25
TËp san lÞch sö X· héi phong kiÕn ph¬ng ®«ng

TRUNG QUỐC THỜI PHONG KIẾN

Embed Size (px)

Citation preview

TËp san lÞch sö

X· héi phong kiÕn ph¬ng ®«ng

TRUNG QUỐC THỜI PHONG KIẾN

A.Các triều đại phong kiến

Đặc điểm chung của xã hội phong kiến Trung Quốc

Đặc điểm của phong kiến Trung Quốc là các triều đại thường lật đổ nhau trong bể máu và giai cấp giành được quyền lãnh đạo thường phải áp dụng các biện pháp đặc biệt để duy trì quyền lực của họ và kiềm chế triều đại bị lật đổ. Chẳng hạn như nhà Thanh (người Mãn Châu) sau khi chiếm được Trung Quốc thường áp dụng các chính sách hạn chế việc người Mãn Châu bị hòa lẫn vào biển người Hán vì dân họ ít. Tuy thế, những biện pháp đó đã tỏ ra không hiệu quả và người Mãn Châu cuối cùng vẫn bị văn hóa Trung Quốc đồng hóa.

Vào thế kỷ thứ 18, Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng kể về công nghệ so với các dân tộc ở Trung Á mà họ gây chiến hàng thế kỷ, tuy nhiên lại tụt hậu hẳn so với châu Âu. Điều này đã hình thành cục diện của thế kỷ 19 trong đó Trung Quốc đứng ở thế phòng thủ trước chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong khi đó lại thể hiện sự bành trướng đế quốc trước Trung Á. (Xem Chủ nghĩa đế quốc tại châu Á).

Tuy nhiên nguyên nhân chính của sự sụp đổ của đế quốc Trung Hoa không phải do tác động của châu Âu và Mỹ, như các nhà sử học theo chủ thuyết vị chủng phương Tây vẫn hằng tin tưởng, mà có thể là kết quả của một loạt các biến động nghiêm trọng bên trong, trong số đó phải kể đến cuộc nổi dậy mang tên Thái Bình Thiên Quốc kéo dài từ 1851 đến 1862.Hồng Tú Toàn (1814-1864) là một trong những người lãnh đạo Thái bình Thiên quốc. Mặc dù cuối cùng cũng bị lực lượng triều đình dập tắt, cuộc nội chiến này là một trong số những cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử loài người - ít nhất hai mươi triệu người bị chết (hơn tổng số người chết trong Thế chiến thứ nhất). Trước khi xảy ra nội chiến này cũng có một số cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, đặc biệt là ở vùng Trung Á. Sau đó, một cuộc khởi nghĩa lớn cũng nổ ra mặc dù tương đối nhỏ so với nội chiến Thái Bình Thiên Quốc đẫm máu. Cuộc khởi nghĩa này được gọi là khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn với mục đích đuổi người phương Tây ra khỏi Trung Quốc. Tuy đồng tình thậm chí có ủng hộ quân khởi nghĩa, Thái hậu Từ Hi lại giúp các lực lượng nước ngoài dập tắt cuộc khởi nghĩa này.

1. Thời Tần, Hán

Khoảng thế kỉ V trước Công nguyên, sản xuất phát triển, xã hội có nhiều biến đổi, Trung Quốc chuyển dần sang chế độ phong kiến. Năm 221 trước Công nguyên, nhà Tần thống nhất Trung Quốc và tồn tại được 15 năm, rồi nhà Hán lên thay. Chế độ phong kiến được xác lập. Các vua Tần, Hán đã tập trung xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến vững mạnh từ trung ương xuống các địa phương, tiến hành các cuộc xâm chiếm, gây chiến tranh với các nước láng giềng. Đồng thời, các vua nhà Tần, Hán cũng chú ý phát triển kinh tế. Văn hoá đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.

a) Sự thành lập chế độ phong kiến

Từ thời cổ đại, người Trung Quốc đã xây dựng nhà nước của mình trên lưu vực Hoàng Hà.Cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc (thế kỉ VIII - thế kỉ III trước Công nguyên), người ta bắt đầu biết chế tạo công cụ bằng sắt. Nhờ có lưỡi cày, lưỡi cuốc bằng sắt, người ta có thể trồng trọt trên diện tích rộng hơn, có thể khai hoang những miền rừng rú lớn hơn. Đồng thời, kỹ thuật sản xuất không ngừng được cải tiến. Các công trình thuỷ lợi và giao thông có quy mô lớn cũng được xây dựng.Những tiến bộ về công cụ, kỹ thuật sản xuất không chỉ làm cho diện tích gieo trồng ngày một mở rộng, năng suất và tổng sản lượng nông nghiệp tăng, mà còn làm cho xã hội biến đổi sâu sắc. Những quan lại và một số người nông dân giàu đã tập trung trong tay nhiều của cải. Bằng quyền lực của mình, họ còn tước đoạt thêm nhiều ruộng đất công. Từ đó, một giai cấp mới hình thành, bao gồm những kẻ có ruộng tưm vốn là những tên quan lại và những người nông dân giàu có, được gọi là giai cấp địa chủ.Cùng với quá trình hình thành giai cấp địa chủ, nông dân giờ đây cũng bị phân hoá. Một bộ phận giàu có đã trở thành giai cấp bóc lột. Một số khác vẫn giữ được ruộng đất để cày cấy, họ là nông dân tự canh, có nghĩa vụ nộp thuế, đi lao dịch cho nhà nước. Số còn lại là những nông dân, rất nghèo, không có ruộng, hoặc có quá ít, buộc phải xin nhận ruộng của địa chủ để cày cấy. Khi nhận ruộng, họ phải nộp một phần hoa lợi cho địa chủ, gòi là tô ruộng đất. Tầng lớp xã hội mới này được gọi là những tá điền hay nông dân lĩnh canh.Như vậy, quan hệ chủ yếu trước kia là quan hệ bóc lột của quý tộc đối với nông dân công xã dần dần nhường chỗ cho quan hệ bóc lột địa tô của địa chủ với nông dân lĩnh canh – quan hệ phong kiến xuất hiện. Các điều kiện kinh tế - xã hội, hình thành ở Trung Quốc vào những thế kỉ cuối trước Công nguyên, đã thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ và sự hình thành của chế độ phong kiến.

b) Xã hội dưới thời Tần, HánNhà Tần  (221 TCN - 206 TCN) là triều đại kế tục nhà Chu và trước nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.Việc thống nhất Trung Quốc năm 221 TCN dưới thời Tần Thuỷ Hoàng đã đánh dấu sự khởi đầu của đế quốc Trung

Quốc, một giai đoạn chỉ chấm dứt cùng với sự kết thúc của nhà Thanh năm1912. Nhà Tần đã để lại một di sản trung ương tập quyền và một hệ thống quan liêu sẽ được áp dụng vào những triều đại kế tiếp sau này.Nhà Hán (203 TCN–220) nối tiếp sau nhà Tần và trước thờiTam Quốc ở Trung Quốc. Triều đại này được gia tộc họ Lưu thành lập và cai trị.Vua Tần tự xưng là Hoàng đế, có ý coi mình là đấng tối cao, vua của các vua. Vua đầu tiên là Tần Thuỷ Hoàng đã khởi đầu việc xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến, trong đó Hoàng đế có quyền tuyệt đối. Dưới vua có hệ thống quan văn và quan võ. Thừa tướng đứng đầu quan văn còn Thái uý đứng đầu quan võ.Đây là chức quan cao nhất của triều đình để giúp Hoàng đế trị nước. Ngoài ra còn có các chức quan coi giữ binh mã, tiền tài, lương thực, tư pháp.Các địa phương được Hoàng đế chia thành quận, huyện, đặt các chức quan Thái thú (ở quận) và Huyện lệnh (ở huyện). Các quan lại phải hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Hoàng đế và luật pháp của nhà nước.Sau 15 năm tồn tại, cuộc khởi nghĩa nông dân do Trần Thắng lãnh đạo lật độ nhà Tần. Nhà Hán lên thay nhà Tần tiếp tục củng cố bộ máy cai trị, mở rộng hình thức tiến cử cả con em gia đình địa chủ tham gia vào chính quền

Bộ máy nhà nước thời Tần,Hán

*Chú thích: thừa tướng đứng đầu quan văn. Thái uý đứng đầu quan võCác chức quan khác: các quan coi giữ tài chính, lương thực,…Thái thú đứng đầu quậnHuyện lệnh đứng đầu huyện

Kinh tếNhà Tần định hệ thống tiền tệ chung, thống nhất đơn vị đo lường và mở thêm đường giao thông. Nhà Hán lại chú trọng công việc thuỷ lợi. Việc sử dụng cày sắt và trâu bò kéo đã khá phổ biến, sản lượng nông nghiệp tăng hiưn trước. Kho lương thực nhà nước khá dồi dào.Cùng với nông nghiệp, nghề thủ công cũng phát đạt. Việc khai thác mỏ và nghề rèn đúc đồ sắt, đồ đồng được mở mang. Một số ngành thủ công khác như dệt vải, lụa, gấm vóc và làm giấy đã sớm trở thành nghề truyền thống, sản phẩm làm ra có chất lượng tốt.Việc trao đổi buôn bán đã được tiến hành thuận lợi và rộng rãi trong nước. Kinh đô Trường An (thuộc tỉnh Thiểm Tây) và một số thành thị khác như Lạc Dương, Thành Đô… trở thành những nơi buôn bán khá sầm uất.Các hoàng đế Trung Quốc sớm có tham vọng chiếm nhiều đất đai của các nước khác. Nhà Tần và nhà Hán đã phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược để thôn tính, đồng hoá các nước xung quanh. Đó là các cuộc hành quân xâm lấn bán đảo Triều Tiên, thôn tính các nước phương Nam, chiếm nước Nam Việt.Nhưng các cuộc chiến tranh liên miên, hao người tốn của đã làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Trung Quốc lại bước vào thời kỳ loạn lạc kéo dài hàng mấy thế kỉ.

2. Trung Quốc thời Đường

Dưới thời Đường, chế độ phong kiến Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao. Bộ máy nhà nước được kiện toàn. Ở các miền đất mới chiếm được và vùng biên cương, người ta đặt thêm các chức quan (như Tiết độ sứ…). Nhà Đường và nhà Tống tiếp tục các cuộc chiến tranh xâm lược, nên lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng hơn. Kinh tế thời Đường khá phát triển, ruộng đất được cấp theo chế độ quân điền, nhưng vẫn không chấm dứt được nạn chiếm hữu ruộng đất. Văn hoá thời Đường, Tống rất phát triển, đặc biệt là thơ Đường và từ Tống.

a). Chính quyền phong kiến được củng cố và mở rộngCuối triều Hán, Trung Quốc lại rơi vào tình trạng rối loạn. Nông dân nổi dậy chống chính quyền phong kiến, còn bọn quý tộc quan lại thì chia sẻ đất nước thành nhiều quốc gia nhỏ, hỗn chiến liên miên. Cuối thế kỉ VI, Trung Quốc thống nhất trở lại dưới triều nhà Tuỳ (581 – 618). Sau đó Lý Uyên cướp ngôi nhà Tuỳ, lập ra nhà Đường (năm 618 – 907). Kinh đô đặt ở Trường An.

Nhà Đường tiếp tục tăng cường bộ máy cai trị, Hoàng đế có uy quyền vô biên. Cùng với việc củng cố bộ máy triều đình, các hoàng đế nhà Đường đã thi hành hai việc đáng chú ý: một là cử người thân tín cai quản các địa phương, đặc biệt là cử những người thân tộc và các công thần giữ chức Tiết độ sứ, cai trị các vùng biên cương (đây là chức quan chỉ huy, cai quản cả dân sự và quân sự); hai là đặt các khoa thi để tuyển chọn người làm quan. Không phải chỉ có dòng dõi quý tộc, mà con em địa chủ, nếu học giỏi có tài, thi đỗ cũng có thể ra làm quan, được phong tước vị. Như thế, chế độ phong kiến đã tạo điều kiện cho các tầng lớp phong kiến được tham gia bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương. Chính quyền phong kiến đến thời Đường đã được tăng cường nhằm nâng cao quyền lực tuyệt đối của Hoàng đế.

Nho học, được chọn lựa thông qua các hệ thống khoa cử đã được hoàn thiện hơn dưới thời nhà Đường. Các thủ tục mang tính cạnh tranh này đã được thiết lập nhằm lựa chọn những người có tài năng nhất để phục vụ cho chính quyền. Nhưng có lẽ mối quan tâm lớn nhất của các vị vua nhà Đường là sự phụ thuộc của đế chế vào các gia đình quý tộc có quyền lực cũng như các lãnh chúa có thể để lại những hậu quả gây mất ổn định, do vậy họ đã tạo ra một hệ thống quan lại không có lãnh thổ tự trị cũng như không có các cơ sở quyền lực quân sự. Các quan chức này thông thường là có quan hệ họ hàng thân thích với hoàng tộc. Từ thời nhà Đường cho đến tận thời gian gần đây của nhà Thanh năm 1911, các quan chức hoạt động như là tầng lớp trung gian giữa người dân thường và chính quyền nhà nước.

Với sức mạnh và quyền lực to lớn của mình, các vua nhà Đường tiếp tục đi xâm chiếm đất đai. Nhà Đường đã đem quân lấn chiếm vùng Nội Mông ở phía bắc, chinh phục Tây Vực ở phía tây (nay là Tân Cương), xâm lược bán đảo Triều Tiên, củng cố chế độ thống trị ở “An Nam” (lãnh thổ nước ta thời ấy), ép nước Tây Tạng phải thần phục. Trải qua các thời Tần, Hán, nhất là thời Đường, lãnh thổ Trung Quốc được mở rộng.

Nhưng đến cuối thời Đường, mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, nông dân liên tiếp nổi dậy chống chính quyền, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa lớn do Hoàng Sào lãnh đạo nổ ra vào năm 875. Năm 907, nhà Đường bị lật đổ. Triệu Khuông Dẫn dẹp tan các lực lượng đối lập, lên ngôi vua, lập ra nhà Tống vào năm 960.

b)Kinh tế thời Đường

Dưới thời Đường, kinh tế phát triển tương đối toàn diện. Nhà Đường thực hiện việc lấy đất công và ruộng bỏ hoang đem chia cho nông dân, được gọi là chế độ quân điền:- Nhà nước đem ruộng đất do mình trực tiếp quản lý chia cho nông dân cày cấy.- Các quan lại, tuỳ theo chức vụ cao thấp, được cấp ruộng đất làm bổng lộc- Ruộng trồng lúa, người làm thuê đến 60 tuổi phải trả lại cho nhà nước; ruộng trồng dâu được cha truyền con nối.Khi nhận ruộng, nông dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước theo chế độ tô, dung, điệu (tô: thuế ruộng - bằng lúa; dung: thuế thân – bằng lao dịch; điệu: thuế hộ khẩu - bằng vải lụa).Ruộng tư nhân cũng phát triển. Do việc ban cấp ruộng đất cho các cận thần nên nhiều người tập trung trong tay rất nhiều ruộng đất. Có người được mệnh danh là “ông nhiều ruộng” (Lư Tùng Nguyên), “kẻ nghiện đất” (Lý Bành Niên)…

Cùng với nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp được mở rộng hơn. Nghề dệt có nhiều tiến bộ.Thời Đường đã sản xuất được lụa in hoa và thêu kim tuyến, đã xuất hiện các trung tâm dệt nổi tiếng như Hàng Châu. Nghề làm đồ gốm sứ xuất hiện từ thời Hán, đến thời Đường đồ sứ đã đạt tới trình độ cao, có loại sứ xanh như ngọc bích.Do sự phát triển của ngành thủ công nghiệp, đến thời Đường tổ chức phường hội đã xuất hiện, đến thời Tống càng phát triển. Đứng đầu các phường hội có ông trùm gọi là “hàng lão”, dưới đó là thợ thủ công và thợ học việc.

Từ thế kỉ VI, ngoại thương cũng đã phát triển. Trung Quốc đã có quan hệ buôn bán với hầu hết các nước châu Á. Lái buôn nước ngoài, hoặc bằng đường biển, hoặc dùng lạc đà, vượt sa mạc chở hàng quý như ngà voi, sừng tề, thuỷ tinh… đến Trung Quốc bán rồi chở về nước họ vàng, bạc và sản phẩm nổi tiếng như lụa, đồ sứ, giấy bút…

Sự phát triển nói trên tuy có cải thiện ít nhiều đời sống của nhân dân, nhất là thời gian đầu, nhưng chủ yếu là làm lợi cho Hoàng đế, quan lại, địa chủ và thương nhân. Ngược lại, tình cảnh nông dân thật là cùng cực. Cuối thời Đường, phần lớn ruộng đất mà nông dân được cấp đã lọt vào tay địa chủ. Những nông dân lĩnh canh phải nộp nhiều tô, thuế bằng thóc lúa, vải lụa, chịu lao dịch nặng nề, Cảnh nghèo túng diễn ra khắp nơi, nạn chết đói cũng thường xuyên xảy ra. Nông dân lại nổi dậy chống chính quyền phong kiến.

3. Trung Quốc thời Minh Thanh

1. Tình hình chính trị

a. Nhà Minh

Sau nhà Đường, nhà Tống đến nhà Nguyên.- Nhà Minh thành lập (1368 – 1644), người sáng lập là Chu Nguyên Chương, từ cuộc khởi nghĩa nông dân.- Về bộ máy chính quyền: Nhà nước phong kiến ngày càng tập quyền. Quyền lực ngày càng tập trung trong tay nhà vua, bỏ Thái úy và Thừa tướng thay vào đó là các bộ.- Về chính sách xâm lược: Mở rộng bành trướng ra bên ngoài, trong đó có sang xâm lược Đại Việt nhưng đã thất bại nặng nề.Cũng như các triều đại phong kiến trước đó, cuối triều Minh ruộng đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp quý tộc, địa chủ, còn nông dân ngày càng cực khổ ruộng ít, sưu cao, thuế nặng, cộng với phải đi lính phục vụ cho các cuộc chiến tranh xâm lược, mở rộng lãnh thổ của các triều vua, vì vậy mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ ngày càng gay gắt và cuộc khởi nghĩa nông dân Lý Tự Thành làm cho nhà Minh sụp đổ.

b. Nhà Thanh

- Khởi nghĩa của Lý Tự Thành làm cho nhà Minh sụp đổ, giữa lúc đó bộ tộc Mãn Thanh ở phía Bắc Trung Quốc đã đánh bại Lý Tự Thành lập ra nhà Thanh (1644 – 1911).- Về bộ máy chính quyền: Ra sức củng cố bộ máy chính quyền, áp bức dân tộc, bắt người Trung Quốc ăn mặc và theo phong tục người Mãn, mua chuộc địa chủ người Hán.- Đối ngoại: Thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng” trong bối cảnh bị sự nhòm ngó của tư bản phương Tây dẫn đến sự suy sụp của chế độ phong kiến. Cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã làm cho nhà Thanh sụp đổ.

2. Sự phát triển kinh tế

- Trong nông nghiệp có bước tiến bộ về kỹ thuật canh tác, sản lượng lương thực tăng.- Từ thế kỷ XVI đã xuất hiện mầm mống kinh tế TBCN: + Thủ công nghiệp: xuất hiện công trường thủ công, quan hệ chủ - người làm thuê. + Thương nghiệp phát triển, thành thị mở rộng và phồn thịnh. + Ngoại thương phát triển, đã có thương nhân châu Âu đến Trung Quốc buôn bán.

B. Văn Hoá Trung Quốc thời phong kiến

1.Tôn giáo, hệ tư tưởng

a) Nho giáo

Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá

trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người. Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáoNội dung chính của nho giáo bao gồm: 1. Tam cương: tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).

1. Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có bảo bề tôi chết đi nữa thì bề tôi

cũng phải tuân lệnh, nếu bề tôi không tuân lệnh thì bề tôi không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi,

vua thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ.

2. Phụ tử: ("phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không chết thì con không

có hiếu)")

3. Phu phụ: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo)

2. Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân,

nghĩa, lễ, trí, tín.

1. Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.

2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.

3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.

4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.

5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.

3. Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá

tòng phu, phu tử tòng tử"

1. Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,

2. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,

3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"

4. Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là: công - dung - ngôn - hạnh.

1. Công: khéo léo trong việc làm.

2. Dung: hòa nhã trong sắc diện.

3. Ngôn: mềm mại trong lời nói.

4. Hạnh: nhu mì trong tính nết.

b)Phật giáo

Phật giáo Trung Quốc được xem là du nhập Trung Quốc vào khoảng thế kỉ thứ 2 sau Công nguyên. Mới đầu nhiều người nghĩ rằng, đạo Phật là một tông phái của đạo Lão (Lão Tử). Sự hiểu lầm này bắt nguồn từ quan điểm chung của hai tôn giáo này; cả hai đều hướng đến giải thoát. Có người cho rằng, mới đầu người Trung Quốc không hiểu đạo Phật vì ngôn ngữ chữ Hán thời đó không tiếp cận được với các khái niệm hoàn toàn trừu tượng của Phật giáo và khi dịch kinh sách Phật giáo, người ta đành dùng ngôn ngữ đạo Lão. Vì vậy về sau, khi đạo Phật đã phổ biến, công các dịch giả rất lớn và tên tuổi của họ còn lưu truyền đến ngày nay. Khoảng thế kỉ thứ 3, các nhà dịch kinh bắt đầu dịch từ Phạn ngữ ra tiếng Hán, mà những đại diện kiệt xuất là An Thế Cao (安世高), người chuyên dịch các kinh Tiểu thừa, và Chi Khiêm (支謙), người chuyên dịch các tác phẩm Đại thừa.Giữa thế kỉ thứ 6 và thứ 10, Phật giáo Trung Quốc phát triển rực rỡ. Người ta nhắc nhở đến các vị Cao tăng như Huyền Trang Tam tạng (玄奘), Trí Khải (智顗), Đỗ Thuận (杜順). Với sự hiện diện của Huệ Năng (慧能) và các môn đệ kế thừa, Thiền tông phất lên như một ngọn lửa sáng rực đời nhà Đường.

c) Các Tư tưởng khácBên cạnh Phật Giáo và Nho giáo rất phát triển còn có các hệ tư tưởng khác như Đạo Gia, Pháp gia, Mặc gia,…

2. Chữ viết

Đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện. Đến thời Hán thì có chữ Hán

3. Văn họcThời nhà Đường là thời kỳ hoàng kim của văn học và nghệ thuật Trung Quốc.

Kinh Thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí.

Kinh Thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.

Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả có ba nhà thơ lớn nổi bật là Lí

Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.

Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tiểu thuyết chương hồi tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn

nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính

Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần...trong đó Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.

4. Sử học

Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở

quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.

Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ

thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.

Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp .

Tới thời Minh-Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ của Trung Quốc.

5. Khoa học kĩ thuật

a) Toán học

Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách

đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông.

Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình

bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương.

Thời Nam-Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con

số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.

b) Thiên văn học

Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động

gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết

đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.

Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là

một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII

c) Y, dược học

Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời nhà

Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữLatin và được Darwin coi đây là

bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học

Trung Quốc.

d) Kĩ thuật

Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la

bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất

Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo

ra lửa cho tiện dụng.

6. Hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc

Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc có từ rất sớm và rất phong phú, chạm khắc tượng Phật, các vị La Hán…trên ngà voi, gỗ,…

Kiến trúc phát triển rực rỡ : Cung điện, thành quách: Vạn Lý trường thành, Cung A phòng, Cố cung, Tử cấm thành,

ẤN ĐỘ THỜI PHONG KIẾN

1. Điều kiện hình thành

- Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác ngược. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên

ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở tây-bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ

dương.

- Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn.- Nền văn minh ở lưu vực sông Indus (3.000-1.800 Tr. C.N.) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ.

2. Sự hình thành các quốc gia đầu tiên

- Khoảng 1500 năm TCN ở đồng bằng sông hằng đã hình thành một số nước, thường xảy ra tranh giành ảnh hưởng nhưng mạnh nhất là nước Ma-ga-đa.- Vua mở nước là Bim-bi-sa-ra được coi là cùng thời với Phật tổ. Nhưng kiệt xuất nhất là vị vua thứ 11 tên là A-sô-ca (thế kỉ thứ ba TCN).- Đánh dẹp các nước nhỏ thống nhất lãnh thổ.- Theo đạo Phật và có công tạo điều kiện cho đạo Phật truyền bá rộng khắp.Axôca đã xây cho mình một tòa hoàng cung rất lộng lẫy. Cung điện chính là một tòa nhà ba tầng và được trang sức bằng những tác phẩm điêu khắc rất đẹp.Tháp, tiếng Xanxcrít là stupa, tiếng Pali và thupo, là công trình kiến trúc dùng để bảo tồn các i vật của Phật. Trong số các tháp còn dữ đến ngày nay, điển hình nhất là tháp Xansi (Sanchi) ở Trung Ấn, xây từ thế kỷ III TCN. Tháp này xây bằng gạch, hình nửa quả cầu, cao hơn 16m, xung quanh có lan can và bốn cửa lớn. Lan can và cửa đều làm bằng đá và được trạm trổ rất đẹp.Trụ đá cũng là một loại công trình kiến trúc dùng để thờ Phật. Những trụ đá này trung bình cao 15m nặng 50 tấn, trên đó trạm một hoặc nhiều con sư tử và các hình trang trí khác. Các sắc lệnh của Axôca thường được khắc trên các trụ đá đó. Trong số các trụ đá còn lại, nổi tiếng nhất là trụ đá ở Xácna (Sarnath). Trên đỉnh trụ đá này có chạm hình 4 con sư tử chụm đuôi vào nhau, mặt nhìn ra 4 hướng trong tư thế tự vệ. Dưới sư tử, có hình bánh xe luân hồi. Hình tượng này nay được vẽ thành quốc huy của nước Ấn Độ.- Khi A-sô-ca qua đời vào cuối thế kỉ thứ ba TCN, Ấn Độ bước vào một thời kì chia rẽ, khủng hoảng kéo dài cho đến đầu Công nguyên

3. Thời kì vương triều Gupta

a) Quá trình hình thành và vai trò về mặt chính trị.- Đầu công nguyên, miền Bắc Ấn Độ được thống nhất miền Bắc Ấn Độ, làm chủ gần như toàn bộ miền trung Ấn Độ.

- Vương triều Gupta tồn tại từ năm 280 tới 550 ở phần lớn Bắc Ấn Độ, Đông Nam Pakistan, một phần của Gujarat và Rajasthan mà ngày nay là Tây Ấn Độ và Bangladesh. Thủ đô của vương triều này ở Pataliputra, ngày nay là Patna, thuộc nhà nước Ấn hóa ở Bihar.

b) Văn hóa dưới thời Gúp-ta:

Dười thời Gupta, đất nước được thái bình thịnh trị, đồng thời nền khoa và mỹ thuật phát triển không ngừng. Các nhà sử học xếp trìeu Gupta ngang hàng với nhà Hán, nhà Đường và Đế quốc La Mã như là những nền văn minh tiên tiến thời cổ. Các nhà sử học xem thời Gupta là Thời kì hoàng kim của Ấn Độ về mặt khoa học, toán học, thiên văn học, tôn giáo và triết học Ấn Độ.

+ Đạo Phật: tiếp tục được phát triển sau hàng năm ra đời ở Ấn Độ đến thời Gúp-ta được truyền bá khắp Ấn Độ và truyền ra nhiều nơi. Cùng với đạo Phật phát triển kiến trúc ảnh hưởng của đạo như chùa hang mọc ở nhiều nơi và những pho tượng phật điêu khắc bằng đá, trên đá

+ Đạo Ấn Độ (đạo Hindu) hay đạo Hin-du vốn là đạo cổ xưa của người Ấn cũng ra đời và phát triển, thờ 4 vị thần chính: thần Sấm sét, thần Sáng tạo, thần Tàn phá, thần Bảo hộ và nhiều vị thần khác. Cùng với sự phát triển của đạo Hin-du thì các công trình kiến trúc thờ thần cũng được xây dựng. Các ngôi đền được xây dựng bằng đá cao đồ sộ, hình chóp núi, là nơi ngự trị của các thần và nơi tạc nhiều tượng thần thành bằng đá,...+ Chữ viết: Người Ấn Độ phát minh ra chữ viết rất sớm: chữ cổ ở vùng sông Ấn (khoảng 3000 năm TCN), chữ cổ ở vùng sông Hằng (khoảng 1000 năm TCN). Ban đầu là chữ Bhami đơn giản, về sau họ sáng tạo hệ chữ viết riêng: chữ Phạn (Sanskrit). Từ thế kỉ thứ năm, chữ Phạn và tiếng Phạn trở thành ngôn ngữ và văn tự chính thức của Ân Độ cho đến thế kỉ thứ năm, trước khi trở thành cầu nối chữ Phạn với ngôn ngữ của tộc người hiện đại.+ Kiến trúc và điêu khắc: Xuất hiện nhiều kiến trúc Phật giáo, tiêu biểu là chùa hang và những tượng Phật bằng đá. Xuất hiện nhiều kiến trúc Hinđu giáo với các đền hình tháp nhọn nhiều tầng, được trang trí tỉ mỉ bằng các bức phù điêu, tạo nên phong cách nghệ thuật kiến trúc Hinđu độc đáo.Tiêu biểu là lăng mộ Tadj – Mahal+Văn học: - Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220 000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó.

- Ramayana là một bộ sử thi dài 48000 câu thơ, mô tả một cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Sita. Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Riêmkhiêm ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana.- Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tâp ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu.=> Thời Gúp-ta đã định hình văn hoá truyền thống Ấn Độ với những tôn giáo lớn và những công trình kiến trúc, tượng, những tác phẩm văn học tuyệt vời, làm nền cho văn hoá truyền thống Ấn Độ có giá trị văn hoá vĩnh cửuNgười Ấn Độ đã mang văn hoá, đặc biệt là văn hoá truyền thống truyền bá ra bên ngoài mà Đông Nam Á là ảnh hưởng rõ nét nhất. Việt Nam cũng ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ (tháp Chàm, đạo Phật, đạo Hin-du).

4. Vương triều hồi giáo Đê-li

Ấn Độ đã trải qua một thời kỳ phát triển, nhất là về văn hoá truyền thống, nhưng sự phân tán không đem lại sức mạnh thống nhất để người Ấn Độ có thể chống cự được cuộc tấn công từ bên ngoài của người Hồi giáo gốc Thổ (Tuốc). Năm 1055, thủ lĩnh của người Thổ dẫn quân đánh chiếm Bát-da, rồi cải theo Hồi giáo, lập nên một vương quốc Hồi giáo ở vùng Lưỡng Hà. Đạo Hồi bắt đầu được truyền bá đến I-ran và Trung Á, lập nên một vương quốc Hồi giáo nữa trên vùng giáp Tây Bắc Ấn Độ. Người Hồi giáo gốc Trung Á bắt đầu tiến hành cuộc chinh chiến vào đất Ấn Độ, từng bước chinh phục các tiểu quốc Ấn rồi lập nên vương quốc Hồi giáo Ấn Độ, gọi tên là Đê-li (do vua đóng đô ở Đê-li), một thành phố Bắc Ấn.

Trong hơn 300 năm tồn tại và phát triển, Vương triều Hồi giáo Đê-li (1206 – 1526) đã truyền bá, áp đặt Hồi giáo vào những cư dân theo Hindu giáo, tự dành cho mình những ưu đãi về ruộng đất, địa vị trong bộ máy quan lại. Ví như ngoài thuế ruộng đất (1/5 thu hoạch), những người không theo Hồi giáo phải nộp thêm một khoản thuế ngoại đạo (jaziah).

Mặc dù các ông vua đã cố gắng thực thi những chính sách mềm mỏng để ổn định tình hình trong nước, nhưng sự phân biệt sắc tộc và tôn giáo không thể làm tan đi nỗi bất bình của nhân dân.

Tuy nhiên, một yếu tố văn hoá mới – văn hoá Hồi giáo, cũng được du nhập vào Ấn Độ, vốn đã có một nền văn hoá rất phong phú và đa dạng.

Có một số công trinh kiến trúc do chính quyền Hồi giáo xây dựng, mang đậm dấu ấn kiến trúc Hồi giáo. Trải qua sáu đời vua, chinh chiến nhiều hơn xây dựng, nhưng kinh đô Đê-li cũng đã trở thành “một trong những thành phố lớn nhất thế giới” ở thế kỉ XIV, như một người đương thời nhận xét sau khi đã đi rất nhiều nơi trên thế giới.

Đặc biệt, đây là thời kỳ tiếp xúc và giao lưu giữa hai nền văn minh đặc sắc là Ấn Độ Hindu giáo và A-rập Hồi giáo. Bước đầu, sự giao lưu văn hoá Đông – Tây cũng được thúc đẩy hơn.(1)

(1) Người A-rập Hồi giáo tấn công lưu vực sông Ấn năm 710, châu Âu năm 732, lập quốc gia Coóc-đô-ba thế kỉ VIII – IX. Các từ như hoá học Chimi, rượu Alcool, đại số Algebra v.v… có nguồn gốc A-rập.

Điều không kém quan trọng là thời Vương triều Hồi giáo Đê-li cũng là thời mà các thương nhân Ấn Độ du nhập Hồi giáo đến một số nơi, một số nước ở Đông Nam Á. Ở đó, một vài cộng đồng nhỏ Hồi giáo A-rập đến từ trước, đã được gia tăng sâu đậm hơn với thương nhân Ấn Độ theo Hồi giáo.

5. Vương triều Mô-gôn

Thế kỉ XV, Vương triều Hồi giáo Đê-li bắt đầu suy thì cũng là lúc mà một bộ phận dân Trung Á do thủ lĩnh – vua là Ti-mua Leng chỉ huy, cũng theo Hồi giáo, nhưng lại tự nhận là dòng dõi Mông Cổ, bắt đầu tấn công Ấn Độ (từ năm 1398).

Tuy thế, phải đến cháu nội của ông là Ba-bua (Babur) mới thực hiện được việc đánh chiếm Đê-li, lập ra một vương triều mới, gọi là Vương triều Mô-gôn (gốc Mông Cổ).

Vương triều Mô-gôn (1526 – 1707), là thời kỳ cuối cùng của chế độ phong kiến Ấn Độ. Tuy là thời kỳ cuối cùng, nhưng không phải chỉ có toàn là khủng hoảng, suy thoái và tan rã. Thật vậy, các vị vua thời kỳ đầu đã ra sức củng cố vương triều theo hướng “Ấn Độ hoá” và xây dựng đất nước. Đến thời trị vì của vua thứ tư là A-cơ-ba, Ấn Độ đã đạt được bước phát triển mới.

Trong nửa thế kỉ ở ngôi, A-cơ-ba (1556 – 1605) đã thi hành một số chính sách tích cực:

- Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, dựa trên sự liên kết tầng lớp quý tộc, không phân biệt nguồn gốc, số quan lại Mông Cổ (thực ra là gốc Trung Á Hồi giáo), gốc Ấn Độ Hồi giáo và cả gốc Ấn Độ Hinđu giáo, có tỉ lệ gần như

bằng nhau.- Xây dựng khối hoà hợp dân tộc trên cơ sở hạn chế sự phân biệt sắc tộc và tôn giáo và cũng có biện pháp hạn chế sự bóc lột quá đáng cảu chủ đất, quý tộc.- Tiến hành đo đạc lại ruộng đất để định ra mức thuế đúng và hợp lí, thống nhất các hệ thống cân đong và đo lường.- Khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động sáng tạo văn hoá, nghệ thuật

Bốn chính xác đó làm cho xã hội Ấn Độ ổn định, kinh tế phát triển, văn hoá có nhiều thành tựu mới, đất nước thịnh vượng. A-cơ-ba được coi là một vị anh hùng dân tộc; ngày nay, tên ông được đặt cho nhiều đường phố, công trình, xứng với danh hiệu của ông là “Đấng Chí tôn A-cơ-ba”.

Tiếc rằng hầu hết các vua của vương triều này đều dùng quyền chuyên chế, độc đoán để cai trị một đất nước rộng lớn nhưng rất đa dạng, phân tán. Một số vị vua đã dùng biện pháp đàn áp quyết liệt, hình phạt khắc nghiệt để bắt dân chúng phục tùng, đóng thuế và lao dịch nặng nề, bắt các quý tộc có ý chống đối phải vâng lời. Con và cháu của A-cơ-ba là Gia-han-ghi-a (1605 – 1627) và Sa Gia-han (1627 – 1658) đã thâu tóm rất nhiều của cải. Để chứng tỏ quyền lực, ý muốn của mình, các ông đã cho khởi công xây dựng nhiều công trình kiến trúc. Đặc biệt là lăng mộ Ta-giơ Ma-han và lâu đài Thành Đỏ (La Ki-la), được xây vào các năm 1632 và 1639 dưới thời Sa Gia-han, trên hai bờ sông Y-a-mu-na ở Bắc Ấn Độ. Hai công trình vĩ đại này được làm cách nhau bảy năm.

Các vua của Vương triều Mô-gôn, do thâu tóm quyền lực, của cải, có điều kiện thể hiện sở thích của mình bằng những công trình kiến trúc, như cung điện, lâu đài, lăng mộ, đã tạo nên những công trình đẹp, những viên ngọc quý trong kho tàng văn hoá của nhân loại. Trong đó, nổi bật lên Thành Đỏ (La Kim loại-la), một lâu đài hoành tráng, được xây bằng cẩm thạch hồng, nơi Thủ tướng Nê-ru tuyên bố độc lập của Ấn Độ ngày 15 – 7 – 1947, nơi vẫn còn đến ngày nay tấm bia của vua Sa Gia-han với câu thơ: “Nếu có một thiên đàng trên trần thế thì chính là nơi đây, chỉ có ở đây”. Sa Gia-han còn cho xây Ta-giơ Ma-han xây dựng vào thế kỷ XVII, lăng mộ dành cho ái phi Mum-taz và cho cả ông về sau bằng cẩm thạch trắng, như một bài thơ bằng đá trắng ca ngợi tình yêu chung thuỷ và tài năng sáng tạo của con người. Lăng này là kết tinh tài nghệ của các kiến trúc sư và thợ thủ công nhiều nước: Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, v,.v... Chính điện, gác chuông, tháp, sân đều bố trí rất hài hòa, bên trong bên ngoài đều trạm trổ. Nhìn từ xa, tất cả cảnh vật của lăng in lung linh trên mặt nước hồ xanh biếc, trông lại càng kỳ diệu.Những công trình đó đã trở thành di sản văn hoá bất hủ, niềm tự hào vĩnh cửu về sự sáng tạo, niềm xúc động sâu sắc về tình cảm cao quý của con người.

Muốn chứng tỏ oai quyền của mình nhưng Gia-han-ghi-a và Sa Gia-han đã làm cho sự đối kháng của nhân dân tăng thêm, do lạm dụng quyền lực, công quỹ cũng sức lao động của dân. Hai ông vua này hầu như đã đốt cháy tất cả thành quả mà người ông nội của họ là vua A-cơ-ba đã xây dựng.Ít lâu sai, tình trạng chia rẽ và khủng hoảng đã xuất hiện trở lại.

Trong lúc đó, thực dân Bồ Đào Nha đến xâm lược từ thời kỳ đầu vương triều và ngày càng nhiều, nhất là dưới thời Sa Gia-han. Họ đã lập các điểm buôn bán như Điu, Đa-man… Vua cuối cùng của vương triều là Ao-reng-dép đã phải đối đầu với thực dân Anh và bước đầu để chúng thôn tính Ma-đrát và Bom-bay.

Văn hoá ấn độ thời phong kiến

1·Những tác phẩm của Caliđaxa

Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỷ V). Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla.Vở kịch Sơcuntla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều tình tiết. Nội dung của vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều éo le trắc trở, cuối cùng hai người được đoàn tụ và được hạnh phúc đời đời.Tuy là một nhà soạn kịch cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối, lừa gạt, không chung thủy của giai cấp thống trị và trên chừng mực

nhất định đã chống quan niệm về đẳng cấp.Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. Suốt 15 thế kỷ nay, Sơcuntla đã trở thành nguồn cảm hứng, nguồn đề tài của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau của Ấn Độ như kịch, điện ảnh, họa, nhạc, vũ v.v... Không những ở Ấn Độ mà đối với thế giới, tác phẩm Sơcuntla cũng có một tiếng vang rất lớn.Gớt nhà đại văn hào Đức đã không tiếc lời ca ngợi:"Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và trái mùa thu,Một tiếng làm đắm say nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn.Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất,Thì tôi gọi: Sơcuntla.Tiếng đó nói lên tất cả.Ngày nay Caliđaxa được xếp vào loại các nhà văn lớn của thế giới và năm 1957 ông đã được Hội đồng hòa bình thế giới tổ chức kỷ niệm.

2 ·Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ

Từ cuối thế kỷ X về sau, ngoài văn học tiếng Xanxcrít đã xuất hiện nhiều tác phẩm văn học viết bằng các loại phương ngữ khác nhau.Vào thế kỷ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong bộ sử thi Mahabharata ra tiếng Têlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được phổ cập rộng rãi.Đến thế kỷ XVI, XVII, dưới triều Môgôn, có một số nhà thơ đã sáng tác bằng tiếng Ba Tư. Tuy nhiên phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa phương khác. Thiên trường ca Ramayana do Tunxi Đát viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi tiếng được nhân dân rất ưa thích..Tập thơ Xuốc của nhà thơ mù Xuốc Đát viết bằng một loại phương ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình yêu cũng là một tác phẩm có giá trị.Những bài ca du dương, gợi cảm ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên Ấn Độ của ca sĩ kiêm nhà thơ Tanxen cũng rất nổi tiếng. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có nhiều nhà thơ khác.Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân gian chứ không dùng ngôn ngữ cung đình, đồng thời còn sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng nên được nhân dân rất thích thú.

3. Nghệ thuật

Thời cổ chung đại, Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là các ngành kiến trúc, điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến thời vương triều Môrya, nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các công trình tiêu biểu là cung điện, chùa, tháp, trụ đá...Axôca đã xây cho mình một tòa hoàng cung rất lộng lẫy. Cung điện chính là một tòa nhà ba tầng và được trang sức bằng những tác phẩm điêu khắc rất đẹp.Tháp, tiếng Xanxcrít là stupa, tiếng Pali và thupo, là công trình kiến trúc dùng để bảo tồn các i vật của Phật. Trong số các tháp còn dữ đến ngày nay, điển hình nhất là tháp Xansi (Sanchi) ở Trung Ấn, xây từ thế kỷ III TCN. Tháp này xây bằng gạch, hình nửa quả cầu, cao hơn 16m, xung quanh có lan can và bốn cửa lớn. Lan can và cửa đều làm bằng đá và được trạm trổ rất đẹp.Trụ đá cũng là một loại công trình kiến trúc dùng để thờ Phật. Những trụ đá này trung bình cao 15m nặng 50 tấn, trên đó trạm một hoặc nhiều con sư tử và các hình trang trí khác. Các sắc lệnh của Axôca thường được khắc trên các trụ đá đó. Trong số các trụ đá còn lại, nổi tiếng nhất là trụ đá ở Xácna (Sarnath). Trên đỉnh trụ đá này có chạm hình 4 con sư tử chụm đuôi vào nhau, mặt nhìn ra 4 hướng trong tư thế tự vệ. Dưới sư tử, có hình bánh xe luân hồi. Hình tượng này nay được vẽ thành quốc huy của nước Ấn Độ.Trong số các chùa đền của các tôn giáo như Bàlamôn, đạo phật, đạo Jain, chùa hay là một loại công trình đặc biệt của Ấn Độ thời cổ trung đại, thường là những công trình nghệ thuật kết hợp kiến trúc với điêu khắc, hội họa. Tiêu biểu cho loại công trình này là những gian chùa hang ở Ajanta được kiến tạo từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ VIII sau CN. Phương pháp kiến tạo chùa này là khoét sâu vào vách núi đá, có nhiều cột chống và được trang trí bằng nhiều bức trạm tinh vi và những tranh bích họa rất đẹp. Dãy chùa hang Ajanta gồm tất cả 29 gian (trong đó có gian hình vuông, mỗi chiều 20m) dùng để làm nơi thờ Phật, nơi giảng kinh và nơi ở của các nhà sư.Ngoài chùa Ajanta, dãy chùa hang Enlôra ở Trung Ấn kiến tạo vào thế kỷ VIII cũng là một công trình tuyệt mỹ.Dãy chùa này dài khoảng 2km, bao gồm chùa Phật giáo, chùa đạo Hinđu và chùa đạo Jain.Ở Ấn Độ còn có những ngôi chùa lớn xây bằng gạch và đá. Đặc biệt, ở chùa Tanjo có một ngọn tháp xây hình Kim tự tháp, gồm 14 tầng, cao 61m, xây dựng từ thế kỷ XI. Đó cũng là một công trình kiến trúc nổi tiếng.Đến thời Xuntan Đêli và thời Môngôn, cùng với việc đạo Hồi trở thành quốc giáo, ở Ấn Độ đã xuất hiện những công kiến trúc mới xây dựng theo kiểu Trung á và Tây á. Đó là những nhà thờ Hồi giáo, cung điện, lăng mộ mà đặc điểm chung của lối kiến trúc này là mái tròn cửa vòm, có tháp nhọn. Có khi các công trình này còn kết hợp với phong cách truyền thống của Ấn Độ như xây theo lối có bao lơn lộ thiên, có cột chống thanh thoát...Công trình tiêu biểu nhất của thời Môgôn là lăng TajMahan được xây dựng vào thế kỷ XVII. Lăng này là kết tinh tài nghệ của các kiến trúc sư và thợ thủ công nhiều nước: Ấn Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, v,.v... Toàn bộ ngôi lăng xây bằng đá cẩm thạch trắng. Chính điện, gác chuông, tháp, sân đều bố trí rất hài hòa, bên trong bên ngoài đều trạm trổ. Nhìn từ xa, tất cả cảnh vật của lăng in lung linh trên mặt nước hồ xanh biếc, trông lại càng kỳ diệu.Về nghệ thuật tạo hình, vì đạo Phật, trong thời kỳ đầu phản đối việc thờ thần tượng và hình ảnh nên nghệ thuật tạc tượng bị hạn chế trong một thời gian dài. Mãi đến khi phái Phật giáo Đại thừa ra đời, chủ trương đó mới thay đổi, do vậy, từ thế kỷ I về sau, tượng Phật mới được tạo nên ngày một nhiều, trong đó tiêu biểu nhất là pho tượng bằng đá ở Ganđara.Ngoài tượng Phật còn có các tượng thần đạo Hinđu như tượng thần Visnu, thần Siva v.v... Các tượng thần đạo Hinđu thường được thể hiện dưới hình tượng nhiều đầu nhiều mặt nhiều tay và nhiều khi có hình thù rất đáng sợ.Nói chung nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần lớn nhằm vào chủ đề tôn giáo, nhưng vì bắt nguồn từ cuộc sống thực tế nên tính hiện thực vẫn thể hiện rất rõ rệt, ví dụ tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo tư thế của các đội múa trong đền chùa và cung đình.

4. Khoa học tự nhiên

Mặc dầu áp lực của tôn giáo rất mạnh nhưng do nhu cầu của cuộc sống hàng ngày, nhân dân Ấn Độ đã có nhiều phát minh quan trọng về một số môn khoa học tự nhiên như thiên văn, toán học, vật lý, y dược học...

·Thiên văn

Từ rất sớm, người Ấn Độ đã biết chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ năm năm thì thêm 1 tháng nhuận. Các nhà thiên văn học Ấn Độ cổ đại đã biết được quả đất và mặt trăng đều hình cầu, biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kỳ trăng tròn, trăng khuyết. Họ còn phân biệt được 5 hành tinh Hỏa, Thủy, Mộc, Kim, Thổ; biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao chính.Tác phẩm thiên văn học cổ nhất của Ấn Độ là quyển Xitđanta (Siddhantas) ra đời vào khoảng thế kỷ V TCN.

·Toán học

Người Ấn Độ có một phát minh tưởng rất bình thường nhưng kỳ thực là một phát minh vô cùng quan trọng, đó là việc sáng tạo ra 10 chữ số mà ngày nay được dùng rộng rãi trên thế giới.Vào thế kỷ VIII, người Arập nhờ dịch tác phẩm Sidd hantas mà học tập được chữ số Ấn Độ. Từ Arập, hệ thống chữ số này được truyền sang châu Âu, do đó những chữ số này thường bị gọi lầm là chữ số Arập.Tư liệu sớm nhất về các chữ số này là các bia đá của Axôca khắc từ thế kỷ III TCN. Tuy nhiên con số 0 được thấy sớm nhất trong một tài liệu Arập năm 873, sau đó 3 năm mới thấy trong tài liệu Ấn Độ. Mặc dầu vậy, người ta vẫn cho rằng, số 0 cũng do người Ấn Độ sáng tạo.Nhận được về tầm quan trọng của hệ thống chữ số này, cũng như tính chất vĩ đại việc phát minh ra hệ thống chữ số, nhà bác học Pháp Laplaxơ (Laplace, 1749-1827) viết:"Chính nhờ Ấn Độ mà chúng ta học được phương pháp tài tình chỉ dùng có mười chữ mà viết được đủ các số, mỗi chữ vừa có một trị số tuyệt đối, vừa có một trị số tùy theo vị trí của nó. ý đó tế nhị mà quan trọng, ngày nay chúng ta cho là đơn giản quá nên không thấy được công lao của người Ấn Độ. Nhưng chính nhờ nó đơn giản mà làm toán mới hóa ra hết sức dễ dàng và hệ thống số học đáng được kể là sáng kiến ích lợi nhất. Nếu có nghĩ rằng hai vị thiên tài bậc nhất thời cổ đại là Acsimét và Apôlôniốt (Apollonios) mà cũng không phát minh được hệ thống đó thì mới nhận định nổi sáng kiến của người Ấn Độ tài tình đến như thế nào".Đến thế kỷ VI, người Ấn Độ đã tính được một cách là 3,1416; đồng thời còn phát minh ra đại số học và vềchính xác số sau cũng đã truyền sang Arập.Về hình học, người Ấn Độ cổ đại đã biết tính diện tích hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác và hình đa giác. Người Ấn Độ cũng đã biết được quan hệ giữa các cạnh của tam giác vuông.

·Vật lý học

Các nhà khoa học kiêm triết học Ấn Độ đã nêu ra thuyết nguyên tử. Người sáng lập trường phái triết học Vaisêsica là Canađa cho rằng vạn vật do các nguyên tử tạo nên, nhưng vật chất sở dĩ khác nhau là do mỗi loại có một thứ nguyên tử khác với loại khác. Còn các nhà triết học đạo Giainơ (Jain) thì cho rằng nguyên tử nào cũng như nhau, chỉ có các tổ hợp khác nhau mà thôi.Người Ấn Độ cổ đại cũng đã biết được sức hút của quả đất. Sách Siddhantas viết vào thế kỷ V TCN đã ghi rằng: " Quả đất, do trọng lực của nó, hút tất cả mọi vật về nó".

·Y dược học

Ấn Độ cổ đại có những thành tựu rất lớn và sớm hơn nhiều so với các nước khác. Trong các tập Vêđa đã kể ra rất nhiều thứ bệnh và ngay từ thời bấy giờ, các thầy thuốc Ấn Độ đã biết dùng phẫu thuật để chữa bệnh. Từ thế kỷ VI, V TCN, người Ấn Độ đã biết cách chắp xương sọ, cắt màng mắt, mổ bụng lấy thai, lấy sỏi thận v.v...Những thày thuốc nổi tiếng trong thời cổ đại là Xusruta (Sushruta), Saraca.Xusruta sống vào thế kỷ V TCN. Ông vừa là thày thuốc vừa là thày giáo dạy ở trường Y khoa Bênarét. Ông viết một quyển sách bằng tiếng Xanxcrít về phương pháp khám bệnh và chữa bệnh, trong đó mô tả rất kỹ về các môn giải phẫu, sản khoa, cách nuôi trẻ... Mặc dầu bị các tu sĩ Bàlamôn phản đối, ông chủ trương phải mổ tử thi để nghiên cứu và thực tập. Chính ông là người đầu tiên đã lột một miếng da trên thân thể để đắp vào vành tai bị cắt đứt.Saraca sống vào thế kỷ II, là ngự y của vua Canisca thuộc vương triều Cusan. Tác phẩm của ông có nhan đề là Xamhita (Samhita) là một quyển sách y học từ sớm đã được dịch ra tiếng Arập, sau đó còn được dịch ra nhiều thứ tiếng khác trên thế giới và đến nay vẫn còn giá trị tham khảo. Trong tác phẩm ấy, ông xác định bổn phận của người thầy thuốc là trị bệnh thì đừng nghĩ đến mình, đừng vì lợi mà chỉ nên nghĩ đến nhiệm vụ cứu nhân độ thế.Các tập Vêđa cũng là những tác phẩm dược học cổ nhất, trong đó đã nêu ra hàng trăm loại thuốc thảo mộc. Song song với sự phát triển sớm của thuật giải phẫu, người Ấn Độ đã biết chế thuốc tê cho bệnh nhân uống để giảm đau khi mổ.Ngoài các ngành nói trê, người Ấn Độ còn nhiều hiểu biết về các môn Hóa học, Sinh học, Nông học... do đó đã phục vụ đắc lực cho các lĩnh vực khoa học khác và các nghề thủ công như luyện thép, nhuộm, thuộc da v.v...

5. Tôn giáo

Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.

A. Đạo Bàlamôn

Trong thời kỳ đầu của thời Vêđa, quan niệm tín ngưỡng của người Ấn Độ còn mang nhiều dấu vết của thời nguyên thủy. Họ tin rằng vạn vật đều có linh hồn nên họ sùng bái rất nhiều thư, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, người chết và nhiều loại động vật....Đến những thế kỷ đầu của thiên kỷ I TCN, do sự phát triển của xã hội có giai cấp và do sự không bình đẳng về đẳng cấp ngày càng sâu sắc, từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần dần đã tập hợp thành một tôn giáo lớn gọi là đạo Bàlamôn.

Như vậy, đạo Bàlamôn là một tôn giáo không có người sáng lập, không có tổ chức giáo hội chặt chẽ.Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần trong đó cao nhất là thần Brama. Đó là vị thần sáng tạo thế giới. Tuy vậy, có nơi cho thần Siva, vị thần phá hoại là thần cao nhất; có nơi lại cho thần Visnu, thần bảo vệ, thần ánh sáng, thần bốn mùa, thần làm cho nước sông Hằng dâng lên và làm cho mưa tưới cho ruộng đồng tươi tốt là vị thần cao nhất. Do vậy, đến những thế kỷ đầu công nguyên, đạo Bàlamôn chia thành hai phái là phái thờ thần Siva và phái thờ thần Visnu. Để thống nhất các phái đó, đạo Bàlamôn nêu ra quan niệm thần sáng tạo Brama, thần phá hoại Siva và thần bảo vệ Visnu tuy là ba nhưng vốn là một.Ngoài ra, nhiều loại động vật như voi, khỉ, và nhất là bò cũng là những đối tượng sùng bái của đạo Bàlamôn.

Trong giáo lý của đạo Bàlamôn có một nội dung rất quan trọng, đó là thuyết luân hồi. Đạo Bàlamôn giải thích rằng linh hồn của con người là một bộ phận của Brama mà Brama là một tồn tại vĩnh hằng, cho nên con người tuy có sống có chết, nhưng linh hồn thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi thì còn mãi mãi và sẽ luân hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau. Những người giữ đúng luật lệ của tôn giáo và các quy tắc mà thần đã định sẵn cho mình thì kiếp sau sẽ được đầu thai thành người cao quý, trái lại thì sẽ càng khổ cực, thậm chí sẽ bị đầu thai làm chó lợn và những động vật bẩn thỉu.Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ.

Trước khi đạo Bàlamôn ra đời, trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy của người Arya, chế độ đẳng cấp đã xuất hiện rồi. Đó là chế độ chia cư dân tự do thành 4 đẳng cấp: Braman, Ksatơrya, Vaisya, Suđra.Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo.Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ.Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công.Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận, không có tư liệu sản xuất.Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy. Ví dụ, luật Manu, một bộ luật về tập quán được hoàn thành vào khoảng đầu công nguyên chép:"Vì sự phồn vinh của cả thế giới, từ mồm, tay, đùi và bàn chân của mình, ngài (thần Brama) đã tạo nên Braman, Ksatơrya, Vaisya và Suđra".Trong 4 đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn có địa vị cao nhất. Luật Manu viết: "Do sinh ra từ bộ phận cao quý nhất của thân thể Brama, do sinh ra sớm nhất, do hiểu biết Vêđa, Bàlamôn có quyền là chúa tể của tất cả các tạo vật ấy".Ngoài Bàlamôn, chỉ có hai đẳng cấp Ksatơrya và Vaisya mới được trở thành tín đồ của đạo Bàlamôn và cả ba đẳng cấp trên được quan niệm là những người sinh hai lần; còn Suđra không được dự các buổi lễ tôn giáo và được quan niệm là những người sinh một lần.

Đạo Bàlamôn đã truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ trong nhiều thế kỷ. Đến khoảng thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới là đạo Phật. Đạo Bàlamôn bị suy thoái trong một thời gian dài.

B. Đạo Hinđu (Ấn Độ giáo)

Sau một thời gian hưng thịnh, đến khoảng thế kỷ VII, đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ. Nhân tình hình đó đạo Bàlamôn dần dần được phục hưng, đến khoảng thế kỷ VIII, IX đạo Bàlamôn đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ... Từ đó, đạo Bàlamôn được gọi là đạo Hinđu, trước đây ta hay gọi là Ấn Độ giáo.

Đối tượng sùng bái của đạo chủ yếu của đạo Hinđu vẫn là ba thần Brama, Siva và Visnu.Thần Brama được thể hiện bằng một hình tượng có 4 đầu để chứng tỏ thần có thể nhìn thấu mọi nơi. Bốn tập kinh Vêđa chính là được phát minh ra từ 4 cái miệng của thần Brama.Thần Siva được thể hiện thành hình tượng có mắt thứ ba ở trên trán, luôn luôn cầm một cái đinh ba Siva thường cưỡi bò hoặc ngồi trên tấm da hổ, có những con rắn hổ mang quấn quanh cổ. Thần Siva là thần phá hoại những thứ mà thần Brama sáng tạo ra, nhưng Siva cũng có mặt sáng tạo. Sự sáng tạo ấy được thể hiện qua hình tượng linga - yoni mà nhân dân Ấn Độ sùng bái.Liên quan đến thần Siva có nữ thần Kali (còn gọi là nữ thần Pácvati), vợ của thần Siva và thần Ganêxa, con trai của thần.Nữ thần Kali (Pavacti) được thể hiện thành hình tượng một phụ nữ mặt đen, miệng há hoác, lưỡi lè ra. Nữ thần cũng trang sức bằng những con rắn, đeo hoa tai bằng xác đàn ông, chuỗi hạt là những sọ người, mặt và ngực bôi đầy máu. Thần có 4 tay, một tay cầm gươm, một tay cầm một đầu người, còn hai tay nữa thì đưa ra để ban phúc lành. Trước kia có khi phải giết người để tế thần Kali, về sau chỉ cúng bằng dê cái.Thần Ganêxa tuy có hình thù kỳ dị đầu voi mình người nhưng đó là thần trí tuệ và thịnh vượng.Thần Visnu được quan niệm là đã giáng trần 9 lần. Trong sáu lần đầu, thần xuất hiện dưới dạng các động vật như cá, lợn rừng... Đến lần thứ 7, thần Visnu chính là Rama, nhân vật chính trong sử thi Ramayana. Lần thứ 8, thần Visnu giáng thế thành thần Krisna. Thần

Krisna thường bênh vực kẻ nghèo, chữa bệnh cho người mù, người điếc và làm cho người chết sống lại. Lần thứ 9, thần Visnu biến thành Phật Thích ca. Đây là một biểu tượng chứng tỏ đạo Hinđu có tiếp thu một số yếu tố của đạo Phật, đồng thời đây cũng là một thủ đoạn để đạo Hinđu thu hút các tín đồ đạo Phật cải giáo theo đạo Hinđu. Đến kiếp thứ 10 tức là lần giáng sinh cuối cùng, thần Visnu sẽ biến thành thần Kali. Đó là vị thần sẽ hủy diệt thế giới cũ tội lỗi, tạo dựng thế giới mới với đạo đức trong sáng.

Ngoài các vị thần nói trên, các loài động vật như khỉ, bò, rắn, hổ, cá sấu, chim công, vẹt, chuột v.v... cũng là các thần đạo Hinđu, trong đó được tôn sùng hơn cả là thần khỉ và thần bò.Thần khỉ Hanuman sở dĩ được tôn thờ vì có công giúp Rama (tức là Visnu) giết được quỷ Ravan để đưa Sita trở về quê hương. Vì vậy thần Hanuman được coi là thần Sức Mạnh và thần Trung thành. Để cúng thần Hanuman người theo đạo Hinđu ăn chay vào ngày thứ ba hàng tuần. Hình thức ăn chay là ban ngày chỉ uống nước, tối mới được ăn.Thần bò Kamđênu được thần Krisna (kiếp thứ 8 của Visnu) chăn dắt, suốt đời đi theo Krisna. Thần Kamđênu được quan niệm là do thần Brama tạo ra đồng thời với đẳng cấp Bàlamôn và được coi là mẹ của hầu hết các thần. Vì vậy, cho đến nay, bò được coi là một con vật thiêng liêng. Tín đồ đạo Hinđu không những kiêng ăn thịt bò mà còn không dùng những đồ dùng làm bằng da bò.Đạo Hinđu cũng chia thành hai phái là phái thờ thần Visnu và phái thờ thần Siva.Mỗi buổi sáng, tín đồ phái Visnu dùng son vẽ lên trán, còn tín đồ phái Siva thì bôi lên lông mày một vạch ngang bằng than phân bò cái hoặc đeo ở tay, ở cổ cái linga. Tuy nhiên hai phái đó vẫn đoàn kết với nhau và có khi cùng cúng tế trong một ngôi đền.

Đạo Hinđu cũng chú trọng thuyết luân hồi, cho rằng con người sau khi chết, linh hồn sẽ đầu thai nhiều lần. Mỗi lần đầu thai như vậy con người sẽ sung sướng hơn hay khổ cực hơn kiếp trước là tuỳ thuộc vào những việc làm của kiếp trước tức là quả báo (Karma).Kinh thánh của đạo Hinđu, ngoài các tập Vêđa và Upanisát còn có Mahabharata, Bhagavad Gita, Ramayana và Purana.Mahabharata, Bhagavad Gita và Ramayana là những tập trường ca, còn Purana là tập truyện cổ nói về sự sáng tạo, sự biến chuyển và sự hủy diệt của thế giới.Sau khi phục hưng, đạo Hinđu được các vương công Ấn Độ hết sức ủng hộ, do đó đã xây dựng nhiều ngôi chùa nguy nga và ban cấp cho rất nhiều ruộng đất, có khi lên đến hàng nghìn làng.Trong các chùa ấy đã tạc rất nhiều tượng thần để thờ. Các tượng thần đạo Hinđu thường có hình thù kỳ dị đáng sợ như nhiều đầu, nhiều mắt, nhiều tay.... Trong các chùa lớn có tới hàng nghìn tu sĩ Bàlamôn và hàng nghìn vũ nữ.Khi tế lễ, các tu sĩ thường xoa dầu, xức nước hoa cho tượng, dùng thịt dê cùng các thức ăn uống khác để cúng thần. Trong khi cử hành lễ cúng, các thầy tu đọc kinh, còn các vũ nữ thì múa những điệu múa tôn giáo.

Về tục lệ, đạo Hinđu cũng hết sức coi trọng sự phân chia đẳng cấp. Đến thời kỳ này, do sự phát triển của các ngành nghề, trên cơ sở 4 đẳng cấp cũ (varna) đã xuất hiện rất nhiều đẳng cấp nhỏ mới gọi là jati.Những đẳng cấp nhỏ này cũng có sự phân biệt về địa vị xã hội rất khắt khe, đóng kín về mọi mặt và đời đời cha truyền con nối. Đặc biệt đạo Hinđu hết sức khinh bỉ và ghê tởm tầng lớp lao động nghèo khổ phải làm các nghề bị coi là hèn hạ như quét rác, đồ tể, đao phủ, đốt than, đánh cá v.v... Những người làm các nghề đó bị coi là những người ô uế, không thể tiếp xúc được. Nếu những người sạch sẽ nhỡ đụng chạm vào họ thì phải tẩy uế. Nếu nhiễm uế nhẹ thì chỉ cần vẩy nước thánh là được; nếu nặng thì phải rửa bằng nước tiểu bò, thậm chí phải uống một thứ nước gồm 5 chất của bò cái: sữa lỏng, sữa đặc, bơ, nước tiểu và phân.

ĐÔNG NAM Á THỜI PHONG KIẾN

1. Sự ra đời của các vương quốc cổ ở Đông Nam Á

- Điều kiện tự nhiên: Địa hình rộng lớn, bị chia cắt bởi những dãy núi đá vôi, không có đồng bằng rộng lớn; khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuận lợi kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước và nhiều loại cây trồng khác.- Điều kiện ra đời các vương quốc cổ ở Đông Nam á.+ Đầu công nguyên đã biết sử dụng đồ sắt. + Ktế nông nghiệp trồng lúa nước là chủ yếu, nghề thủ công truyền thống phát triển như dệt, làm gốm, đúc đồng và rèn sắt. Buôn bán đường biển rất phát triển, một số thành thị hải cảng ra đời, xuất hiện các trung tâm buôn bán nổi tiếng.+ Chịu ảnh hưởng nhiều văn hoá AĐ - Khoảng 10 thế kỉ sau công nguyên, các vương quốc nhỏ hình thành: Cham pa ở Trung Bộ Việt Nam. Phù Nam hạ lưu sông Mê Công, các vương quốc ở hạ lưu sông Mê Nam và đảo Inđônêxia.

2. Sự hình thành và phát triển của các quốc gia phong kiến Đông Nam Á

- Từ thế kỉ VII đến X: thời kỳ hình thành một số quốc gia phong kiến “dân tộc” - Từ nửa sau TK X đến nửa đầu TK XVIII: thời kì phát triển của các quốc gia Đông Nam Á.+ In đônêxia thống nhất và phát triển hùng mạnh dưới vương triều Mô-giô-pa-hít (1213 - 1527)+ Đông Dương ngoài quốc gia Đại Việt, Chăm pavà Campuchia từ thế kỉ IX cũng bước vào thời kì Ăng co huy hoàng.+ Từ giữa TK XI, hình thành và phát triển của vương quốc Mi-an-ma: Pagan+ Thế kỉ XIII thống nhất lập vương quốc Thái.+ Giữa thế kỉ XIV vương quốc Lan Xang thành lập.- Biểu hiện sự phát triển thịnh đạt.+ Kinh tế: có khả năng cung cấp khối lượng lớn lúa, gạo, sản phẩm thủ công vải, đồ sứ, chế phẩm, kim khí...và sản vật thiên nhiên, gỗ quý, hương liệu, đá quý, ngọc trai; nhiều thương nhân thế giới đến buôn bán. H ình th ành 2 giai c ấp: đ ịa ch ủ v à n ông d ân l ính canh, ph ản ánh quan h ệ b óc l ột ch ủ y ếu qua b óc l ột đ ịa t ô+ Chính trị, tổ chức bộ máy chặt chẽ, kiện toàn từ Trung ương đến địa phương.+ Văn hoá, các dân tộc Đông Nam Á xây dựng được một nền văn hoá riêng của mình với những nét độc đáo.- Từ nửa sau thế kỉ XVIII, các quốc gia Đông Nam Á, bước vào giai đoạn suy thoái và trước sự xâm lược của tư bản phương Tây.

2. Vương quốc Cam-pu-chia

* Sự hình thành:- Cư dân đầu tiên là người Khơ Me. Cư trú cao nguyên Cò Rạt - Thế kỉ VI Vương quốc CPC thành lập.* Thời kì phát triển (802 -1432) còn gọi thời kỳ Ăngco:+ Về kinh tế: nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp + Xây dựng nhiều công trình lớn thờ thần, phật+ Chinh phục các nước láng giềng, trở thành cường quốc mạnh và ham chiến trận nhất trong khu vực.* TK XV CPC bắt đầu suy thoái, 1883 Pháp xâm lược.3. . Vương quốc Lào

* Sự hình thành- Cư dân cổ là người Lào Thơng. TK XIII người Thái di cư đến sống hoà hợp với người Lào Thơng gọi là Lào Lùm. - Năm 1353 Pa Ngừm thống nhất các mường Lào lên ngôi đặt tên nước là Lan Xang (Triệu Voi)* Cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII thời kì thịnh vượng nhất dưới triều vua Xu-li-nha Vông-xa:+ Chia đất nước thành các mường, xây dựng quân đội + Có nhiều sản vật, buôn bán trao đổi với châu Âu. Là trung tâm Phật giáo.+ Giữ quan hệ hoà hiếu với CPC và Đại Việt, chống quân xâm lược Miến Điện. * Cuối thế kỉ XVIII, Lan Xang suy yếu, trở thành một tỉnh của Xiêm, sau trở thành thuộc địa của Pháp 1893.=> Văn hoá Lào và CPC đều chịu ảnh hưởng của văn hoá ấn độ trên các lĩnh vực: chữ viết, tôn giáo, văn học, kiến trúc. Song khi tiếp thu mỗi nước đều đem +++g nội dung dung của mình vào, xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc.