Upload
others
View
4
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH NGÂN HÀNG
BÁO CÁO MÔN THUẾ
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM
GVHD: THS. Trần Thị Mơ
Lớp: 11DNH2
Nhóm thực hiện : Nhóm 6
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM
DANH SÁCH NHÓM:
1. Huỳnh Minh Nguyễn
2. Nguyễn Hửu Duy
3. Trần Khánh Duy
4. Nguyễn Thị Yến Ngọc
5. Huỳnh Thị Kim Phụng
6. Nguyễn Huy Toàn
7. Lưu Bích Trâm
8. Trương Hạnh Thanh Trúc
9. Phan Thị Ngọc Tuyền
10. Hà Ngọc Thúy Vy
11. Hồ Thị Hòa Hợp
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014
i
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ Ở VIỆT NAM.................................6
1.1. Sơ lược về Thuế................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm, vai trò......................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc chung về thuế........................................... 7
1.1.3. Phân loại....................................................................................... 8
1.2. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế:.................................................. 9
1.2.1. Tên gọi.......................................................................................... 9
1.2.2. Đối tượng nộp thuế.......................................................................9
1.2.3. Đối tượng chịu thuế......................................................................9
1.2.4. Thuế suất:....................................................................................10
1.2.5. Ưu đãi,miễn giảm thuế............................................................... 10
1.3. Quản lý thuế.................................................................................... 10
1.3.1. Cơ cấu tổ chức ngành thuế Việt Nam........................................ 10
1.3.2. Khái niệm và mục tiêu quản lý thuế.......................................... 13
1.4. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.....................................................13
1.4.1. Đối tượng áp dụng......................................................................14
1.4.2. Các hành vi vi phạm pháp luật về thuế...................................... 14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THẤT THU THUẾ CỦA VIỆT NAM...... 15
2.1. Thực trạng thất thu thuế của Việt Nam.......................................... 15
2.1.1. Thực trạng chung của nền kinh tế.............................................. 15
2.1.2. Tình hình trốn thuế của các doanh nghiệp FDI......................... 17
2.2. Nhận diện các hành vi gian lần thuế...............................................19
2.2.1. Các hành vi gian lận thuế nội địa............................................... 19
2.2.2. Các hành vi gian lận thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu .....................................................................................................24
CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM:....... 28
3.1. Nguyên nhân chung:....................................................................... 28
3.1.1. Nguyên nhân chủ quan............................................................... 28
ii
3.1.2. Nguyên nhân khách quan........................................................... 30
3.2. Nguyên nhân cụ thể:....................................................................... 31
3.2.1. Nguyên nhân thất thu thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử. 31
3.2.2. Nguyên nhân thất thu Thuế thu nhập cá nhân & Thuế thu nhập
doanh nghiệp 33
CHƯƠNG 4. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC THẤT THU THUẾ Ở
VIỆT NAM ................................................................................................ 39
4.1. Nhóm giải pháp chung....................................................................39
4.1.1. Tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về thuế .....................................................................................................39
4.1.2. Tổ chức tốt công tác cán bộ........................................................41
4.1.3. Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có liên quan............. 41
4.1.4. Hình thành và tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ làm thủ tục
thuế phát triển.....................................................................................................42
4.1.5. Xây dựng kế hoạch thu thuế hàng năm hợp lý.......................... 42
4.2. Một số giải pháp cụ thể...................................................................43
4.2.1. Tăng cường quản lý người nộp thuế.......................................... 43
4.2.2. Quản lý chặt chẽ căn cứ tính thuế.............................................. 44
4.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra....................................47
4.3. Xử lý nhanh, gọn các khoản nợ thuế.............................................. 49
iii
LỜI MỞ ĐẦU
--
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THUẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Sơ lược về Thuế
1.1.1. Khái niệm, vai trò
1.1.1.1. Khái niệm:
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa
vụ phải thực hiện đối với NN, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do NN ban
hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội
do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù NN và pháp luật.
Thuế hay thu NSNN là việc NN dùng quyền lực của mình để tập trung
một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu
cầu của NN.
Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và tài sản huy động tài
chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm điều tiết các hoạt
động kinh tế - xã hội.
Đóng thuế vừa là quyền lợi được thực thi trách nhiệm công dân đóng góp
cho sự phát triển phồn vinh của đất nước, vừa là nghĩa vụ phải thực hiện của mỗi
công dân.
1.1.1.2. Vai trò:
Huy động nguồn lực tài chính, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho nhà nước.
Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của NN nhằm huy động tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào NSNN.
Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối
Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của NN đối với nền kinh tế và
đời sống xã hội.
Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế và công bằng xã hội.
--
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc chung về thuế
1.1.2.1. Đặc điểm
Thuế do cơ quan quyền lực NN cao nhất ban hành.
Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và thể
nhân đối với NN không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa NN với các chủ thể khác trong xã hội.
Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của NN.
Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ
số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất...).
1.1.2.2. Nguyên tắc chung
Các sắc thuế đều cần thỏa mãn ba nguyên tắc chung sau đây:
Trung lập: sắc thuế không được bóp méo các hoạt động sản xuất, dẫn tới
phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi.
Đơn giản: việc thiết kế sắc thuế và tiến hành trưng thu thuế phải không
phức tạp và không tốn kém.
Công bằng: sắc thuế phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có điều
kiện như nhau. Giữa các công dân có điều kiện khác nhau, thì thuế suất cũng cần
khác nhau (vì thông thường người có điều kiện tốt hơn có xu hướng tiêu dùng hàng
hóa công cộng nhiều hơn).
1.1.3. Phân loại
1.1.3.1. Các sắc thuế khi phân loại theo phương thức đánh thuế sẽ
gồm hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu
1.1.3.1.1. Thuế trực thu (Direct tax)
Thuế trực thu loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu được của
các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. Thuế trực thu là loại thuế mà người, hoạt động, tài
sản chịu thuế và nộp thuế là một.. Ví dụ: Thuế TNCN, Thuế TNDN…
Đặc điểm:
--
Thuế này có tính công bằng hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp về
thuế thường phù hợp đối với khả năng của từng đối tượng,có tính phân loại đối
tượng nộp.
Thuế trực thu có nhược điểm là hạn chế phần nào sự cố gắng tăng thu
nhập của các đối tượng, vì thu nhập và lợi nhuận càng cao thì phải nộp thuế càng
nhiều.
Thuế trực thu do người có thu nhập phải trả một cách trực tiếp và có ý
thức cho NN, nên họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và có thể dẫn tới
những phản ứng từ chối hoặc trốn thuế.
Việc quản lí thu thuế này phức tạp và chi phí thường cao so với thuế
gián thu
1.1.3.1.2. Thuế gián thu (Indirect tax)
Thuế gian thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành của
giá cả hàng hoá.Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian
(thường là các DN) để đánh vào người tiêu dùng.Thuế gián thu là thuế mà người
chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một. Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế
vào công ty (công ty nộp thuế) và công ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào
giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng.
Ví dụ: Thuế GTGT, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất nhập khẩu...
Đặc điểm:
Thuế này dễ thu hơn thuế trực thu vì tránh được quan hệ trực tiếp giữa
người chịu thuế (người tiêu dùng) với cơ quan thu thuế.
Thuế này dễ điều chỉnh hơn thuế trực thu vì những người chịu thuế
thường không cảm nhận đầy đủ gánh nặng của loại thuế này.
1.1.3.2. Phân loại theo cơ sở tính thuế:
Thuế thu nhập: cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được
Thuế tiêu dùng: cơ sở đánh thuế là giá hàng hoá được tiêu thụ
Thuế tài sản: cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản của các thể nhân, pháp
nhân.
--
1.1.3.3. Phân loại theo mức thuế
Thuế đánh theo tỷ lệ % : thuế luỹ tiến, thuế luỹ thoái, thuế tỷ lệ cố định.
Thuế đánh trên mức tuyệt đối: Ấn định một số thu bằng tiền trên một đơn
vị tính thuế như trọng lượng, khối lượng , diện tích, đơn vị sản phẩm.
1.1.3.4. Phân loại theo chế độ phân cấp và điều hành ngân sách
Thuế trung ương và thuế địa phương.
1.2. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế:
1.2.1. Tên gọi
Phản ánh nội dung chính của từng loại thuế và để phân biệt với những loại
thuế khác. Thường đặt tên sắc thuế theo đối tượng đánh thuế (TNDN, TNCN...),
theo từng mặt hàng (thuế rượu, thuế thuốc lá…) hoặc theo nội dung (thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…)
1.2.2. Đối tượng nộp thuế
Là cá nhân hoặc pháp nhân có đối tượng tính thuế, có trách nhiệm phải nộp
Người nộp thuế : người đem tiền thuế nộp cho cơ quan NN.
Người chịu thuế: người có thu nhập bị thuế điều tiết.
1.2.3. Đối tượng chịu thuế
Là những căn cứ để xác định số tiền thuế phải nộp, là cơ sở tính thuế được
thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Về cơ bản có 3 đối tượng tính thuế:
Giá trị hàng hóa, dịch vụ
Giá trị tài sản
Thu nhập của DN hoặc cá nhân.
1.2.4. Thuế suất:
Thuế suất là linh hồn của 1 sắc thuế.
Thuế suất tuyệt đối: là mức thuế suất tính
Thuế suất tương đối: là mức thuế được tính thuế.
Thuế GTGT: 0%, 5%, 10%.
Thuế TTĐB: thuốc lá 65%, rượu 75%,
--
Thuế môn bài: 3 trđ, 2 trđ, 1 trđ…
1.2.5. Ưu đãi,miễn giảm thuế
Mục đích khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ
cấu KT...
Ưu đãi về thuế suất: Áp dụng thuế suất thấp hơn trong thời gian nhất định
với lĩnh vực, ngành nghề hoặc địa bàn đầu tư
Ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế:
Miễn, giảm thuế cho toàn bộ TN hoặc phần TN
cần khuyến khích
Bên cạnh ưu đãi thuế suất, miễn giảm còn có các hình thức khấu hao nhanh,
chuyển lỗ..
1.3. Quản lý thuế
1.3.1. Cơ cấu tổ chức ngành thuế Việt Nam
Ở Việt Nam bộ máy quản lý thuế được tổ chức thống nhất từ Trung ương
đến địa phương và chịu trách nhiệm quản lý trong phạm vi cả nước tất cả các loại
thế, phí và lệ phí (thuế nội địa) cảu NSNN, các loại thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
do ngành Hải quan quản lý. Cơ cấu tổ chức ngành thuế ở nước ta như sau:
Bộ Tài chính
Tổng cục Hải quan Tổng cục thuế Kho bạc nhà nước
Cục thuế Cục thuế Cục thuế
Chi cục thuế Chi cục thuế Chi cục thuế
Tổ Đội
Hình 1- 1. Cơ cấu tổ chức ngành thuế Việt Nam
Chính phủ
--
Bộ máy quản lý thuế được tổ chức thống nhất thành hệ thống theo ngành dọc
từ Trung ương đến địa phương.
Ở Trung ương có Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính.
Ở các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương có các Cục thuế
trực thuộc Tổng cục thuế, đồng thời chịu sự chỉ đạo song trùng của Uỷ ban nhan
dan cùng cấp.
Ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và các cấp tương
đương có Chi cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Cục thuế và Uỷ ban nhân dân
huyện, thị cùng cấp.
Chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục thuế
Tổng cục thuế là tổ chức thuộc Bộ tài chính, thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước đối với các khoản thu nội địa theo quy định của pháp luật. Tổng cục thế
có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính như sau:
Trình Bộ trưởng Bộ tài chính: Chiến lược phát triển, quy hoạch dài hạn, 5
năm và hàng năm của ngành thuế, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thu
thuế; đề xuất và tham gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp
luật về thuế.
Lập dự toán thu thuế hằng năm theo quy định của Luật NSNN.
Hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới tổ chức thu thuế và thu khác trên địa bàn và
đảm bảo thu đủ, thu kịp thời vào NSNN.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bộ máy thu thuế và các đổi tượng
nộp thuế; xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
Chức năng, nhiệm vụ của Cục thuế:
Ở cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương và Cục thuế. Cục thuế
là tổ chức trực thuộc Tổng cục thuế, có chức năng tổ chức thực hiện thu thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác của NSNN trên địa bàn quản lý theo quy định của pháp
luật. Có các nhiệm vụ chính như sau:
Chỉ đạo hướng dẫn, tổ chức, thực hiện văn bản pháp quy về thuế, quản lý
công tác thu thuế và thu khác thống nhất trên địa bàn.
--
Phân tích, đánh giá công tác quản lí thuế; tham mưu với cấp uỷ,chính
quyền địa phương về lập dự toán thu NSNN, công tác thuế trên địa bàn; phối hợp
chặt chẽ với các ngành cơ quan, đơn vị liên quan để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thu thuế đối với các đối tượng nộp
thuế theo sự phân cấp; hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục thuế trong việc
quản lý thu thuế.
Chức năng, nhiệm vụ của Chi cục thuế
Chi cục Thuế đặt tại các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương là các đơn vị trực thuộc Cục Thuế, có chức năng quản lý
thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN trên địa bàn theo đúng quy
định của Pháp luật. Chi cục thuế có các nhiệm vụ chính sau:
Tổ chức triển khai thực hiện thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật
về thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế trên địa bàn.
Phân tích, đánh giá công tác quản lý thuế, tham mưu với cấp uỷ Đảng,
Chính quyền địa phương về lập dự toán NSNN, công tác thuế trên địa bàn; phối hợp
với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tổ chức thực hiện các biện pháp thu thuế đối với các tổ chức, các nhân
do Chi cục thuế trực tiếp quản lý: tính thuế, lập sổ thuế, thông báo thuế, phát hành
các lệnh thu thuế, và thu khác theo lênh của pháp luật thuế; đôn đốc các tổ chức, cá
nhân nộp thuế đầy đủ kịp thời vào kho bạc.
Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, hoàn thuế, miễn, giảm
thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách, pháp luật thuế đối với các
tổ chức và các cá nhân nộp thuế nội bộ cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân được
uỷ nhiệm thu thuế.
Sau đây là những nội dung chính của Quản lý thuế hiện hành tại Việt
Nam.
--
1.3.2. Khái niệm và mục tiêu quản lý thuế
1.3.2.1. Khái niệm
Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu
NSNN thực hiện, bao gồm: Lập kế hoạch thu, tổ chức thu thuế, kiểm tra, thanh tra,
xử lý phạt vi phạm nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật.
Ngày nay vai trò của thuế ngày càng nâng cao, vì vậy bộ máy quản lý thuế
ngày được hoàn thiện hơn, chuyên nghiệp hơn, hợp tác với đối tượng nộp thuế, giúp
người nộp thuế thể hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình.
1.3.2.2. Mục tiêu của quản lý thuế
Một là, đảm bảo kế hoạch thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật nhằm tài trợ
kịp thời cho những chi tiêu công cụ của nhà nước, đồng thời thực hiện chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước.
Hai là, nâng cao nhận thức của cán bộ thuế cũng như người nộp thuế, cán bộ
thuế phải có trách nhiệm giúp người nộp thuế hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của
mình thông qua công tác tiếp xúc, tuyên truyền, tư vấn, giải thích…Vấn đề người
nộp thuế chưa nhận thức đúng về thuế là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
thất thu thuế và gian lận thuế.
Ba là, cả cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế phải tôn trọng pháp luật về thuế
nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
1.4. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế là hành vi do tổ chức, cá nhân vi phạm
những quy định của các luật thuế, pháp lệnh về thuế, những quy định về lập chứng
từ mua bán hàng hoá, mở và ghi sổ kế toán, những quy định về các khoản thu phí, lệ
phí và các quy định hiện hành về các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước.
1.4.1. Đối tượng áp dụng
Các nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về thuế (người vi
phạm), không phân biệt cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
--
Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế do
thực hiện các hành vi cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm pháp luật
về thuế đối với mọi vi phạm pháp luật do mình gây ra.
1.4.2. Các hành vi vi phạm pháp luật về thuế
Hành vi vi phạm quy định về thủ tục thuế gồm: vi phạm về chậm nộp hồ sơ
đăng ký thuế, chậm thông báo thay đổi thông tin so với thời hạn quy định; vi phạm
lập, khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ khai thuế; vi phạm về chậm nộp hồ
sơ khai thuế so với thời hạn quy định; vi phạm các quy định về cung cấp thông tin
liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế; vi phạm trong việc chấp hành quyết định
kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết đinh hành chính thuế.
Hành vi vi phạm chậm nộp tiền thuế gồm: khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế, vi phạm của cơ quan
thuế, công chức thuế trong quản lý thuế; vi phạm của Ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng khác, người bảo lãnh nộp tiền thuế, Kho bạc nhà nước, cá nhân, tổ
chức có liên quan trong việc thực hiện các quy định của Luật Quản lý thuế; vi phạm
về thì hành quyết định cưỡng chết thi hành quyết định hành chính thuế.
--
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THẤT THU THUẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thất thu thuế của Việt Nam
2.1.1. Thực trạng chung của nền kinh tế
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, nhiệm vụ thu ngân sách của ngành Tài
chính là hết sức nặng nề. Trước tình hình đó, toàn Ngành đang triển khai đồng bộ
các giải pháp quản lý thu, chống thất thu ngân sách, hạn chế nợ đọng thuế nhằm
ngăn chặn các hành vi gian lận thuế, vi phạm trong sản xuất kinh doanh, nâng cao
tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế…
Những khó khăn chung của nền kinh tế đã tạo áp lực lớn thu NSNN của
ngành Thuế nói riêng và ngành Tài chính nói chung trong năm 2013. Trong khi đó,
nhiệm vụ thu NSNN của ngành Thuế lại đang đối mặt với thực trạng trốn thuế và
gian lận thuế ngày càng tinh vi và phức tạp. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, số
thu NSNN của ngành Thuế trong 8 tháng đầu năm 2013 ước đạt 390.712 tỷ đồng,
tương đương 60,6% so với dự toán, bằng 107,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong
tháng 8/2013, Ngành thu ước đạt 38.100 tỷ đồng, bằng 5,9% so với dự toán, bằng
101,8% so với thực hiện cùng kỳ năm 2012.
Biểu đồ 2- 1. Dự đoán thu NSNN của ngành thuế (tỷ đồng)
Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm của Tổng cục Thuế năm 2013 cho
thấy, Thanh tra Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về thuế, trong đó có nội dung
hoàn thuế GTGT tại 7 Cục Thuế (TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình
--
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bắc Ninh). Toàn Ngành đã tiến hành
1.064 cuộc kiểm tra nội bộ (riêng kiểm tra chuyên đề về thuế GTGT là 577 cuộc),
đạt 53% kế hoạch, qua đó kiến nghị truy thu ước đạt 2,37 tỷ đồng nộp NSNN.
Riêng trong tháng 7/2013, Tổng cục Thuế kiểm tra việc hoàn thuế GTGT tại 2 Cục
Thuế An Giang và Long An. Kết quả qua thanh, kiểm tra hồ sơ khai thuế tại các cục
thuế đã phát hiện NNT kê khai thiếu thuế GTGT số tiền là 65,8 triệu đồng và thuế
TNDN phải tạm kê khai bổ sung 330 triệu đồng.
Trong 5 tháng đầu năm 2013, ngành Thuế đã thực hiện thanh, kiểm tra
18.198 DN, đạt 25,2% nhiệm vụ kế hoạch, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2012; Số
thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 3.185,9 tỷ đồng, bằng 99,7% so cùng
kỳ năm 2012; Số tiền nộp vào NSNN là 2.342,8 tỷ đồng, bằng 73,5% so với số truy
thu và phạt, tăng 54,5% so cùng kỳ. Trong đó, Ngành đã thanh tra, kiểm tra 382 DN
lỗ, có dấu hiệu chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết; truy thu, truy
hoàn, phạt là 127,24 tỷ đồng, giảm khấu trừ qua thanh tra là 16,8 tỷ đồng, giảm lỗ
qua thanh tra là 444,1 tỷ đồng.
Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2013, toàn Ngành đã thu được 30% số nợ
thuế tại thời điểm 31/12/2012 chuyển sang. Tuy nhiên, tổng số nợ 6 tháng đầu năm
vẫn ở mức cao với con số 64.632 tỷ đồng, tăng 15.497 tỷ đồng (tăng 32%) so với
thời điểm 31/12/2012, trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất là 2 nhóm nợ: Tiền thuế nợ
đến 90 ngày chiếm 27,5%, tăng 32,8% so với thời điểm 31/12/2012; Tiền thuế nợ
trên 90 ngày chiếm tỷ trọng 54,8%, tăng 26,9% so với thời điểm 31/12/2012. Cùng
với đó, cơ quan thuế đã thực hiện gia hạn nộp thuế GTGT cho 105.037 DN, với số
tiền là 4.428,5 tỷ đồng; gia hạn nộp thuế TNDN cho 45.037 DN, với số tiền thuế
được gia hạn là 951,7 tỷ đồng.
Những khó khăn chủ yếu tác động đến kết quả thu của ngành Thuế bao gồm
hàng hóa tiêu thụ chậm, lượng hàng tồn kho vẫn ở mức cao, tình trạng DN ngừng
hoạt động kinh doanh vẫn tiếp tục xảy ra, thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu
phục hồi... Không chỉ có vậy, lợi dụng tình hình kinh tế khó khăn, không ít DN sử
dụng nhiều “mánh” để gian lận thuế như: kê khai thu nhập giảm để nộp thuế ít, khai
--
lỗ để trốn thuế, lập công ty “ma” để tự in hóa đơn thuế giá trị gia tăng GTGT... Đặc
biệt, hiện tượng DN FDI kê khai lỗ đang khá phổ biến (khoảng 50% tổng số DN
FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó có nhiều DN kê khai lỗ liên tục trong 3
năm). Thực trạng này đã gây tổn thất rất nhiều cho ngân sách nhà nước, chúng ta sẽ
tìm hiểu rõ vấn đề này ngay sau đây.
2.1.2. Tình hình trốn thuế của các doanh nghiệp FDI
Hiện tượng DN FDI kê khai lỗ đang khá phổ biến (khoảng 50% tổng số DN
FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó có nhiều DN kê khai lỗ liên tục trong 3
năm). Điển hình tại tỉnh Bình Dương - địa phương thu hút FDI khá tốt, năm 2010,
trong tổng số 1.490 DN có tới 754 DN FDI kê khai lỗ, chiếm 50,6%. Đáng chú ý,
dù làm ăn thua lỗ trong thời gian dài nhưng nhiều DN vẫn không ngừng mở rộng
đầu tư.
Từ năm 2006 đến nay, hiện tượng chuyển giá của các DN FDI ngày càng
tinh vi hơn, với việc điều chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế
suất thấp hơn để tránh thuế. Những vụ việc chuyển giá “đình đám” thời gian qua
của Coca - Cola, Adidas, Metro Cash & Carry, Keangnam và Nestlé... liên tục báo
lỗ.
Phải thừa nhận rằng hoạt động của khu vực DN FDI đã góp phần không nhỏ
đến sự đổi thay, phát triển lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam, giải quyết việc làm
cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, chính sách ưu đãi đầu tư của nhà nước, đang
bộc lộ nhiều hạn chế, cơ quan nhà nước không chỉ đau đầu, nhức nhối trước vấn
nạn chuyển giá, lỗ giả, lãi thật, một bộ phận DN FDI đã bỏ trốn, “xù nợ” thuế xuất
nhập khẩu…
Phản ánh của nhiều cục hải quan cho thấy, DN FDI trốn nợ
thuế đã ở mức đáng lo ngại, số nợ thuế mỗi vụ lên đến hàng chục tỷ đồng.
Điển hình như trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Diing Long Việt
Nam tại Bình Dương. Công ty này nợ thuế nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất
khẩu lên tới hơn 17 tỷ đồng. Số tiền này chưa kịp thu hồi thì ban giám đốc của
Diing Long đã về nước. Công ty rơi vào tình trạng vắng chủ trong khi tài sản đã thế
--
chấp tại ngân hàng. Hiện công ty chỉ còn một nhà xưởng trên diện tích 3 ha tại Mỹ
Phước ước tính trị giá 70 tỷ đồng, song tài sản này đã được thế chấp tại ngân hàng
với số tiền vay trên 100 tỷ đồng. Với trường hợp như vậy, cơ quan hải quan gần như
"bó tay" để đòi được thuế của doanh nghiệp.
Đối tượng DN FDI bỏ trốn và nợ thuế chủ yếu tập trung ở các DN sản xuất
xuất khẩu. Theo lý giải của một số chuyên gia kinh tế, do biến động kinh tế, sản
xuất xuất khẩu khó khăn, giá nhân công tại Việt Nam cũng không còn cạnh tranh so
với nhiều nước trong khu vực, nhiều DN FDI lợi dụng cơ hội này để “tháo chạy”.
Thực tế DN FDI bỏ trốn, xù nợ thuế không còn là cá biệt. Hải quan Hải
Phòng mới đưa ra thống kê, tại đơn vị hiện còn 14 DN nợ thuế có chủ là người nước
ngoài đã bỏ trốn, với tổng số nợ gần 11,7 tỷ đồng. Các DN này mở tờ khai trong
khoảng thời gian từ năm 2003 trở lại đây, số nợ của các DN bao gồm nợ thuế NK,
thuế GTGT và một số trường hợp nợ tiền phạt chậm nộp. Trong số 14 DN này, DN
có số nợ nhiều nhất trên 7,2 tỷ đồng (gần 3,7 tỷ thuế GTGT và hơn 3,5 tỷ thuế NK)
là Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Kenmark.
Lãnh đạo Hải quan Hà Nội cho biết, đơn vị đang rà soát các nguồn nợ thuế,
tập trung vào đối tượng DN FDI. Còn theo Cục Hải quan TP.Hồ Chí Minh, hiện còn
1.114 DN nợ thuế bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng kí kinh doanh, không kinh doanh tại địa
chỉ đăng ký, ngưng và tạm ngưng hoạt động. Số DN nêu trên nợ thuế XNK tổng
cộng trên 416 tỷ đồng.
Theo Hải quan Đồng Nai, những DN phát sinh nợ đọng trên địa bàn còn có
thể rà soát và đôn đốc kịp thời, nhưng với những trường hợp DN ngoài tỉnh, đặc
biệt là DN FDI các biện pháp xem chừng không hiệu quả. Việc kiểm chứng hoạt
động của các DN này để đôn đốc thuế rất tốn kém về chí phí đi lại, nhân lực để theo
dõi. Trong khi đó, việc phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan chức năng còn rời rạc,
mang tính cục bộ, chưa hỗ trợ tích cực cho yêu cầu quản lý thuế.
Tại Bình Dương và Đồng Nai, rất nhiều trường hợp DN nước ngoài nợ thuế,
bỏ trốn về nước không có cách nào thu hồi được thuế. Hầu hết các DN đều thế chấp
--
tài sản tại ngân hàng, khi DN có vấn đề khó khăn trong hoạt động, ngân hàng thu
hồi tài sản, cơ quan hải quan không có nguồn để trích thu hồi thuế.
Hiện nay, Hải quan Bình Dương và Đồng Nai cũng đang vướng vào vụ khó
thu hồi thuế nợ trên 22 tỷ đồng của Công ty CP điện GREE (trụ sở tại KCN Việt
Nam - Singapore). DN đã ngưng hoạt động, lãnh đạo DN "bặt vô âm tín".
Không có cách nào thu hồi nợ thuế 13 tỷ đồng đối với trường hợp Công ty
TNHH Woolim Vina (Hàn Quốc ngừng hoạt động từ cuối 2008), Hải quan Bình
Dương cũng đã phải đề nghị Tổng cục Hải quan hướng dẫn đơn vị yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với DN này. Ngày 4/11/2010 Cục Hải quan Bình Dương đã đề nghị
cơ quan quản lý xuất nhập cảnh dừng xuất cảnh đối với chủ DN để phối hợp xử lý
số nợ thuế của công ty. Tuy nhiên, vụ việc cũng vô cùng phức tạp liên quan đến tòa
án, ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng LD Shinhan Vina và công ty Woolim
ind.Co.,Ltd (Công ty mẹ Công ty TNHH Woolim Vina) tại Hàn Quốc…
2.2. Nhận diện các hành vi gian lần thuế
2.2.1. Các hành vi gian lận thuế nội địa
2.2.1.1. Bỏ ngoài sổ sách kế toán
Đây là thủ đoạn khá phổ biến hiện nay. Theo đó, người nộp thuế thường sử
dụng đồng thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống sổ kế toán nội bộ phản
ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ phản ánh một phần
các giao dịch kinh tế để khai thuế. Kiểu hành vi này thường xảy ra ở các DN kinh
doanh hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, ăn uống, khách sạn, xây dựng
dân dụng và sản xuất nhỏ. Đây chính là một kiểu hoạt động kinh tế ngầm mà môi
trường thuận lợi của nó là nền kinh tế tiền mặt.
Một số vụ trốn thuế bị phanh phui thời gian qua cho thấy hành vi này khá
phổ biến và gây thất thu ngân sách. Chẳng hạn, Công ty TNHH thông tin tín nhiệm
và xếp hạng DN Việt Nam đã trốn thuế 1.028 triệu đồng qua hành vi không ghi sổ
kế toán tiền bán quyền mua căn hộ; Công ty Viễn thông điện lực bán hàng không
xuất hóa đơn, không phản ánh vào sổ kế toán để trốn thuế 37 tỷ đồng.
--
2.2.1.2. Tạo giao dịch bán hàng giả mạo
Mục tiêu của thủ đoạn này là chiếm đoạt tiền NSNN thông qua hoàn thuế
hoặc tiếp tay cho hành vi tham nhũng NSNN của một bộ phận công chức được giao
nhiệm vụ mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước. Thủ đoạn này
cũng liên quan đến hành vi giao dịch mua hàng giả mạo sẽ phân tích dưới đây nhằm
giúp cho bên mua tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và giảm chi phí tính thuế
thu nhập DN.
Điển hình cho thủ đoạn này là hành vi xuất khẩu khống nhằm chiếm đoạt
tiền qua hoàn thuế GTGT từ NSNN. Xuất khẩu khống chủ yếu diễn ra đối với
phương thức xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới. Dạng gian lận này đã có một thời
bị ngăn chặn đấu tranh quyết liệt nên giảm bớt nhưng trong vài năm gần đây lại có
xu hướng bùng phát với những hình thức tinh vi hơn, đặc biệt có dấu hiệu trầm
trọng là ở các tỉnh giáp ranh Campuchia. Lợi dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt để
quay vòng hàng hóa. Sau khi làm thủ tục xuất khẩu sang nước bạn thì lại đưa hàng
hóa quay trở lại Việt Nam không qua cửa khẩu, rồi sau đó lại làm thủ tục xuất khẩu.
Trong trường hợp này, các đối tượng cấu kết với đối tác nước ngoài để hoàn tất các
thủ tục để đủ điều kiện đề nghị hoàn thuế GTGT. Cùng với đó, các đối tượng này
cũng áp dụng chiêu thức mua hóa đơn để hợp thức hóa thuế GTGT đầu vào và chi
phí tính thuế thu nhập DN. Không phải ngẫu nhiên mà kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa từ Việt Nam sang Campuchia tăng nhanh đáng ngờ, kèm theo đó, số tiền hoàn
thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu sang Campuchia cũng tăng nhanh chóng:
Năm 2011 tăng 196,4% so với năm 2010, năm 2012 tăng 190% so với năm 2011.
Ngoài xuất khẩu khống, giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ giả mạo còn được
thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng bán hàng khống; các hợp đồng cung cấp
dịch vụ khống và xuất hóa đơn khống. Hành vi này được thực hiện ở cả DN “ma”
và cả ở các DN đang hoạt động kinh doanh bình thường.
--
2.2.1.3. Tạo giao dịch mua hàng giả mạo
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng
10.000 mẫu hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm
khoảng 47%, sai khoảng 53%, giảm thuế khoảng 7,4%.
Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế DN không có khoản
chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì
thế có thể gọi đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán
giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng lao động giả mạo (có trường hợp tên người lao
động không có thật; có trường hợp tên người lao động là có thật nhưng thực sự
không làm việc cho DN đó) và thể hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh
doanh khác. Bằng hành vi này, DN không chỉ trốn thuế thu nhập DN mà còn trốn cả
thuế GTGT thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Đối với những hóa
đơn đi mua, để phát hiện, cơ quan thuế phải làm tốt công tác đối chiếu, xác minh.
Thực tế thời gian qua, thông qua công tác đối chiếu hóa đơn, cơ quan thuế các địa
phương đã phát hiện khá nhiều trường hợp gian lận. Chẳng hạn, năm 2012, Cục
Thuế Hà Nội đã gửi 10.200 phiếu xác minh hóa đơn, gồm 28.444 số; kết quả trả lời
xác minh 7.570 phiếu, chiếm 74,21% số phiếu gửi đi. Qua xác minh hóa đơn và
thanh tra, kiểm tra, phát hiện 786 hóa đơn vi phạm, truy thu thuế GTGT là 1.198
triệu đồng, thuế thu nhập DN là 1.658 triệu đồng và xử phạt hành vi trốn thuế 646
triệu đồng, xử phạt hành chính 369 triệu đồng”. Tuy nhiên, với công nghệ đối chiếu
hóa đơn thủ công như hiện nay thì hiệu quả còn rất thấp, bởi vì tỷ lệ hóa đơn có thể
đối chiếu so với số hóa đơn cần đối chiếu là quá nhỏ. Hơn nữa, trong trường hợp
DN bán hóa đơn sử dụng hóa đơn của những khách hàng không lấy để bán cho
những người có nhu cầu mua hóa đơn thì việc đối chiếu cũng không đem lại kết quả.
Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với thủ
đoạn thành lập DN “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả mạo không chỉ thực
hiện thông qua hành vi mua hóa đơn, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết. DN
“ma” là DN được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế
không sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá
--
đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua
bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn
trôi nổi này gây ra là không thể kiểm soát được, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số
chi phí đầu vào cần hợp thức hoá của DN mua bán hoá đơn.
Hiện nay, hình thức gian lận này càng được tổ chức tinh vi hơn và có hệ
thống, tuy nhiên có một số đặc điểm mang tính định vị như: Các DN “ma” thường
thành lập dưới dạng công ty TNHH hay DN tư nhân; chủ DN thường là người có hộ
khẩu thường trú ở địa phương khác đến đăng ký thành lập DN, hạn chế về trình độ
học vấn, không am hiểu pháp luật; văn phòng giao dịch thường đi thuê thời hạn
ngắn, trụ sở chật hẹp, tài sản không tương xứng với mô hình tối thiểu của một DN
bình thường; đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề, chủ yếu là thương mại, dịch vụ
tổng hợp, những ngành nghề không cần phải đăng ký vốn pháp định và không bắt
buộc có chứng chỉ hành nghề; doanh thu lớn nhưng chênh lệch giữa thuế GTGT đầu
vào và thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thuế thấp, thậm chí có thuế GTGT phải nộp
âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin hoàn thuế…
2.2.1.4. Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế
Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn
và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi
này thường gặp ở các DN kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng dầu,
kinh doanh vật liệu xây dựng, bán ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất... Các công
ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây dựng vãng lai) khi thi công các công trình ở các
địa phương khác hay xây nhà tư nhân thường khai báo không trung thực, không kê
khai hoặc giấu bớt một phần công trình. Hành vi gian lận này làm giảm thuế GTGT
và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến số
thu ngân sách hàng năm.
Để chống hành vi “down” giá ô tô và xe máy, Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư 71/2010/ TT-BTC hướng dẫn ấn định thuế đối với cơ sở kinh doanh ô tô,
xe hai bánh gắn máy ghi giá bán ô tô, xe hai bánh gắn máy trên hóa đơn giao cho
người tiêu dùng thấp hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường. Đây là căn cứ
--
pháp lý quan trọng để cơ quan thuế đấu tranh ngăn chặn tình trạng “down” giá
nhằm trốn thuế ở hai mặt hàng này. Tuy vậy, còn một số lĩnh vực khác chưa có biện
pháp quản lý hữu hiệu.
2.2.1.5. Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định
Mục tiêu chủ yếu của hành vi hạch toán kế toán sai quy định pháp luật là che
giấu doanh thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế thu nhập DN và tăng thuế
GTGT đầu vào được khấu trừ. Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng.
Khi bị kiểm tra phát hiện, cán bộ kế toán có thể lấy cớ là hạch toán nhầm để tránh bị
phạt vì hành vi trốn thuế. Kế toán có thể hạch toán giảm trừ doanh thu thông qua
các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. Kế toán có thể hạch toán
sai tài khoản kế toán để che giấu doanh thu.
Chẳng hạn, khi phát sinh doanh thu bán hàng, lẽ ra phải hạch toán vào tài
khoản 511 thì kế toán lại hạch toán vào các tài khoản kế toán khác, như hạch toán
vào tài khoản 338, 138... Một số DN nhượng bán, trao đổi vật tư không ghi nhận
doanh thu mà chỉ hạch toán thay đổi cơ cấu tài sản lưu động bằng các bút toán nhập,
xuất, thu, chi hoặc công nợ phải thu, phải trả; bán phế liệu không xuất hóa đơn,
không ghi nhận doanh thu hoặc hạch toán giảm chi phí sản xuất.
Các dạng hạch toán sai nhằm tăng chi phí được trừ tính thuế thu nhập doanh
nghiệp và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ chủ yếu là: hạch toán toàn bộ chi
phí mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ bản vào chi phí quản lý DN; đưa khấu
hao tài sản cố định phúc lợi vào chi phí khấu hao tài sản cố định; tài sản cố định hết
thời gian khấu hao vẫn trích khấu hao; hạch toán vào chi phí được trừ các khoản chi
từ thiện, các khoản chi thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ, chi mang tính chất tiêu
dùng cá nhân của chủ DN...
Hành vi gian lận này chỉ có thể bị phát hiện qua kiểm tra báo cáo quyết toán
thuế hoặc qua thanh tra tại cơ sở kinh doanh. Muốn phát hiện được hành vi này, cán
bộ thanh tra, kiểm tra phải vững vàng về nghiệp vụ kế toán và phải nhanh nhạy
trong đánh giá báo tài chính của DN.
--
2.2.2. Các hành vi gian lận thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo
theo sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời,
các hành vi gian lận về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng
đáng kể về hình thức gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian lận.
Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng và có diễn biến phức tạp với các phương thức,
thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng những bất
cập trong quy trình thủ tục hải quan và sự thay đổi chính sách mặt hàng... Trong đó,
phổ biến nhất là các hành vi buôn lậu, gian lận, trốn thuế về mặt hàng, số lượng, mã
hàng, xuất xứ, trị giá tính thuế hay lợi dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn thuế hoặc
nợ thuế để trốn thuế. Cụ thể như sau:
2.2.2.1. Buôn lậu
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá cấm,
không khai báo, tránh sự quản lý của hải quan và trốn nghĩa vụ thuế. Thời gian qua,
việc buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp,
với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, khó kiểm soát. Hàng nhập lậu chủ
yếu là hàng tiêu dùng như quần áo, vải, giày dép, đồ chơi trẻ em, rượu, bia và các
loại nước giải khát, hàng điện máy gia dụng, điện lạnh, thực phẩm… Sau khi nhập
lậu vào Việt Nam, các mặt hàng này được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe khách, xe tải
và được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá đơn mua qua bán lại giữa các DN.
Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục
hải quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng không
khai báo đầy đủ các mặt hàng hoặc cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất khẩu,
nhập khẩu để không phải nộp thuế.
2.2.2.2. Khai sai chủng loại hàng hoá
Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi
nguồn lực của cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu cầu đơn giản, nhanh chóng,
thuận lợi trong thủ tục hải quan, cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra thực tế
--
hàng hóa khi có nghi vấn hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại, khai báo
và áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất lớn vào mức độ
tuân thủ của người nộp thuế. Thực tế thời gian qua, nhiều chủ hàng đã lợi dụng các
vấn đề trên để thực hiện gian lận thuế nhập khẩu bằng việc khai báo sai tên hàng,
sai mã số hàng hóa. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng
năm có khoảng 10.000 mẫu hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai
đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng 53%, giảm thuế khoảng 7,4%. Các hành vi
thường gặp là:
Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập khẩu
nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp. Chủ yếu là khai sai mã số hàng từ mã hàng
có thuế suất cao sang mã hàng có thuế suất thấp. Nhiều trường hợp, người nộp thuế
lợi dụng sự phức tạp của các hàng hóa là các hỗn hợp, các hóa chất khó phân biệt,
xác định bằng cảm quan để khai theo hướng có lợi cho mình.
Thứ hai, Người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa là
sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở thành hàng hóa chưa
hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng linh kiện.
2.2.2.3. Khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất xứ hàng
hóa nhập khẩu. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc
biệt đối với các hàng hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường
đã có thỏa thuận về ưu đãi tối huệ quốc hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ
hàng hóa cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận
xuất xứ (C/O) giả để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt.
2.2.2.4. Gian lận giá tính thuế
Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá tính thuế
là hành vi rất phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận thường được các chủ hàng
thực hiện dưới các hình thức sau:
Thứ nhất, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với những mặt hàng chịu
thuế suất cao, chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, những mặt hàng hay biến động về giá.
--
Thứ hai, chủ hàng dựa vào danh mục dữ liệu giá của cơ quan hải quan để
khai báo thấp trị giá của các lô hàng nhập khẩu giống hệt, tương tự thấp hơn trị giá
giao dịch thực tế, sau đó khai báo thấp dần trị giá khai báo đối với các lô hàng cùng
loại, tương tự đã nhập khẩu trước. Bằng hành vi này, chủ hàng đã lợi dụng các quy
định về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo phương pháp trị giá giao dịch
hàng nhập khẩu giống hệt/tương tự để được tính thuế với mức giá thấp hơn so với
trị giá giao dịch thực tế.
Thứ ba, chủ hàng khai báo thấp trị giá đối với lô hàng nhập thử để thăm
dò thái độ của cơ quan hải quan sau đó nhập khẩu ồ ạt liên tục trong một khoảng
thời gian ngắn theo mức giá thấp đã khai báo trước đó và khi cơ quan hải quan chưa
kịp xác minh, xử lý, chủ hàng đã tiến hành giải thể DN hoặc bỏ trốn khỏi địa chỉ
đăng ký kinh doanh.
Thứ tư, do theo chính sách thuế đối với linh kiện hoặc nguyên liệu nhập
khẩu thấp hơn hàng nguyên chiếc nên DN thực hiện việc “down” giá bằng thủ đoạn
tháo rời hàng nguyên chiếc thành linh kiện hoặc nguyên liệu nhập khẩu. Điều này
được thực hiện qua việc chủ hàng thành lập nhiều công ty khác nhau hoặc tiến hành
móc nối với nhiều công ty để mỗi công ty tiến hành nhập khẩu một bộ phận cấu
thành của hàng nguyên chiếc về các cửa khẩu khác nhau trong nhiều thời điểm khác
nhau để tránh sự kiểm soát của cơ quan hải quan.
Thứ năm, chủ hàng lợi dụng các quy định về chiết khấu, giảm giá hoặc
không khai báo tiền bản quyền, phí giấy phép, các khoản trợ giúp, phí hoa hồng
hoặc các khoản thanh toán gián tiếp để làm giảm trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.
Thứ sáu, chủ hàng khai tăng trị giá tính thuế so với giá trị thực tế của
hàng hóa nhập khẩu để tăng vốn đầu tư và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài…
2.2.2.5. Giả mạo mục đích xuất khẩu, nhập khẩu để được hưởng ưu
đãi thuế
Chứng từ thường hay được các chủ hàng giả mạo với mục gian lận thuế
thường là các chứng từ nộp thuế (nhằm giải tỏa cưỡng chế thuế của cơ quan hải
quan) hoặc các hồ sơ hải quan (để hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu). Trong đó,
--
các trường hợp phổ biến là gian lận thuế qua việc thực hiện chính sách ưu đãi đối
với các dự án đầu tư; gian lận qua việc lợi dụng chính sách quản lý đối với hàng gia
công; gian lận thông qua việc lợi dụng hình thức tạm nhập tái xuất và tạm xuất tái
nhập... Điển hình nhất là vụ buôn lậu xăng A92 lợi dụng hình thức tạm nhập tái
xuất, trị giá ước tính 27 tỷ đồng tại vùng biển Thanh Hoá vào tháng 7/2012; hành vi
buôn lậu của Công ty TNHH một thành viên xăng dầu hàng không Việt Nam
(Vinapco) dưới hình thức lợi dụng tạm nhập tái xuất xăng dầu qua cửa khẩu đường
bộ để buôn lậu 296,6 tấn xăng A92, trị giá khoảng 8 tỷ đồng, số thuế DN gian lận
ước tính 2,5 tỷ đồng.
Cũng theo thống kê của Hải quan, trong những năm qua đã có 500 ôtô nhập
vào Việt Nam theo hình thức tạm nhập tái xuất nhưng đến nay chỉ có 100 chiếc làm
thủ tục xuất và nhập trở lại. Nghĩa là còn 400 chiếc không làm thủ tục xuất và nhập
trở lại mà lưu hành trong nội địa gây thất thu số tiền thuế rất lớn cho Nhà nước.
Ngoài ra, nhiều chủ hàng lợi dụng quy định chuyển cửa khẩu để gian lận
thuế; lợi dụng chính sách ân hạn thuế để nợ thuế sau đó tẩu tán bán hàng và bỏ trốn
khỏi trụ sở kinh doanh mà không làm thủ tục giải thể DN để tránh thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế...
--
CHƯƠNG 3. NGUYÊN NHÂN THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM:
3.1. Nguyên nhân chung:
3.1.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, hệ thống pháp luật của nước ta còn chưa đồng bộ, nhiều nội dung
còn chồng chéo, gây khó khăn cho người thực hiện.
Chính sách thành lập doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp khá thông
thoáng, nhưng việc theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp đó như
thế nào thì còn buông lỏng. Từ khâu hậu kiểm, quản lý doanh nghiệp sau giấy phép
đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều kẽ
hở, tạo điều kiện cho việc thành lập các doanh nghiệp “ma”. Mặt khác cơ chế thanh
toán giữa các giao dịch kinh tế còn chưa bắt buộc thông qua hệ thống ngân hàng do
vậy rất khó kiểm soát việc các hoạt động kinh tế đó đã phát sinh thực tế hay chỉ trên
giấy tờ.
Thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức
của bộ máy quản lý thuế và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý
thuế, đặc biệt trong xu thế quản lý thuế hiện đại.
Luật Quản lý thuế năm 2006 chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện,
vì vậy phần nào đã hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật Quản lý thuế và
chính điều này chưa thực sự khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có
nghĩa vụ thuế. Chẳng hạn tại Điều 53, Luật quản lý thuế quy định trách nhiệm hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh “người Việt Nam xuất cảnh để
định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Cơ quan quản
lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá nhân trong trường hợp
chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan quản lý thuế. Với
quy định này, nếu không xác định rõ cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý thuế và
cơ quan công an thì chắc chắn điều luật này sẽ không có tính khả thi, bởi thực tế
hiện nay Cục thuế địa phương không thể biết đối tượng nào nợ thuế đang chuẩn bị
xuất cảnh để thông báo cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh và ngược lại.
--
Luật Quản lý thuế năm 2006 đã quy định trách nhiệm việc cung cấp các
thông tin, tài liệu của các bên có liên quan cho cơ quan thuế và ngược lại. Tuy nhiên
chỉ cung cấp khi cơ quan thuế có yêu cầu, vì vậy có rất nhiều thông tin cần thiết
nhưng cơ quan thuế không biết được đầu mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung
cấp thông tin. Chẳng hạn, thông tin về tài khoản ngân hàng của doanh nghiệp,
thường các doanh nghiệp mở rất nhiều tài khoản ở các ngân hàng thuộc các địa
phương khác nhau nhưng cơ quan thuế không biết doanh nghiệp mở tài khoản ở
ngân hàng nào để yêu cầu cung cấp. Vì vậy, cần có quy định cụ thể trách nhiệm của
ngân hàng phải thông báo tài khoản của doanh nghiệp cho cơ quan thuế trực tiếp
quản lý khi đăng ký tài khoản.
Thứ hai, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm của các cơ quan
chức năng cũng chưa được quyết liệt, nên nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng lỗ hỏng
này để khai man trốn thuế.
Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt, chế tài để xử phạt hành vi vi phạm chưa
đủ mạnh để răn đe, việc bị phạt vài ba trăm hay ba triệu so với cái lợi của hàng trăm
triệu, hàng tỷ trở lên thì phát thế không hiệu quả. Hiện nay hình phạt cao nhất quy
định tại BLHS năm 1999 là 7 năm tù còn mức phạt tiền cao nhất chỉ giới hạn bằng 3
lần số tiền thuế trốn. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hóa đơn không trung thực
khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ án, một cá nhân chiếm đoạt
nhiều tỷ đồng tiền thuế. Nếu không xử lý quyết liệt thì luật pháp không còn tính răn
đe. Do đó, mặc dù đã được công luận cảnh báo cơ quan chức năng nhưng tình hình
tội phạm liên quan tới thuế vẫn phát triển nahnh, đa dạng, tinh vi và số tiền thuế
chiếm đoạt ngày càng lớn.
Cơ quan thuế chưa thực sự chủ động trong công tác quản lý thuế. Một số
cán bộ thuế chưa làm tròn trách nhiệm thậm chí thoái hóa, biến chất vì tư lợi riêng
để lợi dụng. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số
cá nhân ăn cắp tiền thuế.
Thứ ba, sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng
và thói quen mua hàng lấy hóa đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp bị quy tội
--
gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các
quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho
doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hóa đơn. Hơn nữa họ cũng không có
động cơ giữ hóa đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hóa đơn để
khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay.
Thứ tư, cả hai lĩnh vực xử lý hành chính và xử lý hình sự đều đang gặp
không ít khó khăn, đơn cử như xử lý hành chính, cơ quan ra quyết định mà các đối
tượng không chấp hành, rồi lại để đó không làm đến nơi đến chốn, điều đó đồng
nghĩa vô hiệu hóa các quyết định có tính pháp lý của cơ quan chức năng; còn xử lý
hình sự thì lại càng hết sức khó khăn nên Bộ Công an, Bộ Tài chính và hai tổng cục
cần ngồi lại với nhau để tháo gỡ, bàn bạc cụ thể.
Thứ năm, công tác xây dựng chương trình kế hoạch phối hợp phòng, chống
các hành vi vi phạm chưa thực hiện triệt để, có đơn vị xây dựng kế hoạch nhưng
thiếu bám sát, chỉ đạo thực hiện hoặc mới chỉ tập trung đấu tranh chống các hành vi
vi phạm mà chưa có giải pháp giải quyết triệt để các trường hợp doanh nghiệp “ma”.
3.1.2. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân
không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh
theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ
quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản,
chứng từ…là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh
một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như
dự báo tương lai.
Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Hầu hết các hạch
toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là
đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp lập bộ hồ sơ thanh toán khống; không
thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn chứng từ và đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát
hiện để ngăn chặn kịp thời.
--
Còn với các cá nhân, việc được trao tay những khoản thu trực tiếp bằng tiền
mặt cũng giúp họ trốn được một số tiền thuế lớn do các cơ quan chức năng không
thể kiểm soát và quản lý được giá trị thực lớn hơn rất nhiều so với giá trị được ghi
nhận của những khoản thu này.
Thứ ba, một nguyên nhân không kém phần quan trọng trong đó chính là yếu
tố con người. Do hạn chế về nguồn nhân lực, một số cán bộ còn thiếu tinh thần
trách nhiệm trong quản lý nên vẫn còn tình trạng thất thu thuế, torng khi tình hình
doanh nghiệp “ma” ngày càng nhiều. Mặc dù tập thể cán bộ của lực lượng Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ- lực lượng chuyên trách trong
điều tra về trốn và gian lận thuế đã tập trung tận lực nhưng vẫn chưa thể triệt phá
hết.
3.2. Nguyên nhân cụ thể:
3.2.1. Nguyên nhân thất thu thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử
Phía nhà quản lý:
Hiện chúng ta đã có một số cơ sở pháp lý, văn bản điều chỉnh hoạt
động TMĐT như Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao dịch điện tử… tuy nhiên,
trên nhiều lĩnh vực, chính sách quản lý thuế chưa có quy định cụ thể, chưa theo kịp
với đà phát triển của loại hình kinh doanh này, chưa chỉ tên được một số dịch vụ ảo
nhưng có doanh thu tiền thật thì sẽ xử lý như thế nào (bán hàng thông qua trang
blog cá nhân; bán hàng qua trò chơi game; giao hàng, thanh toán tận nơi….)?
Vấn đề nữa là do trình độ tin học của cán bộ thanh tra còn hạn chế,
không thể tìm được dữ liệu của máy chủ nên rất khó phát hiện sai phạm.
Khâu quản lý dịch vụ điện tử của nước ta còn lơi lỏng, cơ quan quản lý
chưa có biện pháp mạnh để quản lý các máy chủ, các trang mạng cá nhân và các
hoạt động phát sinh trên Website. Đây là một sân chơi đang bỏ ngỏ, là nơi các loại
tội phạm (không chỉ trong lĩnh vực kinh doanh mà còn ở rất nhiều lĩnh vực khác
như chính trị, văn hóa, xã hội…) đang tung hoành, Nhà nước chưa có đủ lực để
kiểm soát hết được.
--
Một nguyên nhân nữa là do xã hội của ta vẫn tiêu dùng bằng tiền mặt
là chủ yếu, nhiều giao dịch thông qua TMĐT chỉ là khâu đầu tiên của chuỗi bán
hàng hóa và cung ứng dịch vụ, khâu thanh toán cuối cùng vẫn dùng tiền mặt. Nhà
nước chưa có biện pháp gì để thúc đẩy thanh toán bằng tài khoản, thanh toán qua
ngân hàng, chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý thu nhập của người dân.
Chưa tuyên truyền để người dân nắm rõ quyền hạn và trách nhiệm khi
tuân thủ pháp luật trong kinh doanh, thấy rõ việc đóng thuế là ích nước lợi nhà, là
góp phần xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng…
Phía người tiêu dùng:
Tham gia vào hình thức trao đổi này, người tiêu dùng chỉ nhận thấy lợi
ích của việc mua bán diễn ra đơn giản, dễ ràng, nhanh chóng, không nhận thức được
hết các tác hại của nó như: chất lượng hàng hóa nhiều khi chưa được bảo đảm, khâu
hậu mãi yếu, khiếu nại khó thực hiện…
Người tiêu dùng cũng không hiểu biết rõ pháp luật, không yêu xuất cầu
hóa đơn bán hàng, chỉ cần đặt dịch vụ, nhận hàng, trao tiền là xong, từ đó, cơ quan
thuế cũng không có cách nào để có thể biết và kiểm duyệt được hết các hoạt động
này.
Phía doanh nghiệp và người kinh doanh:
Doanh nghiệp và người kinh doanh chỉ thấy mối lợi trước mắt: giảm
thiểu chi phí và tăng doanh thu đáng kể.
Không nhận thức được hoặc cố tình không thấy việc vi phạm pháp luật
sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất trong nước, tác động không tốt đến
công đồng kinh doanh, kéo nhiều người kinh doanh chạy theo phương thức làm ăn
có lợi nhuận phi pháp, làm hỏng môi trường kinh doanh bình đẳng, giảm ý thức
đóng góp của người dân cho xã hội.
Cũng phải khẳng định, phương thức kinh doanh TMĐT mang lại lợi ích to lớn
cho toàn xã hội. Nhưng do không quản lý được nên Nhà nước là người đang phải
chịu thua thiệt.
--
3.2.2. Nguyên nhân thất thu Thuế thu nhập cá nhân & Thuế thu nhập
doanh nghiệp
Hiện tại, những chiêu trò để lách thuế đang diễn ra rất phổ biến ở nước ta.
Chính sự lỏng lẽo, mối liên hệ thiếu chặt chẽ giữa cơ quan quản lý đăng ký kinh
doanh và cơ quan quản lý thuế đã dẫn đến tình trạng các DN trốn thuế như kể trên.
Phần đông các doanh nghiệp làm ăn chân chính đều ủng hộ hướng tới sự minh bạch
trong kinh doanh mà các nước tiên tiến đã áp dụng, tuy nhiên có không ít DN đã lợi
dụng trốn thuế, tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ với
ngân sách nhà nuớc.
Một số các chiêu trò mà các doanh nghiệp đang cố tình hoặc tìm kẻ hở của
luật để trục lợi sau đây chính là nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế TNDN và TNCN:
Thuê người làm giám đốc để bán hóa đơn
Công ty TNHH TM SX DV XNK Lâm Đạt có trụ sở đăng ký tại phường 11,
quận Gò Vấp, thành lập ngày 9/8/2006, được Sở Kế hoạch & Đầu tư TP Hồ Chí
Minh cấp giấy phép đăng ký kinh doanh do Nguyễn Danh Lam đứng tên làm Giám
đốc và là người đại diện pháp luật. Công ty có vốn điều lệ đăng ký 2 tỷ đồng với các
ngành nghề gồm: Mua bán vật liệu xây dựng, hàng trang trí nội thất, thiết bị điện...
Mặc dù ngành nghề kinh doanh đã đăng ký rõ ràng như vậy nhưng sau khi
thành lập, Công ty Lâm Đạt không hề hoạt động kinh doanh nào liên quan các
ngành nghề trên. Điều bất thường nữa là mặc dù không hoạt động kinh doanh,
nhưng công ty này vẫn có người đến Cục Thuế TP Hồ Chí Minh mua 58 quyển hóa
đơn GTGT (2.900 số), sau đó xuất bán ra 2.855 số cho 1.031 đơn vị, cá nhân ở TP
Hồ Chí Minh và các tỉnh. Khi cơ quan điều tra vào cuộc để làm rõ chân tướng
người đứng đầu công ty thì Nguyễn Danh Lam khai nhận là không hề hay biết gì về
công ty mà mình làm giám đốc và cũng không hề tham gia bất cứ hoạt động nào của
công ty này.
Với vốn điều lệ đăng ký hàng trăm triệu đến hàng ngàn tỷ đồng, song điều lạ
là một số doanh nghiệp (DN) lập ra nhưng lại không hoạt động kinh doanh gì vẫn
--
thu lợi “khủng” chỉ trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, các DN này còn giúp cho
không ít DN làm ăn gian dối thi nhau chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước...
In hóa đơn trùng
Gần đây, nhiều cửa hàng bán hàng đăng ký hóa đơn tự in và xuất hóa đơn rất
đầy đủ. Tưởng như các DN này chấp hành tốt việc xuất hóa đơn. Nào ngờ, các DN
này chơi “chiêu” mới. Đó là in trùng số sê ri ở những cửa hàng chi nhánh khác nhau.
Tức là, một công ty có nhiều cửa hàng thì các cửa hàng này đều xuất trùng một dãy
số sê ri như thế.
Như vậy, DN đó có càng nhiều cửa hàng thì số thuế kê khai chỉ bằng một
cửa hàng và có thể giấu doanh số của những cửa hàng khác xuất trùng số sê ri hóa
đơn. Cách làm này nay đã bị phát hiện. Tuy nhiên, theo một lãnh đạo ngành thuế,
việc in trùng hóa đơn này rất nguy hiểm, sẽ bị xử lý hình sự cả người bán hàng lẫn
đơn vị in hóa đơn, trong khi hành vi không xuất hóa đơn hoặc xuất hóa đơn không
kịp thời, đầy đủ hầu như chỉ bị xử lý hành chính.
Một cách khác trong việc xuất hóa đơn nữa, là xuất liên 1 khác liên 2. Người
mua và người bán cùng thông đồng để ghi giá trị trên liên 2 cao hơn giá thanh toán
trên thực tế để đơn vị mua tăng số thuế GTGT đầu vào, được khấu trừ sai lệch với
thực tế. Bên cạnh đó, hạ giá trị ghi ở liên 1 thấp xuống để khai báo lỗ, không phải
đóng thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trả lương trên giấy
Khoảng cách giữa lương thực lãnh và lương trên giấy là thực tế khá phổ biến
trong một bộ phận doanh nghiệp, nhằm tránh phí bảo hiểm xã hội cũng như thuế thu
nhập.
Bà B vừa được Văn phòng đại diện (A) của một công ty nước ngoài tại
Tp.HCM thuê làm việc với mức lương 600 USD/tháng (lương thực lĩnh). Nhưng,
trên hợp đồng lao động ký kết giữa hai bên, lương của bà B chỉ thể hiện 300
USD/tháng (lương trên giấy).
Theo luật sư Lê Thành Kính, văn phòng luật sư Lê Nguyễn, cách trả như trên
là “lách luật”, nhằm mục đích giảm và tránh chi phí bảo hiểm xã hội cũng như thuế
--
thu nhập cá nhân. Vì nếu mức lương 600 USD/tháng được thể hiện trong hợp đồng
lao động, theo luật, Văn phòng đại diện A. phải chịu phí bảo hiểm xã hội gấp đôi và
bà B cũng phải chịu thuế thu nhập cá nhân (có thu nhập trên 5 triệu/tháng. Cách trả
lương cho nhân viên như Văn phòng đại diện A hiện nay khá phổ biến, nhất là các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty liên doanh. Trước mắt thì họ tránh
được một khoản thuế và phí bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, khi có tranh chấp lao động
hoặc gặp các vấn đề về pháp lý thì “mọi chuyện sẽ rối tung”, doanh nghiệp gặp
không ít phiền phức.
Thanh toán qua ngân hàng để hoàn thuế GTGT
Các bên thanh toán nếu Hợp đồng ký thời hạn thanh toán ngắn khi đến thời
hạn không thanh toán được thì gia hạn, lập phụ lục hợp đồng để đối phó với cơ quan
Thuế; Thực hiện việc chia nhỏ hoá đơn (để giá trị hoá đơn nhỏ hơn 20 triệu đồng);
Thay vì một tháng nhập hàng một lần viết một hoá đơn thì nhập thành nhiều lần,
viết nhiều hoá đơn trong tháng để có giá trị nhỏ hơn 20 triệu đồng; Thành lập đường
dây có nhiều công ty thanh toán lòng vòng để gây khó khăn cho việc đối chiếu xác
minh của cơ quan chức năng.
Trong lĩnh vực bất động sản
Tài sản duy nhất
Luật Thuế TNCN quy định: Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử
dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có
một nhà ở, đất ở duy nhất thì được miễn thuế; đồng thời người chuyển nhượng BĐS
tự khai và chịu trách nhiệm về tính trung thực về kê khai của mình.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hệ thống thông tin quản lý cá nhân của cơ quan
quản lý nhà nước, trong đó có ngành thuế còn chưa đáp ứng; công tác kiểm tra, đối
chiếu cần rất nhiều thời gian thì ít nhất trong vài năm đầu, cơ quan chức năng không
thể kiểm soát được từng cá nhân có bao nhiêu nhà ở, đất ở. Đây chính là kẽ hở để
không ít người có nhiều nhà ở, đất ở khi chuyển nhượng sẵn sàng kê khai là tài sản
duy nhất để không phải nộp thuế.
Hạ giá chuyển nhượng
--
Hệ thống văn bản pháp luật thuế TNCN quy định giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là giá thực tế ghi trên hợp đồng, tại thời điểm chuyển nhượng nhưng
không thấp hơn giá đất do UBND tỉnh, TP quy định.
Thực tế trên thị trường BĐS, giá đất mua bán thường cao hơn giá đất do
UBND tỉnh, TP quy định. Nhưng vì lợi ích của cả người mua và người bán, nên họ
thường thoả thuận ghi giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn thực tế. Và để
được cơ quan nhà nước chấp nhận hồ sơ, họ chỉ ghi trên hợp đồng mức giá ngang
hoặc cao hơn chút đỉnh so với giá UBND tỉnh, TP quy định. Như thế sẽ được nộp
thuế thấp hơn số thực tế phải nộp. Kết quả là, cả đôi bên mua bán đất cùng có lợi,
chỉ riêng Nhà nước chịu thất thu thuế.
Chuyển nhượng bắc cầu
Khoản 1 Điều 4 Luật Thuế TNCN quy định: “thu nhập từ chuyển nhượng bất
động sản giữa vợ với chồng, cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con
nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội
với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau” thì
được miễn thuế TNCN. Lợi dụng quy định này, nhiều trường hợp đã sử dụng mối
quan hệ bắc cầu để trốn thuế.
Cụ thể, hai chị em dâu chuyển nhượng BĐS cho nhau là đối tượng phải nộp
thuế. Nhưng để lách luật, người chị dâu làm thủ tục chuyển nhượng cho bố chồng,
sau đó bố chồng lại chuyển nhượng tiếp cho người em dâu. Cả hai lần chuyển
nhượng này đều thuộc đối tượng được miễn thuế. Thế là từ việc phải nộp thuế, hai
chị em dâu chịu khó đi vòng, chuyển nhượng bắc cầu để tránh phải nộp thuế.
Các chiêu trò khác
Hầu hết các DN hoạt động trên cả nước đều phải đóng thuế GTGT. Tuy
nhiên, một số DN lại lợi dụng “kẽ hở” trong các quy định của Nhà nước để “lách
bớt” các khoản thuế, làm giảm nguồn thu NSNN. Theo Giám đốc tài chính một Cty,
tất cả các báo giá bên chị gửi cho đối tác đều là báo giá không bao gồm thuế VAT
vì không phải khách hàng nào cũng cần viết hóa đơn VAT. Với việc làm này, Cty
--
có thể hạn chế xuất hóa đơn GTGT, giảm được giá bán cho khách hàng, tăng thêm
lợi nhuận.
Một số DN khác lại lợi dụng sơ hở trong quản lý địa điểm kinh doanh của
ngành thuế để “lách” luật bằng cách chọn hình thức tồn tại song song giữa hộ kinh
doanh và Cty trên cùng một địa điểm, gây khó khăn cho cơ quan thuế trong việc
“tách thuế” để thu cũng như việc xử lý vi phạm nếu có. Theo quy định của Luật
Thuế, bất kỳ DN nào đăng ký kinh doanh có tổ chức thì mọi sản phẩm bán ra đều
phải có thuế VAT nhưng trên bảng giá thực đơn của nhà hàng lại không hề bao gồm
VAT. Bởi nhà hàng đã có thêm tờ “hộ mệnh” là đăng ký hộ kinh doanh cá thể với
mức thuế khoán.
Cơ quan thuế khó mà “bắt bẻ” được lý do tại sao không ghi thuế GTGT trên
bảng giá thực đơn của nhà hàng. Cho dù cơ quan thuế có tổ chức kiểm tra và đối
chiếu chứng từ, hóa đơn đầu vào, đầu ra, kiểm kê hàng tồn kho... thì cũng tốn khá
nhiều thời gian, huy động nhiều lực lượng mà chưa chắc đã đạt hiệu quả. Những mô
hình song song kiểu này đang tồn tại khá phổ biến ở nước ta hiện nay. Liệu cơ quan
thuế có biết hay là làm “ngơ” để dễ bề “tự ý” xử lý?
Cùng một thương hiệu nhưng có nhiều hình thức đăng ký kinh doanh khác
nhau cũng là một kiểu “lách”. Một chủ DN bạc cho biết, anh mở hơn chục cửa hàng
khác nhau với một thương hiệu chung, màu sắc trang trí cửa hàng, đồng phục nhân
viên cũng giống nhau nhưng tiền thuế mỗi cửa hàng lại khác nhau. Đối với 1 – 2
cửa hàng chính, anh đăng ký hoạt động theo mô hình Cty trách nhiệm hữu hạn
(TNHH). Một là để có hóa đơn GTGT xuất cho khách hàng theo yêu cầu, tham gia
đấu thầu khi cần và nâng cao mô hình hoạt động. Hai là để Cty có thể đóng BHXH,
BHYT cho một số nhân viên chủ chốt.
Những cửa hàng còn lại trong hệ thống thì được đăng ký hoạt động dưới mô
hình hộ kinh doanh cá thể, đóng theo mức thuế khoán, mức thuế mà có thể “điều
chỉnh” theo ý muốn nếu “quan hệ tốt” với cán bộ thuế “biến chất” tại cơ sở. Thật là
một “mũi tên” bắn nhiều “đích”, vừa “tiết kiệm” tối đa thuế (GTGT, TNDN, thuế
nhập khẩu hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt nếu hàng nhập khẩu là hàng xa xỉ) phải đóng
--
vào NSNN, vừa kiếm lợi từ thuế vì khi mua, khách hàng đã phải trả tiền cho các
loại thuế trên, vừa khẳng định được hình ảnh thương hiệu qua hệ thống chuỗi cửa
hàng của mình. Đây cũng là một kiểu “lách”, lợi dụng sự thiếu chặt chẽ trong các
quy định của pháp luật, gây thiệt hại không nhỏ đến việc thu NSNN.
Chương 4 CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM
3.3. Nhóm giải pháp chung
3.3.1. Tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về thuế
Trong luật thuế GTGT:
Để đảm bảo thuế GTGT là thuế tiêu dùng đánh trên bình diện rộng, có
tính liên hoàn và trung lập kinh tế cao, luật thuế GTGT cần mạnh dạn thu hẹp diện
miễn trừ thuế GTGT theo đó các đối tượng trước đây đang thuộc diện không chịu
thuế GTGT sẽ đưa vào diện chịu thuế.
Cần giảm số lượng mức thuế suất theo hướng chỉ còn mức 0% và 10%.
Hiện tại nước ta đang áp dụng thuế GTGT với 3 mức thuế suất là 0%,5% và 10%,
thứ nhất sẽ gây khó khăn cho việc quản lý thuế trong việc áp dụng mức thuế 5% hay
10% vì chỉ cần một thay đổi nhỏ là có thể chuyển từ mức 10% xuống mức 5%, do
vậy cơ chế với một mức thuế suất (trừ mức 0%) sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong
công tác quản lý, thu thuế, góp phần làm giảm chi phí hành thu. Ngoài ra nếu đã
đánh thuế thì nên áp dụng thuế như nhau đối với các hàng hóa đảm bảo tính trung
lập của thuế GTGT và do đó không bóp méo hành vi và quyết định của người tiêu
dùng.
Tuy nhiên khi thực hiện biện pháp này nếu áp dụng ngay thuế suất 10% có
thể gây nên khó khăn ban đầu vì vậy có thể áp dụng mức thuế suất 5% trong vài
năm đầu.
Đối tượng chịu thuế GTGT được quy định trong luật là “hàng hóa,
dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu
thuế GTGT” thì sẽ không xác định được thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT vì
--
vậy cần phải nghiên cứu và chỉnh sửa cho hợp lý, ví dụ ” đối tượng chịu thuế GTGT
là các hoạt động chuyển giao hàng hóa,dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và
tiêu dùng ở Việt Nam”.
Trong luật thuế GTGT mới thời điểm tính thuế là thời điểm chuyển
giao quyền sở hữu, sử dụng hàng hóa hay hoàn thành dịch vụ là không bao quát vì
căn cứ nào để xác định là đã chuyển giao hay bên nhận hàng hóa đã nhận do vậy
theo em nên giữ nguyên quy định như trong luật cũ là thời điểm tính thuế là thời
điểm chuyển giao quyền sở hữu,sử dụng hay xuất hóa đơn.
Trong luật thuế TNDN:
Về thuế suất: Việc quy định thuế suất như trong luật hiện nay là không
đảm bảo tính cụ thể, tính ổn định của hệ thống pháp luật. Ví dụ trong quy định về
thuế suất đối với các doanh nghiệp tiến hành tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí là
từ 25% đến 50%.Như đã biết thu từ đầu khí là khoản thu lớn trong tổng thu thuế
TNDN nói riêng cũng như trong NSNN nói chung (các khoản thu từ dầu khí chiếm
20% - 25% tổng thu NSNN) Vì vậy việc kiểm soát, điều tiết khoản thu từ dầu khí là
cần thiết việc quy định các mức thuế suất khác nhau là phù hợp tuy nhiên trong luật
lại không quy định cụ thể vì vậy để tạo sự minh bạch, rõ ràng, tránh sự áp dụng một
cách tùy tiện, tạo cơ sở cho việc tính thuế thì luật cần phải xác định rõ tiêu chí cụ
thể làm căn cứ tính thuế.
Về thuế suất ưu đãi: Trong luật quy định “đối với đự án cần đặc biệt
thu hút đầu tư như các dự án có quy mô lớn và công nghệ cao thời gian áp dụng
thuế suất có thể dài hơn 10, 15 năm. Có thểthấy là luật chưa quy định thế nào
là ”cần đặc biệt thu hút đầu tư”, thế nào là “quy mô vốn lớn”…thời hạn cụ thể là
bao lâu, thời hạn tối đa là bao nhiêu năm. Tất cả những quy định không rõ ràng đó
có thểđểcho các doanh nghiệp lợi dụng đểmà trốn, lậu thuế.
Về việc trích lập quỹ đầu tư khoa học và công nghệ của doanh nghiệp
vẫn còn hạn chế.Theo luật nếu doanh nghiệp sử dụng trên 70% quỹ thì không phải
nộp vào NSNN phần thuế TNDN tính trên khoản thu nhập đã trích quỹ và phần lãi.
Đây cũng là một cơ sở để cho doanh nghiệp lợi dụng do vậy để hạn chế tình trạng
--
trốn, lậu thuế bằng cách này thì nhà nước nên quy định chỉ khi nào có dự án thì mới
được trích và phải xử phạt thật nặng đối với các trường hợp trích lập quỹ sử dụng
không đúng mục đích.
3.3.2. Tổ chức tốt công tác cán bộ
Tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức cả về công tác
nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt là kỹ năng quản lý, kỹ năng vận động quần chúng.
Bên cạnh đó cần phải cần phải nâng cao ý thức trách nhiêm, niềm tựhào về ngành
nghề…qua đó có thể phát huy cao nhất hiệu quả công tác thu thuế.
Mở rộng giao lưu với các quốc gia có chính sách thuế tiên tiến, cách thức tổ
chức, quản lý hiện đại để học tập kinh nghiệm nhất là kinh nghiệm trong công tác
chống thất thu thuế, đặc biệt là hai sắc thuế GTGT và TNDN.
Tuyển chọn những cán bộ có trình độ, đáp ứng được yêu cầu công việc thông
qua tổ chức thi tuyển rộng rãi trên cả nước, thông báo công khai các đợt thi tuyển
trên các phương tiên thông tin đại chúng…
Bố trí cán bộ một cách hợp lý,đúng người, đúng việc.
Cần có sự khen thưởng kịp thời những cán bộ gương mẫu, có thành tích tốt
trong công tác, kiên quyết xử lý và kỷ luật nghiêm minh những cán bộ thoái hóa,
biến chất có hành vi cấu kết với người nộp thuế để trốn, lậu thuế.
Phát động các phong trào thi đua, các hội thi để tạo ra không khí làm việc
tích cực, nâng cao hiệu quả làm việc. Cũng phải thấy rằng khi thực hiện biện pháp
này nếu công tác thi đua khen thưởng hàng năm cứ xét theo các tiêu chí thông
thường thì vô hình chung mọi danh hiệu thi đua đều thuộc về các cán bộ giữ vị trí
lãnh đạo. Điều này không chỉ làm giảm ý chí phấn đấu của tập thể mà còn có thể
dẫn đến sự mất đoàn kết trong nội bộ chi cục, do vậy nên có một cơ chế khen
thưởng trong đó bắt buộc phải có ít nhất 30% đối tượng khen thưởng là các cán bộ
không giữ chức vụ nếu không sẽ không xét thi đua của đội, phòng.
3.3.3. Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có liên quan
Phối hợp với sở kế hoạch và đầu tư để tiến hành rà soát lại các doanh nghiệp
đảm bảo các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh phải đăng ký mã số thuế theo
--
đúng thời hạn quy định, ngăn chặn kịp thời những hành vi kinh doanh nhưng sau
một thời gian mới đăng ký mã số thuế.
Tăng cường phối hợp với công an kinh tế để phát hiện, ngăn chặn kịp thời và
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế như buôn bán hóa đơn bất hợp
pháp, hoàn khống thuế… Ngoài ra cơ quan công an cũng cần phải khẩn trương điều
tra làm rã những vụ mà cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ sang đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp bỏ trốn. Với các doanh nghiệp lập hồ sơ khống để hoàn thuế với số
tiền lớn cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự và phạt thật nặng.
Phối hợp với các ngân hàng trong việc thu thuế qua ngân hàng.
3.3.4. Hình thành và tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ làm thủ tục
thuế phát triển
Tuyên truyền cho mọi công dân, mọi tổ chức thấy được đóng thuế là quyền
lợi và nghĩa vụ của mình.
Nâng cao năng lực của cơ quan thuế, giáo dục tư tưởng cho các cán bộ thuế.
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các tổ chức, cá nhân trong xã
hội nhằm phát hiện những gian lận.
Ngoài ra tránh tình trạng doanh nghiệp làm dịch vụ thu lãi đến khi có vấn đề
như cầm tiền thuế của các doanh nghiệp đi nộp nhưng nếu họ không nộp và cầm
tiền đó bỏ trốn thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả cơ quan thuế cũng như doanh
nghiệp, vì vậy khi các doanh nghiệp làm dịch vụ thuế thì cần phải quy định có một
số tiền ký quỹ tại ngân hàng để đảm bảo.
Xử phạt thật nặng đối với các doanh nghiệp làm đại lý khi họ cố tình vi
phạm. Ngoài việc truy thu và phạt tiền nếu số tiền trốn thuế lớn có thể sẽ truy cứu
trách nhiệm hình sự.
3.3.5. Xây dựng kế hoạch thu thuế hàng năm hợp lý
Hàng năm nhà nước phải tiến hành tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch
thu thuế, việc xây dựng kế hoạch thu thuế có ảnh hưởng lớn đến công tác chống thất
thu thuế vì: Nếu kế hoạch thu giao cho các đơn vị quá thấp thì các đơn vị chỉ cần
làm qua loa, không cần đi sâu vào tìm hiểu thực tế hoạt động của các doanh nghiệp
--
cũng có thể đạt được chỉ tiêu thậm chí vượt chỉ tiêu đề ra. Khi đã vượt chỉ tiêu rồi
thì sẽ dẫn tới làm việc không cẩn thận không kiểm tra kỹ tờ khai khi đó nếu có
doanh nghiệp cố tình hoặc vô tình vi phạm sẽ gây thất thu cho NSNN thì các cán bộ
thuế cũng không thể phát hiện được do vậy tình trạng thất thu sẽ xảy ra. Nếu kế
hoạch thu giao quá cao, không đạt được chỉ tiêu đã đề ra thì sẽ gây nên tâm lý chán
nản vì đằng nào cũng không đạt được thì ít hay nhiều đều như nhau nên có thể họ
quản lý không chặt chẽ các doanh nghiệp.
3.4. Một số giải pháp cụ thể
3.4.1. Tăng cường quản lý người nộp thuế
Đây là khâu đầu tiên quan trọng nhằm đưa các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh vào diện quản lý của cơ quan thuế.
Trong điều kiện hiện nay, nhiều doanh nghiệp trong đó chủ yếu là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện ngày càng nhiều với lĩnh vực kinh doanh ngày
càng đa dạng. Các doanh nghiệp này là đối tượng trực tiếp nộp thuế do vậy quản lý
chặt chẽ các đối tượng này sẽ góp phần không nhỏ trong việc chống thất thu thuế
GTGT và TNDN. Để công tác quản lý người nộp thuế có hiệu quả thì cần phải:
Tiến hành phân loại các doanh nghiệp, xác định cụ thể những doanh nghiệp
chưa thực hiện chếđộ hóa đơn, chứng từ theo quy định để từ đó có các biện pháp tư
vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó cần phải xử phạt nghiêm những
doanh nghiệp cố tình vi phạm chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ.
Tiến hành chuyển dần các doanh nghiệp đang nộp thuế trực tiếp trên GTGT
sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ để đảm bảo đúng bản chất của thuế
GTGT và dễ dàng trong công tác quản lý.
Tăng cường sự phối hợp với sở kế hoạch và đầu tư, chính quyền địa phương
nhằm kiểm tra việc đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp.Tăng
cường quản lý lĩnh vực kinh doanh, hình thức kế toán áp dụng,ngành nghề kinh
doanh, quy mô kinh doanh, địa điểm kinh doanh.Tăng cường quản lý các đơn vị
mới ra kinh doanh, các đơn vị chuyển đi nơi khác, các đơn vị từ nơi khác chuyển
đến, các đơn vị tạm nghỉ kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp chưa đăng ký kinh
--
doanh, chưa có mã số thuế mà đã hoạt động cần phải lập biên bản và có biện pháp
xử lý kịp thời. Bên cạnh đó cầnthường xuyên công bố trên các phương tiện thông
tin đại chúng như báo chí, truyền hình, trang web của bộ tài chính về danh sách
những doanh nghiệp bỏ trốn, những doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, xin cấp
mã số thuế nhưng nhiều tháng không kê khai, nộp thuếmà cơ quan thuế không tìm
thấy. Sau khi công bố đề nghị các cơ quan có liên quan thu hồi giấy phép đăng ký
kinh doanh, thu hồi các hóa đơn đã bán cho các doanh nghiệp này nhưng chưa sử
dụng hết, tránh hiện tượng các doanh nghiệp này sẽmua bán hóa đơn.
3.4.2. Quản lý chặt chẽ căn cứ tính thuế
* Tăng cường quản lý hóa đơn chứng từ.
Hóa đơn, chứng từ là căn cứ quan trọng ảnh hưởng tới việc xác định nghĩa
vụ thuế đối với nhà nước.
Đối với thuế TNDN: Hóa đơn, chứng từ là căn cứ để xác định doanh thu, chi
phí được trừ.
Đối với thuế GTGT: Đặc thù của sắc thuế GTGT là việc khấu trừ và hoàn
thuế mà hiệu quả thực hiện lại phụ thuộc lớn vào công tác quản lý hóa đơn, chứng
từ làm cơ sở xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, số thuế GTGT phải
nộp và số thuế GTGT được hoàn. Nếu công tác quản lý hóa đơn, chứng từ không tốt
sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng mà điển hình là vấn đề trốn, lậu thuế GTGT gây thất
thu cho NSNN.
Do vậy để công tác quản lý hóa đơn, chứng từ có hiệu quả cần:
Thắt chặt công tác quản lý về in ấn, phát hành, sử dụng hóa đơn nhất là hóa
đơn các doanh nghiệp tự phát hành. Đảm bảo chỉ có doanh nghiêp có tiến hành hoạt
động sản xuất, kinh doanh mới được mua hóa đơn. Để thực hiện tốt giải pháp này
đòi hỏi cơ quan thuế phải kiểm tra thật kỹ các doanh nghiệp đến xin mua hóa đơn.
Tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho các doanh nghiệp nhất là các doanh
nghiệp mới thành lập về việc sử dụng hóa đơn, chứng từ và các tài liệu kèm theo.
--
Đối với doanh nghiệp không nộp tờ khai thuế đầy đủ, kịp thời hoặc có tờ
khai nhưng nhiều tháng không phát sinh doanh số thì phải tiến hành kiểm tra tại cơ
sở.
Đối với các doanh nghiệp tạm nghỉ hoặc bỏ kinh doanh phải tiến hành tổ
chức kiểm tra tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ. Trường hợp doanh nghiệpbỏ
trốn, không kinh doanh nữa qua kiểm tra nếu thấy còn hóa đơn chưa sử dụng nhưng
không khai báo và nộp cho cơ quan thuế thì phải tiến hành thu hồi và thông báo
ngay cho các cục, các chi cục thuế khác đồng thời đăng thông tin trên các phương
tiện truyền thông để các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh khác biết nhằm
tránh tình trạng bị lợi dụng.
Phối hợp với các cơ quan có liên quan ngăn chặn việc mua, bán hóa đơn bất
hợp pháp trên thị trường.
Cần khuyến khích các đối tượng tiêu dùng đặc biệt là người dân khi mua
hàng phải lấy hóa đơn, chứng từ. Với tư tưởng của người dân Việt Nam khi mua
hàng để tiêu dùng cá nhân bất kể là mua của đại lý hay doanh nghiệp đều không lấy
hóa đơn là rất phổ biến. Do vậy để khuyến khích việc lấy hóa đơn, nên tổ chức lễ
bốc thăm trúng thưởng theo số trên hóa đơn mà người mua hàng có, hoặc có thể tiến
hành cho đổi một số lượng hóa đơn nhất định lấy một số tiền hay món quà nào đó.
Khi phát hiện doanh nghiệp có hóa đơn mà liên 1 khác liên 2 thì phải lập tức
tiến hành kiểm tra vì các doanh nghiệp này thường là sẽ bỏ trốn nên họ không quan
tâm đến việc hóa đơn đúng hay sai.
Cần có các biện pháp, chế tài nghiêm khắc xử lý các hành vi mua, bán, sử
dụng hóa đơn bất hợp pháp như:
Mọi trường hợp vi phạm về khai báo, sử dụng hóa đơn đều phải bị xử lý
hành chính và tạm thời đình chỉ việc bán hóa đơn cho doanh nghiệp và sử dụng hóa
đơn của doanh nghiệp. Chỉ sau khi doanh nghiệp có biện pháp chấn chỉnh và nộp
phạt thì mới tiếp tục cho sử dụng.
--
Nếu hóa đơn mua hàng mà người bán không viết đầy đủ các chỉ tiêu mà
người mua vẫn chấp nhận thì ngoài việc không cho khấu trừ thuế người mua còn bị
phạt hành chính vì sử dụng hóa đơn không đúng quy định.
Cần nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào việc sử dụng, đối chiếu
hóa đơn.
* Tăng cường kiểm tra doanh thu.
Doanh thu là căn cứ quan trọng ảnh hưởng tới việc xác định số thuế phải nộp
của doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế các doanh nghiệp thường kê khai doanh thu
không đúng với tình hình thực tế sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, các doanh
nghiệp thường tìm cách để làm giảm doanh thu nhằm trốn,lậu thuế. Do vậy một
trong những cách để hạn chế tình trạng thất thu thuế doanh nghiệp là kiểm tra chặt
chẽ doanh thu để xác định doanh thu tính thuế của doanh nghiệp.
Để công tác quản lý xác định doanh thu có hiệu quả thì cơ quan thuế cần:
Quản lý chặt chẽ hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào dùng cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh liên quan tới doanh thu kỳ đang tính. Cần kiểm tra số lượng hàng
hóa, vật liệu mua vào, đối chiếu với hàng tồn kho, định mức tiêu hao để xác định
chính xác số lượng sản phẩm, hàng hóa sản xuất, tiêu thụ trong kỳ cũng như nguyên
liệu đã dùngđể sản xuất các hàng hóa, dịch vụđó.
Tăng cường kiểm tra, đối chiếu số liệu trên hồ sơ khai thuế với các loại sổ
sách như sổ nhật ký bán hàng, các loại sổ chi tiết…
Bên cạnh đó cũng cần đối chiếu với doanh thu của các kỳ trước đó để xem có
sự biến động về doanh thu không. Nếu doanh thu biến động lớn trong khi các khoản
chi phí cũng như quy mô không đổi thì cần phải chú ý kiểm tra ngay.
* Tăng cường kiểm tra các khoản chi phí được trừ.
Cùng với doanh thu chi phí được trừ là bộ phận quan trọng trong việc xác
định thuế TNDN phải nộp của doanh nghiệp do vậy các doanh nghiệp cùng với việc
tìm cách khai giảm doanh thu là khai tăng các khoản chi phí được trừ. Chính vì vậy
cùng với việc kiểm tra doanh thu cần phải tiến hành kiểm tra các khoản chi phí
được trừ. Để công tác kiểm tra này đạt kết quả tốt thì cơ quan thuế cần phải:
--
Xem xét tình hình kế toán của đơn vị như: hình thức kế toán, phương pháp
kế toán… để có thể xác định các định khoản, nếu doanh nghiệp có vi phạm thì có
thể phát hiện được. Muốn thực hiện tốt được thì đòi hỏi cán bộ thuế phải am hiểu
vềkế toán, về cách thức hạch toán chi phí.
Khi kiểm tra nếu thấy có các khoản chi phí mà có sự đột biến thì cần phải
chú ý quan tâm xem xét vì khi doanh nghiệp đã ổn định sản xuất, ổn định thị trường
thì các khoản chi phí này rất ít biến động mà nếu có thì biến động rất ít.
Nếu phát hiện phát sinh một số khoản chi mà năm trước không có thì cũng
cần phải quan tâm. Thông thường chỉ khi doanh nghiệp mở rộng thị trường, chuyển
đổi lĩnh vực đầu tư thì mới có khả năng xuất hiện các khoản chi mới hoặc các khoản
chi trước kia doanh nghiệp giấu đi đến nay bị phát hiện.
Chỉ có khoản chi nào có đầy đủ hóa đơn, chứng từ có hạch toán vào sổ sách,
có liên quan đến doanh thu trong kỳ tính thuế thì mới cho hạch toán vào các khoản
chi phí được trừ khi xác định thuế. Ngoài ra những khoản chi mặc dù có đầy đủ
chứng từ theo quy định nhưng cũng không cho khấu trừ như tài sản cố định đã khấu
hao hết, tiền thưởng cho người lao động nhưng không có trong hợp đồng.
3.4.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
* Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp nhất là các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh cả về lĩnh vực kinh doanh cũng như số lượng, bên cạnh đó
nhu cầu cuộc sống đòi hỏi ngày càng cao do đó tình trạng các doanh nghiệp móc
ngoặc với cán bộ thuế để làm giảm số thuế phải nộp không phải là không có. Nếu
xảy ra tình trạng này thì số thuế thất thu sẽ rất lớn vì số thuế mà doanh nghiệp trốn
được là lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ trả cho cán bộ có sự thông đồng mà nếu
được lợi ít thì cán bộ thuế sẽ không làm. Vì vậy, cần phải tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra nội bộ ngành thuế. Để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ
ngành có hiệu quả cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Cần phải nghiên cứu việc điều chuyển luân phiên cán bộ cho phù hợp với
thực tế nhằm hạn chế mức thấp nhất tình trạng móc ngoặc giữa cán bộ thuế với
--
người nộp thuế. Cần phải nghiên cứu thời gian làm việc để điều chuyển cho phù
hợp, nếu thời gian làm việc của cán bộ tại địa bàn quá dài thì sẽ tạo điều kiện cho sự
thông đồng giữa cán bộ thuế và doanh nghiệp nhưng nếu thời gian làm việc qúa
ngắn cán bộ thuế chưa nắm bắt hết hoặc mới nắm bắt được tình hình kinh doanh
trên địa bàn mình quản lý mà đã phải chuyển đi nơi khác thì sẽ làm giảm hiệu quả
làm việc. Do vậy theo em thời gian làm việc của cán bộ tại địa bàn là 5 năm sau đó
sẽ thực hiện luân chuyển.
Ngoài ra để có thể kiểm tra, giám sát cán bộ, lãnh đạo chi cục nên cho mua
một số máy ghi âm loại siêu nhỏ và công bố sẽ nhờ bất cứ doanh nghiệp nào đến
làm việc trực tiếp ghi âm những trao đổi của cán bộ thuế với doanh nghiệp, phát
hiện có dấu hiệu của gây nhũng nhiễu hay tiếp tay cho doanh nghiệp sẽ lập tức xử
phạt thật nặng như không tăng lương trong một thời gian, chuyển sang bộ phận
khác hay cho thôi việc. Tuy nhiên do vấn đề này rất tế nhị nếu doanh nghiệp không
muốn thì lãnh đạo chi cục có thể tuyển một số cộng tác viên,đóng vai trò là người
nộp thuế đểthực hiện việc ghi âm.
* Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra không những nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế đảm bảo cho luật thuế được thực hiện
nghiêm mà còn góp phần tăng thu cho NSNN, nâng cao ý thức, trách nhiệm của
người nộp thuế. Để công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế có hiệu quả cần phải:
Tăng cường kiểm tra trên địa bàn cũng như từng loại hình, từng lĩnh vực xem
có bao nhiêu hoạt động sản xuất, kinh doanh, số doanh nghiệp đã đăng ký và chưa
đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế.
Tiến hành đẩy mạnh công tác kiểm tra các doanh nghiệp đã từng trốn thuế,
các doanh nghiệp nghi ngờ có dấu hiệu vi phạm, vì khi đó cơ quan thuế không phải
dàn trải tiến hành kiểm tra tất cả các doanh nghiệp do vậy sẽ tiếc kiệm được thời
gian và chi phí cho công tác kiểm tra, cơ quan thuế có điều kiện tập chung vào các
doanh nghiệp có nghi ngờ khi đó hiệu quả kiểm tra sẽ cao.
Để tiến hành có hiệu quả đòi hỏi:
--
Chuyển từ thanh tra, kiểm tra toàn diện sang thanh tra, kiểm tra theo
chuyên đề và nội dung vi phạm.
Phải lưu trữ thông tin có liên quan đến doanh nghiệp như: lịch sử chấp
hành pháp luật của doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp….
Phải có hệthống phân tích và dự báo rủi ro.
Lập danh sách các doanh nghiệp hay nộp chậm tờ khai, doanh nghiệp hay
có sai sót, doanh nghiệp đã bị kiểm tra và có phát hiện vi phạm…
Định kỳ phải có sự đối chiếu sổ sách, chứng từ của các doanh nghiệp này.
Khi doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh trong vài năm có thể rút doanh nghiệp ra
khỏi danh sách này để có thể khuyến khích doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ
thuế của mình.
Khi thực hiện giải pháp này có thể bỏ sót những doanh nghiệp mới hoặc các
doanh nghiệp trước đây không vi phạm nhưng giờ lại có hành vi trốn thuế do vậy
đối với các doanh nghiệp này vẫn cần phải kiểm tra nhưng với tần suất nhỏ hơn.
Để công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành nhanh chóng, kịp thời nâng
cao hiệu quả trong việc chống thất thu thuế thì nhà nước nên bổ sung chức năng
điều tra hình sự về thuế cho cơ quan thuế vì:
Chỉ cơ quan thuế mới có đủ khả năng chuyên môn, nghiệp vụ về thuế để
điều tra các vi phạm về thuế, khi đó hiệu quả điều tra sẽ cao.
Việc chuyển giao cho cơ quan thuế chức năng điều tra đối với người nộp
thuế sẽ đảm bảo không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc điều tra gian lận của người nộp thuế.
Để cho các giải pháp trên được hiệu quả đòi hỏi cần phải đào tạo đội ngũ cán
bộ thuế có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chấtđạo đức tốt.
3.5. Xử lý nhanh, gọn các khoản nợ thuế
Các khoản nợ thuế của các doanh nghiêp là khoản tiền mà doanh nghiệp tạm
thời chiếm dụng của nhà nước. Khi các khoản nợ thuế này nhiều, kéo dài thì nhà
nước sẽ không có đủ ngân sách để chi tiêu thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, mặt
--
khác nếu không thu hồi các khoản này nhanh chóng thì sẽ tạo ra tâm lý coi thường
của các doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt biện pháp này đòi hỏi:
Tổ chức các buổi tập huấn, tuyên truyền cho doanh nghiệp được biết về các
sai sót thường gặp trong việc nộp thuế cũng như các biện pháp mà cơ quan thuế sẽ
áp dụng nếu doanh nghiệp không nộp thuế.
Cơ quan thuế nhanh chóng phân tích các khoản nợ thuế theo nội dung nợ,
thời gian nợ, phân tích các nguyên nhân chưa thu hồi được nợ, loại bỏ các khoản nợ
khống, nợ ảo không có thực.
Kết hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan để tiến hành điều tra, xác
minh các khoản nợ, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để từ đó có các biện
pháp cần thiết để thu hồi nợ.
Cho phép người nợ thuế thỏa thuận chậm nộp thuế hoặc nộp dần khoản nợ
thuế còn thiếu theo cam kết với cơ quan thuế.
Hiện tại mức phạt nộp chậm thuế còn thấp cho nên cần nâng mức phạt này
nên cao hơn đểcó tính răn đe.
Thu hồi và đình chỉ sử dụng hóa đơn, tiến hành kê biên tài sản đối với các
doanh nghiệp cố tình chây ỳ.
Để thực hiện tốt các biện pháp trên phải đào tạo lại cán bộ thuế để cán bộ
thuế có thể đánh giá, phân tích tình hình nợ thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra tổng
cục thuế cần phải hỗ trợ phần mềm để phân loại, phân tích các khoản nợ thuế.
Công tác chống thất thu thuế nói chung và chống thất thu thuế GTGT và
TNDN nói riêng là một nhiệm vụ phức tạp và nhiều khó khăn. Do vậy để công tác
chống thất thu thuế GTGT và TNDN đạt hiệu quả cao không thể chỉ áp dụng riêng
rẽ một biện pháp nào mà đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ các biện pháp trên có
như vậy thì công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN mới có hiệu quả cao nhất.