26
Đề bài : Phân tích thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010. Chỉ rõ những điểm mới về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG I. Khái quát về trọng tài thương mại I.1. Khái niệm trọng tài thương mại I.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại I.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại II. Pháp luật về thẩm quyền trọng tài thương mại theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 II.1. Thẩm quyền và các căn cứ xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại II.2. Pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010 III. Những điểm mới về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. III.1. Thẩm quyền chung của Trọng tài Thương mại.

TM2 - Nhom 2

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TM2 - Nhom 2

Đề bài : Phân tích thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của luật

trọng tài thương mại 2010. Chỉ rõ những điểm mới về thẩm quyền của trọng tài

thương mại theo quy định của luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng

tài thương mại năm 2003.

MỤC LỤC

A. LỜI MỞ ĐẦU

B. NỘI DUNG

I. Khái quát về trọng tài thương mại

I.1. Khái niệm trọng tài thương mại

I.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại

I.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

II. Pháp luật về thẩm quyền trọng tài thương mại theo quy định của Luật trọng tài

thương mại 2010

II.1. Thẩm quyền và các căn cứ xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại

II.2. Pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của Luật trọng tài

thương mại 2010

III. Những điểm mới về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của

luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại năm

2003.

III.1. Thẩm quyền chung của Trọng tài Thương mại.

III.2. Đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.

C. KẾT LUẬN

Page 2: TM2 - Nhom 2

A. LỜI MỞ ĐẦU

Trên thế giới và Việt Nam ta hiện nay tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp

thương mại cơ bản: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Trong đó,

phương thức trọng tài thương mại với những nỗ lực hoàn chỉnh khung pháp lý của nhà

nước đã thực sự có những chuyển biến tích cực, mở rộng phạm vi hoạt động và quyền

hạn của các trung tâm trọng tài.

B. NỘI DUNG

I. Khái quát về trọng tài thương mại

I.1. Khái niệm trọng tài thương mại

Trong khoa học pháp lý, khái niệm Trọng tài thương mại được nghiên cứu ở các góc

độ khác nhau. Vì vậy cũng có nhiều quan điểm khác nhau về Trọng tài thương mại, tuy

nhiên nhìn một cách khái quát nhất, nó thường được hiểu theo 2 nghĩa như sau:

- Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp: tức là theo hướng này,

trọng tài thương mại là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát

sinh trong hoạt động thương mại. Trọng tài được luật pháp các nước thừa nhận là một cơ

quan tài phán độc lập tồn tại song song với Tòa án. Như vậy, cũng như Tòa án, Trọng tài

là một trong những cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt

động kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, bản chất của Trọng tài thương mại hoàn toàn

khác với Tòa án. Trọng tài là một tổ chức xã hội- nghề nghiệp do các trọng tài viên thành

lập nên có chức năng giải quyết các tranh chấp thương mại; không phải là cơ quan do

Nhà nước thành lập nên cũng không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước. Khi xem xét

giải quyết vụ tranh chấp Trọng tài không nhân danh Nhà nước mà dựa trên ý chí tự

nguyện của các bên để ra phán quyết. Các trọng tài viên không do Nhà nước bổ nhiệm do

vậy không hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Trọng tài viên thường là người hoạt

động kiêm nhiệm chủ yếu làm việc trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Khi có tranh

chấp phát sinh từ lĩnh vực chuyên môn mà các trọng tài viên đang hoạt động thì có thể

lựa chọn trọng tài viên đó hoặc do các tổ chức trọng tài đình chỉ định giải quyết.

Page 3: TM2 - Nhom 2

Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài thương mại tồn tại độc lập

song song với Tòa án và có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các đương sự lựa chọn.

Trọng tài hoạt động vì mục đích lợi nhuận, cung cấp dịch vụ xét xử và thu phí từ việc

cung cấp dịch vụ đó. Có thể coi tổ chức Trọng tài thương mại là một chủ thể kinh doanh

tồn tại dưới dạng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ.

- Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp: theo cách hiểu

này thì Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của các

trọng tài viên với tư cách là bên thứ 3 độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng cách đưa ra

một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và là phán quyết có giá

trị chung thẩm. Trọng tài hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải quyết tranh

chấp và đưa ra các phán quyết có tính chất bắt buộc để bảo vệ quyền và lợi ích các bên.

Giải quyết các tranh chấp tại trọng tài, trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ

đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng

tài đó quy định. Kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài là phán quyết do

trọng tài tuyên với các đương sự với vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài vừa kết hợp

với yếu tố thỏa thuận vừa kết hợp với yếu tố tài phán.

Như vậy, trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp hoặc trọng

tài thương mại là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát

sinh trong đời sống xã hội.

Theo Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 thì khái niệm Trọng tài thương mại

được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 như sau: “Trọng tài thương mại là phương thức giải

quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này ”.

Như vậy, pháp luật Việt Nam ghi nhận Trọng tài thương mại với tư cách là một phương

thức giải quyết tranh chấp.

I.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại

Thứ nhất: tôn trọng quyền định đoạt của các bên tranh chấp. Tức là các bên có

quyền tự do lựa chọn một trung tâm trọng tài hoặc tự thành lập một hội đồng trọng tài để

giải quyết tranh chấp đồng thời lựa chọn trọng tài viên cho mình; có quyền thỏa thuận về

địa điểm giải quyết tranh chấp, nếu các bên tranh chấp được giải quyết tại một trung tâm

Page 4: TM2 - Nhom 2

trọng tài mà các bên không thỏa thuận được địa điểm giải quyết tranh chấp thì chủ tịch

trung tâm trọng tài sẽ là người quyết định vấn đề này.

Thứ hai: Trọng tài xử kín. Tại phiên họp có sự tham gia của các bên tranh chấp

hoặc đại diện của các bên. Mục đích của việc xử kín để đảm bảo hoàn toàn bí mật kinh

doanh cũng như uy tín của các bên trên thương trường tránh bị coi là đang theo kiện đồng

thời giữ được mối quan hệ bạn hàng sau khi giải quyết tranh chấp.

Thứ ba: Trọng tài quyết định giải quyết tranh chấp trong giới hạn yêu cầu của các

bên. Quan hệ giữa trọng tài thương mại và các bên được hình thành trên cơ sở hợp đồng

do đó thỏa thuận của các bên được ưu tiên hàng đầu. Tức là, khi các bên có yêu cầu giải

quyết một phần hoặc toàn bộ vụ tranh chấp thì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết

trong phạm vi trong yêu cầu đó mà thôi.

Thứ tư: các bên có quyền tự thương lượng trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh

chấp ở tất cả các giai đoạn của tố tụng Trọng tài.

Thứ năm: trọng tài chỉ giải quyết một lần. Đây là nguyên tắc giải quyết tranh chấp

của trọng tài.

III.3. Vai trò của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài được xem là một hình thức phổ biến

ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đây là hình thức xử lý tranh chấp hợp lý

và hiệu quả nhất, với 3 lý do: Thứ nhất, doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi

phí. Một trong những yếu tố khiến vụ tranh chấp được xử lý nhanh là tính chung thẩm

của quyết định trọng tài, không có kháng cáo và các bên ngay lập tức phải thi hành quyết

định của trọng tài. Thứ hai, việc lựa chọn trọng tài để xử lý sẽ bảo đảm được tính bí mật

của các điều khoản hợp đồng hoặc những vấn đề tranh chấp. Điều này rất thuận lợi cho

doanh nghiệp. Thứ ba, phán quyết trọng tài được thừa nhận ở tầm quốc tế. Điều này

đồng nghĩa với việc các tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì hiệu lực của quyết định trọng

tài sẽ rộng hơn.

Ngoài ra, việc tăng cường của trọng tài thương mại sẽ tạo hiệu quả giảm tải áp lực

giải quyết tranh chấp đối với Tòa án, giảm hiện tượng quá tải, án tồn đọng, đảm bảo hiệu

Page 5: TM2 - Nhom 2

quả giairi quyết tranh chấp. Như vậy, vai trò của trọng tài thương mại trong việc giải

quyết tranh chấp là rất lớn và có nhiều ưu thế.

II. Pháp luật về thẩm quyền trọng tài thương mại theo quy định của Luật trọng tài

thương mại 2010

II.1. Thẩm quyền và các căn cứ xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại

Theo từ điển Tiếng Việt “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một

số vấn đề theo pháp luật”. Như vậy, thẩm quyền là khả năng của chủ thể trong việc xem

xét và giải quyết hay định đoạt công việc nào đó trên cơ sở các chuẩn mực pháp lý định

trước.

Do đó, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại bao gồm hai yếu

tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.

Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi các loại việc trọng tài được quyền

giải quyết. Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết định giải quyết tranh

chấp của trọng tài thương mại. Nếu như tố tụng tòa án áp dụng các nguyên tắc phân định

thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và sự thỏa thuận của bên

nguyên đơn thì thẩm quyền giải quyết của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc nếu được

các bên có vụ việc lựa chọn đích danh. Thẩm quyền của trọng tài thương mại không được

phân định theo lãnh thổ vì thế nên các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất

kỳ tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp của họ, không phụ thuộc vào ở cũng như

nơi trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân được theo cấp xét xử vì chỉ có

một cấp trọng tài và lại càng không phân định theo sự lựa chọn của nguyên dươn vì trọng

tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên đều thống nhất lựa chọn và có

thỏa thuận trọng tài.

Các căn cứ xác định của pháp luật về những loại việc thuộc thẩm quyền của trọng tài

theo Luật trọng tài thương mại 2010 được xây dựng dựa trên hai tiêu chí:

Thứ nhất: các quy định của pháp luật về những loại việc thuộc thẩm quyền của

trọng tài.

Theo đó Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định ba nhóm việc thuộc

phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài như sau:

Page 6: TM2 - Nhom 2

1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng

tài.

Với việc sử dụng phương pháp liệt kê trong quy định về phạm vi loại việc thuộc thẩm

quyền giải quyết của trọng tài thì có thể hiểu trọng tài thì có thể hiểu trọng tài chỉ có thẩm

quyền giải quyết đối với ba nhóm loại việc quy định tại Điều 2 nêu trên.

Nhóm thứ nhất: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. Đối với

nhóm này đòi hỏi các bên tranh chấp đều có hoặt động thương mại với phạm vi khái niệm

“hoạt động thương mại” được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 với

tiêu chí nhận duện là mục đích sinh lợi.

Nhóm thứ hai: tranh chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động

thương mại. Đối với nhóm loại việc này đòi hỏi chỉ cần một bên tranh chấp thực hiện

hoạt động thương mại với mục đích sinh lời còn bên còn lại có thể tham gia quan hệ này

với mục đích khác như sở hữu, tiêu dùng…

Nhóm thứ ba: tranh chấp giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng

trọng tài thương mại. Với nhóm loại việc này thì tiêu chí thực hiện hoạt động thương mại

không còn được đặt ra mà chỉ cần pháp luật chuyên ngành cho phép các bên tham gia

quan hệ pháp luật được lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp thì vụ việc đương

nhiên thuộc thẩm quyền của trọng tài.

Theo phạm vi loại việc quy định tại Điều 2 nêu trên thì trọng tài có chức năng chủ

yếu là giải quyết các tranh chấp trong hoạt động thương mại hay còn được hiểu là tranh

chấp thương mại. Tranh chấp thương mại, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là sự bất đồng,

mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạt

động thương mại. Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh

doanh. Tuy nhiên, tranh chấp trong hoạt động kinh doanh không chỉ có tranh chấp thương

mại mà còn bao gồm nhiều loại tranh chấp khác nhau như tranh chấp dân sự, lao động…

Trong đó tranh chấp thương mại là loại tranh chấp phổ biến nhất, thường xuyên nhất phát

Page 7: TM2 - Nhom 2

sinh trong hoạt động kinh doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau trong lĩnh vực

hoạt động thương mại.

Tuy nhiên, phạm vi các vụ việc tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài thương mại

rộng hay hẹp tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia trong đó khái niệm “thương mại”

có ảnh hưởng rất lớn.

Thứ hai, sự thỏa thuận của các bên trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp bằng

một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực

Thẩm quyền của trọng tài thương mại không phải là thẩm quyền đương nhiên mà

trọng tài khi giải quyết một vụ tranh chấp chỉ có thẩm quyền nếu được các bên lựa chọn

bằng một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Không tồn tại trọng tài có tính bắt buộc. Vì

vậy, ý định sử dụng sử dụng trọng tài phải được hiện thực hóa bằng một thỏa thuận trọng

tài và được đàm phán giữa các bên liên quan. Thông qua thỏa thuận trọng tài, các bên

tranh chấp thống nhất giao cho trọng tài quyền thay mặt họ trọng việc xem xét nội dung

tranh chấp và đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Vì vậy mà

thỏa thuận trọng tài được khẳng định là yếu tố then chốt trong giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài.

Vai trò quan trọng của một thỏa thuận trọng tài được thể hiện ở những phương diện

sau:

Thứ nhất: trọng tài được xác lập dựa trên ý chí tự nguyện và bình đẳng của chính các

bên nên một khi xác lập thỏa thuận trọng tài thì không bên nào được thoái thác việc tranh

chấp trọng tài.

Thứ hai: một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực cho phép khẳng định tòa án không có

thẩm quyền đối với việc giải quyết tranh chấp giữa các bên đã có thỏa thuận trọng tài.

Thứ ba: thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.

Bằng thỏa thuận trọng tài, các bên ký kết trao cho Hội đồng trọng tài quyền giải quyết

tranh chấp xảy ra giữa các bên.

Thứ tư: thỏa thuận trọng tài cho phép lựa chọn nơi tiến hành tố tụng trọng tài, luật áp

dụng và ngôn ngữ trọng tài trong những điều kiện phù hợp nhất. Tuy nhiện, một thỏa

thuận trọng tài chỉ giá trị pháp lí nếu đáp ứng được các yêu cầu về nội dung và hình thức.

Page 8: TM2 - Nhom 2

Tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu

trong các trường hợp như sau:

“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.

2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự.

4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này.

5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.

6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”

2.2. Pháp luật về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của Luật

trọng tài thương mại 2010

* Thẩm quyền chung của Trọng tài thương mại

Theo Khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 quy định “Hoạt động

thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng

dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.

Theo Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định ba nhóm việc thuộc

phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài như sau:

“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.

3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng

tài.”

Hiện nay, với hai quy định như hai điều luật Điều 3 Luật thương mại 2005 và Điều 2

Luật Trọng tài thương mại 2010 thì khái niệm “hoạt động thương mại” được hiểu thống

nhất với nhau, từ đó dẫn đến sự thống nhất trong cách xác định phạm vi thẩm quyền của

trọng tài. Mặt khác, phạm vi thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài thương

Page 9: TM2 - Nhom 2

mại Việt Nam cũng được mở rộng hơn nhiều so với các quy định cũ (các quy định trong

Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003)

Như vậy, theo Luật Trọng tài thương mại 2010, không chỉ có tranh chấp giữa các

bên cùng thực hiện hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi mà các bên tranh chấp

giữa một bên có hoạt động thương mại (bên kinh doanh) với người khác (không có hoạt

động kinh doanh) và những tranh chấp khác mà pháp luật trong tương lai có thể quy định

đều có thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thương mại. Các tranh chấp này có thể là các

tranh chấp liên quan tới quan hệ lao động, sở hữu trí tuệ hoặc các tranh chấp về bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng…

Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng được lựa chọn phương thức giải quyết

bằng Trọng tài thương mại hoặc Tòa án, tại Điều 17 Luật Trọng tài thương mại 2010

quy định về quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng: “Đối

với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều

khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch

vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa

chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ

chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”. Thực tế,

khi giải quyết tranh chấp giữa người cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng thì

việc đưa ra giải quyết bằng trọng tài thương mại có thể gây bắt lợi cho người tiêu dùng

vì bản thân họ rất khó khăn khi phải chứng minh lỗi của những nhà cung cấp hàng hóa,

dịch vụ. Mặt khác, thông thường người tiêu dùng bị đặc ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị

lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc

người cung cấp dịch vụ, do vậy mà việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

có thể chỉ là ý muốn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ.

*Đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài

Tại Điều 758 Bộ Luật Dân sự 2005 quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước

ngoài như sau “Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự ít nhất một trong

các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở

nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công nhân, tổ chức Việt

Page 10: TM2 - Nhom 2

Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài,

phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”

Tại Khoản 4 Điều 3 Luật Thương mại 2010 quy định “ Tranh chấp có yếu tố nước

ngoài là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu

tố nước ngoài được quy định tại Bộ luật dân sự”

Như vậy, với quy định như vậy, Luật thương mại đã khắc phục việc phân định không

rõ ràng phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở

đó đảm bảo sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật dân sự, Bộ

luật Tố tụng dân sự, Luật Thư,ơng mại, Luật Đầu tư với các luật chuyên ngành khác như

Luật Trọng tài thương mại. Luật Trọng tài thương mại 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm

quyền của trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên

so với Pháp lệnh trọng tài năm 2003.

III. Những điểm mới về thẩm quyền của trọng tài thương mại theo quy định của

luật trọng tài thương mại 2010 so với pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.

Bước tiến lớn và quan trọng nhất Luật Trọng tài thương mại đã làm được là phân

định rõ ràng phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thương mại đảm

bảo sự tương thích với các luật hiện hành như Luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật

Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành liên quan khác; dỡ bỏ hạn chế của

Pháp lệnh 2003 thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài tới nhiều loại

tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên.

Tiếp đến, luật đã đưa ra các qui định khắc phục hạn chế của Pháp lệnh 2003 trong

việc ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc không có cơ

quan nào giải quyết tranh chấp; bảo vệ người tiêu dùng trước những nguy cơ bị lạm dụng

các điều kiện và điều khoản trong các hợp đồng in sẵn do người bán hàng cung cấp; phát

triển đội ngũ trọng tài viên Việt Nam có đủ năng lực, uy tín, trình độ đáp ứng yêu cầu hội

nhập; nâng cao vị thế trọng tài Việt Nam; hạn chế nguy cơ phán quyết trọng tài bị tòa án

tuyên hủy; ngăn chặn các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài; tạo điều kiện cho trọng

tài hoạt động hiệu quả…

III.1. Thẩm quyền chung của Trọng tài Thương mại.

Page 11: TM2 - Nhom 2

Thẩm quyền của Trọng tài là một vấn đề rất được quan tâm bởi nó xác định các loại

tranh chấp mà Trọng tài có quyền giải quyết, và vấn đề xem xét thẩm quyền của trọng tài

là mở đầu của mọi quá trình giải quyết tranh chấp tại Trọng tài. Một quy định có thể coi

là bước tiến dài của Luật Trọng tài thương mại đó là việc mở rộng thẩm quyền của trong

tài.

Nếu như Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 trong quy định về thẩm quyền

giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại bị giới hạn là các tranh chấp phát sinh

trong hoạt động thương mại giữa các bên là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh

với nhau và văn bản này còn đưa ra khái niệm về “hoạt động thương mại” khác với Luật

Thương mại năm 2005. Khoản 3 Điều 2, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003

quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại

của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân

phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ

thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển

hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các

hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Trong khi đó, Khoản 1 Điều 3

Luật Thương mại quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh

lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các

hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”.

Với cách quy định liệt kê của Pháp lệnh trọng tài thương mại sẽ dễ dàng trong việc

nhìn ra những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài nhưng sẽ không dự

liệu được hết các trường hợp tranh chấp có thể xảy ra trong thực tế, và đôi khi còn dẫn

đến tranh cãi đối với một số hoạt động thương mại không được hướng dẫn cụ thể. Ví dụ

như tranh chấp liên quan đến góp vốn, mua bán cổ phiếu, liên quan đến thành lập doanh

nghiệp có được coi là tranh chấp thương mại và thuộc phạm vi giải quyết của trọng tài

thương mại hay không ? Từ đó dẫn đến tình trạng không thống nhất trong cách xác định

phạm vi thẩm quyền của trọng tài, gây khó khăn cho các trung tâm trong quá trình thụ lý

và giải quyết tranh chấp cũng như hạn chế quyền tự do định đoạt của các bên đối với việc

giải quyết tranh chấp của họ.

Page 12: TM2 - Nhom 2

Hiện nay, với quy định của Luật Trọng tài năm 2010, khái niệm hoạt động thương

mại đã được hiểu một cách thống nhất theo nội hàm khái niệm của Luật Thương mại năm

2005. Phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại Việt Nam cũng được mở rộng hơn

nhiều so với quy định cũ. Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về thẩm

quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại như sau:

“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương

mại.

3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng

Trọng tài.”

Như vậy, Theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010 không chỉ có tranh chấp giữa

các bên cùng thực hiện hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi mà các tranh chấp

giữa một bên có hoạt động thương mại (bên kinh doanh) với người khác (không có hoạt

động kinh doanh) và những tranh chấp khác mà pháp luật trong tương lai có thể quy định

đều có thể thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thương mại. Các tranh chấp này có thể là

các tranh chấp liên quan đến quan hệ lao động, sở hữu trí tuệ…Trong khi đó theo Pháp

lệnh trọng tài thương mại 2003 thì chỉ có cá nhân tổ chức kinh doanh mới có quyền lựa

chọn Trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp. Điều 2 Nghị định 25/ 2004/NĐ-CP

nêu rõ: “Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt

động thương mại quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá

nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”.

Thực tiễn áp dụng cho thấy, việc giới hạn phạm vi chủ thể tranh chấp chỉ bao gồm:

“tổ chức kinh doanh” và “cá nhân kinh doanh” khiến các bên tranh chấp và các trung

tâm trọng tài gặp nhiều khó khăn vướng mắc.

Thứ nhất, về chủ thể là “cá nhân kinh doanh”, đây là chủ thể gây nhiều tranh cãi

bởi vì Pháp lệnh cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành không xác định rõ thế nào là

cá nhân kinh doanh.

Thứ hai, về chủ thể là “tổ chức kinh doanh”. Tổ chức kinh doanh theo quy định của

pháp luật là các doanh nghiệp, hợp tác xã nhưng trên thực tế có nhiều tổ chức không đăng

Page 13: TM2 - Nhom 2

kí kinh doanh, không thực hiện hoạt động kinh doanh như ban quản lý dự án, cơ quan

hành chính sự nghiệp tham gia đấu thầu hoặc giao kết các hợp đồng…Khi phát sinh tranh

chấp các trung tâm trọng tài của Việt Nam phải từ chối giải quyết vì các chủ thể này

không phải là tổ chức kinh doanh.

Mặt khác, Pháp lệnh trọng tài 2003 chưa làm rõ tranh chấp ngoài hợp đồng có

thuộc thẩm quyền của Trọng tài hay không. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc

xác định thẩm quyền của Trọng tài cũng như việc thi hành quyết định trọng tài. Theo

Khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh thì “thỏa thuận trong trọng tài là thỏa thuận giữa các bên

cam kết giải quyết các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động

thương mại”. quy định này cho phép hiểu những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương

mại có hay không có hợp đồng đều có thể giải quyết bằng trọng tài, nếu các bên thỏa

thuận đưa ra tranh chấp bằng trọng tài.

Việc mở rộng thẩm quyền của Trọng tài theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010

là hợp lý và thực sự cần thiết vì:

Thứ nhất, Trọng tài hoạt động hiệu quả sẽ giúp giảm bớt công việc cho các Tòa án

và góp phần thúc đẩy cơ hội tiếp cận công lý của người dân thông qua các thiết chế tài

phán tư. Một hệ thống trọng tài mạnh và hiệu quả, hoạt động tích cực sẽ góp phần vào cải

cách tư pháp, ổn định cải thiện môi trương kinh doanh.

Thứ hai, nhiều tranh chấp ngoài hợp đồng như đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng

trong lĩnh vực xây dựng, hàng hải, vận tải…cũng có thể giải quyết bằng trọng tài theo ý

chí của các bên liên quan, mặc dù các tranh chấp như vậy hoàn toàn không xuất phát từ

hành vi thương mại của thương nhân theo Luật Thương mại năm 2005.

Thư ba, nhiều cơ quan và tổ chức do Nhà nước thành lập mặc dù không được xem

là các thương nhân như: các ban quản lý các dự án đầu tư công, các cơ quan hành chính

sự nghiệp tham gia đấu thầu hoặc giao kết hợp đồng…vẫn tham gia ngày càng nhiều vào

các giao dịch mang tính dân sự, các tranh chấp giữa các chủ thể này cũng có thể và cần

được giải quyết bằng trọng tài theo ý chí của các bên. Thực tế, các tổ chức tài trợ quốc tế,

các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới…đều khuyến

Page 14: TM2 - Nhom 2

khích các bên tài trợ và nhận tài trợ sử dụng trọng tài để giải quyết các tranh chấp khi kí

kết các hợp đồng tín dụng của họ.

Như vậy việc Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về mở rộng thẩm

quyền của trọng tài thương mại là phù hợp với xu thế chung của pháp luật các nước về

trọng tài, và đồng thời phù hợp với các nguyên tắc quyền tự do định đoạt của các bên .

Quy định này không chỉ làm tăng thêm thẩm quyền cho trọng tài- một trong những yếu tố

khuyến khích sự phát triển của Trọng tài mà bên cạnh đó còn thể hiện sự phù hợp đối với

các quy định mới trong Luật Thương mại năm 2005.

Luật Trọng tài thương mại cũng ý thức được rằng việc đưa ra các quy định trên có

thể bị lạm dụng trong quan hệ tranh chấp giữa một bên cos thế lực tiền bạc, có nhiều ảnh

hưởng với một bên yếu thế đặc biệt là giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ với người tiêu

dùng. Khi đó việc đưa ra giải quyết tại Trọng tài có thể gây bất lợi cho người tiêu dùng vì

bản thân họ rất khó khăn khi phải chứng minh lỗi của nhà cung cấp. Thông thường người

tiêu dùng bị đặt ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều

khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ. Do vậy

mà việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài có thể chỉ là ý muốn của người bán hàng

hoặc người cung cấp dịch vụ. Vì vậy, Điều 17, Luật TTTM năm 2005 quy định: “Đối

với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù

điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá,

dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được

quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa,

dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận”.

Luật TTTM năm 2010 cho phép người tiêu dùng được lựa chọn phương thức giải quyết

tranh chấp bằng Trọng tài hoặc Tòa án để bảo đảm quyền lợi nhỏ bé của họ.

III.2. Đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài

Việc xác định thế nào là tranh chấp có yếu tố nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan

trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập kinh

tế quốc tế. Khoản 4, Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định:

“Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại

Page 15: TM2 - Nhom 2

mà một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn

cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài

sản liên quan đến tranh chấp ở nước ngoài”. Khái niệm này về cơ bản khá toàn diện và

đầy đủ nhưng lại không tương đồng với quy định về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

trong Bộ Luật Dân sự năm 2005. Theo Điều 758 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định: “

Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên

tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài

hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng

căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh

tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.”

Quy định của Pháp lệnh mới chỉ quan tâm đến yếu tố quốc tịch của chủ thể mà

chưa quan tâm đến các yếu tố khác như nơi cư trú, nơi có quan hệ mật thiết nhất với chủ

thể hoặc với hợp đồng. Để đảm bảo tương thích giữa pháp luật thì Khoản 4, Điều 3, Luật

TTTM năm 2010 đã quy định: “Tranh chấp có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát

sinh trong quan hệ thương mại, quan hệ pháp luật khác có yếu tố nước ngoài được quy

định tại Bộ luật dân sự”. Quy định này thể hiện rõ tính hợp lý cũng như sự phù hợp với

quy định của Bộ luật Dân sự.

Như vậy Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã khắc phục những tồn tại của Pháp

lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi

thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự

tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại

và các luật chuyên ngành khác với Luật Trọng tài thương mại. Luật Trọng tài thương mại

2010 đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh trọng tài 2003 về thẩm quyền giải quyết các tranh

chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng

tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên. Đây là một trong

những điểm mới quan trọng nhất của Luật Trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh

Trọng tài thương mại và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước

trên thế giới.

Page 16: TM2 - Nhom 2

C.KẾT LUẬN

Với những quy định của luật trọng tài thương mại năm 2010 đã tạo ra khả năng vô

cùng to lớn cho sự phát triển của trọng tài thương mại ở nước ta, giúp giải quyết

nhanh chóng các tranh chấp thương mại , giảm bớt gánh nặng cho tòa án... Với ý nghĩa

là một bộ phận của thể chế thị trường, Luật Trọng tài thương mại Việt Nam ra đời với

những nội dung cơ bản nêu trên đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh Trọng

tài thương mại 2003, đồng thời đã tiếp nhận những giá trị chung của luật pháp và thông lệ

quốc tế về cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài, tạo cơ sở pháp lý

cho các thương gia, các chủ thể kinh doanh chủ động giải quyết những bất đồng, tranh

chấp trong kinh doanh.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 17: TM2 - Nhom 2

1. Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003

2. Luật Trọng tài thương mại 2010

3. Những vấn đề lí luận và thực tiễn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của

Trọng tài thương mại, Luận văn Thạc sĩ luật học Lê Thị Nhàn, Hà nội 2011

4. Luật Trọng tài thương mại 2010- Bước phát triển mới của Pháp luật trọng tài

thườn mại, Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Hà nội 2011

5. Những điểm mới của Luật Trọng tài thương mại 2010, Khóa luận tốt nghiệp

Trần Bảo Yến, Hà nội 2011

6. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về Trọng tài thương mại

ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp Mai Hồng Nhung, Hà nội 2010

7. Tìm hiểu pháp luật về Trọng tài thương mại ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp

Nguyễn Minh Châu, Hà nội 20111

8. http://www.vietnamplus.vn