuters (Anh) về tình hình Biển Đông cũng như các biện pháp

giải quyết của Việt Nam, tại trang http://vtv.vn/trong-nuoc/khong-chap-

nhan-danh-doi-chu-quyen-thieng-lieng-de-lay-hoa-binh-huu-nghi-vien-

vong-141860.htm [truy cập ngày 22/05/2014].

36. Nguyễn Đăng Duy (2004), Văn hóa Việt Nam - đỉnh cao Đại Việt, Nxb Hà

Nội, Hà Nội.

37. Nguyễn Thị Thùy Duyên (2015), Tư tưởng chính trị thời Trần - nội dung,

đặc điểm và ý nghĩa lịch sử, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại

học Khoa học xã hội và nhân văn TP. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

38. Đỗ Thanh Dương (2008), Trần Nhân Tông - nhân cách văn hóa lỗi lạc, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

39. Quang Đạm (1999), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCHTWĐ

khóa XI, tại trang:https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-

quyet-29-NQ-TW-nam-2013-doi-moi-can-ban-toan-dien-giao-duc-dao-

tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

157

43. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam -

những suy ngẫm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

44. Phạm Duy Đức (2006), Những thách thức của văn hóa Việt Nam trong quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa,

Hà Nội.

45. Phạm Duy Đức (2017), Các nguyên nhân làm sụp đổ chế độ chính trị trong

lịch sử Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ trọng điểm, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

46. Trần Quang Đức (2013), Ngàn năm áo mũ, Nxb Thế giới, Hà Nội.

47. Lê Quý Đức (2008), Lịch sử văn hóa Việt Nam thời kỳ cổ trung đại, Đề tài khoa

học cấp cơ sở, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

48. Lê Quý Đức (2008), Văn hóa lãnh đạo và quản lý - vấn đề và giải pháp, Đề tài

khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

49. Lê Quý Đức (2014), Giáo trình Văn hóa chính trị, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, [Tài liệu chưa xuất bản].

50. Trần Hồng Đức (1999), Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các

triều đại phong kiến Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

51. Trần Hồng Đức (2014), Vương triều Lý - Trần định đô ở Thăng Long, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

52. Lê Văn Được (1991), Thuật trị nước của người xưa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

53. Diêm Thị Đường (1998), Bảo tồn và phát huy giá trị danh nhân văn hóa

truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

54. Th.Gordon (2001), Đào tạo người lãnh đạo hiệu quả, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

55. A.A.Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

56. Hoàng Giang (2014), Khoan dung - động lực để chấn hưng đất nước, tại

trang: http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/195434/khoan-dung-dong-

luc-de-chan-hung-dat-nuoc.html, [Truy cập ngày 4/9/2014]

57. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên) (2012), Quản lý văn

hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

158

58. Trần Văn Giáp (1971-1972), Lược truyện các tác gia Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

59. Trần Văn Giáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu văn học,

sử học Việt Nam, tập 1, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

60. Trần Văn Giáp (1990), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu văn học,

sử học Việt Nam, tập 2, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

61. Trần Văn Giàu (1993), Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước

nhiệm vụ lịch sử, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

62. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

63. Nguyễn Ngọc Hà (2013), “Tư tưởng thượng tôn pháp luật trong văn hóa

chính trị Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6).

64. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên) (2004), Một số vấn đề nghiên cứu

nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2003), Về phát triển văn

hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Hoàng Quốc Hải (2010), Thiền sư dựng nước, tập 1, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

67. Hoàng Quốc Hải (2017), Bão táp triều Trần, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

68. Văn Hải (2001), “Về văn hóa chính trị”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.81-84, 88.

69. Thích Nhất Hạnh (2009), Trái tim của Trúc Lâm đại sĩ, Nxb Phương Đông,

Hà Nội.

70. Nguyễn Thị Thanh Hảo (2017), Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa

đạo đức các vương triều Lý - Trần, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Đại

học Văn hóa Hà Nội.

71. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng Phật giáo Trần Thái

Tông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

72. Trần Ngọc Hiên (2005), “Phát huy ưu thế của nền VHCT Việt Nam - tạo

động lực cho công cuộc đổi mới”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội,

(6), tr.3-7.

159

73. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên

cứu văn hóa và con người Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Nguyễn Duy Hinh (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

75. Nguyễn Duy Hinh (2005), Văn minh Đại Việt, Nxb Văn hóa thông tin và

Viện Văn hóa, Hà Nội.

76. Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tư tưởng Trần”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,

(4), tr.36- 45.

77. Nguyễn Duy Hinh (1996), Kinh tế - xã hội thời Lý - Trần, Tạp chí Nghiên

cứu Lịch sử, (4), tr.32-46.

78. Lê Như Hoa (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa chính trị”, Tạp chí

Văn hóa nghệ thuật, (6).

79. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham

chiếu, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

80. Đỗ Huy và những người khác (1993), Nhân cách văn hóa trong bảng giá trị

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

81. Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Hoài Văn và Nguyễn Văn Vĩnh (2009) (Sách

chuyên khảo), Bước đầu tìm hiểu những giá trị văn hóa chính trị truyền

thống Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Nguyễn Văn Huyên (2004), Phẩm chất, năng lực người lãnh đạo theo yêu cầu của

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Ban Tổ chức Trung ương, Hà Nội.

83. Nguyễn Văn Huyên (2009), Con người chính trị Việt Nam - truyền thống và

hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

84. Lê Thị Thanh Hương (2010), Nhân cách văn hóa trí thức Việt Nam trong

tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

85. Nguyễn Thị Hương (2007), Tư tưởng nhân văn truyền thống Việt Nam từ thế

kỷ X đến thế kỷ XIV, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

86. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

87. Trần Trọng Kim (2011), Việt Nam sử lược, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

160

88. Nguyễn Văn Kim (2016), “Vị thế đối ngoại của Thăng Long - Đại Việt với các

quốc gia Đông Nam Á thời Lý - Trần”, trong Khoa Lịch sử - trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn, Lịch sử đô thị Việt Nam: Tư liệu và suy ngẫm,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.174-196.

89. Nguyễn Xuân Kính (2008), Con người, môi trường và văn hóa, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

90. A. Konrat (1994), Phương Đông và phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội,

91. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và phát

triển con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Vũ Ngọc Khánh (2009), Nhân vật chí Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

93. Trường Khánh (2003), Hoàng đế triều Trần - cội nguồn ấn tượng dân gian,

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

94. Vũ Khiêu (1987), Trí thức Việt Nam qua các chặng đường lịch sử, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

95. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

96. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nxb

Nhã Nam - Thế giới, Hà Nội.

97. Võ Phương Lan (2006), “Vương triều Trần và tam giáo”, Tạp chí Nghiên

cứu tôn giáo, (4), tr.35-40.

98. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2004), Từ điển nhân vật

lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

99. Nguyễn Hữu Lập (2015), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, LATS Chính trị

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

100. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ nhiệm) (1995 - 1997), Các giá trị

truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Đề tài KX07-02.

101. Phan Huy Lê và cộng sự (1990), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập

3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

161

102. Phan Huy Lê (2015), Vài nhận xét về tổ chức nhà nước thời Trần, tại

trang:https://nghiencuulichsu.com/2015/05/28/vai-nhan-xet-ve-to-chuc-

va-tinh-chat-nha-nuoc-thoi-tran/

103. Trần Huy Liệu (1968), “Đánh giá cao tinh thần yêu nước và chủ trương “nới

sức dân” của Trần Quốc Tuấn”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (114), tr.1-3.

104. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

105. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

106. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

107. Đặng Thai Mai (1977), Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

108. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

109. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

110. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

111. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất

nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

112. Nguyễn An Ninh (2001), “Khắc phục một số yếu tố tiêu cực trong quá trình

xây dựng văn hóa chính trị đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay”, Tạp chí

Quản lý nhà nước, tr.24-36.

113. Nghiêm Thị Thu Nga (2012), Vai trò của nhà nho trong lịch sử văn hóa

trung đại Việt Nam, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

114. Nguyễn Bích Ngọc (2009), Nhà Trần trong văn hóa Việt Nam, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

115. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (1997), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

116. Phan Ngọc (2005), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

162

117. Nhiều tác giả (2008), Người Việt - phẩm chất và thói hư tật xấu, Nxb

Thanh niên và báo Tiền phong, Hà Nội.

118. Oliver W.Wolters (1995), “Về việc kể chuyện lịch sử Việt Nam trong các

thế kỷ XIII và XIV”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), tr.63-74.

119. A.B.Pôliacốp (Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân dịch) (1996), Sự phục hưng

của nước Đại Việt thế kỷ X - XIV, Nxb Chính trị quốc gia và Viện Lịch

sử quân sự Việt Nam, Hà Nội.

120. Dũng Phan (2017), Sử Việt - 12 khúc tráng ca, Nxb Nhã Nam, Hà Nội.

121. Hoàng Phê (2011), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

122. Nguyễn Danh Phiệt, Lê Văn Lan và Trần Quốc Vượng (2004), Nhà Trần và

con người thời Trần, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và

văn hóa Việt Nam, Hà Nội.

123. Nguyễn Danh Phiệt (1976), “Chính quyền trung ương thời Ngô, Đinh, Lê,

Lý, Trần với vấn đề thống nhất đất nước và hiện tượng cát cứ, phân liệt”,

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (4), tr.15 - 30.

124. Nguyễn Danh Phiệt (1977), “Vài nét về giáo dục, khoa cử thời Lý - Trần”,

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (2), tr.22 - 31.

125. Nguyễn Danh Phiệt (1985), “Thời Trần sau ba lần thắng giặc Nguyên -

Mông”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (240 - 241).

126. Nguyễn Danh Phiệt (1990), “Chế độ quân chủ trong lịch sử phong kiến

Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV và những di sản của nó”, Tạp chí

Nghiên cứu Lịch sử, (3).

127. Bùi Đình Phong (2006), “Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa

học chính trị, (5).

128. Nguyễn Hồng Phong (1986), “Về chế độ quân chủ quý tộc thời Trần”, Tạp

chí Nghiên cứu Lịch sử, (4).

129. Nguyễn Hồng Phong (1998), VHCT Việt Nam - truyền thống và hiện đại,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

130. Vương Lạc Phu, Tưởng Nguyệt Thần (2000), Khoa học lãnh đạo hiện đại,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

163

131. Phạm Ngọc Quang (chủ biên) (1995), VHCT và việc bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ lãnh đạo ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

132. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương

mục, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

133. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm và Lê Mậu Hãn (cb), Đại cương lịch

sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

134. A.A.Radughin (chủ biên) (2004), Văn hóa học những bài giảng, Nxb Viện

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

135. E.V.Sokolov (1972), Văn hóa và nhân cách, Nxb Leningrad.

136. Sở Văn hóa thông tin Nam Hà (1996), Thời Trần và Hưng Đạo Đại vương

Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà, Nam Định.

137. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc

gia Việt Nam (2011), Kỷ yếu hội thảo “Mô hình tổ chức, quản lý Lễ hội

đền Trần Nam Định năm 2012”.

138. Nguyễn Hữu Sơn (2011), Trần Nhân Tông - vị hoàng đế, thiền sư, thi sĩ, tại

trang: https://thuvienhoasen.org/a12819/tran-nhan-tong-vi-hoang-de-thien-

su-thi-si-nguyen-huu-son

139. Bùi Văn Nam Sơn, Văn hóa và văn hóa chính trị, tại trang

https://www.diendan.org [truy cập ngày 15/6/2016]

140. Phan Xuân Sơn (chủ biên) (2010), Các chuyên đề bài giảng chính trị học, tập

2, (Dành cho cao học chuyên ngành chính trị học), Nxb Chính trị - Hành

Chính, Hà Nội.

141. Lê Đình Sỹ, Nguyễn Danh Phiệt (1995), Kế sách giữ nước thời Lý - Trần,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

142. Lê Đình Sỹ (chủ biên) (2002), Trần Hưng Đạo - Nhà quân sự thiên tài,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

143. Lê Tắc (2002), An Nam chí lược, Nxb Thuận Hóa và trung tâm văn hóa

ngôn ngữ Đông Tây, Huế.

144. Hà Văn Tấn (2006), “Mấy suy nghĩ về lịch sử và tư tưởng Việt Nam”, Tạp

chí Xưa và nay, tr.253 - 254.

164

145. Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (1972), Cuộc kháng chiến chống xâm lược

Nguyên - Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

146. Đoàn Thị Tình (2006), Trang phục Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội

147. Phạm Hồng Tung (2004), VHCT và lịch sử dưới góc nhìn VHCT, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

148. Lâm Quốc Tuấn (2006), Nâng cao VHCT của cán bộ lãnh đạo quản lý ở

nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin và viện Văn hóa, Hà Nội.

149. E.B.Tylor (2001), Văn hóa nguyên thủy, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

150. Vũ Hải Thanh (2016), “Cử quốc nghênh địch” - Quốc sách giữ nước

thời Lý, Trần, một kinh nghiệm quý báu của dân tộc, tại trang

http://www.tuyengiao.vn [truy cập ngày 10/5/2016].

151. Song Thành (2010), Hồ Chí Minh - nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

152. Trần Thành (2003), Để trở thành người lãnh đạo giỏi, Nxb Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

153. Phạm Ngọc Thanh (chủ biên) (2013), Đổi mới văn hóa lãnh đạo và quản lý

ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154. Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật giáo Việt Nam (tập 3: từ Lý Thánh

Tông đến Trần Nhân Tông), Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

155. Lê Mạnh Thát (1999), Trần Nhân Tông - cuộc đời và tác phẩm, Nxb Thành

phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. (tại trang https://thuvienhoasen.org/

p59a12913/phan-i-nghien-cuu-ve-tran-nhan-tong-chuong-v-vua-tran-

nhan-tong-va-su-nghiep-xay-dung-hoa-binh-thoi-hau-chien]

156. Hoàng Đức Thắng (2012), Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý, Trần với

Phật giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.

157. Chương Thâu (2007), Góp phần tìm hiểu Nho giáo - Nho sĩ - Trí thức Việt

Nam trước 1945, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

158. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện

đại và con đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ thành phố Hồ Chí

Minh, Hồ Chí Minh.

165

159. Lê Phục Thiện (1992), Luận ngữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

160. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

161. Nguyễn Văn Thịnh (2010), Khoa cử và văn chương khoa cử Việt Nam thời

trung đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

162. Nguyễn Văn Thịnh, Nguyễn Kim Sơn (1996), Hệ thống quan chế thời

phong kiến, “Almanach, Những nền văn minh thế giới”, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

163. Ngô Đức Thịnh (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam, truyền thống và biến đổi,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

164. Hồ Đức Thọ (2000), Trần triều Hưng Đạo Đại Vương trong tâm thức dân

tộc Việt, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

165. Ngô Đức Thọ (chủ biên) (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 -

1919), Nxb Văn học, Hà Nội.

166. Ngô Đức Thọ (1997), Chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb Văn hóa,

Hà Nội.

167. Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam (trọn bộ), Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.

168. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thiền học Trần Thái Tông, Tủ thư viện Đại học

Vạn Hạnh, Sài Gòn.

169. Nguyễn Khắc Thuần (chủ biên) (1987), Trần Hưng Đạo - Tiểu sử, sự

nghiệp, tác phẩm, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

170. Nguyễn Khắc Thuần (1997), Việt sử giai thoại, Tập 3 (Thời Trần), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

171. Nguyễn Khắc Thuần (2010), Danh tướng Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

172. Trần Thuận (2003), Tư tưởng Việt Nam thời Trần, Luận án Tiến sĩ Triết

học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

173. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb

Văn hóa thông tin và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

166

174. Trần Trọng Thủy (2001), “Mô hình nhân cách con người Việt Nam thời kỳ

công nghiệp hóa, hiện đại hóa - một căn cứ quan trọng của chiến lược giáo

dục và đào tạo”, Hội thảo khoa học “Nhân cách con người thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Hội Tâm Lý - Giáo dục, Hà Nội.

175. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

176. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn

giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

177. Nguyễn Tiến Thư (2012), Danh nhân và những hình thức tôn vinh danh

nhân trong lịch sử xã hội truyền thống Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn

hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.

178. Hoàng Thúc Trâm (2014), Trần Hưng Đạo, Nxb Dân trí, Hà Nội.

179. Tạ Chí Đại Trường (2009), Những bài dã sử Việt, Nxb Trí thức, Hà Nội.

180. Tạ Chí Đại Trường (2016), Chuyện phiếm sử học, Nxb Trí thức, Hà Nội.

181. Đức Văn (2015), Phát hiện dấu tích cung điện thời Trần, tại trang:http://

dantri.com.vn/van-hoa/phat-hien-dau-tich-kien-truc-cung-dien-thoi-tran-

1421353053.htm, [Truy cập ngày 8/01/2015]

182. Nguyễn Hoài Văn (2015), “Tam giáo đồng nguyên thời Lý - Trần, một giá

trị đặc sắc của nền chính trị Việt Nam truyền thống”, Tạp chí Lý luận

Chính trị, (4), tr.67 - 72.

183. Nguyễn Hoài Văn (Chủ biên) (2008), Sự phát triển của tư tưởng chính trị

Việt Nam thế kỷ X-XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

184. Hoàng Văn (2014), Viện Trần Nhân Tông Tại Trường Đại Học Havard - Hoa

Kỳ, tại trang: https://truclam.ca/a300/vien-tran-nhan-tong-tai-truong- dai-hoc-

havard-hoa-ky, [Truy cập ngày 03/10/2014].

185. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1974), Đại Nam nhất thống chí, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

186. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2000), Trần Hưng Đạo - nhà quân sự

thiên tài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

167

187. Viện Ngôn ngữ học (2007), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách

khoa, Hà Nội.

188. Viện Sử học (2004), Nhà Trần và con người thời Trần, Trung tâm

UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, Hà Nội.

189. Viện nghiên cứu Hán Nôm (1963), Đại Việt sử ký tục biên, Nxb Sử học, Hà Nội.

190. Nguyễn Khắc Viện (2007), Việt Nam một thiên lịch sử, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

191. Hoàng Xuân Việt (1963), Thuật tổ chức, Nxb Khai trí, Sài Gòn.

192. Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa

nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

193. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam

hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.

194. Hoàng Vinh (dịch) (1997), Văn hóa học trong thế kỷ XX (tiếng Nga). Tập 2,

Matxcơva, tr.64 - 65

195. Hoàng Vinh (dịch) (1996), Văn hóa chính trị trong khoa học hiện đại (tiếng Nga).

196. Hoàng Vinh dịch (2017), Lý luận văn hóa Mác - Lênin, Nxb Chính trị,

Matxcơva.

197. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức và chuẩn giá

trị xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

198. Trần Thị Vinh (1976), “Công tác trị thủy và thủy lợi thời Lý - Trần”, Tạp

chí Nghiên cứu Lịch sử, (3), tr.54-59.

199. Trần Thị Vinh (1988), “Tìm hiểu thiết chế và tổ chức nhà nước thời Trần”,

Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (3 & 4), tr.21 - 25.

200. Trần Thị Vinh (Chủ biên) (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 2 (Từ thế kỷ X

đến thế kỷ XIV), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

201. Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn Đính (Chủ biên) (2014), Giáo trình Chính trị

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

202. Nguyễn Văn Vĩnh (Chủ biên) (2013), Tập bài giảng Chính trị học, Nxb.

Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

168

203. Trịnh Quang Vũ (2005), Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt

Nam, tập 1, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội

204. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa nguồn

chung, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

205. Trần Ngọc Vương (2012), Trần Nhân Tông - nhiều trong một, tại trang:

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung

-goc-nhin-van-hoa/tran-nhan-tong-nhieu-trong-mot, [Truy cập ngày

20/2/2012].

206. Trần Ngọc Vương (2012), Trần Nhân Tông: trí giả anh minh, nhà văn hóa

kiệt xuất, tại trang: http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tran-nhan-tong-

tri-gia-anh-minh-nha-van-hoa-kiet-xuat-90667.html, [truy cập ngày

25/3/2016].

207. Đức Vượng (1995), Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

208. Minh Vượng (2014), Sách “Tân Bách khoa toàn thư Anh” tái bản lần thứ

15 bình chọn 2 Danh tướng Việt Nam là Danh tướng kiệt xuất thế giới,

tại trang: http://baotanglichsu.vn/sach-tan-bach-khoa-toan-thu-anh-tai-

ban-lan-thu-15-binh-chon-2-danh-tuong-viet-nam-la-danh-tuong-kiet-

xuat-the-gioidr.html, [truy cập ngày 23/5/2016]

209. Trần Quốc Vượng (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

210. Trần Quốc Vượng, tại trang http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/397-vn-

minh-vit-nam-th-k-x-xv-gs-trn-quc-vng, [truy cập ngày 25/6/2016]

B. Tài liệu tiếng nước ngoài

211. G.Almond (1956), “Comparative Political System”, in: The journal of

Politics (8), pp. 12-15.

212. G.Almond and S.Verba (1963), The Civic Culture, Political Attitudes and

Democracy in Five Nations, Princeton University Press, Princeton, New Jersey.

169

213. Ball A.R. (1977), Modern Politics and Government, 2nd ed, London,

Macmillan.

214. Harrigan J.J. (1995), “Political Culture and Public opinion”, in: Politics and

the American future, Dilemmas of Democracy, The Mc Graw - Hill

Companies, Inc, pp. 80-105.

215. Pye L. (1968), “Political Culture”, in: International Encyclopedia of the

Social Siences, 12, London, Macmillan.

216. Tom R.Tyler (New York University) and (E. Allan Lind - Duke University):

Cultural values and authority relations - The Psychology of Conflict

Resolution Across Cultures (http://huolab.psych.ucla.edu/wp-

content/uploads/2014/03/Tyler-Lind-Huo-2000.pdf)

217. Walter A.Rosenbaum (1975), Political Culture, London: Nelson.

218. http://www.thejakartapost.com/news/2013/06/01/how-personality-plays-a-

role-effective-leadership.html

219. http://www.entrepreneur.com/article/2453944: Personality Traits That

Make You an Effective Leader.

220. http://www.bi.edu/bizreview/articles/personality-for-leadership/:

Personality for Leadership

221. http://www.entrepreneur.com/article/245394: 4 Personality Traits That

Make You an Effective Leader.

170

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC

Trang

PHỤ LỤC 1: DANH SÁCH CÁC HOÀNG ĐẾ TRIỀU TRẦN 171

PHỤ LỤC 2: THỂ CHẾ THƯỢNG HOÀNG TRIỀU TRẦN 173

PHỤ LỤC 3: DANH SÁCH CÁC VƯƠNG HẦU, TÔN THẤT TRIỀU TRẦN 174

PHỤ LỤC 4: HỆ THỐNG THÁI ẤP - ĐIỀN TRANG ĐỜI TRẦN 176

PHỤ LỤC 5: CƯƠNG VỰC VIỆT NAM THỜI TRẦN (SAU KHI CHẾ MÂN

DÂNG HAI CHÂU Ô, LÝ) 178

PHỤ LỤC 6: HÔN NHÂN NỘI TỘC NHÀ TRẦN 179

PHỤ LỤC 7: DANH SÁCH CÁC KHOA THI THỜI TRẦN 183

PHỤ LỤC 8: HOẠT ĐỘNG BANG GIAO CỦA ĐẠI VIỆT VỚI ĐẾ QUỐC

MÔNG - NGUYÊN 185

PHỤ LỤC 9: MỘT SỐ NHÂN VẬT VÀ SỰ KIỆN CHÍNH TRỊ QUAN TRỌNG

THỜI THỊNH TRẦN (QUA LỜI BÀN CỦA CÁC BỘ QUỐC SỬ

THỜI TRUNG ĐẠI) 196

PHỤ LỤC 10: HÌNH ẢNH MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA THỜI TRẦN 214

PHỤ LỤC 11: SỨC SỐNG CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN 221

PHỤ LỤC 12: Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC

VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TRIỀU TRẦN VÀ VĂN HÓA

CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN 224

171

PHỤ LỤC 1

DANH SÁCH CÁC HOÀNG ĐẾ TRIỀU TRẦN

TT Họ tên Miếu hiệu Thụy hiệu Xưng hiệu Niên hiệu Thời gian

trị vì Lăng mộ

1

Trần Cảnh

(陳煚)

Thái Tông

(太宗)

Thống Thiên Ngự Cực Thánh Vũ

Nguyên Hiếu Hoàng Đế

統天御極聖武元孝皇帝

Thiện Hoàng

(善皇)

Kiến Trung (建中; 1225 - 1237)

Thiên Ứng Chính Bình

(天應政平; 1238 - 1350)

Nguyên Phong (元豐; 1251 - 1258)

12/1225 -3/ 1258 Chiêu Lăng

(昭陵)

2 Trần Hoảng

(陳晃)

Thánh Tông

(聖宗)

Hiến Thiên Thể Đạo Văn Vũ

Tuyên Hiếu Hoàng Đế

憲天體道文武宣孝皇帝

Nhân Hoàng

(仁皇)

Thiệu Long (紹隆; 1258 - 1272)

Bảo Phù (寶符; 1273 - 1278) 3/1258 -10/ 1278

Dụ Lăng

(裕陵)

3 Trần Khâm

(陳昑)

Nhân Tông

(仁宗)

Pháp Thiên Sùng Đạo Nguyên

Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế

法天崇道元明睿孝皇帝

Hiếu Hoàng

(孝皇)

Thiệu Bảo (紹寶; 1278 - 1285)

Trùng Hưng (重興; 1285 - 1293) 10/1278 - 3/1293

Đức Lăng

(德陵)

4 Trần Thuyên

(陳烇)

Anh Tông

(英宗)

Ứng Thiên Quảng Vận Khâm

Minh Nhân Hiếu Hoàng Đế

應天廣運欽明仁孝皇帝

Anh Hoàng

(英皇) Hưng Long (興隆) 3/1293 - 3/1314

Thái Lăng

(泰陵)

5 Trần Mạnh

(陳奣)

Minh Tông

(明宗)

Thể Thiên Sùng Hóa Khâm Minh

Duệ Hiếu Hoàng Đế

體天崇化欽明睿孝皇帝

Ninh Hoàng

(宁皇)

Đại Khánh (大慶; 1314 - 1323)

Khai Thái (開泰; 1324 - 1329) 3/1314-2/1329

Mục Lăng

(穆陵)

6 Trần Vượng

(陳旺)

Hiến Tông

(憲宗)

Thể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh

Chí Hiếu Hoàng Đế

體元御極睿聖至孝皇帝

Triết Hoàng

(哲皇) Khai Hựu (開佑) 2/1329-6/1341

An Lăng

(安陵)

172

7 Trần Hạo

(陳暭)

Dụ Tông

(裕宗)

Thống Thiên Thể Đạo Nhân

Minh Quang Hiếu Hoàng Đế

統天體道仁明光孝皇帝

Dụ Hoàng

(裕皇)

Thiệu Phong (紹豐; 1341 - 1357)

Đại Trị (大治; 1358 - 1369) 8/1341-5/1369

Phụ Lăng

(阜陵)

8 Trần Phủ

(陳暊)

Nghệ Tông

(藝宗)

Thể Thiên Kiến Cực Thuần Hiếu

Hoàng Đế

體天建極純孝皇帝

Nghĩa Hoàng

(義皇) Thiệu Khánh (紹慶)

11/1370

-11/1372

Nguyên

Lăng

(沅陵)

9 Trần Kính

(陳曔)

Duệ Tông

(睿宗)

Kế Thiên Ứng Vận Nhân Minh

Khâm Hiếu Hoàng Đế

繼天應運仁明欽孝皇帝

Khâm Hoàng

(欽皇) Long Khánh (隆慶) 11/1372-1/1377

Hy Lăng

(熙陵)

10 Trần Hiệu

(陳晛) Phế Đế

Linh Đức đại vương

靈德大王

Giản Hoàng

(簡皇) Xương Phù (昌符) 5/1377-12/1388 núi An Bài

11 Trần Ngung

(陳顒)

Thuận Tông

(順宗)

Thái Thượng Nguyên Quân

Hoàng Đế

太上元君皇帝

Nguyên

Hoàng

(元皇)

Quang Thái (光泰) 12/1388-3/1398

Yên Sinh

Lăng

(安生陵)

12 Trần An

(陳) Thiếu Đế

Bảo Ninh đại vương

保寧大王 Không có Kiến Tân (建新) 3/1398- 2/1400

Không rõ

tung tích

173

PHỤ LỤC 2

THỂ CHẾ THƯỢNG HOÀNG TRIỀU TRẦN

TT Vua Tuổi làm vua Số năm làm vua

Tuổi làm thượng hoàng

Số năm làm thượng hoàng

Tuổi thọ

1 Trần Thái Tông 8 33 41 19 60

2 Trần Thánh Tông 17 21 38 13 51

3 Trần Nhân Tông 24 14 38 13 51

4 Trần Anh Tông 18 21 39 6 45

5 Trần Minh Tông 15 15 30 28 58

6 Trần Hiển Tông 10 13 - - 23

7 Trần Dụ Tông 6 28 - - 34

8 Trần Nghệ Tông 47 3 50 - 74

9 Trần Duệ Tông 37 4 - - 41

10 Trần Phế Đế 16 12 - - 28

11 Trần Thuận Tông 13 9 - - 22

12 Trần Thiếu Đế 3 2 - - -

174

PHỤ LỤC 3

DANH SÁCH CÁC VƯƠNG HẦU, TÔN THẤT TRIỀU TRẦN

TT Tên Tước hiệu

1. Trần Thủ Độ Thái sư

2. Trần Liễu An Sinh vương (trước là Phụng

Kiền vương)

3. Trần Quang Khải Chiêu Minh Đại vương

4. Trần Quốc Khang Tĩnh Quốc Đại vương

5. Trần Uất Minh Hiến Vương

6. Trần Nhật Hạo Đại vương

7. (không rõ tên) Trung Thành vương

8. Trần Nhật Duật Chiêu Văn vương

9. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn

10. Trần Nghiễn (con Trần Quốc Tuấn) Hưng Vũ vương

11. Trần Quốc Tảng Hưng Nhượng vương

12. Trần Quốc Hiện Hưng Trí Vương

13. Trần Hiện Chiêu Hoài hầu (Phụ Quốc Thái bảo)

14. Trần Bình Trọng Bảo Nghĩa Đại vương

15. Quốc Chẩn Huệ Võ vương

16. Khánh Dư Nhân Huệ vương

17. (không rõ tên) Hưng Ninh vương

18. (không rõ tên) An Ninh vương

19. (không rõ tên) Huệ Chính vương

20. (không rõ tên) Uy Giản hầu

21. Văn Bích Uy Túc công

22. Quang Triều Văn Huệ vương

23. (không rõ tên) Bảo Võ vương

24. Đại Niên Huệ Túc vương

25. Nguyên Trác Cung Tĩnh Đại vương

26. (con của Quốc Chẩn) Thiệu Võ vương

27. (không rõ tên) Chiêu Nghĩa hầu

28. (không rõ tên) Hưng Hiếu vương

29. Trần Phủ Cung Định vương

175

30. Trần Dục Cung Túc vương

31. Trần Kham Chính Túc vương

32. Trần Hiến Bảo Uy vương

33. Nguyên Hú Cung Mẫn vương

34. Nguyên Thanh Cung Giản vương

35. Thiên Trạch Cung Tín vương

36. Đạo Tái Văn Túc vương

37. (không rõ tên) Bảo Hưng vương

38. Ngạc Trang Định Đại vương

39. Quốc Toản Hoài Văn hầu

40. (không rõ tên) Thượng Vị Văn Hưng hầu

41. Toại Uy Văn vương

42. Đức Việp Thiên Đại vương

43. Hiện Hoài Nhân vương

44. Kiện (con Quốc Khang) Thượng Vị Chương Hiến hầu

45. Trần Lộng Thượng Vị Văn Chiêu hầu

46. Toàn Phán thủ Thượng Vị Nhân Đức hầu

47. (không rõ tên) Cương Đông Văn Hiến hầu

48. Trần Khát Chân Liệt hầu

49. (cha của Trung Thành vương) Nhân Đạo vương

Nguồn: [26, tr.119-121]

176

PHỤ LỤC 4

HỆ THỐNG THÁI ẤP - ĐIỀN TRANG ĐỜI TRẦN

1. 12 Thái ấp

STT Tên thái ấp Ghi chú Chủ thái ấp

1 Vạn Kiếp Chí Linh, Hải Dương

Hưng Đạo Đạo vương Trần Quốc Tuấn

2 Quắc Hương Bình Lục, Hà Nam Thái sư Trần Thủ Độ

3 Chí Linh Chí Linh Hải Dương Huệ Võ vương Quốc Chẩn

4 Thanh Hóa Thanh Hóa Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật

5 Diễn Châu Nghệ An Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang

6 Gia Lâm Hà Nội Văn Huệ vương Trần Quang Triều

7 Dương Xá Hưng Hà, Thái Bình Tướng quốc Thái úy Trần Nhật Hạo

8 Cổ Mai Còn gọi là Kẻ Mơ (nay là các làng Hoàng Mai,

Tương Mai, Mai Động, phố Bạch Mai, quận

Hai Bà Trưng, Hà Nội)

Thượng tướng quân Trần Khát Chân

9 Độc Lập Nay thuộc xã Mỹ Thành, Bình Lục, Hà Nam Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải

10 Dưỡng Hòa Nay thuộc Duy Tiên, Hà Nam Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư

11 Tĩnh Bang Thôn Vạn Niên, Vĩnh Bảo, Hải Phòng Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng

12 Bạch Hạc Nay là Việt Trì Trưởng công chúa Thái Đường

177

2. 14 Điền trang

STT Tên Điền trang Ghi chú Chủ điền trang

1 An Lạc ấp Bảo Lộc, Thiên Trường (nay là Mỹ Phúc,

Mỹ Lộc, Nam Định)

An Sinh vương Trần Liễu

2 A Sào Thái Bình An Sinh vương Trần Liễu

3 Ô Lâm (Vũ Lâm) Ninh Bình Vua Trần Nhân Tông

4 Thanh Bình Thanh Hà, Hải Dương Vua Trần Nhân Tông

5 Bình Khang Hoa Lư, Ninh Bình Trần Thị Ngọc Một

6 Miễn Hoàn Vụ Bản, Nam Định Trưởng công chúa Thái Đường

7 Cánh đồng Móc Cổ Nhuế - An Nội, Hà Nội Công chúa Trần Khắc Hãn

8 Hương Khê Hà Tĩnh Trần Thị Ngọc Hào (vợ vua Duệ Tông)

9 Dưỡng Hòa Trường Yên, Nam Định Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư

10 Phúc Chỉ Ý Yên, Nam Định Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật

11 Không rõ tên Chí Linh, Hải Dương Thượng tướng Trần Phó Duyệt

12 Làng Dọc Chí Linh, Hải Dương Chiêu Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn

13 Tô Xuyên Quỳnh Phụ, Thái Bình Phò mã Hưng Mỹ hầu Vũ Trung Khải

14 Nha Nghi Lệ Thủy, Quảng Bình Tiến sĩ Hoàng Hối Khanh

178

PHỤ LỤC 5

CƯƠNG VỰC VIỆT NAM THỜI TRẦN

(SAU KHI CHẾ MÂN DÂNG HAI CHÂU Ô, LÝ)

Nguồn: https://vi.wikipedia.org

179

PHỤ LỤC 6

HÔN NHÂN NỘI TỘC NHÀ TRẦN

TT HÔN PHỐI MỐI QUAN HỆ GHI CHÚ

1. An Sinh

vương Trần Liễu -

Lý Thuận Thiên

Con cô - con

cậu

Liễu là con Trần Thừa. Thuận Thiên

công chúa là con Lý Huệ Tông và Linh

Từ quốc mẫu. Linh Từ là em ruột Trần

Thừa.

2. Trần Thái

Tông Trần Cảnh - Lý

Chiêu Hoàng

Con cô - con

cậu

Chiêu Hoàng là em Thuận Thiên công

chúa

3. Trần Thị Dung -

Trần Thủ Độ

Chị em họ Sau khi Lý Huệ Tông qua đời, giáng

Huệ hậu (tức Linh Từ quốc mẫu) làm

Thiên Cực công chúa, gả cho Thái sư

Trần Thủ Độ

4. Trần Thái Tông -

Thuận Thiên

Con cô - con

cậu

Em chồng - chị

dâu

Thuận Thiên (lúc ấy đã có mang ba

tháng với Trần Liễu).

5. Trần Quốc

Tuấn lấy Thiên

Thành công chúa

Cháu - cô ruột Thiên Thành công chúa (con gái vua

Trần Thái Tông)

6. Trần Thánh

Tông - Thiên Cảm

hoàng hậu Trần

Thiều

Con chú - con

bác

Trần Thiều là con gái thứ năm của An

Sinh vương Trần Liễu

7. Chiêu Minh

vương Trần Quang

Khải lấy Phụng

Dương công chúa

Cháu chú - cháu

bác

Phụng Dương công chúa, là con gái

Thái sư Trần Thủ Độ. Thái sư là em họ

Thượng hoàng Trần Thừa, mà Quang

Khải là cháu nội Thượng hoàng

8. Thụy Bảo công chúa-

Uy Văn vương Toại

Thụy Bảo là con Trần Thái Tông. Uy

Văn Vương Toại có giả thuyết cho là

con của Trần Liễu

9. Thiều Dương công

chúa - Thượng vị

Văn Hưng hầu

Thiều Dương công chúa là con Trần

Thái Tông

180

10. Thiên Thụy công

chúa - Hưng Vũ

vương Quốc Nghiễn

Con cô con cậu,

Cháu chú cháu

bác

1. Thiên Thụy công chúa là con

Trần Thánh Tông và Thiên Cảm hoàng

hậu (tức cháu nội Thái Tông và cháu

ngoại Trần Liễu)

2. Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn là

con Trần Hưng Đạo, (cháu nội Trần

Liễu).

3.Trần Hưng Đạo và Thiên Cảm là con

Trần Liễu

11. Trần Nhân Tông -

Bảo Thánh hoàng

hậu,

Tuyên Từ hoàng hậu,

Con cô con cậu,

Cháu chú cháu

bác

Bảo Thánh hoàng hậu, Tuyên

Từ hoàng hậu đều là con Hưng Đạo

Vương. Trường hợp này giống Thiên

Thụy lấy Quốc Nghiễn.

12. Trần Anh Tông -

Văn Đức phu nhân,

Thánh Tư phu nhân

Cháu cô - cháu

cậu

Trần Anh Tông là con Nhân

Tông, tức cháu nội của Thánh Tông và

Thiên Cảm.

Văn Đức phu nhân và Thánh Tư phu

nhân là con Hưng Nhượng Vương Trần

Quốc Tảng, tức cháu nội Hưng Đạo

Vương.

Hưng Đạo Vương Thiên Cảm là anh

em.

13. Trần Anh Tông -

Huy Tư hoàng phi

Cháu - cô Huy Tư hoàng phi là con Thụy Bảo

công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy

Bảo công chúa là em Thánh Tông, Anh

Tông là cháu nội Thánh Tông.

14. Thiên Trân công

chúa -

Uy Túc công Trần

Văn Bích

Uy Túc công Trần

Văn Bích - Huy

Thánh công chúa

Cháu chú - cháu

bác,

Thiên Trân công chúa là con Anh

Tông.

Uy Túc công Trần Văn Bích là cháu

nội Chiêu Minh vương Trần Quang

Khải. Quang Khải và Thánh Tông là

anh em, tức cháu chú cháu bác lấy

nhau.

Thiên Trân công chúa chết, Uy Túc lại

lấy Huy Thánh công chúa, con gái Huệ

Vũ vương Trần Quốc Chẩn, em ruột

Anh Tông.

181

15. Thượng Trân công

chúa -

Văn Huệ công Trần

Quang Triều

Chắt chú - chắt

bác

Thượng Trân công chúa, em Anh

Tông, chắt Thái Tông lấy Văn Huệ

công Trần Quang Triều, con Trần Quốc

Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu,

tức chắt chú chắt bác lấy nhau.

16. Trần Minh Tông -

Huy Thánh công

chúa

Con chú - con

bác

Trần Minh Tông, con Anh Tông, cháu

Nhân Tông, lấy Huy Thánh công chúa,

con gái lớn Huệ Vũ vương Quốc Chẩn.

Chẩn là em Anh Tông, tức là con chú

con bác lấy nhau.

17. Trần Hiến Tông -

Hiển Trinh công

chúa

Trần Hiến Tông, con Minh Tông, lấy

Hiển Trinh công chúa, con gái lớn Huệ

Túc vương Trần Đại Niên.

18. Thiên Ninh công

chúa - Chính Túc

vương Kham

Thiên Ninh công chúa, con Minh Tông,

lấy Chính Túc vương Kham

19. Trần Dụ Tông - Nghi

Thánh hoàng hậu

Giống 17 Trần Dụ Tông, con Minh Tông, lấy con

gái thứ tư của Huệ Túc vương là Nghi

Thánh hoàng hậu

20. Huy Ninh công chúa

- Trần Nhân Vinh,

Huy Ninh công chúa

- Hồ Quý Ly

Con cô - con

cậu

Huy Ninh là con Minh Tông, lấy tông

thất Trần Nhân Vinh.

Sau Nhân Vinh bị Dương Nhật Lễ giết,

Trần Nghệ Tông lại gả Huy Ninh cho

cháu của mẹ ruột là Hồ Quý Ly.

21. Trần Duệ Tông -

Gia Từ hoàng hậu

Anh em họ Trần Duệ Tông, con Minh Tông và

Đôn Từ Thái phi, cô của Quý Ly, lấy

Gia Từ hoàng hậu là em họ Quý Ly,

tức anh em họ lấy nhau.

22. Trang Huy công

chúa -

Trần Nguyên Dẫn

Con chú - con

bác

Trần Duệ Tông gả con là Trang Huy

công chúa cho Trần Nguyên Dẫn, con

Cung Chính vương. Cung Chính vương

và Duệ Tông đều là con Minh Tông,

tức con chú con bác lấy nhau.

23. Thiên Huy công chúa

-

Trần Giản Hoàng

Con chú - con

bác

Thiên Huy công chúa Trần Thục Mỹ,

con Trần Nghệ Tông, lấy Trần Giản

Hoàng là con Duệ Tông. Nghệ Tông và

Duệ Tông cùng là con Minh Tông, mẹ

182

Nghệ Tông là Minh Từ Thái phi, mẹ

Duệ Tông là Đôn Từ Thái phi, là hai

chị em ruột, cô của Quý Ly. Như vậy,

cả hai vừa là con chú con bác, vừa là

cháu dì cháu già lấy nhau.

24. Trần Thục Mỹ -

Trần Nguyên Uyên

Trần Thục Mỹ - Trần

Nguyên Hãng

- con chú con

bác

Em dâu - anh

chồng

Sau khi Giản Hoàng chết, vợ là Trần

Thục Mỹ tư thông với Trần Nguyên

Uyên, con Cung Tín vương Trần Thiên

Trạch, em khác mẹ với cha bà là Nghệ

Tông, như vậy con chú con bác tư

thông với nhau.

Sau Thượng hoàng đem công chúa gả

cho anh Nguyên Uyên là Nguyên Hãng.

25. Tuyên Huy công

chúa- Quan Phục Đại

vương Húc

Con chú - con

bác

Tuyên Huy công chúa là con Duệ

Tông, Quan Phục Đại vương Húc là

con Nghệ Tông, giống trường hợp Trần

Thục Mỹ lấy Trần Giản Hoàng.

26. Trang Huy công

chúa-

Trần Mộng Dữ

Cháu cô - cháu

cậu

Trang Huy công chúa, con Tông thất

Trần Nhân Vinh và Huy Ninh công

chúa lấy Trần Mộng Dữ, con Trần

Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang

Khải.

27. Trần Thuận Tông-

Hồ Thánh Ngâu

Con cô - con

cậu,

Trần Thuận Tông, con út Nghệ Tông,

lấy Hồ Thánh Ngâu là con gái lớn của

Hồ Quý Ly và Huy Ninh công chúa.

Huy Ninh công chúa là em Nghệ Tông,

tức là con cô con cậu lấy nhau.

Thuận Tông lại là cháu nội của Đôn Từ

Thái phi, cô của Quý Ly, lấy con gái

Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.

28. Thái Dương công

chúa - Phế Đế

Thái Dương công chúa là con Nghệ

Tôn, lấy Phế Đế là con Duệ Tôn. Nghệ

Tôn và Duệ Tôn cùng là con Minh

Tôn, mẹ Nghệ Tôn là Minh Từ, mẹ

Duệ Tôn là Đơn Từ, là hai chị em ruột,

cô của Quý Ly: vừa là con chú con bác,

vừa là cháu dì cháu già lấy nhau.

183

PHỤ LỤC 7

DANH SÁCH CÁC KHOA THI THỜI TRẦN

TT Kỳ thi Thời gian Niên hiệu Đời vua Số người đỗ

1 Thi Tam giáo tử 1227 Kiến Trung thứ 3 Trần Thái Tông Chưa rõ

2 Thái học sinh Tháng 2 năm 1232 Kiến Trung thứ 8 Trần Thái Tông Chưa rõ

3 Thi chọn Nho sinh vào hầu vua Tháng 8 năm 1236 Thiên Ứng Chính Bình thứ 5 Trần Thái Tông

4 Thi Thái học sinh Tháng 2 năm 1239 Thiên Ứng Chính Bình thứ 8 Trần Thái Tông Chưa rõ

5 Thi Đại tỷ lấy tam khôi và Thái

học sinh Tháng 2 năm 1246 Thiên Ứng Chính Bình thứ 15 Trần Thái Tông 44 người

6 Thi lấy những người thông các

khoa tam giáo Tháng 8 năm 1247 Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 Trần Thái Tông 48 người

7 Thi Đại tỷ, thi Kinh trạng

nguyên, Trại trạng nguyên Tháng 2 năm 1256 Nguyên Phong thứ 6 Trần Thái Tông 42 người

8 Thi Kinh trạng nguyên, Trại

trạng nguyên, Thái học sinh Tháng 3 1266

Thiệu Long

thứ 9 Trần Thánh Tông 47 người

9 Thi Đại tỷ lấy Thái học sinh 1275 Bảo Phù thứ 3 Trần Thánh Tông 27 người

10 Thi Đại tỷ lấy Tam khôi, Hoàng

giáp và Thái học sinh Tháng 3 năm 1304 Hưng Long thứ 12 Trần Anh Tông 44 người

184

11 Thi Thái học sinh Tháng 10 năm 1314 Đại Khánh thứ 1 Trần Minh Tông

12 Thi Thái học sinh Tháng 3 năm 1345 Thiệu Phong thứ 5 Trần Dụ Tông

13 Thi học trò lấy người có văn

nghệ làm trong quán, các Đại Trị thứ 6 Trần Dụ Tông

14 Thi Tiến sĩ lấy Tam khôi,

Hoàng giáp, Cập đệ và Đồng

cập đệ

Tháng 2 năm 1374 Long Khánh thứ 2 Trần Duệ Tông 50 người

15 Thi Thái học sinh Tháng 2 năm 1381 Xương Phù thứ 5 Trần Phế Đế

16 Thi Thái học sinh 1384 Xương Phù thứ 8 Trần Phế Đế

17 Thi Thái học sinh Tháng 2 năm 1393 Quang Thái thứ 6 Trần Thuận Tông 30 người

185

PHỤ LỤC 8

HOẠT ĐỘNG BANG GIAO CỦA ĐẠI VIỆT VỚI ĐẾ QUỐC MÔNG - NGUYÊN

TT Thời gian Hoạt động của đế quốc Nguyên - Mông Hoạt động của Đại Việt

1 Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược lần thứ nhất

Tháng 8 năm 1257: Chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất sai người chạy tâu nói là có sứ nhà Nguyên sang

Tháng 9 năm 1257, xuống chiếu cho tả hữu tướng quốc đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới, theo sự tiết chế của Quốc Tuấn

Năm 1258

“Tháng 2, sứ Nguyên sang đòi lễ vật hàng năm, đòi tăng thêm tiến cống, lung tung không định” [105, tr.31]

“Vua (Trần Thái Tông) sai Lê Phụ Trần đi sứ, lấy Bác Lãm làm phó. Cuối cùng quy định 3 năm một lần tiến cống, coi là thường lệ” [105, tr.31]

2 Trong thời kỳ

đấu tranh ngoại giao

(1258 - 1281)

Năm 1261

“Mùa hạ, tháng 6, nhà Nguyên sai Lễ bộ lang trung Mạnh Giáp, Viên ngoại lang Lý Văn Tuấn đưa thư sang dụ” [105, tr.34]. [Thư có đoạn]: “Phàm y quan, điển lễ, phong tục, việc gì cũng phải theo cựu lệ bản quốc, không nên thay đổi, huống chi gần đây, nước Cao Ly sai sứ thần qua, ta đã ban lời chiếu chỉ, đều y như vậy. Trừ ra các biên tướng tại xứ Vân Nam, cấm không được thiện quyền dấy binh, lấn cướp bờ cõi, làm rối loạn nhân dân; nước khanh từ quan liêu cho đến thân sĩ, nhân dân đều phải ở yên như cũ. Nay ban lời chiếu, để cho nhớ mà giữ gìn” (An Nam chí lược, tr.75) - Phong vua [Trần Thánh Tông] làm An Nam Quốc

Đãi yến bọn Mạnh Giáp ở cung Thánh Từ Sai Thông thị đại phu Trần Phụng Công, Chư vệ ký ban Nguyễn Thám, Viên ngoại lang Nguyễn Diễn mang thư sang Nguyên thông hiếu. [105, tr.34]

186

Vương, ban cho 3 tấm gấm tây, 6 tấm gấm kim thục [105, tr.34]

Năm 1262

“Mùa đông, tháng 11, nước Nguyên sai bọn Mã Hợp Bộ 10 người sang hỏi về lễ khánh hạ” [105, tr.35]

Năm 1263

Vua Nguyên xuống chiếu ưu đãi, cho 3 năm một lần cống [105, tr.35]

- Sai Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa và Trần Kiều sang Nguyên [105, tr.35] - Tháng giêng, sai bọn Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Cự Địa, Trần Kiều sang Mông Cổ. Bấy giờ mới định lệ 3 năm một lần cống. [Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, tr.574]

Năm 1266

Tháng 2, nhà Nguyên sai Nậu Lạt Đinh sang bảo: “Trước kia, ta đã sai sứ sang thông hiếu, kẻ thừa hành u mê không cho sứ trở về, do đó ta mới có việc dụng binh năm trước” [105, tr.36]

Vua [Trần Thánh Tông] sai Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn sang Nguyên đáp lễ [105, tr.35]

Bọn Dương An Dưỡng từ nước Nguyên trở về, mang theo luôn lễ vật của bọn Nguyên đáp lại [105, tr.39]

Năm 1267

Tháng 7, hiệu Chí Nguyên năm thứ 4, gửi chiếu dụ: (…) “Nay khanh cống hiến, không hề quá hạn 3 năm, đủ biết lòng thành thật như trước, nên ta kể lại chế độ tổ tông nước ta, cũng lấy lòng thành thật tỏ bày vậy. Vả lại, vua chư hầu tới chầu, cho con em vào làm tin, nạp sổ dân, sổ thuế và xuất quân giúp nhau, xưa vẫn đã có, không phải ngày nay ta bày đầu. Khanh lo làm đầy đủ mấy khoản đó, thì trẫm còn nói gì nữa, nếu chưa làm được, trẫm cũng không trách, khanh cứ lo làm tròn bổn phận. Còn nói về việc xuất quân, cũng không phải đi chinh

187

phục đâu xa mà lo. Chỉ sứ thần của khanh là Dương An Dưỡng tới nói có quân mọi Chiêm, Lạp và Sơn Liêu hay làm rối đáng lo. Như hai đám giặc mọi ấy biết phục tùng theo mình thì không cần chi đánh; cái đạo giao binh ai cho rằng dễ, nếu nó nghịch mạng thì mới dùng binh đánh dẹp. Huống chi quân lính của Vân Nam đóng ở đấy, khanh nên giúp sức để chóng thành công. Vả lại mỗi lúc tâu lên, khanh thường có lời nói thân mật như trong một nhà. Nay nghe Nậu Thứ Đinh ở bên ấy, có nhiều sự thường bị chống báng cấm đoán, không cho được hội đàm, quả như thế thì có phải nghĩa lễ thân mật trong một nhà đâu. Nghĩa vua tôi cũng như tình phụ tử, có lẽ gì tôi mà phản vua, con mà phản lại cha sao? Nếu trẫm không nói ra, thì đãi khanh không có sự thành thật, khanh nên nghĩ lại cho chín chắn để tròn sự giao hảo trước sau như một” [An Nam chí lược, tr.76]

Năm 1269

Tháng 12, sứ Nguyên Lung Hải Nha sang dụ về việc biên giới. [105, tr.40]

Vua [Trần Thánh Tông] sai Lê Đà, Đinh Củng Viên sang Nguyên [105, tr.40]

Năm 1271

Mông Cổ đặt quốc hiệu là Đại Nguyên, sai sứ sang dụ vua vào chầu [105, tr.41]

Vua [Trần Thánh Tông] lấy cớ có bệnh từ chối không đi [105, tr.41]

Năm 1272

Mùa hạ, tháng 4, sứ Nguyên Ngột Lương sang dụ, hỏi giới hạn cột đồng cũ [105, tr.41]

188

Nhà Nguyên bắt nộp các hạng người [Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, tr.574]

Vua Thánh Tông sai đồng tử [trẻ con] là Đỗ Dã Mộc sang Nguyên [Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, tr.574]

Năm 1275

a)[Mùa đông tháng 11, tướng thần ở biên giới phía bắc chạy trạm tâu báo] người Nguyên đi tuần biên giới, xem xét địa thế [105, tr.43] c) Đến đây nhà Nguyên muốn xâm lược nước ta, lại đòi hỏi sáu việc trước [1.vua phải sang chầu, 2.cho con làm con tin, 3. Biên số dân, 4. Phục dịch việc quân, 5, nộ phú thuế, 6.đặt quan cai trị], nên vua sai Khắc Phục sang giải thích. [Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, tr.574]

b) Sai Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang Nguyên [105, tr.41] Trước là nhà Nguyên cho Diệp Thức Niết làm Đạt lỗ hoa xích, rồi lại đổi cho Nạp Lạt Đinh làm Đạt lỗ hoa xích, để trông coi nước ta. Bấy giờ vua [Thánh Tông] mới lên ngôi, sai Dương An Dưỡng dâng ba tờ biểu [sang nhà Nguyên], một tờ xin định vật cống hiến, một tờ xin miễn đòi các hạng người, một tờ xin cho Nạp Lạt Đinh làm mãi chức Đạt lỗ hoa xích. [Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, tr.574]

Mùa xuân, tháng 2, sai Đào Thế Quang sang Long Châu mượn cớ đi mua thuốc để thăm dò tình hình người Nguyên

Năm 1276

Mùa hạ, tháng 4, Nguyên Thế Tổ đánh Giang Nam, sai Hợp Tán Nhi Hải Nha sang dụ 6 việc như điều dân, giúp quân v.v… [105, tr.43]

Vua [Trần Thánh Tông] đều không nghe [105, tr.41] Vua không nghe, sai Trung thị đại phu Chu Trọng Ngạn và Trung lượng đại phu Ngô Đức Thiệu sang Nguyên. [Lịch triều hiến chương loại chí, tập 2, tr.575]

Năm 1278

Vua Nguyên nghe tin Thái Tông băng, có ý mưu tính nước ta, sai Lễ bộ thượng thư Sài Xuân (tức Sài Trang Hương) sang ta. (…). [105, tr.46]

[105, tr.47]

189

a) Nhà Nguyên lấy cớ vua [Nhân Tông] không xin mệnh mà tự lập, dụ bảo phải sang chầu [105, tr.47] c) Nguyên giữ Đình Toản không cho về [105, tr.47]

b) Vua không nghe, sai Trịnh Đình Toản, Đỗ Quốc Kế sang Nguyên [105, tr.47]

Năm 1281

b) Nhà Nguyên lập Di Ái làm Lão hầu, cho Mục làm Hàn lâm học sĩ, Tuân làm thượng thư, lại sai Sài Xuân đem 1000 quân hộ tống về nước. Xuân ngạo mạn vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, Xuân dùng roi ngựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp. Xuân nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng, hắn cũng không dậy tiếp [105, tr.49]

a) Sai chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ải) và Lê Mục, Lê Tuân sang Nguyên c) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Xuân làm gì. Lúc ấy, Quốc Tuấn đã gọt tóc, mặc áo vải là hình dạng nhà sư phương Bắc. Ông ngồi xuống pha trà, cùng uống với hắn. Người hầu của Xuân cầm cái tên đứng đằng sau Quốc Tuấn, chọc vào đầu đến chảy máu, nhưng sắc mặt Quốc Tuấn vẫn không hề thay đổi. Khi trở về, Xuân ra cửa tiễn ông [105, tr.49-50]

1282 a) Mùa thu, tháng 8 (…) đem 50 vạn quân, nói phao là mượn đường đi đánh Chiêm Thành, nhưng thực ra là sang xâm lược nước ta [105, tr.50]

b) Mùa đông, tháng 10, vua [Trần Nhân Tông] ngự ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá họp vương hầu và trăm quan, bàn kế sách công thủ và chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu [105, tr.50]

3 Trong thời kỳ kháng chiến chống

Nguyên - Mông lần

thứ 2 (1282-1285)

Năm 1284

a) Vua Nguyên sai bọn thái tử Trấn Nam Vương Thoát Hoan, Bình Chương A Lạt đem quân lấy cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường vào cướp nước ta [105, tr.53]

b) Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói “đánh”, muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng. [105, tr.53]

190

1285 a) Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 6, tướng Ô Mã Nhi đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại, quan quân vỡ chạy. Ngày 12, giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn, bắt được quân của ta, thấy người nào cũng thích hai chữ “sát Thát” bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Rồi chúng đến Đông Bộ Đầu, dựng một lá cờ lớn [105, tr.55] c) Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng: Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xuống là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói “chó nhà cắn người”, giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được. [105, tr.56]

b) Vua sai [Trần Khắc Chung] đem thư xin giảng hòa. Ô Mã Nhi hỏi [Chung]: - Quốc vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ “sát Thát”, khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm. Khắc Chung đáp” - Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi, Quốc vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có? Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói: - Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao? Khắc Chung nói: - Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người. [105, tr.56] Ô Mã Nhi nói: - Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì chỉ trong khoảnh khắc, núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát

191

Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn thư giãn nạn nước vậy [105, tr.57]

Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc, bị bắt. Vương không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, Vương không trả lời. Giặc hỏi Vương: - Có muốn làm vương đất Bắc không? Vương thét to: - Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc. Rồi bị giết [105, tr.57]

Năm 1285

[Quân Nguyên tan vỡ lớn] Vua [Trần Nhân Tông] trông thấy thủ cấp của Toa Đô, thương hại nói: “Người làm tôi phải nên như thế này” Rồi cởi áo ngự, sai quân đem liệm chon, nhưng ngầm sai lấy đầu Toa Đô đem tẩm dầu để răn, vì cớ Toa Đô mượn đường vào cướp nước ta đã 3 năm vậy [105, tr.60]

Mùa xuân, tháng giêng, thả quân Nguyên về nước

Tháng 2, sứ Nguyên là Hợp Tán Nhi Hải Nha đến

4 Trong thời kỳ kháng chiến chống

Nguyên -

Năm 1286

Tháng 3, vua Nguyên sắc cho (…) Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Trương Văn Hổ điều 50 vạn quân, hạ lệnh Hồ Quảng đóng 300 chiếc thuyền biển, hẹn tháng 8 hội

Mùa hạ, tháng 6, lệnh cho vương hầu, tôn thất mộ binh, thống lĩnh thuộc hạ của mình (…) Vua lệnh cho Hưng Đạo Vương đốc thúc

192

cả ở Khâu Châu, Liêm Châu. Lại hạ lệnh quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng, Giang Tây xâm lược phương Nam, mượn cớ đưa người đầu hàng là Trần Ích Tắc về nước lập làm An Nam Quốc Vương [105, tr.61]

vương hầu tôn thất, điều động quân lính, chế tạo vũ khí, thuyền bè [105, tr.62]

Mông lần thứ ba

Năm 1288

Mùa đông, tháng 10, sai Đỗ Thiên Hư sang Nguyên [105, tr.67]

Năm 1989

Mùa xuân, tháng 2, sai Nội thư gia Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước, dùng kế của Hưng Đạo Vương, lấy người giỏi bơi lặn sung làm phu thuyền, ban đêm dùi thuyền cho đắm, bọn Ô Mã Nhi đều chết hết cả [105, tr.67]

Năm 1291

a) Nhà Nguyên sai Lễ bộ Thượng thư Trương Lập Đạo sang dụ vua [Trần Nhân Tông] vào chầu [105, tr.71]

Năm 1292

Vua [Trần Nhân Tông] sai Nguyễn Đại Phạp sang Nguyên từ chối [việc vào chầu], lấy cớ có tang [105, tr.71] b) Vua [Trần Anh Tông] lấy cớ có bệnh từ chối, sai Đào Tử Kỳ sang tặng phương vật. [105, tr.74]

5 Từ sau kháng chiến chống

Nguyên - Mông lần

thứ ba

Năm 1293

a) Nhà Nguyên sai Binh bộ Thượng thư Lương Tằng sang dụ vua [Trần Anh Tông] vào chầu [105, tr.74] c) Nhà Nguyên giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam hành tỉnh, lấy bọn Bình chương Lưu Nhị Bạt Đô cầm quân đóng ở Tĩnh Giang, đợi lệnh tiến đánh [105, tr.74].

Ngày 4 tháng 3, vua Trần Nhân Tông gửi tấu: “Trong ngày 14 tháng 2 năm nay thấy thiên sứ là quan Lại bộ thượng thư Lương Tằng, quan Lễ bộ thượng thư Lang trung Trần Phu đệ tờ chiếu thư

193

đến hạ quốc. Tôi kính cẩn xuất cả tông tộc và quan lại, vội vã ra đường xông hương nghênh tiếp, khi đến nơi đường đi có trải nệm, tôi ba lần hô vạn tuế và quỳ lạy, kính đem ra tuyên đọc, thấy lời thiên chiếu nói rằng: “Tội lỗi của nước khanh đã biết tự thú nhận rồi, thì ta không trách phạt nữa”. Thánh Thiên tử rộng lượng bao dung như thế, chúng tôi mừng rỡ, không xiết kể, lấy gì mà tỏ lòng cảm tạ trong muôn một” [An Nam chí lược, tr.146-147]

1294 Tháng giêng, Nguyên Thế Tổ băng, Nguyên Thành Tông lên ngôi, xuống chiếu bãi binh, thả Tử Kỳ về nước [105, tr.74]

Năm 1295

Mùa xuân, tháng 2, ngày 1, sứ Nguyên Tiêu Thái Đăng sang [105, tr.77]

Vua [Trần Anh Tông] sai Nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng, Phạm Thảo cùng đi theo, nhận được bộ kinh Đại Tạng đem về để ở phủ Thiên Trường, in bản phó để lưu hành [105, tr.77]

Năm 1308

Vua [Trần Anh Tông] sai Mạc Đĩnh Chi sang Nguyên [105, tr.99]

Sứ Nguyên là Thượng thư An Lỗ Khôi sang báo tin Vũ Tông lên ngôi. [105, tr.99]

Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, người Nguyên khinh ông. Một hôm, viên tể tướng mời ông vào phủ cho cùng ngồi. Lúc ấy, đương hồi tháng 5, tháng 6. Trong phủ có bức trướng mỏng thêu hình con chim sẻ vàng đậu cành trúc. Đĩnh Chi vờ ngỡ là chim sẻ thực, vội chạy đến bắt. Người

194

Nguyên đều cười ồ, cho là người phương xa bỉ lậu. Đĩnh Chi kéo bức trướng xuống xé đi. Mọi người đều lấy làm lạ hỏi tại sao. Đĩnh Chi trả lời: - Tôi nghe người xưa vẽ cành mai và chim sẻ, chứ chưa thấy vẽ chim sẻ đậu cành trúc bao giờ. Nay trong bức trướng của tể tướng lại thêu cành trúc với chim sẻ. Trúc là bậc quân tử, chim sẻ là kẻ tiểu nhân. Tể tướng thêu như vậy là để kẻ tiểu nhân trên quân tử, sợ rằng đạo của tiểu nhân sẽ mạnh, đạo của quân tử sẽ nguy. Tôi vì thánh hiền mà trừ giúp bọn tiểu nhân. Mọi người đều phục tài ông [105, tr.99-100].

Đến khi vào chầu, gặp lúc nước ngoài dâng quạt, vua Nguyên sai làm bài minh. Đĩnh Chi cầm bút viết xong ngay, lời bài minh như sau: “Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô, nhĩ ư tư thì hề, Y Chu cự nho Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thì hề, Di Tề ngã phu Y! Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù” (Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy giờ là Y Chu đại nho Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy giờ là Di Tề đói xo Ôi, được dùng thì làm, bỏ thì nằm co, chỉ ta cùng ngươi là như thế ru!) [105, tr.100]

195

Năm 1312

Sai sứ sang Nguyên

Năm 1314

a) Sứ Nguyên sang, làm lễ đọc quốc thư [về việc vua Minh Tông nhận nhường ngôi] c) Sứ giả khen vua là “thanh thoát như thần tiên”. Đến khi về nước, sứ giả thường nói về vẻ người thanh tú của vua. [105, tr.107]

b) Vua [Trần Minh Tông] ban yến, mặc áo tràng vạt bằng là màu vàng, đội mũ có thao d) Sau này, sứ ta sang Nguyên, có người hỏi rằng: - Tôi nghe nói thế tử vẻ người thanh tú nhẹ nhõm như thần tiên có đúng không? Sứ ta trả lời: - Đúng là như thế, song cũng là tiêu biểu cho phong thái cả nước [105, tr.107]

Năm 1322

Người Nguyên tranh chấp biên giới. [105, tr.116]

Sai Hình bộ thượng thư, ty Hành khiển là Doãn Bang Hiến sang Nguyên tranh biện. [105, tr.116]

1324 Vua Nguyên sai Mã Hợp Mưu, Dương Tông Thụy sang báo tin lên ngôi và trao cho một quyển lịch. Bọn Mưu đi ngựa đến tận đường ở cầu Tây Thấu

Trì không xuống. Những người biết tiếng Hán vâng lệnh tiếp chuyện, từ giờ Thìn đến giờ Ngọ, khí giận

càng tăng. [105, tr.118]

Vua [Trần Minh Tông] sai Thị ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra đón. Trung Ngạn lấy lẽ bẻ lại, Hợp Mưu đuối lý, phải xuống ngựa bưng chiếu đi bộ. [105, tr.118]

196

PHỤ LỤC 9

MỘT SỐ NHÂN VẬT VÀ SỰ KIỆN CHÍNH TRỊ QUAN TRỌNG THỜI THỊNH TRẦN

(QUA LỜI BÀN CỦA CÁC BỘ QUỐC SỬ THỜI TRUNG ĐẠI)

Stt Nhân vật Lời bàn Sử gia Nguồn trích Ghi chú

Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ nhà Trần thật to lớn vậy. Song quy hoạch việc nước đều do Trần Thủ Độ làm và chốn buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.7.

… tính người khoan nhân thông tuệ, văn võ toàn tài Lê Tắc “An Nam chí lược”, tr.243

Thực là việc lạ, suốt nghìn xưa chưa hề có. Các triều đại Bắc phương chưa hề có chuyện được nước như vậy bao giờ(…). Dầu chẳng mượn danh nghĩa là “bệ hạ có chồng”, thiên hạ thế nào chắc cũng về tay họ Trần. Họ Trần lấy được nước, đều là nhờ công sức Thủ Độ, cũng như vua Thuận Trị nhà Thanh với Đa Nhĩ Cổn, chứ Trần Thái Tông có gì đáng khen đâu? Cho nên nhà Trần không có miếu hiệu là Thái Tổ. Cái cớ làm cho nhà Trần được hưởng nước lâu dài là nhờ công đức Thánh Tông và Nhân Tông đấy chăng?

“Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, tập 1, tr.442

Về việc Trần Cảnh lên ngôi sau khi được Trần Thủ Độ dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng rồi để Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh

1

Trần Thái Tông -

Trần Cảnh

Nhà Lý, nhà Trần lấy được nước, đều không theo chính nghĩa, nên sợ lòng người không ủng hộ, mới phải dùng đến thề nguyền. Không khác gì Mạnh Tử nói: “Không đo từ dưới gốc mà chỉ đo trên ngọn để lấy cho bằng”. Việc làm như thế cũng đã là thấp kém!

“Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, tập 1, tr.447-448

Bàn về việc nhà Trần làm lễ Minh thệ ở đền Đồng Cổ

197

Thái Tông đối với Liễu có ý muốn tôn kính khác thường, cho nên mới làm việc quá đáng này. Sách phong là Hiển hoàng, thế là danh không chính rồi. Đã danh không chính thì nói không thuận, nói không thuận thì việc không thành. Liễu manh tâm làm loạn, vị tất đã không phải do đấy.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.15. Khi vua lấy Thái úy Trần Liễu làm phụ chính, sách phong làm Hiển Hoàng

Tam cương ngũ thường là luân lý lớn của loài người. Thái Tông là ông vua khai sáng cơ nghiệp, đáng lẽ phải dựng phép tắc để truyền lại cho đời sau, lại nghe mưu gian của Thủ Độ, cướp vợ của anh làm hoàng hậu, chẳng phải là bỏ cả luân thường, mở mối dâm loạn đó ư? Liễu từ đó sinh ra hiềm khích, cả gan làm loạn, là do Thái Tông nuôi nên tội ác cho Liễu vậy. Có người bảo Thái Tông không giết anh, thế là nhân, nhưng tôi thì cho rằng cướp vợ của anh, tội ác đã rõ rang, không giết anh là vì trời chưa mất mà thôi, sao được gọi là nhân? Xét ra sau này Trần Dụ Tông dâm loạn làm càn chưa hẳn không do Thái Tông đầu têu vậy.

Phan Phu Tiên

ĐVSKTT, tr.17

Thái Tông mạo nhận con của anh làm con mình. Sau này Dụ Tông và Hiến Từ đều cho Nhật Lễ làm con của Cung Túc Vương, đến nỗi cơ nghiệp nhà Trần suýt nữa bị sụp đổ, há chẳng phải là không có ngọn nguồn của nó sao?

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.117-18

Phong hóa nhà Trần không nghiêm chỉnh, lại tệ hơn phong hóa nhà Đường ở Trung Quốc. Nhưng bấy giờ Thái Tông hãy còn thơ ấu, mà Thủ Độ là người rất ngoan cố, phàm việc gì cũng do hắn chỉ sử, Thái Tông không theo cũng không được. Thế mà sử thần cứ chỉ trích riêng Thái Tông, như thế chưa phải là lời phê

Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, tr.458

Nhân việc Trần vua Thái Tông nghe theo sắp xếp, lập công chúa Lý Thuận Thiên (đang là phu nhân của anh trai vua là Hoài Vương Liễu, đang mang thai, làm hoàng hậu Thuận Thiên, khiến Trần Liễu hận mà làm loạn ở sông Cái

198

công bằng. Vả lại, lúc mới khai quốc, vua còn thơ ấu, lòng người còn nghi ngờ, Thủ Độ lại vốn là người không biết chữ, thế mà một mình kinh doanh, dựng lên được nghiệp lớn, thì thực là cương quyết, hiểm giảo, xưa nay ít có mấy người. Có lẽ vì lòng người giúp ngầm nhà Trần mà được như vậy chăng?

Trần Thái Tông làm việc này, cũng một lối như Thủy Hoàng nhà Tần đã làm ở Trung Quốc, đều do từ chỗ không có học vấn, nên hành động không có trí thuật gì cả

Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, tr.473

Nhân việc Trần Thái Tông cho thuật sĩ đi trấn yếm sông núi

Con gái vua lấy kẻ bề dưới tất phải sai chư hầu cùng họ đứng ra làm chủ hôn, theo lễ phải thế. Thái Tông đem Thiên Thành công chúa gả xuống cho Trung Thành Vương, nhưng công chúa lại về với Hưng Đạo Vương, việc hôn nhân rất là bất chính. Thế thì lễ cưới này không có ai đứng chủ ư? Giữ việc lễ đâu có thể không cho phép đứng chủ được. Vì vua đã bất chính trong đạo vợ chồng, cho nên người làm tôi con cũng bắt chước. Vả lại, hôn nhân không lấy người khác họ mà lấy người cùng họ, thì chỉ có nhà Trần làm thế. Trong việc trái lễ, lại trái lễ nữa.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.25 Nhân việc Trần Quốc Tuấn “tư thông” với công chúa Thiên Thành (cô ruột) khi công chúa đã được hứa hôn với Trung Thành Vương. Vua Thái Tông gả Thiên Thành cho Quốc Tuấn.

Vua tôi nhà Trần coi thường đạo vợ chồng lại thấy ở đây lần nữa

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.31 Nhân việc vua phong Lê Phụ Trần làm Ngự sử đại phu và đem Chiêu Thánh công chúa gả cho.

Từ sau khi Hạ Vũ truyền ngôi cho con thì cha chết con nối, anh chết em thay, phép thường mãi mãi.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.31-32

Nhân việc vua Thái Tông nhường ngôi cho

199

Gia pháp họ Trần lại khác thế: con đã lớn thì cho nối ngôi chính, còn cha lui ở cung Thánh Từ, xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính sự. Thực ra truyền ngôi chỉ để yên việc sau, phòng lúc vội vàng, chứ mọi việc đều do Thượng hoàng quyết định. Vua kế vị không khác gì hoàng thái tử cả. Như vậy thì có hợp đạo không? Có lẽ là lấy nghĩa quẻ Càn lui ở phương tây bắc và quẻ Chấn tiến ra phương đông. Nhưng chưa đến lúc già nua thì không được lười mỏi. Sao bằng cứ truyền nối như Tam Vương để đúng lẽ là thủy chung hơn cả. Mạnh Tử nói: “Theo phép của Tiên vương mà lầm lỗi thì chưa bao giờ có thế”.

thái tử Hoảng, lui vào làm Thái thượng hoàng.

Đây cũng chỉ là hiếu danh mà thôi, không được chính đáng bằng ý kiến của thái tử

Khâm định Việt sử thông giám cương mục, t.1, tr.484

1258, nhân việc Hoàng Cự Đà vì không được vua ban xoài ngon như những người khác mà sinh lòng phản trắc, vua Thái Tông nhận lỗi về mình để tha tội cho Đà.

Điềm lành hay tai họa, chỉ có người thành tâm mới có thể biết trước được. Vì thế, Đại truyện trong “Kinh Dịch” có nói: “Hình dung sự vật thì biết được vật thực, chiêm đoán sự vật thì biết được tương lai”. Nhưng tất là phải sau khi đã suy xét trong lòng, nghiền ngẫm trong óc. Thái Tông biết được việc tương lai là chiêm đoán sự vật đấy. Nhưng nếu không phải là người lý sáng, lòng thành mà cứ thấy việc là phỏng đoán mò để rồi khẳng định, thì chưa bao giờ không chuốc lấy tai họa về sau. Đó là chỗ khác nhau giữa cái học sấm ký thuật số với cái học thánh hiền chăng?

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.44 Nhân lúc Trần Thái Tông chiêm đoán việc sống chết của mình

200

Đức của Thái Tông sở dĩ được như thế, tuy tấm lòng hiếu đễ bắt nguồn từ tính trời, nhưng cũng do Linh Từ quốc mẫu điều đình, hòa giải. Việc cướp vợ của anh cũng do ở Linh Từ và Thủ Độ. Thế là Thái Tông mắc vào tội lỗi là do người dẫn lối. Đó là vì tuy có tư chất tốt đẹp trời phú cho, nhưng chưa có học thức. Đến khi tuổi cao, lý lẽ sáng tỏ, đạo đức tăng tiến, thì phải chăng điều đó có được là từ thánh học?

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.45 Nhân việc Dụ Tông làm thơ ca ngợi đức sáng của Thái Tông

Ban tước cho người là quyền của thiên tử, không phải là quyền của kẻ làm tôi. Phùng Tá Chu là bề tôi cũ của nhà Lý, không có việc cần phải chuyên quyền như ra ngoài cương giới, làm lợi cho quốc gia, vỗ yên trăm họ, mà lại cho phép chuyên quyền thì cả người cho phép và người được phép đều sai cả.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.10 Nhân việc vua Thái Tông cho phép Thái phó Phùng Tá Chu quyền Tri phủ Nghệ An, cho phép ban tước từ tá chức, xá nhân trở xuống cho người khác rồi sau về triều tâu lên.

Vua trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững vậy. Nhưng ưu du cõi tam muội, tìm dấu đạo nhất thừa thì không phải là phép trị nước hay của đế vương.

(… ), con thứ vua Thái Tông, dáng người có nhã lượng Lê Tắc An Nam chí lược, tr.244

2 Trần Thánh Tông - Trần Hoảng

Theo quy chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả. Đến khi vào triều làm tể tướng, mới thống lĩnh việc nước. Nhưng cũng chỉ nắm đại cương thôi, còn quyền

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.34-35 Nhân việc vua Thánh Tông phong Quang Khải làm tướng, mà không phong cho anh trai là Quốc Khang vì Khang tuy lớn tuổi, anh vua

201

thì thuộc về hành khiển. Người khinh lại thành trọng, người trọng lại thành khinh, mà không phải lo thêm một tầng công việc, cũng là có ý bảo toàn vậy. Vả lại, như năm Đinh Tỵ đời Nguyên Phong, giặc Nguyên sang cướp, các vương hầu cũng đem gia đồng và hương binh thổ hào làm quân cần vương. Trong sự biến đời Đại Định lại đem người thôn trang sắm sửa nghi trượng đi đón vua, đó cũng làm vững cái thế “duy thành” vậy.

nhưng tài năng tầm thường.

Giặc Hồ vào cướp là nạn lớn của đất nước. Hai vua hợp mưu, bầy tôi họp bàn há lại không có kế sách gì chống giặc mà phải đợi ban yến hỏi kế ở các phụ lão hay sao? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ của dân chúng, cũng để dân chúng nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay vậy.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.53 Nhân việc Thượng hoàng Thánh Tông tổ chức Hộ nghị Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc.

Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp tai họa giặc vào cướp, đã ủy nhiệm tướng thần, cùng với Nhân Tông chung sức, cùng nhau vượt qua, khiến cho thiên hạ đã tan mà lại hợp, xã tắc đã nguy mà lại yên, suốt đời Trần, không còn nạn xâm lược của giặc Hồ nữa. Công lao ấy to lớn lắm.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.71 Lời bàn chung

3 Trần Nhân Tông - Trần Khâm

Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân.

202

Người kiện có điều oan uổng mà được dễ dàng kêu bày, hình quan để chậm án, không thấy có lời trách hỏi, hoạn quan nội thần lạm cử làm pháp quan, vua làm việc này có ba lầm lỗi kèm theo, nhưng như vậy thì dân tình được thấu lên trên. Việc cai trị kẻ dưới thà sai vì khoan thứ để cho án kiện đọng lại được xử ngay, cũng thấy được lòng trung hậu của vua.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.48 Nhân việc em quan đại thần Đỗ Khắc Chung gây án oan sai, người bị oan đón xa giá vua Nhân Tông kêu bày, vua lập tức sai chuẩn định để trả lại công bằng cho người vô tội.

Than ôi! Câu nói ấy của vua thực là câu nói của bậc đế vương! Nói rõ đại nghĩa để người bề tôi muôn đời biết rằng trung với vua, chết vì phận sự là vinh, tuy chết mà bất hủ, mối quan hệ lớn lắm vậy. Huống chi lại cởi áo ngự, sai người liệm chôn nữa. Làm vậy, có thể khích lệ sĩ khí để trừ giặc mạnh là phải lắm.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.60 Nhân việc vua Nhân Tông nhìn thấy thủ cấp của Toa Đô, nói trước ba quân: “Người làm tôi phải nên như thế này”, rồi cởi áo ngự, sai quân đem liệm chôn.

Vua bảo kẻ thần hạ tặng biếu giao hảo với nhau thì chẳng phải là gây cái tệ tư giao giữa người làm tôi với nhau sao? Xin thưa, giao hảo với tư giao, việc thì giống nhau, nhưng tình thì có khác. Đem tâm tư mà kết ngầm với nhau, đó là tư giao, như Kinh Xuân Thu chê Thái Bá đến nước Lỗ là thế. Lấy tình nghĩa giao hoan với nhau thì không phải là tư giao, như thi nhân ngâm vịnh việc tặng dưa tặng mận cho nhau là vậy. Vua bảo bề tôi giao hảo với nhau là để cùng nhau làm tốt việc của nhà vua. Nhà Trần trung hậu như thế [qua việc này] có thể thấy được. Nhưng lấy hoạn quan không biết chữ làm Hành khiển thì cũng không phải.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.67 Nhân việc Củng Viên (sĩ quan Hàn Lâm viện) và Tòng Giáo (hoạn quan ty Hành khiển) bất hòa, vua Nhân Tông giúp hai bên hòa giải.

Ông vua này có thể gọi là “thiên tử hòa giải” Lời phê Cương mục, t.1, tr.538

203

Chữ tín là vật báu của nước, mà làm cho người khác phục mình sâu sắc thì đó là gốc của vương chính. Hưng Đạo Vương dùng bá thuật, muốn được thành công trong một thời mà không biết làm như thế là đã thất tín với muôn đời. Đã nói là đưa về nước lại dùng mưu kế để giết đi, thì thực quỷ quyệt quá lắm. Thái Tổ Cao Hoàng Đế nước Đại Việt ta đang khi dẹp loạn, định tha người Minh về nước. Bọn ngụy quan có kẻ viện dẫn cho người Minh nghe câu chuyện dùi thuyền của Hưng Đạo Vương khi trước nhằm ngăn cản ý muốn về nước của họ. Nhưng lòng tín thực của Thái Tổ thấu đến cả muông thú nên rốt cục người Minh tin theo không ngờ vực. Thế mới là làm cho người khác phục mình sâu sắc và là cội gốc của vương chính. Đâu có thể nói [chữ tín] chỉ là chuyện nhỏ nhặt

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.67-68

Nhân việc vua Nhân Tông sai người đưa tướng giặc bại trận là Ô Mã Nhi về nước, nhưng ngầm dùng kế của Hưng Đạo Vương, lấy người giỏi bơi lặn giả làm phu thuyền, đang đêm dùi thuyền cho đắm làm chết cả bọn.

Bất nhân phi nghĩa! Lời phê Cương mục, t.1, tr.539

Như thế cũng không đúng Lời phê Cương mục, t.1, tr.541

Năm 1289, chỉ việc Trần Thái Tông đối xử ân cần với gia đồng, không cho thị vệ thét đuổi gia đồng

Xem lời tâu của Quốc Kế, chẳng những học vấn nông cạn mà kiến thức cũng thấp kém. Cưỡi ngựa không phải là điều nên làm trong tang chế mà cứ xin cưỡi ngựa; làm tổn thương người sống có nghĩa là hủy thân thể, diệt sinh mạng mà lại bảo đi kiệu là thương tổn người sống. Học vấn của hắn như thế, kiến thức của hắn như

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.71 Nhân việc vua Nhân Tông đang để tang Thượng hoàng Thánh Tông mới được 3 tháng, Ngự sử đại phu Đỗ Quốc Kế khuyên vua nên cưỡi ngựa, không

204

thế thì việc sửa lầm nắn lỗi sẽ ra sao?

Nhân Tông đang có tang, không nhận ra điều sai trái đó mà lại lầm lẫn làm theo thì cũng không phải.

nên dùng kiệu khiêng vì sợ làm tổn thương người sống, vua nghe theo cưỡi ngựa, nhưng dùng yên trắng.

Nhân Tông trên thờ Từ Cung làm sáng đạo hiếu, dưới dùng người giỏi, lập nên võ công. Nếu không có tư chất nhân, minh, anh, võ thì sao được như thế? Chỉ có một việc xuất gia là không hợp đạo trung dung, là cái lỗi của bậc hiền giả.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.99 Nhân việc Thượng hoàng hóa, lúc hỏa táng được 3000 hạt xá lỵ

Vua khéo biết kế thừa, cho nên thời cuộc đi tới thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng trở nên thịnh vượng, cũng là bậc vua tốt của triều Trần. Song tụ họp nhà sư trên núi Yên Tử, làm nhọc sức dân dựng gác Ánh Vân, thì chẳng phải là tỳ vết nhỏ trong đức lớn đó sao?

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.75 Lời bàn chung

Nhân Tông mất ở Sơn Am, là một việc trọng đại trong nước, thế mà chỉ có một nhà sư đảm nhận, còn bấy giờ người làm con, người làm tôi cũng đều điềm nhiên như không. Xem thế thì việc Anh Tông thờ cha và việc nhà Trần sung bái đạo Phật, chả phải là một sự đáng lấy làm kỳ dị lắm sao?

Ngô Thì Sĩ Cương mục, t.1, tr.576

Bàn về vua Anh Tông nhân việc thượng hoàng Nhân Tông băng hà

4 Trần Anh Tông - Trần Thuyên

Thái hoàng thái hậu là danh hiệu để tôn xưng bà nội khi còn sống. Khâm Từ là hoàng hậu của Nhân Tông, thế mà Anh Tông lại truy tôn là thái hoàng thái hậu, danh vị không chính đáng đến như thế dư! Huống hồ linh cữu Nhân Tông còn quàn chưa chôn mà nào là lập thái tử, lập hoàng hậu, cử hành một cách tự nhiên, thật là không biết lễ nghĩa gì cả.

Ngô Thì Sĩ Cương mục, t.1, tr.577

Nhân việc vua Anh Tông truy tôn Khâm Từ Bảo Thánh thái hậu làm Thái hoàng thái hậu (năm 1309)

205

Luật pháp nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc đến như vậy, thế mà đến đời Dụ Tông lại công nhiên làm bậy, gọi những người giàu vào cung đánh bạc, rồi sau người trong nước bắt chước cái dở ấy, không thể ngăn cấm được nữa, cuối cùng, vì tệ đánh bạc mà rồi mất nước.

Phan Phu Tiên

ĐVSKTT, tr.78 Nhân việc Thượng phẩm Nguyễn Hưng đánh bạc, vua Anh Tông sai người đánh chết

Ngày xưa, Hán Cao hoàng vì nước Hung Nô nhiều lần làm khổ biên cương, mới lấy con gái nhà dân làm công chúa gả cho Thiền Vu.

Kết hôn với người không cùng giống nòi, các tiên nho đã từng chê trách, song dụng ý là muốn bình yên, dân nghỉ, thì còn có thể nói được. Nguyên Đế thì vì Hồ Hàn sang chầu, xin làm rể nhà Hán, nên lấy Vương Tường mà ban cho, cũng là có cớ.

Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không?

Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước, rồi sau lại dùng mưu gian trá cướp về, thế thì tín ở đâu?

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.96-97

Nhân việc vua thực hiện việc hứa hôn của thượng hoàng Nhân Tông trước đó, gả công chúa Huyền Trần cho chúa Chiêm Thành, khi Chế Mân chết, vua lại cho người sang cướp công chúa đưa về Đại Việt

Triều đình cốt phải nghiêm. Rước đưa linh cữu thì cần gì phải đến tể tướng dẹp người, hữu ty dùng kế mới đi được? Là bởi nhà Trần khoan hậu thì có thừa mà nghiêm khắc thì không đủ vậy!

ĐVSKTT, tr.102 Nhân việc lễ tang thượng hoàng Nhân Tông, dân chúng vào đứng chật cung điện, linh cữu không thể di dời, tể tướng phải đích thân dẹp đường mà vẫn

206

không xong, bèn sai Chi hậu chánh trưởng dùng kế cho hát điệu Long ngâm, dân tò mò kéo đến nghe, mới rộng đường đưa linh cữu.

Vũ Vương nhà Chu lên ngôi truy tôn hai tổ làm vương; Thái Tổ nhà Tống dựng nước, truy tôn bốn đời làm đế. Bởi vì tổ tông tích lũy công đức, nhân nghĩa nên mới có được thiên hạ, thì việc truy tôn huy hiệu cho các miếu thờ là cần phải làm gấp. Nhà Trần có thiên hạ, đã lên ngôi đế mà lấy tước vương truy phong cho ba đời đã là việc không thỏa lòng người, đến nay mới truy tôn đế hiệu thì lại có lỗi là để chậm chạp.

ĐVSKTT, tr.106 Nhân việc đến đời vua Anh Tông mới truy tôn Chiêu Vương (Trần Lý), Cung Vương (Trần Hấp), Ý Vương (Trần Kinh).

(...) không ngần ngại sửa bỏ lỗi lầm, kính cần thờ phụng cha mẹ, hòa mục với họ hàng, truy tôn tổ tiên làm đế làm hậu, chu đáo trong cúng tế, thận trọng trong tang lễ, đều là phải đạo; trong nhà đủ làm khuôn phép, người ngoài bắt chước theo. Cho nên, trên thì Nhân Tông khen là hiếu, dưới thì Minh Tông tuân theo khuôn phép. Nước trở nên văn minh, dân tới chỗ giàu thịnh. Như thế chẳng phải là hiệu quả trị nước vốn gốc ở tu thân tề gia là gì? Dù lời khen ở trong Thi, Thư cũng không hơn thế.

ĐVSKTT, tr.114 Khi an táng vào hoàng lăng

5 Trần Minh Tông - Trần Mạnh

Vua đem văn minh sửa sang đạo trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo nghĩ sâu xa, trong yên ngoài phục, kỷ cương đủ bày. Tiếc rằng không nhận biết mưu gian của Khắc Chung, để đến nỗi Quốc Chẩn phải chết, đó là chỗ kém thông minh vậy.

ĐVSKTT, tr.107 Lời bàn chung

207

Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với các bậc bề trên thì lại càng tôn kính. Kẻ hạ thần hễ ai cùng tên (với họ hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh vì là cùng tên với Thượng phụ, Tung đổi thành Thúc Cao vì là cùng tên với Hưng Ninh Vương (con trưởng của An Sinh Vương). Lại các tên của chú bác, cô cậu, khi nói đến vẫn kiêng cả. Vua có quyển sổ nhỏ biên những chữ húy không được nói đến, trao cho các hoàng tử và cung phi. Chỉ vì ngài có tấm lòng ấy, nên đã có chính tích ấy

ĐVSKTT, 107-108

Câu nói ấy của vua, tuy là nhất thời nói ra với Hiệu Khả, nhưng tấm lòng trung hậu qua đó cũng đủ rõ

ĐVSKTT, tr.121 Nhân việc Hiệu Khả ca ngợi vua giỏi hơn Anh Tông, vua mặt biến sắc và bảo: “Ai mà khen người khác là giỏi hơn cha, thì người ấy hẳn là bất hiếu với cha mẹ, cho nên mới nói ra câu ấy”. Hiệu Khả không biết chiều cha mẹ, nên vua nói thế để răn đe.

Ngôi thái tử là gốc của nước, không thể không lập sớm. Phận chính đích không thể để chi thứ phạm bừa. Vua ở ngôi đã lâu, con thứ đã lớn rồi mà con chính đích chưa sinh, thì làm thế nào? Tòng quyền là phải. Đợi con đích là chấp kinh, lập con thứ là tòng quyền. Đến khi con đích sinh ra, lớn lên thì gia phong cho con thứ tước vương, còn ngôi thái tử trả về con đích, ai bảo là chẳng nên.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.122-123

Nhân việc vua Minh Tông trì hoãn lập thái tử vì đợi hoàng hậu sinh hoàng nam, lại nghe theo gian thần giết oan nhạc phụ Quốc Chẩn.

208

Có người bảo: “Lỡ có chuyện không lành, vua cha mất trước thì nguy lắm”.

Xin thưa: Hãy chăm chú vào lời dạy thường ngày, nhận rõ lấy những lời trong di chiếu, chọn người bề tôi xã tắc, ủy cho gửi gắm con côi, thì không có lo gì. Huống chi Minh Tông chính mình ở vào cảnh ấy rồi, tất nhiên có thể xử trí được ổn thỏa. Quốc Chẩn là người cố chấp không linh hoạt, để cho kẻ gian thần thừa dịp gieo vạ, đáng thương thay!

Kinh Dịch có câu: “Xét xem chỗ sáng tỏ thông suốt mà thi hành điển lễ”. Quốc Chẩn có lẽ chưa nghe bao giờ. Nhưng nỗi oan của ông không thể làm cho rõ.

Còn như Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn chức vị sư bảo và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết lòng trung khuyên can, để cho vua mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại vào hùa với kẻ quyền quý, làm hại người ngay thẳng, đi theo bọn gian tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hãm đức vua vào việc làm tội lỗi. Việc ấy mà nhẫn tâm làm được, thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm nữa? Sau lại xui vua cầu công đi đánh Chiêm Thành, thì cái thói nịnh hót lại lộ ra nữa.

Cho nên bậc làm vua khi dùng người hiền, phải xét kỹ họ, là bởi sợ rằng có đứa tiểu nhân như Khắc Chung có thể lọt vào trong đó vậy.

209

Tam Đại xưa lấy được thiên hạ là vì lòng nhân. Cho nên những vua có đức lớn mà không làm nhiều việc ác quá lắm thì trời chưa bao giờ vội dứt bỏ họ. Nhà Hạ nếu không có Kiệt, nhà Thương nếu không có Trụ, thì việc truyền ngôi hẳn cũng chưa hết. Xem như cuối đời nhà Chu, các nước chư hầu cưỡng bức, tiếm lấn mà ngôi chính thống vẫn truyền nối mãi mãi không dứt. Đó là do nhân sâu ơn dày của tổ tông để lại mãi đến đời sau vậy.

Họ Lý được nước không kém gì Tam Đại, truyền nối nhiều đời, đến Huệ Tông không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương đến đây là hết rồi, cho nên họ Trần mới có thể lấy được nước. Đã lấy nước của người ta, lại giết vua của người ta thì thực bất nhân quá lắm.

Sau này Phế Đế phải thắt cổ chết, Nguyên Quân bị giết, mình làm thế nào thì phải chịu thế ấy, đạo trời là như vậy đó. Dù không có lời nguyền của Huệ Tông, cũng tin là phải thế. Thủ Độ coi việc đó là hết lòng trung, lo việc nước, nhưng có biết đâu thiên hạ về sau đều chỉ mặt, gọi là giặc giết vua, huống chi lại còn làm thói chó lợn.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.9 Nhân việc Thủ Độ giúp nhà Trần dấy nghiệp, bức tử vua Lý Huệ Tông, lại lấy hoàng hậu của Huệ Tông là Trần Thị Dung làm vợ.

6 Trần Thủ Độ

Thủ Độ là công thần nhà Trần, tức là tội nhân nhà Lý. Huống chi làm những nết xấu như chó lợn, dạ độc như hùm beo, dựng nước mà như thế thì làm thế nào mà lâu dài được?Nhưng chẳng qua cũng bởi nhà Lý tự rước lấy tai vạ, lại còn trách gì nữa!

“Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, tập 1, tr.446

210

Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua

ĐVSKTT, tr.36

Thủ Độ tuy làm tể tướng, nhưng mọi việc không gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái Tông có làm bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc biệt quý mến ông. Thế nhưng, cái tội giết vua và thông dâm với hoàng hậu thì khó lẩn tránh với đời sau vậy.

ĐVSKTT, tr.37 Luận công tội khi Trần Thủ Độ mất

Ban tước cho người là quyền của thiên tử, không phải quyền của kẻ làm tôi. (…). Bề tôi nhà Trần mà biết đạo ấy, phải chăng chỉ có Quốc Công Hưng Đạo Đại Vương. Thái Tông vì thấy ông có công lao to lớn, cho phép được tự tiện phong tước cho người, nhưng chưa bao giờ ông phong cho một ai cả. Giữa lúc giặc Hồ vào cướp, cầm quân chuyên chế, lấy thóc của người giàu để cấp cho lương quân, nhưng cũng chỉ cho người đó làm già Lang tướng mà không dám cho làm Lang tướng thực.

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.10 Nhân việc vua Thái Tông cho phép Thái phó Phùng Tá Chu quyền Tri phủ Nghệ An, cho phép ban tước từ tá chức, xá nhân trở xuống cho người khác rồi sau về triều tâu lên.

7 Trần Quốc Tuấn

Bậc đại thần ở vào hoàn cảnh bị hiềm nghi nguy hiểm, tất phải trung thực tin nhau, sáng suốt khéo xử, như hào Cửu Tứ của quẻ Tùy thì mới có thể giữ tròn danh dự, làm nên sự nghiệp. Nếu không thế thì nhất định sẽ mang tai họa. Quách Tử Nghi nhà Đường, Trần Quốc Tuấn nhà Trần đã làm được như vậy

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.57 Nhân dịp 1285, trong kháng chiến chống Nguyên Mông, thế giặc bức bách, xa giá hai vua (Thánh Tông, Nhân Tông ) phiêu dạt, Quốc phò tá hai vua. Ông vốn là bậc kỳ tài, lại còn mối hiềm cũ của cha, nên bị hiềm nghi. Lúc ấy, ông

211

dùng gậy đầu bịt sắt nhọn, liền vứt đi, chỉ chống gậy không để vua và tướng lĩnh trong quân yên lòng.

Trần Quốc Tuấn là người văn võ toàn tài, đủ cả trung

lẫn hiếu, duy phải một vết xấu này, nên không được là

người hoàn toàn. Có lẽ cái thói chung chạ của nhà Trần

đã ăn sâu vào đầu óc người ta, đến nỗi họ cho việc ấy

là tự nhiên không có gì quái lạ

Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập 1, tr.475

Nhân việc Trần Quốc Tuấn tư thông với Thiên Thành công chúa (cô ruột) Thiên Thành đã được hứa hôn với Trung Thành Vương

8 Lê Phụ Trần Dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông

pha trong trận giặc, tùy cơ ứng biến, chống đỡ cho

chúa trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để

dạy bảo thái tử.

ĐVSKTT, tr.113

9 Phạm Ngũ Lão Các danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo Vương thì

học vấn tỏ ra ở bài hịch, Phạm điện súy thì học vấn

biểu hiện ở câu thơ, không chỉ có chuyện về nghề võ.

Thế mà dùng binh tinh diệu, hễ đánh là thắng, đã tấn

công là chiếm được, người xưa cũng không ai vượt nổi

các ông.

ĐVSKTT, tr.114

10 Trần Khắc Chung

Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua

trao cho hắn chức vị sư bảo và đem việc nước hỏi hắn,

đáng lẽ phải hết lòng trung khuyên can, để cho vua

mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại vào

ĐVSKTT, tr.122-123

Nhân việc Trần Khắc Chung vì muốn lập hoàng tử Vượng làm thái tử mà xúi giục vua Minh Tông giết oan nhạc phụ Quốc Chẩn

212

hùa với kẻ quyền quý, làm hại người ngay thẳng, đi theo

bọn gian tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hãm đức

vua vào việc làm tội lỗi. Việc ấy mà nhẫn tâm làm được,

thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm nữa? Sau lại xui

vua cầu công đi đánh Chiêm Thành, thì cái thói nịnh

hót lại lộ ra nữa.

Thói gian tà của Trần Khắc Chung thật quá quắt lắm.

Không những hắn giở trò chó lợn ở đây mà hắn còn vào

hùa với Văn Hiếu vu hãm Quốc phụ thượng tể vào tội

phản nghịch, làm chết oan đến hơn trăm người.

Thế mà hắn được trọn đời phú quý. Khổng Tử nói: “Kẻ

gian tà được sống sót là may mà thoát tội chăng?”

Song, sau khi hắn chết, gia nô của Thiệu Vũ Vương đào

xác hắn lên mà vằm nhỏ ra thì lời thánh nhân càng

đáng tin.

ĐVSKTT, tr.98 Nhân việc Khắc Chung cướp công chúa Huyền Trân từ người Chiêm, dùng thuyền đi loanh quanh ngoài biển, tư thông với công chúa, lâu mới về kinh.

11 Trần Nhật Hiệu Nhật Hiệu là đại thần cùng họ với vua. Giặc đến, khiếp

sợ, hèn nhát, không có kế sách chống giữ, lại còn kiếm

cách xui vua mình chạy đi ở nhờ nước khác, thì còn

dùng hắn làm tướng làm gì?

Ngô Sĩ Liên ĐVSKTT, tr.30 Nhân việc năm 1257, chiến chống Nguyên Mông, thế giặc rất mạnh, vua Thái Tông hỏi Thái úy Trần Nhật Hiệu kế sách chống giặc, Hiệu viết lên mạn thuyền 2 chữ “nhập Tống”.

12 Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung

Linh Từ trước lấy Lý Huệ Tông là bất chính, sau lấy

Trần Thủ Độ là thất tiết. Thế nhưng con gái bà là Chiêu

Hoàng nhường ngôi cho nhà Trần. Thuận Thiên lại là

ĐVSKTT, tr.33 Nhân việc Trần Thị Dung mất

213

hoàng hậu của Thái Tông, Linh Từ đã điều đình hòa

giải, lại tình nghĩa an hem như xưa.

Đến khi người Nguyên tắt đường vào cướp, kinh thành

thất thủ, Linh Từ ở Hoàng Giang, giữ gìn hoàng thái tử,

cung phi, công chúa và vợ con các tướng soái thoát

khỏi giặc cướp, lại khám xét thuyền các nhà có chứa

giấu quân khí đều đưa dùng vào việc quân. Công của

bà giúp nhà Trần trong việc nội trị thì nhiều mà phần

báo đáp nhà Lý thì không được bằng. Thế mới biết trời

sinh Linh Từ là để mở nghiệp nhà Trần. Việc thì giống

như Đồ Sơn dấy nhà Hạ, mà đức thì không giống. Đạo

biến của trời như thế đấy, huyền vi thay!

214

PHỤ LỤC 10

HÌNH ẢNH MỘT SỐ DI SẢN VĂN HÓA THỜI TRẦN

Hình vẽ mô tả binh sĩ thời Trần trên đồ gốm Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%

C3%A0_Tr%E1%BA%A7n

Chân đèn (phần dưới) gốm mentrắng

với hình tượng rồng thời Trần Nguồn: https://vi.wikipedia.org/

wiki/Nh%C3% A0_Tr%E1%BA%A7n

Uyên ương bằng đất nung trang trí cung điện thời Trần Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1% BB%87_thu%E1%BA%ADt_

Vi%E1%BB%87t_Nam_th%E1%BB%9Di_Tr%E1%BA%A7n

215

Một trong 6 hố khai quật tại khu vực đền Trần ở xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà Nguồn: http://dantri.com.vn/van-hoa/phat-hien-dau-tich-kien-truc-cung-dien-

thoi-tran-1421353053.htm

Tháp chùa Phổ Minh Nguồn: http://muatourdulich.com/namdinh/chua-thap-pho-minh-nam-dinh.html

216

Rồng trên cánh cửa chùa Phổ Minh

Nguồn: http://muatourdulich.com/namdinh/chua-thap-pho-minh-nam-dinh.html

217

Tháp Tổ - Huệ Quang Kim Tháp

Nguồn: http://vietsensetravel.com/thap-to-n.html

218

Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng đá cẩm thạch trong Tháp Tổ

Nguồn: http://vietsensetravel.com/thap-to-n.html

219

Chứng tích Bãi cọc Bạch Đằng

Nguồn: http://www.dulichetv.com.vn/diem-den-du-lich/Quang-Ninh/Bai-coc-

Bach-Dang.html

220

Một phần của bức “Trúc Lâm đạo sĩ xuất sơn chi đồ”

Nguồn: https://www.dkn.tv/nghe-thuat/truc-lam-dai-si-xuat-son-do-kiet-tac-thu-hoa-ve-nhung-ngay-

vua-tran-nhan-tong-xuong-nui-hoa-duyen.html

221

PHỤ LỤC 11

SỨC SỐNG CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI TRẦN

Đền Trần (Nam Định)

Chùa Đồng (Yên Tử, Quảng Ninh)

222

Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông (bằng đồng, ở đỉnh An Kỳ Sinh,

Yên Tử, Quảng Ninh)

Tượng Trần Hưng Đạo - tại bến Bạch Đằng (Tp. Hồ Chí Minh)

223

Liên hiệp UNESCO Thế giới tặng bằng tôn vinh các giá trị di sản lịch sử

và văn hóa thời Trần

Nguồn: http://dantri.com.vn/van-hoa/cac-gia-tri-di-san-lich-su-va-van-hoa-thoi-tran-

duoc-unesco-ton-vinh-20160915061456899.htm

224

PHỤ LỤC 12

Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CÁC CHUYÊN GIA, NHÀ KHOA HỌC VỀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN TRIỀU TRẦN

VÀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ THỜI THỊNH TRẦN

TT TÊN CHUYÊN GIA

VẤN ĐỀ CẦN TƯ VẤN

Ý KIẾN TƯ VẤN CỦA CHUYÊN GIA

- Tính chất quân chủ tông tộc/đồng tộc của nhà nước thời Trần

- Cần nhấn mạnh đến tính chất nhà nước của nhà Trần. Chỉ có dưới thời thịnh Trần mới tồn tại tính chất quân chủ quý tộc đồng tộc. Nhà Trần dùng con cháu tôn thất điều hành công việc của triều đình và đất nước. “Tông tử duy thành”- tức dùng con cháu tôn thất làm thành luỹ. Tính chất này chi phối nhiều vấn đề chính trị. Ví dụ: 1. Chức vụ chủ chốt do các vương hầu nắm giữ; 2. Nhà Trần quan niệm tông miếu và xã tắc làm một. Kháng chiến chống ngoại xâm thắng lợi, bảo vệ xã tắc cũng là bảo vệ tông miếu. Nên việc bình công, thưởng công sau kháng chiến đối với nhà Trần rất đơn giản. Trần Hưng Đạo có công lớn như vậy nhưng cũng chỉ thăng lên Đại vương. 3. Cac vương hầu quý tộc vứ có quyền cao chức trọng vừa có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, đó là được ban cấp thái ấp và được phép lập điền trang. 4.Chính vì có điều 1, 2 và 3 nên nhà Trần đã xây dựng được sự đoàn kết gần như tuyệt đối trong triều đìh và toàn dân. Đây là nhân tố rất quan trọng góp phần làm nên chiến thắng trong ba lần kháng chiến chống quân xêm lược Mông- Nguyên.

1 PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi

- Sự phân cấp hệ thống chính quyền cấp địa phương (từ cấp lộ trở xuống)

Kết quả nghiên cứu của tôi đã chỉ ra rằng cấp lộ- phủ -trấn- châu là đồng cấp. Châu ở nơi xã như châu Nghệ An, châu Diễn. Thời Trần, chính quyền cấp lộ có lúc gọi là lộ phủ, có lúc gọi là lộ trấn, có khi gọi là châu lộ nhưng đa số được gọi là lộ như thống kê trên đây. Đến cuối thời Trần, năm Quang Thái thứ 10 (1397), thì nhà nước tiến hành đổi cấp lộ làm trấn. Từ đây trở đi cấp trấn mới chính thức

225

sử dụng rộng rãi. Như vậy, theo tôi trước năm 1397, cấp lộ, phủ hay trấn, châu là cấp chính quyền tương đương nhau (lộ = phủ = trấn = châu), chứ hoàn toàn không phải là cấp chính quyền thống thuộc nhau.

- Tiêu chí xác định thời kỳ thịnh trị của một vương triều?

Cho đến nay chưa có nhà khoa học nào chính thức đưa ra một bộ tiêu chí để xác định thời kỳ thịnh trị của một vương triều. Nhưng thường thì một thời kỳ được gọi là thịnh trị là một thời kỳ mà xã hội, đất nước phát triển đồng bộ về mọi mặt từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội.

Về đường lối chính trị thời thịnh Trần

Cần nhấn mạnh vấn đề xây dựng và duy trì sự đoàn kết trong triều đình và toàn dân. Đây là vấn đề rất đặc biệt của thời Trần. Sự đoàn kết là yếu tố góp phần làm nên thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Cũng chính vì đoàn kết được toàn dân nên trong thời thịnh Trần chỉ có một cuộc làm phản ở đạo Đà Giang vào năm 1280.

Về mối quan hệ giữa tư tưởng chính trị thời Trần và tư tưởng chính trị Trung Hoa

Do Việt Nam thời trung đại chịu ảnh hưởng trực tiếp và to lớn của lý luận và thực tiễn chính trị Trung Quốc, nên việc nhận chân mối quan hệ giữa các lý thuyết chính trị ở quốc gia này, cùng những đặc điểm, những “hằng số của VHCT” với bề dày vài ba nghìn năm sẽ giúp cho việc triển khai nghiên cứu cụ thể thời thịnh Trần được dễ dàng hơn để đáp ứng yêu cầu nhận ra cái giống và cái khác giữa hai nền chính trị, hai thực tiễn chính trị quốc gia vừa giống vừa khác ấy.

2 GS. Trần Ngọc Vương - Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn

Về chủ thể chính trị Khi bàn tới chính trị, cần nhận thức một cách tiên quyết rằng đó là loại công việc, lĩnh vực hoạt động đặc thù của giai cấp hay tầng lớp thống trị, giai cấp cầm quyền. Sự “tham dự”, loại hành vi “tham dự chính trị” của dân chúng chỉ xuất hiện khi trong thực tiễn xã hội bảo lưu hay xuất hiện ít hay nhiều tinh thần “dân chủ’, dù tự phát hay tự giác.

226

Cần lưu ý để tìm kiếm và phát hiện những nét đặc sắc, những “sáng kiến” và cả những lối “ứng xử bất thường” của các nhân vật chính trị Việt Nam thời thịnh Trần, không dễ và không nên chỉ quy chiếu vào những khuôn mẫu đã biết trong nền chính trị Trung Quốc.

- Hạn chế của VHCT thời Trần

Sự níu kéo của tư tưởng Phật giáo và quán tính “tự tung tự tác” của dân gian bằng các cách khác nhau xói mòn định hướng xây dựng một thiết chế đại thống nhất, đại tập trung - điều cần thiết để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Thêm vào đó, một trong những nguyên nhân nữa khiến nhà Trần rối loạn rồi suy yếu là vì không có người trong hoàng tộc hiểu và thực hành quyền lực của mẫu nhân cách hoàng đế

Đặc trưng của

VHCT thời Trần

Cái hay nhất của nhà Trần chính là tinh thần đa nguyên, sự cởi mở, khoan dung,

khai phóng. Có thể gói gọn trong công thức: “khoan - giản - an - lạc”.

Vấn đề ý thức hệ

thời Trần

Cần phải thiết lập ý thức hệ thời Trần: thời nào cũng có ý thức hệ và vấn đề ý

thức hệ như thế nào? Thời Trần đó là ý thức hệ Phật giáo - Phật giáo là quốc

giáo, nên văn hóa của thời đó cũng là văn hóa ảnh hưởng của phật giáo.

Vấn đề vai trò của

Phật giáo Thiền tông

Văn hóa Phật giáo đã kết tinh trong mẫu người vô ngã (tự do tự tại, không tham

quyền, của cải,...)

Cũng có thể khẳng định, trong các yếu tố quan trọng tạo nên tiền đề hình thành VHCT

thời thịnh Trần, Phật giáo Thiền tông đóng vai trò không phải như là một trong những

yếu tố, mà là yếu tố chủ đạo, yếu tố làm nên tinh thần thời đại của thời Trần.

3 PGS.TS. Đỗ Lai

Thúy - Tạp chí

Văn hóa Nghệ

thuật Việt Nam

Vấn đề hôn nhân nội

tộc thời Trần nhìn từ

góc độ văn hóa học

Thực ra ở đây xuất phát từ chỗ nhà Trần tiếp tục nhà Đinh, Tiền Lê, Lý muồn có

được sự chính danh bằng mẫu hệ. Truyền ngôi theo phụ hệ, nhưng phải được xác

nhận bằng mẫu hệ. Ở đây thể hiện tính chất song hệ của xã hội Việt Nam cổ truyền.

227

Nhân cách thời Trần - Về cơ bản, con người thời đại Lý - Trần là “con người vô ngã”, song không

phải là tất cả. Còn có con người ý thức về bản ngã cá nhân (“cái tôi”) như Trần

Quốc Tuấn, Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung không thể gộp chung vào con

người vô ngã.

Trần Quốc Tuấn là con người tự ý thức về bản ngã rất mạnh mẽ, rất sâu sắc và

rất đặc biệt, điều này thể hiện rất rõ trong Hịch tướng sĩ văn: ý thức về trách

nhiệm với đất nước, chế độ, ý thức về quyền lợi, địa vị của mình, ý thức về danh

dự của mình - đó chính là cái “ngoại nhân cách”. Không những thế, ông còn giáo

dục cho mọi người ý thức về quyền lợi, nghĩa vụ của họ, đề cao tài năng của mọi

người (khi nói về gia nô Dã Tượng, Yết Kiêu: “Chim hồng hộc bay cao được là

nhờ sáu cái trụ cánh, nếu không có sáu cái trụ cánh ấy thì cũng chỉ là chim

thường mà thôi”)

- Trường hợp Phật hoàng Trần Nhân Tông: Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân

Tông, danh xưng này không giống với “Vua - Thần”, Vua - Phật (Deva - Raja),

Pharaon (Ai Cập), Patesi (Lưỡng Hà), Raja (Ấn Độ), Varaman (Ăng co)... Vua

hiện thân quy luật thế tục, Raja hiện thân của thần thánh kết hợp lại. Phật hoàng

= Giáo hoàng thậm chí cả Nhật hoàng.

4 PGS.TS. Lê Quý

Đức - Cựu Giáo

chức thành phố

Hà Nội

- Phân chia cấu trúc

của một nền văn hóa

nói chung và cấu

trúc của một nền

VHCT nói riêng?

- Cấu trúc của nền văn hóa nói chung, có thể phân chia thành 3 bộ phận: văn hóa

vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa tổ chức xã hội

- Cấu trúc của VHCT: có 5 thành tố: tư tưởng - thể chế chính trị, thiết chế chính

trị; công nghệ chính trị, nhân cách chính trị, ngoại hiện chính trị

228

5 PGS.TS. Đoàn

Thế Hanh - Học

viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí

Minh

Về giá trị văn hóa

của nền chính trị

thời thịnh Trần

Nghiên cứu về VHCT của một vương triều cụ thể thì thông qua biểu hiện cụ thể

về một mặt nào đó (ví dụ: về tổ chức chính quyền chẳng hạn thì sau khi mô tả bộ

máy phải đánh giá vai trò, mối quan hệ của mỗi bộ phận cấu thành để thấy được

tính văn hóa (hợp lý, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả...) từ bộ máy đó một cách cụ

thể, chứ nhất thiết không chỉ là liệt kê các tổ chức của bộ máy. Tương tự như

vậy, ở các mặt cụ thể của các thành tố trong cấu trúc nền VHCT cần làm nổi bật

tính văn hóa của nó.

Nội dung nhận diện văn hóa chính trị ở 4 thành tố cần dựa tên các bằng chứng

lịch sử để có cơ sở khoa học vững chắc và tính thuyết phục.

Quan niệm về VHCT Văn hóa chính trị là các giá trị, được biểu hiện thành mô thức, chuẩn mực. Các

chuẩn mực đó thể hiện trong ý thức (suy nghĩ, lý tưởng), trong hành vi (hành

động), trong con người (người có đủ chuẩn mực văn hóa đó là nhân cách chính trị.

6 GS.TS. Nguyễn

Văn Huyên -

Học viện Chính

trị quốc gia Hồ

Chí Minh

Vấn đề quyền lực

chính trị

Quyền lực chính trị là phạm trù trung tâm của chính trị học. Bàn về VHCT cần

phải bàn đến quyền lực. Quyền lực ở đây phải bao hàm cả vấn đề nhận thức về

quyền lực, thái độ đối với quyền lực của một bộ phận vua quan (tầng lớp elite)

trong xã hội và cả việc sử dụng quyền lực đó như thế nào. Đặc biệt, vấn đề sử

dụng quyền lực cần được bàn đến một cách trực diện và sâu sắc vì chính việc sử

dụng quyền lực chính trị như thế nào sẽ phản ánh được VHCT của chủ thể sử

dụng quyền lực đó.