Upload
others
View
6
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
1
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
Chúng tôi nhận được bản soft copy “Thanh Tịnh Kinh” là nhờ cô
Ngô Mỹ Hạnh ở Biên Hòa đã bỏ công copy và gửi cho chúng tôi.
Nhận thấy giá trị quý báu của quyển Kinh, chúng tôi phát nguyện
đánh lại vào máy vi tính để có thể đưa lên mạng phân phát cho mọi
người cùng đọc và tìm hiểu.
Vì đánh máy lại nên e rằng không tránh khỏi được những lỗi lầm.
Xin quí vị độc giả niệm tình tha thứ và đồng thời xin chỉ bảo những
chỗ sai lầm để chúng tôi có thể sửa chữa và bổ túc.
Xin chân thành cảm tạ,
Viễn Lưu, Jul/14/2014.
Email: [email protected]
LỜI TỰA
--oOo--
Xưa Hồng Mông phân phán Âm Dương mới phân, khí nhẹ trong
nổi lên làm TRỜI, khí nặng đục lắng xuống làm ĐẤT, còn trong
đục lộn xộn nhau, hiệp lại nhau mà thành NGƯỜI.
Tượng con người bẩm Càn Khôn giao lấy mà thành TÁNH, chịu
khí Âm-Dương giao cảm nhau mà nên hình, nhờ Ngũ-Hành hóa
nuôi, mà năm Tạng, năm Đức, năm Linh do đó mà trọn vậy.
Liệt nơi phẩm TAM-TÀI và linh hơn muôn vật, ở Thế-Gian mà
khó đặng ấy, là thân Người, còn con người mà khó đặng ấy là cái
ĐẠO vậy.
Vả lại con người cùng TRỜI-ĐẤT cũng đồng tài. Mà chẳng đặng
lâu dài như trời-đất là sao vậy?
Đều bởi tại chẳng biết lẽ tiêu trưởng vậy, còn NGƯỜI cùng TIÊN-
PHẬT cũng đồng hình vóc mà chẳng đặng siêu chứng như TIÊN-
PHẬT là tại sao vậy?
Đều bởi chẳng biết cái ĐẠO TIÊN-THIÊN vậy. Nếu chẳng biết
cái lẽ tiêu-trưởng và cái ĐẠO TIÊN-THIÊN, thì cõi Thiên-Đường
bít ngõ, cửa Địa-Ngục mở ra vậy. Đức thái-thượng đạo-tổ thành
đạo trên TRỜI, chứng ngôi thanh-tịnh, ý muốn mỗi người đều
thành ĐẠO, đặng chung hưởng thanh-tịnh, nên mới bày Kinh
THANH-TỊNH, diễn phép trường sanh, lưu truyền trong Thiên-Hạ,
đặng hóa tỉnh nguyên nhơn, kinh này dạy vốn rất dễ dàng, và huyền
diệu, thiệt là một cái bè báu, để độ người và là một cái búa vớt, để
chém những BÀNG-MÔN tả đạo vậy. Như ai mà có thiện duyên
gặp đặng kinh này, mới thiệt là tam sanh hữu hạnh khá tua rửa tai
cũng đọc chín chắn mà soi xét, nếu lúc nào chẳng xem thì phải để
trên THẦN-ĐƯỜNG thì có lục đinh, lục giáp, giữ tìn lại hay trấn
trạch đuổi tà, còn sớm tối trì tụng, thì cũng đặng tiêu tai giải ách, tu
nhơn tích đức, cảm động lòng TRỜI, thì sẽ gặp Minh-Sư, phải hạ
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
2
mình cầu chỉ cái máy mầu nhiệm TIÊN-THIÊN-ĐẠO cả, chiếu-y
theo kinh này mà tu luyện, hễ công quả mà đầy đủ thì sẽ có Đơn
Thơ hạ chiếu, chừng ấy mới cổi xác thăng thiên, ở Đạo NHO thì
thành THÁNH, ở Đạo THÍCH thì thành PHẬT, ở Đạo TIÊN thì
thành TIÊN, tiêu diêu thanh-tịnh muôn kiếp hằng còn, như vậy mới
chẳng uổng một lần đầu thai qua phương đông, cũng chẳng phụ
lòng lành của Đức THÁI-THƯỢNG LÃO-QUÂN độ người vậy.
--oOo--
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
3
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
4
Thái Thượng Thanh Tĩnh Kinh
Lão Quân viết: Đại Đạo vô hình sinh dục Thiên Địa
Đại-đạo vô tình vận hành Nhật Nguyệt
Đại-đạo vô danh trưởng dưỡng vạn vật.
Ngô bất tri kỳ danh, cường danh viết Đạo.
Phù Đạo giả, hữu thanh hữu trược.
Hữu động hữu tĩnh. Thiên thanh Địa trược.
Thiên động Địa tĩnh. Nam thanh Nữ trược.
Nam động Nữ tĩnh, giáng bản lưu mạt.
Nhi sinh vạn vật.
Thanh giả trược chi nguyên. Động giả tĩnh chi cơ.
Nhân năng thường thanh tĩnh.
Thiên Địa tất giai quy.
Phù nhân Thần háo thanh nhi tâm nhiễu chi
Nhân tâm háo tĩnh nhi dục khiên chi.
Thường năng khiển kỳ dục nhi tâm tự tĩnh.
Trừng kỳ tâm nhi Thần tự thanh.
Tự nhiên lục dục bất sinh, tam độc tiêu diệt.
Sở dĩ bất năng giả vi tâm vị trừng.
Dục vi khiển dả, năng khiển chi giã.
Nội quan kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm.
Ngoại quan kỳ hình, hình vô kỳ hình.
Viễn quan kỳ vật, vật vô kỳ vật
Tam giả kỳ ngộ, duy kiến ư không.
Quan không diệc không, không vô sở không
Sở không ký vô, vô vô diệc vô.
Vô vô ký vô.
Trạm nhiên thường tịch, tịch vô sở tịch.
Dục khởi năng sinh, dục ký bất sinh.
Tức thị chân tĩnh, Chân thường ứng vật.
Chân thường đắc tính, thường ứng thường tĩnh.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
5
Thường thanh tĩnh hỹ.
Như thử thanh tĩnh, tiệm nhập chân đạo
Kỳ nhập Chân Đạo, Danh vi đắc Đạo
Tuy danh đắc Đạo, thật vô sở đắc.
Vi hóa chúng sanh, danh vi đắc Đạo.
Năng ngộ chi giả, khả truyền Thánh Đạo.
Lão Quân viết:
Thượng sĩ vô tranh, hạ sĩ háo tranh.
Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức.
Chấp trước chi giã, bất minh đạo đức.
Chúng sanh sở dĩ bất đắc.
Chân Đạo giã vi hữu vọng tâm.
Ký hữu vọng tâm tức kinh kỳ thần.
Ký kinh kỳ thần tức trước vạn vật.
Ký trước vạn vật tức sanh tham cầu.
Ký sinh tham cầu, tức thị phiền não.
Phiền não vọng tưởng ưu khổ thân tâm.
Tiện tao trược nhục, lưu lãng sanh tử.
Thường trầm khổ hải, vĩnh thất Chân Đạo
Chân Thường chi Đạo, ngộ giã tự đắc.
Đắc ngộ Đạo giã, thường thanh tĩnh hỷ.
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN
Thuyết thường THANH-TỊNH Kinh
-Chung-
LỜI BÌNH CỦA CÁC VỊ CHƠN NHƠN --oOo--
ÔNG TIÊN NHƠN CÁC CÔNG nói rằng:
Ta mà đặng Chơn-Đạo là vì ta từng tụng kinh này muôn lần, kinh
này vốn là chỗ tập bực Tiên-Nhơn, chẳng truyền cho kẻ hạ sĩ, xưa
ta trao kinh này nơi ĐÔNG-BA ĐẾ-QUÂN, ĐÔNG-BA ĐẾ-
QUÂN trao đó nơi Kim-Khuyết Đế-Quân, Kim-Khuyết Đế-Quân
trao đó nơi Tây-Vương-Mẫu, từ Tây-Vương-Mẫu đến sau, đều lấy
miệng truyền nhau, chớ chẳng biên văn tự, ta nay biên ra đây mà
lưu truyền nơi Đời, nếu bực Thượng-Sĩ mà hiểu đặng thì thăng làm
bực Thiên Cung, bực trung-sĩ mà tu thăng Nam-Cung Liệt-Tiên,
bực hạ-sĩ mà đặng đó thì sống lâu trên đời, du hành trong Tam-Giáo
thăng vào bực Kim-Môn.
ÔNG TẢ HUYỀN CHƠN NHƠN nói rằng:
Những người học Đạo mà trì tụng kinh này thì có thập thiện
THIÊN-THẦN ủng hộ thân mình, sau rồi Ngọc Phù bảo hộ, Thần
Kim dịch luyện hình, hình THẦN tròn sáng cùng Đạo hiệp chơn.
ÔNG CHÁNH NHỨT CHƠN NHƠN nói rằng:
Như ai mà coi kinh này mà hiểu thấu lý, thì tai chướng chẳng còn,
các THÁNH-THẦN hộ cử, THẦN trông, đặng lên THƯỢNG-GIỚI
chầu lạy bực CAO NHƠN, công đầy đức đủ cảm đến ĐẾ-QUÂN,
tụng trì chẳng thối chí, thì THẦN bay lên TỪ VÂN.
ĐỨC THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN Trước kinh
ÔNG THỦY TINH TỬ giải nghĩa
VÔ CỰC: Phẩm Thứ Nhứt (1):
THÁI-THƯỢNG LÃO-QUÂN viết:
Đại-đạo vô hình sanh dục THIÊN-ĐỊA
Đại-đạo vô tình vận hành NHỰT-NGUYỆT
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
6
Đại-đạo vô danh trưởng dưỡng VẠN-VẬT
Nghĩa là: Ông LÃO QUÂN nói rằng: Đạo cả không hình sanh
dưỡng trời-đất, Đạo cả không tình xoay vần mặt NHỰT mặt
NGUYỆT, Đạo cả không tên hóa nuôi VẠN-VẬT.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng: chữ LÃO QUÂN viết là: LÃO là
cung CÀN khí dương vậy, chữ QUÂN là tánh dương vậy, chữ viết
là nói rằng: vả lại LÃO-QUÂN ra đời chẳng biết gốc ở đời nào. Từ
khi hỗn độn phân chia ra TRỜI-ĐẤT cho đến nay đời nào mà
NGÀI chẳng ra, trước đời TAM-HOÀNG gọi Ngài là VẠN PHÁP
THIỀN SƯ. Giữa đời TAM HOÀNG gọi Ngài là BÀN CỔ
THUẦN DƯƠNG, cuối đời TAM HOÀNG gọi Ngài ông UẤT
HUÊ TỬ, thuở vua HIÊN-VIÊN gọi Ngài là ông QUẢNG THÀNH
TỬ, thiên biến vạn hóa khó kể ra cho xiết, hoặc hóa ra Ông
THÁNH ĐẠO NHO, hoặc hóa ra Ông PHẬT ĐẠO THÍCH, hoặc
hóa ra ông TIÊN, ẩn hiện khó lường cho đặng, hoặc bày kinh CẢM
ỨNG, hoặc trước kinh ĐẠO ĐỨC hoặc bày kinh THANH TỊNH
công đức vô biên.
Câu: ĐẠI ĐẠO VÔ HÌNH ấy là:
Chữ ĐẠI là không ngoài, không vật chi mà lọt ra ngoài đặng vậy,
chữ ĐẠO là đàng chí thiện, chữ VÔ là KHÔNG, không cùng,
không tột, chữ HÌNH là dấu tích. Vả lại Đạo cả ấy là Ngươn khí lúc
Hồng Mông chưa phân nên, nào có hình chất mà thấy được vậy.
Câu: SANH-DỤC THIÊN-ĐỊA ấy là:
Chữ SANH ấy là sanh hóa, chữ DỤC là hàm dưỡng, chữ THIÊN
là Trời, TRỜI là khí Dương, chữ ĐỊA là Đất, ĐẤT là khí Âm, mà
TRỜI ĐẤT do bởi ĐẠO cả mà sanh ra đó vậy.
Mỗi lần gặp TUẤT HỢI, hai khí hội lại là khí hỗn độn, khí hỗn
độn tức là khí VÔ-CỰC vậy, mà VÔ-CỰC là nguồn cội thanh-tịnh
vậy, chờ qua nửa hội TÝ, tịnh cực rồi mới phát động mà sanh khí
dương, khí DƯƠNG nổi lên mà làm TRỜI, ở nơi người là khiếu
HUYỀN QUAN, chờ qua nửa hội SỬU động cực rồi mới tịnh mà
sanh khí ÂM, khí ÂM lóng xuống dưới mà làm ĐẤT, ở nơi người
là khiếu ĐƠN ĐIỀN nên gọi rằng: TRỜI mở hội TÝ, ĐẤT mở hội
SỬU vậy.
Câu: ĐẠI ĐẠO VÔ TÌNH ấy là:
Cái Đạo thuộc khí TIÊN THIÊN, trong không lời, không tiếng,
chữ “Tình” vốn thuộc khí HẬU THIÊN hữu tác, hữu vi, chữ “Vô
Tình” là cái Đạo vô vi vậy.
Câu: VẬN HÀNH NHẬT NGUYỆT ấy là:
Chữ “VẬN” là xoay vần, chữ “HÀNH” là châu lưu, “NHỰT” là
kim ô, chữ “NGUYỆT” là Ngọc thố, mặt NHỰT là Quái Ly, có khi
nóng, khi lạnh, qua lại thay đổi, mặt NGUYỆT thuộc Quái Khảm
nên có khi đầy, khi vơi, khi tròn, khi khuyết, ở nơi người là:
THÁNH NHỰT, THÁNH NGUYỆT hằng soi sáng chốn KIM
ĐÌNH.
Câu: ĐẠI ĐẠO VÔ DANH ấy là:
Chữ “DANH” ấy là danh mục Tiên Thiên Đạo cả, vốn không
hình, không tượng, không trước, không sau, không đầu, không đuôi
nên nào có tên chi.
Câu: TRƯỞNG DƯỠNG VẠN VẬT ấy là:
Chữ “TRƯỞNG” là sanh, chữ “DƯỠNG” là dưỡng dục, chữ VẠN
VẬT là thai, noãn, thấp, hóa, và những loài côn trùng, thảo mộc,
đều nhờ khí TIÊN THIÊN mà sanh ra đó vậy. Người đời mà không
khứng hồi đầu, tìm hỏi cầu bực chí Nhơn, chỉ thị TRỜI-ĐẤT trong
mình mình, NHỰT NGUYỆT trong mình mình, mà trau cái đạo
không hình, không tình, không tên, luyện thuốc tinh báu, khí báu,
thần báu đặng trở lại cung THÁI THANH, THƯỢNG THANH,
NGỌC THANH chứng quả bực THIÊN TIÊN, KIM TIÊN, THẦN
TIÊN, muôn kiếp hằng còn, chỗ tốt đến bực ấy, còn chi vui hơn mà
chẳng làm vậy.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
7
MỘC CÔNG TỔ SƯ đề thi:
Đạo Đức Tiên Thiên diễn diệu huyền,
Kinh cao một bộ để lưu truyền,
Cầu Thầy chỉ rõ đường sanh tử,
Đặng mối gắng tu HỐNG với DIÊN.
Thảy thảy đồng lên đường thanh tịnh,
Người người chung bước Thể Vân Liên,
Trong Cung Vô Cực TRỜI phong tước,
Khoái lạc tiêu diêu tự toại TIÊN.
HỰU
Nhờ đức thiên tôn giải phép mầu,
Bao gồm trời đất vật đâu đâu.
Cầu Thầy chỉ phác đường sanh tử,
Đắc lý cần tu long hổ đầu.
Phật, pháp, tăng, đồng thanh tịnh cảnh,
Khí thần tinh hiệp thể vân lầu.
Nương cung trung đợi trên ban chiếu,
Thế giới ba ngàn một mối thâu.
* * * * *
HOÀNG CỰC: Phẩm Thứ Hai (2):
Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh viết đạo, phù đạo giã, hữu
thanh, hữu trược, hữu động, hữu tịnh, thiên thanh, địa trược,
thiên động, địa tịnh.
Nghĩa là: ta chẳng biết cái tên gắng gượng để tên là “Đạo” vả lại
Đạo ấy có đục, có trong, có động, có tịnh, Trời trong, Đất đục, Trời
động, Đất tịnh.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
8
Ta chẳng biết cái tên ấy là: chữ “TA” là ông THÁI THƯỢNG tự
thán Đạo cả vốn không hình, không tượng, mà định, không tên,
không sắc, mà độ, do bởi gắng gượng để tên là “Đạo” vả lại “Đạo”
tuy nói rằng: gắng gượng mà để tên, nếu lấy nghĩa mà suy ra, thì
thiệt là chẳng phải là gắng gượng vậy. Tại sao vậy? vì Ông
THƯỢNG KIẾT PHU TỬ 1
gầy dựng mà viết ra chữ Đạo, thì trước
hết phải chấm hai chấm (“) chấm bên tả là Thái Dương, chấm bên
hữu là Thái Âm, dường như khí Thái Cực và khí Âm Dương ôm
nhau vậy. Ở nơi TRỜI là Nhựt Nguyệt. Ở dưới đất là Ô-Thố, người
là hai con mắt ở việc tu luyện là hồi quang phản chiếu, kế đó viết
một chữ nhứt (-) ấy là một vòng vô-cực, vòng ấy ở khí TIÊN
THIÊN thuộc cung CÀN (O), kinh Dịch có nói rằng: CÀN là tròn,
khí HỒNG MÔNG phá trời mở ra vậy, vòng gẫy làm thành chữ
nhứt, kinh Dịch nói rằng: cung CÀN là một, kinh THI nói rằng:
TRỜI đặng MỘT thời Thanh, ĐẤT đặng MỘT thời An, NGƯỜI
đặng MỘT thời nên THÁNH. NHO GIÁO nói: Duy tinh duy nhứt
là chỉnh chọn, chỉnh một. 1 Ông Thương Kiết Phu Tử là người làm quan sử đời vua Huỳnh Đế xem dấu
chim mà bày ra chữ nho.
THÍCH GIÁO nói: Vạn pháp duy nhứt, là muôn pháp gồm một.
ĐẠO GIÁO nói: bảo ngươn thủ nhứt là gìn ngươn giữ một. Kế đó
viết một chữ tự ( ) ở dưới, nên chữ ấy là nói: xoay vần tròn khắp
vầng NHỰT NGUYỆT tức thiệt nơi trên thân mình. Đạo Nho nói
rằng: Đạo giã dã bất khả tu du lỵ dã khả ly phi đạo dã, nghĩa là:
đạo chẳng khá lìa mình giây phút, nếu lìa mình là không phải đạo
vậy, trên dưới hiệp lại làm chữ thủ ( ) nơi chữ thủ nghĩa là: buổi
đầu ban sơ, ý nói người hành đạo đứng đầu một việc tốt, kế đó viết
một chữ TẨU. Chữ TẨU nghĩa là: chạy chung quanh mà trong
châu thân, pháp luân tự chuyển, ấy là: cái mầu nhiệm của chữ
ĐẠO, vả lại TÁNH cùng THIÊN-ĐẠO, chẳng khá mà nghe đặng
vậy. Có khi TRỜI trong, có khi ĐẤT đục, có khi DƯƠNG động, có
khi ÂM tịnh.
TRỜI trong là khí thuần DƯƠNG, ĐẤT đục là khí thuần ÂM,
TRỜI động là cung CÀN tròn, ĐẤT tịnh là cung KHÔN vuông.
Trong, đục, động, tịnh ở nơi TRỜI thì hiển tượng nơi mặt NHỰT,
mặt NGUYỆT, ở dưới ĐẤT thì hiển tượng ra mỗi mùa. Xuân, Thu
ở nơi NGƯỜI thì hiển tượng ra nơi bậc THÁNH kẻ phàm.
Mặt NHỰT là khí DƯƠNG, nên hằng tròn, hằng đầy, mặt
NGUYỆT là khí âm, nên có kém có vơi, mùa xuân là khí DƯƠNG,
nên muôn vật phát sanh, mùa thu là khí ÂM, nên muôn vật suy
kém, bực THÁNH là khí DƯƠNG nên cổi xác mà bay lên, người là
khí ÂM, nơi hết số thì thành quỷ. Ấy là lẽ trong, đục, động, tĩnh,
lấy đại khái mà nói đó, chẳng hay trong thế gian, THIỆN NAM TÍN
NỮ biết trong mình trong, đục, động, tịnh chăng? Nếu chẳng biết
thì kíp sớm tu chơn tích đức cho cảm động lòng TRỜI sẽ gặp
MINH SƯ chỉ thị THIÊN ĐẠO trong mình cho THÁNH NHỰT,
THÁNH NGUYỆT soi thấu đến, hầu đem khí trược ÂM mà cho hạ
xuống, còn khí thanh DƯƠNG đem lên trên. Lặng yên chẳng động,
gọi là tịnh, cảm mà bền thông gọi là động thường lấy có lòng dục
mà xem những khiếu là động, thường lấy không lòng dục mà xem
mầu nhiệm trong khiếu là tịnh, hái thuốc là động, đặng thuốc là
tịnh, cửu tiết huyền công, mỗi mỗi đều có trong, đục, động, tịnh.
Phải đợi CHƠN SƯ khẩu truyền tâm thọ, mới khá gắng ghi trong
lòng, thành TIÊN nào có khó thay.
LỮ TỔ thi rằng:
Thanh tịnh kinh mầu thể hằng không,
Thủy Tinh giải nghĩa Lý mới thông.
Phẩm phân hai bốn siêu Tam Giới,
Thế gian quí trọng tợ vàng ròng.
HỰU
Thánh Kinh huyền bí vẫn không lường,
Nhờ Thủy Tinh bày rõ diệu phương.
Hăm bốn phẩm gồm toàn thế giới,
Đạo mầu rực rỡ ánh Kim Cương.
QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN thi rằng:
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
9
Một cuốn vô vi Thanh Tịnh Kinh,
Bàng Môn ngoại Đạo thảy mất hình.
Cải tà qui chánh noi Thiên Lý,
Trường sanh bất tử bởi nơi mình.
HỰU
Vô Vi Thanh Tịnh ướm ra đời,
Tả Đạo trăm ngàn thấy bặt hơi.
Cải dữ về lành là lẽ chánh,
Cho hay còn mất tại tâm người.
THÁI CỰC: Phẩm Thứ Ba (3):
Nam thanh, Nữ trược, Nam động, Nữ tịnh, giáng bổn lưu mạt,
nhi sanh vạn vật: nghĩa là: Trai trong, Gái đục, Trai động, Gái
tịnh, đặt để gốc cội, trải khắp ngọn ngành mà sanh muôn vật.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu Nam thanh, Nữ trược nghĩa là, Trai bẩm CÀN ĐẠO mà thành
vóc nên gọi rằng trong. Gái bẩm KHÔN ĐẠO mà thành hình nên
gọi là đục.
Trai thuộc THÁI DƯƠNG mà trong khí DƯƠNG lại có khí ÂM là
cung LY ( ) chính giữa trống vậy.
Gái thuộc THÁI ÂM mà trong khí ÂM lại có khí DƯƠNG là cung
KHẢM ( ) chính giữa đầy vậy, nên gọi rằng con trai mười sáu (16)
tuổi thanh dương đủ, con gái mười bốn (14) tuổi trược âm xuống,
thanh Dương là nhâm thủy, trược âm là quí thủy, can nhâm là
BẠCH HỔ, can quí là THANH LONG, nên TIÊN GIA người có
cái thủ đoạn, giáng Long, phục Hổ, là cái Thiên Cơ phản bổn hườn
nguyên cho nên sống lâu mà chẳng thác.
Câu: TRAI ĐỘNG GÁI TỊNH ấy là:
TRAI bẩm khí TRỜI mà sanh, GÁI bẩm khí ĐẤT mà thành. Nên
gọi rằng: TRỜI động, ĐẤT tịnh vậy: ấy là luận Trai, Gái, mà chẳng
thuộc thiệt về trai gái đâu, luận khí ÂM, khí DƯƠNG mà thôi vậy.
Câu: GIÁNG BỔN LƯU MẠT NHI SANH VẠN VẬT ấy là:
Giáng là sanh, lưu là thành, bổn là gốc, gốc là trước, mạt là ngọn,
ngọn là sau. Bởi vậy cho nên muôn vật là ngọn của NGƯỜI, còn
NGƯỜI là gốc của muôn Vật, lại NGƯỜI là ngọn của TRỜI ĐẤT,
TRỜI ĐẤT là gốc của muôn NGƯỜI.
Vả lại con người chẳng khá không gốc, mà cũng chẳng khá không
ngọn, gốc ấy là THỂ vậy, ngọn ấy là Dụng vậy. Như vậy thì hai
điều ấy chẳng khá lìa nhau. TRỜI ĐẤT lấy khí thái không làm gốc
mà sanh NGƯỜI, nuôi muôn vật. Người lấy Đạo chí thiện làm gốc
mà sanh châu thân trăm vóc. Bởi Trời chẳng mất gốc cội nên trời đã
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
10
lâu lại dày, nếu người chẳng mất gốc cội, thì người làm PHẬT,
TIÊN và cũng sống lâu dày tày TRỜI ĐẤT vậy.
Vả lại con Người từ xưa đến nay đều có thác, bởi sao chẳng đến
nơi thoát vậy, há chẳng nghe họ Lữ đời Xuân Thu nói rằng: Người
mà đặng một cái khiếu thông thì chẳng thác, cái sống lâu là tại nơi
THẦN.
Kinh Thánh có nói rằng: Vật có gốc ngọn, việc có trước sau, biết
chỗ trước sau thì gần ĐẠO vậy. Trong ĐẠO kinh có nói rằng:
Cái cửa sanh mình nẻo giết mình,
Mấy ai hiểu thấu, mấy ai tin.
Đêm trọn lo lường dường sắt đá,.
Trường sanh bất tử bởi nơi mình.
HỰU
Cái chỗ sanh ta ấy giết ta,
Mấy ai thức tỉnh xét tầm ra.
Đêm thanh canh vắng nên nghiên cứu,
Sống chết đều nơi ý chí mà.
HỠI ƠI! Có một cái khiếu huyền quan mà tên khác nhau rất
nhiều:
ĐẠO NHO: kêu là Linh-Đài, Chí Thiện, Thái Cực nơi Trời không
chỗ đo lường, nơi Đất không chỗ mình biết.
ĐẠO THÍCH: kêu là Linh Sơn, Hư Không, Hoàng Cực, nơi Trời
thì Nam Mô Niết Bàn, Đất thì A Di Đà Phật.
ĐẠO TIÊN: kêu là Linh Quang, Kim Đình, Vô Cực, nơi Trời thì
Tam Thanh, Tử Phủ, nơi Đất thì muôn pháp gồm về một mối. Tam
Giáo tuy kêu tên khác nhau, chỗ có một mà thôi, ở Đạo Nho thông
đặng khiếu ấy thì thành THÁNH, ở Đạo Thích thông đặng khiếu ấy
thì thành PHẬT, Đạo Tiên thông đặng khiếu ấy thì thành TIÊN.
Chính bởi khiếu ấy trên Cao Xanh rất giấu kín nên Tam Giáo
Thánh Nhơn chẳng dám tiết lậu mà viết ra nơi sách, sợ kẻ chẳng
hiền biết thì phải bị TRỜI phạt. Duy có tìm hởi bực Chí Nhơn hạ
mình mà chịu dạy, chỉ bày khiếu ấy.
Thứ lớp công phu, phải Đạo thì tới, chẳng phải Đạo thì lui, nhược
bằng lấy huyệt NÊ HƯỜN, huyệt SONG MÂU, huyệt ẤN
ĐƯỜNG, huyệt NGOAN TÂM, huyệt CHẨN ĐỀ, huyệt Tề Hạ,
huyệt Tề Thượng, huyệt Hạ Đơn Điền, huyệt ở giữa hai trái cật,
huyệt Vĩ Lư, huyệt Giáp Tích, huyệt Ngọc Chẩm dùng mấy cái
huyệt đó mà làm khiếu huyền quan đều thật không nhằm chỗ hành
trì của Đại Đạo vậy.
THƯỢNG ĐẠO CỔ PHẬT thi rằng:
Gái Trai phân biệt đục cùng trong,
Chơn tình gốc ngọn phải rõ thông.
Hữu Vi là động, Vô Vi tịnh,
Đặng gốc thành Tiên mắt khó trông.
Kíp sớm hồi đầu tu CHÍ THIỆN,
Đương cơn còn sống luyện cọp rồng.
Dẫu vàng gia sản ngàn muôn lượng,
Một giấc vô thường cũng tay không.
HỰU
Hình trai vóc gái trược cùng thanh,
Căn cội gầy nên ngọn với ngành.
Sắc phải nương làm, không phải tịnh,
Hư là trái quấy, thật là thành.
Kíp mau trở lại thời sơ phát,
Sớm khá quay về buổi hạ sanh.
Vàng, bạc, tước, quyền đầy đủ mấy,
Vô thường một giấc thấy tan tành
* * * * * * *
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
11
TAM TÀI: Phẩm Thứ Tư (4):
Thanh giả trược chi nguyên, động giả tịnh chi cơ.
Nghĩa là: trong ấy cái nguồn của đục, động ấy là nền của tịnh.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ thanh là nhẹ trong, chữ trược ấy là nặng đục.
Chữ nguyên ấy là nguồn cội ban đầu, chữ tịnh là VÔ VI lặng lẽ,
chữ động là hữu vi thái máy, chữ cơ là nền cội.
Sao gọi trong ấy là nguồn của đục, vì TRỜI là khí trong nổi lên
trên, mà khí trong ấy tại bởi dưới ĐẤT, mà phát sanh, ĐẤT vốn là
khí trược âm, bởi khí âm cực mà sanh khí DƯƠNG, đục, tịnh mà
sanh trong vậy. Trai vốn là gốc thanh tịnh, gái thiệt là thân ô trược,
tuy là gốc thanh tịnh, mà gốc ở thân ô trược mà ra. ĐẠO THƠ nói
lấy Thân làm gốc thanh Dương, mà đầu nguồn của THẦN bởi trược
tinh giao cảm hóa nên Dương tinh, bởi Dương tinh mà sanh khí, bởi
khí mà sanh THẦN, nên gọi rằng: luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa
thần, há chẳng phải trong ấy là cái nguồn cội của đục sao.
Sao gọi động ấy là nền của tịnh? Vì Đất vốn tịnh mà gốc ở nơi chỗ
kết của khí TRỜI. Gái vốn tịnh là gốc ở nơi chỗ sanh. ĐẠO hườn
đơn lấy Đạo Vô Vi làm tịnh, hữu vi làm động là nguyên gốc ở nơi
Đạo hữu vi lập nên, nên gọi rằng động ấy là nền của tịnh vậy.
Khuyên người đời khá hồi tâm tìm Đạo hầu đem trược ÂM trong
mình dẫn xuống dưới lọc lấy khí thanh DƯƠNG nưng lên trên,
đọng kết thành Đơn thì trường sanh chẳng chết, chứa công đức cho
đầy đủ, mà chờ Ơn Trên. Đơn Thơ lai triệu cởi xác về cảnh cũ tiêu
diêu thong thả ngoài muôn loài vạn vật, cùng đem Cha Mẹ sanh
mình đồng lên cõi Thiên Đường chung cõi cực lạc há chẳng vui vẻ
sao? Than ôi! trong đời lại có hạng người, tham, si, mê muội đã
không rõ thấu Tánh Mạng Đạo Lý là gì, mà lại dám cường ngôn
rằng: TIÊN PHẬT đều có phần định, bực phàm phu không thể làm
đặng, chỉ chăm nom một lẽ an phận thủ thường thật là trái lẽ vậy.
Chính lời Thánh Nhơn có nói: Đạo chẳng xa người, người xa Đạo
vậy, ấy cũng bởi người quen tánh tự cao tự khi, mà phải cam chịu
chìm đắm trong biển khổ sông mê đời đời chẳng dứt, đâu có hề suy
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
12
nghĩ đến sự nên đặng hình người, bởi nhờ nơi khí ÂM DƯƠNG,
Ngũ Hành mà sanh làm đầu trong muôn vật. Nếu dụng khí Âm
Dương làm trọn công TRỜI ĐẤT, thì khá dùng đặng chỗ Đạo lớn
trong TRỜI ĐẤT. Vả lại cái Đạo của Trời Đất hiển tượng ra nơi
tiêu trưởng (thêm bớt) nếu tiêu khí Dương mà đầy thêm khí Âm là
cái Đạo của kẻ phàm phu, đến hết khí DƯƠNG còn lại khí thuần
ÂM, nên chết thì thành Quỷ, bằng làm sao đặng tiêu khí ÂM mà
đầy thêm khí DƯƠNG là cái Đạo của bậc Vĩ Nhơn, chờ đến tiêu
hết khí ÂM, còn lại khí thuần DƯƠNG nên cởi xác mà thành TIÊN,
huống gì con người là nửa khí Âm, nửa khí Dương, nửa TIÊN, nửa
QUỶ, bằng đem nửa khí ÂM mà luyện cho tiêu hết thì thành khí
thuần DƯƠNG, khí thuần DƯƠNG ấy là TIÊN vậy nào có khó
thay.
Thầy MẠNH TỬ nói rằng: NGHIÊU THUẤN dữ nhơn đồng
nhỉ, nghĩa là vua NGHIÊU, vua THUẤN cũng đồng như người
vậy. Thầy NHAN TỬ nói rằng: Thuấn hà nhơn dả, dư hà nhơn
dã. Nghĩa là: Vua Thuấn là người thế nào vậy, ta là người thế nào
vậy. Nếu làm được như thế ấy cũng được dường ấy.
Mấy lời ấy nói người người cũng đều làm được bực THÁNH
HIỀN, người người khá làm đặng bực TIÊN PHẬT, chỉ phân biệt
nơi có chí, cùng không có chí vậy thôi, như người có chí chẳng luận
tại gia hay là xuất gia đều tu thân đặng, như ở nhà thì vợ làm bằng
hữu, con thì làm bạn bè, thân tuy ở chốn hồng trần lòng thiệt ra
khỏi hồng trần, ấy là việc tiện nghi biết mấy. Tuy là lời nói dễ dàng
như vậy, nhưng phải xét câu phu phụ hữu biệt, chỉ yếu thành tâm
hóa dục, chớ nên mơ hồ mà phải chịu sai lầm vậy.
LỮ THUẦN DƯƠNG thi rằng:
Xem phá phù sanh sớm tịnh không,
Thái Dương ẩn tại giữa trăng trong.
Người đời tỉnh đặng ÂM DƯƠNG lý,
Mới đoạt Thiên Cơ tạo hóa công.
HỰU
Bỏ thân này giả, ráng tầm chơn,
Ẩn dấu tâm trung vóc chẳng sờn.
Thấu lẽ ÂM DƯƠNG TRỜI ĐẤT đặng,
Huyền cơ diệu hóa thảy tuần hườn.
HÀNG TỔ thi rằng:
Gìn lòng sửa ý hiệp viên phương,
Bóng Nguyệt rõ ràng thấy Thái Dương.
Gạn đục lóng trong đường lên xuống,
Tự nhiên thuốc chín khắp mình hương.
HỰU
Trong bụng đầy lòng chứa Điển Quang,
Âm suy Dương thới lẽ khiêm toàn.
Đâu thanh đâu trược đâu lên xuống,
Hóa đặng Đơn thành mới kịp toan.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
13
ĐẠO TÂM: Phẩm Thứ Năm (5):
Nhơn năng thường thanh tịnh Thiên Địa tất giai quy.
Nghĩa là: Người hay thường thanh tịnh TRỜI ĐẤT thảy đều quy.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Người ấy là thiện nam, tín nữ, hay ấy là rất gắng gượng không
thôi, thường ấy là: trong một ngày 12 giờ, thanh ấy là muôn mối
êm ái, tịnh ấy là một tưởng chẳng sanh. Người hành Đạo cùng hai
chữ thanh tịnh làm gốc, nếu việc chi chẳng phải lễ chớ ngó, thì con
mắt đặng thanh tịnh. Tiếng chi phi lễ chẳng nghe, thì lỗ tai đặng
thanh tịnh, lời chi phi lễ chớ nói, thì miệng được thanh tịnh, điều
phi lễ chớ động thì tâm đặng thanh tịnh.
Câu: THIÊN ĐỊA tất giai quy ấy là:
Gặp đặng Minh Sư chỉ TRỜI ĐẤT trong mình mình, là khí TRỜI
quy về ĐẤT, là Hống gieo Diên, khí ĐẤT quy về TRỜI là Diên
gieo Hống. Thần ở Bắc Hải, nếu dụng công thanh tịnh thì khí TRỜI
trong mình mình về đó, mà khí TRỜI ở ngoài mình cũng theo nữa,
Thần ở Nam San nếu dụng công thanh tịnh, thì khí ĐẤT ở bên
trong mình thảy đều quy về, mà khí ĐẤT ở ngoài mình cũng theo
nữa.
Chỗ nơi TRỜI ở trong mình mình là Đạo Tâm mà thôi, ĐẤT ở
trong mình mình là Bắc Hải mà thôi, vì Đạo Tâm ở khí Tiên Thiên
thuộc cung CÀN, cung CÀN là TRỜI nên dùng Đạo Tâm làm
TRỜI, BẮC HẢI ở khí Tiên Thiên thuộc cung KHÔN, cung KHÔN
là ĐẤT, nên dùng Bắc Hải làm ĐẤT, dùng TRỜI ĐẤT trong mình
mình, mà cảm TRỜI ĐẤT ở ngoài mình, dùng TRỜI ĐẤT ở ngoài
mình mà ứng TRỜI ĐẤT ở trong mình mình, nếu TRỜI ĐẤT ở
trong mình mình có chủ tể thì TRỜI ĐẤT ở ngoài mình mình thảy
đều qui vào trong, nhược bằng không chủ tể thì khí TRỜI ĐẤT ở
trong mình mình thảy đều qui ngoài hết chẳng những là không
thành Đạo mà lại còn thất tổn ĐẠI ĐẠO nữa. Trong KINH THI nói
rằng: Nhơn Tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh, duy nhứt,
đoản chấp khuyết trung nghĩa là: Nhơn tâm chỉnh nguy, đạo tâm
mầu nhiệm chính tinh, chính một chính cầm cái giữa, ấy thiệt là dạy
người, trừ nhơn tâm mà gìn đạo tâm, không nại gì người đời, chẳng
đặng MINH SƯ chỉ điểm cứ nơi sách vở, kinh kệ mà kiếm tìm Đạo
cả, há chẳng suy nghĩ đạo cả này rất cao, rất quí, không chi mà sánh
kịp vậy. Nên Thầy TỬ CỐNG nói rằng: Phu Tử chi văn chương,
khả đắc nhi văn dã, phu tử chi ngôn, tánh giữ thiện đạo bất khả
đắc nhi văn dả. Nghĩa là: Văn chương của Đức Phu Tử chẳng khá
mà nghe đặng vậy. Lại nói rằng Quân Tử ưu Đạo bất ưu bần,
nghĩa là: Người Quân tử lo Đạo chớ chẳng lo nghèo.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
14
Đức Phu Tử nói rằng: “Triêu Văn Đạo tịch tử khả hỷ”. Nghĩa là:
Sớm nghe Đạo tối thác khá vui vậy. Theo như mấy lời nói trên đây,
thì Đại Đạo đáng quý, đáng trọng là dường nào, há đem Đại Đạo,
mà tiết lậu ra giấy mực sao? lại há đem Đại Đạo mà chẳng phân
cao, thập, quân tử cùng kẻ tiểu nhơn đều đặng hết sao, định chắc
không thể dễ đặng vậy. Trong kinh sách của Tam Giáo chỗ nói việc
tề gia trị quốc là chỉ Đạo người thường, đều phân biệt thứ lớp rõ
ràng đâu ra đấy. Còn chỗ nói việc tu thân theo thứ lớp công phu thì
tất cả đều giấu kín, không dám hở lậu chưng bày ra đó nhưng chẳng
qua là lấy cái nhục đoan ngoan tâm quyền tạm, làm chỗ hư linh
chẳng tới, hoặc là lấy dưới cái tâm ba tấc sáu phân mà làm chỗ
HUỲNH ĐÌNH, hoặc lấy khiếu giữa hai trái cật làm tổ khiếu, tổ
khiếu là khiếu Huyền Quan, là chỗ trước khi cha mẹ chưa sanh,
hoặc mở cái tâm ngồi không mà làm Đạo Tâm, hoặc nín hơi gọi đó
phản bổn hườn nguyên, cả thảy đều là hư giả, mà người đời tin
tưởng là thiệt rất khá thương thay.
CHÁNH DƯƠNG ĐẾ QUÂN thi rằng:
Khá tiếc người đời khá nhận lầm,
Cứ tưởng HUỲNH ĐÌNH ở nơi tâm.
Tam đồ sa xuống không Xuân Hạ,
Cửu giới thăng tiêu biệt tín ÂM.
Trổi bước vinh châu bôi sổ tội,
Noi theo nẻo Đạo thoát hàng ÂM.
Dữ lành hai ngã không sai chạy,
Người thiện lên cao kẻ ác trầm.
HỰU
Đáng tiếc cho ai quá đỗi lầm,
Dùng tâm huyết nhục gọi huyền thâm.
Sông mê chìm đắm hoài căn kiếp,
Biển khổ sa lầy bặt tánh tâm.
Nương cảnh Tuyền Đài gìn tội nghiệp,
Noi đường Đạo Đức thoát hàng ÂM.
Dữ lành hai lẽ không sai chạy,
Lành ắt cao thăng dữ đọa trầm.
TRÙNG DƯƠNG ĐẾ QUÂN thi rằng:
Đạo tâm rất mầu nhơn tâm nguy,
Mấy ai hiểu thấu mấy ai tri.
Chí thiện giữa căn là Động Phủ,
Huyền Quang trong ấy thiệt DIÊU TRÌ.
HỰU
Tả Đạo nên ngăn chánh Đạo hành,
Trước toan phân biệt trược cùng thanh.
Chữ nhơn tàng ẩn chờ khai phá,
Thông khiếu huyền quang thấy cội ngành.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
15
NHƠN TÂM: Phẩm Thứ Sáu (6):
Phù nhơn thần háo thanh, nhi tâm nhiểu chi:
Nghĩa là: Dã thần người ưa thanh mà tâm rối loạn đó
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ phù nhơn thần háo thanh, nghĩa là: Một khí ÂM một khí
DƯƠNG mà làm chữ nhơn, chữ nhơn đặng một làm chữ ĐẠI, chữ
ĐẠI đặng một làm chữ THIÊN, tột khỏi ngoài TRỜI mới là chữ
PHU ( ), chữ phu vòng húy thành chữ PHÙ ( ).
Người ấy là nhờ khí TRỜI giáng xuống, khí ĐẤT thăng lên, ÂM
DƯƠNG ngừng kết giao nhau mà làm người, Thần ấy là chịu cái
bẩm tánh cha mẹ mà làm người. THẦN chịu cái Tánh Mạng của
TRỜI mà làm Thức Thần. Mà Ngươn Thần nhờ lẽ không sanh,
không diệt, không tấn, không thối, thường sáng suốt rực rỡ nên
năng làm chủ quyền của Tạo Hóa vậy. Còn Thức Thần thì nhờ sự
hiển linh, hoặc ứng biến không định trụ, nên hay tranh đoạt lấn
quyền làm chủ tể thân phàm tục vậy.
Cái nguồn cội của Ngươn Thần tùng nơi khí vô cực mà sanh,
ĐẠO TIÊN kêu là THIẾT HỒN, Đạo Thích kêu là Kim Cang, Đạo
Nho kêu là Hồn Linh, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng thêm, chẳng
bớt, còn nơi thân mình gọi là Hồn, ra khỏi thân mình gọi là quỷ, tu
hành thì làm TIÊN làm PHẬT, làm dữ thì biến CẦM, biến THÚ.
Vả lại Ngươn Thần nương tựa để tùy suy, thạnh, tùng khí thọ thai
mà đặng cái sanh ngưng động nơi Trung Ương của khí Vô Cực,
làm Chủ Tể Tạo Hóa, sự sanh của Người đến mười tháng thai đủ,
như dưa chín rụng cuống, TRỜI nghiêng ĐẤT sụp, phá ra một mối
cân đẩu sa xuống đất, khóc lên một tiếng thì ngươn thần cùng khí
vô cực mà chạy xuống nhục đoàn ngoan tâm, Thức Thần thừa cơ
nương hơi thở vô mà đầu thai cùng ngươn thần hiệp là một đồng ở
nơi tâm, vì đó gọi TÂM là chủ.
Mà Ngươn Thần thất ngôi thì Thức Thần đương quyền, thì thất
tình Lục Dục ngày đêm trau chuốt, làm cho Ngươn Thần ngày đêm
phải chịu hao tán, lần hồi thêm Địa Thủy Hỏa Phong, Tứ Đại thừa
cơ hội che lấp khắp Ngươn Thần.
HỠI ÔI! Thương thay sau rồi Thức Thần nó thừa thế bỏ mình mà
ra, dầu sống đến trăm tuổi chẳng khác nào như một giấc chiêm bao,
thì số vô thường không đàng tránh thoát, chừng đó đem những việc
lành dữ hồi bình sanh chiếu theo sổ mà thưởng phạt, nếu như làm
lành hoặc đầu thai kiếp khác mà hưởng PHƯỚC hoặc làm QUỶ,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
16
THẦN mà hưởng hương khói, còn làm dữ hoặc đầu thai kiếp khác
mà chịu việc dữ, hoặc mất thân người, đổi ra loài TỨ SANH Lục
Đạo muôn kiếp chẳng đặng trở lại thân người vậy. Chữ HÁO ấy là
yêu muốn, chữ THANH ấy là Thanh Tịnh vậy, ấy là nói: Ngươn
Thần vốn ưa thanh tịnh.
Ngặt vì Thức Thần ưa dấy động cho nên nhiều khi khuấy rối mà
Ngươn Thần chẳng đặng thanh tịnh, bởi nhân chẳng đặng thanh
tịnh, nên sớm hao tối kém, càng ngày càng khuyết, mà hễ Ngươn
Thần suy kém rồi trăm bịnh đều sanh, số vô thường tới vậy.
KÍNH KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI: phải biết thân người khó đặng,
chốn Trung Hoa khó sanh, Phật Pháp khó gặp, Đại Đạo khó tìm,
ngày nay đã đặng thân người may lại sanh chốn Trung-Hoa, thì chớ
hồ đồ mà bỏ qua một Đời Sống vậy. Phải nắm chặt hai chữ TÁNH
MẠNG mà làm trọng, Thức Thần, Ngươn Thần phải phân biệt,
Thân Thiệt, Thân Giả phải hiểu rõ, Nhơn Tâm, Đạo Tâm phải minh
bạch, chẳng khá lấy tâm người mà so sánh với tâm đạo, cũng chẳng
nên lấy thân giả mà so sánh với thân thiệt.
KINH PHẬT có bài kệ chữ TÂM rằng:
Ba chấm giống sao giăng,
Vòng câu dường trăng khuyết.
Mang lông vì đó khởi,
Làm PHẬT tại đó ra.
LỮ TỔ thi rằng:
Thân người khó đặng Đạo khó minh,
Nương lấy thân này giữ Đạo Tinh.
Có thân chẳng kíp buổi này độ,
Lần lựa rồi đây mất dạng hình.
HUỲNH LÃO thi rằng:
Suốt cả Đạo Tâm họ không thơ,
Từ đây thanh tịnh mở Linh Đồ.
Chơn Kinh Chơn Pháp đều nói Đạo,
Thiên lý thiên niên ở Đạo Nho.
Hớn Võ uổng tầm ngàn tuổi thuốc,
Tần Vương khôn tưởng vạn niên mơ.
Kinh này tay nắm Xuân Thu vững,
Riêng có Càn Khôn chứa Ngọc Hồ.
HỰU
Nguồn Đạo muốn thành khảo Thánh Thơ,
Dụng phương thanh tịnh dựng cơ đồ.
Chơn kinh pháp diệu tuy nhờ Đạo,
Ngàn lẽ muôn đời gốc tại Nho.
Võ Đế uổng công tầm diệu dược,
Thủy Hoàng luống sức thiệt mưu mô.
Xuân Thu muốn sánh cùng TRỜI ĐẤT,
Định vị CÀN KHÔN thủ NGỌC HỒ.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
17
LỤC TẶC: Phẩm Thứ Bảy (7):
Nhơn tâm háo tịnh, nhi dục khiển chi:
Nghĩa là: Lòng người ưa tịnh, mà lòng dục khiển dẫn đó.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Lòng người ấy là lòng của kẻ thường nhơn, chữ Tịnh ấy là: chẳng
ham vọng động, chữ Dục là thất tình Lục Dục, chữ khiển chi, là dẫn
dắt ra ngoài vòng.
Vả lại lòng người vốn chẳng ưa tịnh, nhân vì có Ngươn Thần ở
trong, có khi ngươn thần chủ sự nên lòng có khi ưa tịnh, lòng người
vốn chẳng ưa động, nhân vì có Thức Thần ở trong, có khi lại Thức
Thần chủ sự nên lòng có khi ưa động vậy. Trong thân người nhân vì
có Lục Căn, thì có Lục Thức, bởi có Lục Thức thì có Lục Trần, bởi
có Lục Trần thì có Lục Tặc, bởi có Lục Tặc thì hao Lục Thần, bởi
hao Lục Thần thì sa vào Lục Đạo.
LỤC TẶC ấy là: NHÃN, NHỈ, TỶ, THIỆT, THÂN, TÂM.
NHÃN: là con mắt, mắt ham xem sắc đẹp, lấm nhiễm lâu ngày cái
điểm Linh Tánh sa vào Noãn Sanh Địa Ngục, biến làm loài Phi
cầm, chim chóc, mình mang đầy những lông ngũ sắc xem coi tốt
đến bực nào. NHĨ là lỗ tai, tai nghe tiếng tà chẳng dứt, mãi đến sau
cái điểm Linh Tánh sa vào Thai Sanh Địa Ngục, biến làm loài tẩu
thú, lừa với ngựa cổ đeo đầy những lục lạc nghe ra đến bực nào. TỶ
là lỗ mũi, mũi ưa hửi mùi thơm chẳng nhàm, mãi đến sau cái điểm
Linh Tánh lại sa vào chốn Thấp Sanh Địa Ngục biến làm loài Thủy
Tộc là cá, trạch, tôm, cua thường ở nơi bùn lắm tanh hôi, hửi ra coi
mùi đến bực nào, THIỆT: là lưỡi, lưỡi ưa nếm mùi Ngũ Uẩn, mỗi
ngày chẳng nhàm, mãi đến sau cái điểm Linh Tánh lại sa vào loài
Hóa Sanh Địa Ngục, biến vào loại muỗi mòng, rận rệp, ruồi lằn, lấy
miệng ra mà cắn người, cắn vật, mà hút máu nếm coi mùi đến bực
nào. THÂN là: mình, thân mình ham dâm dục, chẳng nhàm, mãi
đến sau cái điểm Linh Tánh lại sa vào chốn yêu huê, địa ngục, là
loài gà vịt, mỗi ngày giao cảm vô độ, như vậy đẹp ý đến bực nào.
TÂM là: lòng, lòng tham của chẳng nhàm, mãi đến sau cái điểm
Linh Tánh đọa và cửa Thai Sanh Địa Ngục nơi loài, đa khước, để
chở đồ nặng nề cho người trọn đời, của cải vàng bạc thường chẳng
lìa thân như vậy giàu có đến bực nào. Ấy là nói: Lục Dục: Nhãn,
Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, nó dẫn dắt TÂM người phải chịu quả báo
như vậy.
Còn cái hại của Thất Tình chẳng khá chẳng biết.
THẤT TÌNH là: HỶ, NỘ, AI, CỤ, ÁI, Ố, DỤC là phải vậy:
HỶ: là mừng, mừng nhiều thì hại TÂM.
NỘ: là giận, giận nhiều thì hại GAN.
AI: là thương, thương nhiều thì hại PHỔI.
CỤ: là sợ, sợ nhiều thì hại MẬT.
ÁI: là yêu, yêu nhiều thì hại THẬN.
Ố: là ghét, ghét nhiều thì hại TINH.
DỤC: là dâm dục, dâm dục nhiều thì hại TỲ. Ấy là cái hại của
THẤT TÌNH, nó khiến dẫn lòng người đó vậy. Lại còn 10 điều tổn
ở ngoài nữa cũng chẳng khá chẳng biết.
1) Đi lâu : tổn GÂN.
2) Đứng lâu : tổn XƯƠNG.
3) Ngồi lâu : tổn HUYẾT.
4) Ngủ lâu : tổn MẠCH.
5) Nghe lâu : tổn TINH.
6) Xem lâu : tổn THẦN.
7) Nói nhiều : tổn KHÍ.
8) Ăn no : tổn TỲ.
9) Lo nhiều : tổn TÂM.
10) Dâm nhiều : tổn MẠNG.
Tất cả người đời chẳng ai tránh khỏi, sự thiệt hại về Lục Tặc, Thất
Tình, với Thập Tổn vậy.
Nếu như ai sớm tỉnh trừ diệt chúng nó lần lần cho dứt Lục Tặc,
Thất Tình, Thập Tổn chớ khá lên trên mấy chiếc thuyền giặc e sa
vào chốn TRẦM LUÂN dầu có ăn năn cũng muộn vậy.
Ông VÔ TÂM ĐẠO NHƠN thi rằng:
Mắt đừng xem sắc, mũi tránh hương,
Gìn lòng sửa ý giữ tánh Dương.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
18
Ba vật trống trơn không một vật,
Chẳng sanh chẳng bớt mới diên trường.
HỰU
Mắt không xem sắc mũi không hương,
Tâm chánh ý thành bảo tánh Dương.
Ba cõi thảy đều không một động,
Làm sao chẳng đặng sống miên trường.
DOÃN CHƠN NHƠN thi rằng:
Linh Quang đêm trọn chói hà sa,
Phàm Thánh ở mình chẳng đâu xa.
Một mảy chẳng sanh tròn vóc cả,
Sáu căn xảy động khắp mây già.
HỰU
Sớm tối Linh Quang chiếu Bắc Hà,
Thánh Phàm nguồn cội một nhà ra.
Chẳng sanh chẳng động Chơn Linh hiện,
Lục Tặc Tam Bành, thảy hóa ma.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
19
TAM THI: Phẩm Thứ Tám (8):
Thường năng khiển kỳ Dục, nhi Tâm tự tịnh, trừng kỳ TÂM
nhi THẦN tự thanh, tự nhiên Lục Dục bất sanh, Tam Độc tiêu
diệt.
Nghĩa là: Thường hay trừ cái lòng dục, mà tâm tự tịnh, lóng cái
lòng mà Thần tự thanh, tự nhiên Lục Dục chẳng sanh, tam độc tiêu
diệt.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ THƯỜNG: ấy là bình thường, chữ NĂNG là chỉ siêng năng,
chữ KHIỂN là: xô đuổi, chữ DỤC là lòng tự dục. Ấy là nói trong
một ngày mười hai giờ phải dọn quét sạch trên chốn Linh Đài đừng
cho chỗ muôn vật diêu động, tướng ngoài chẳng cho vào, tướng
trong chẳng cho ra, tồn Đạo Tâm giữ thanh tịnh dưỡng linh tánh.
Câu: Trừng Kỳ nhi Tâm ấy là: đem nước đục mà lóng cho trong
nếu để tâm nó tạp niệm, thì như nước có cặn cáo vậy. Biết chỗ ngăn
nơi chí thiện. Sau rồi chí mới định, chí định đặng rồi ý mới thành, ý
đặng thành rồi thì TÂM mới đặng thanh tịnh.
Ông THẦN TÚ nói rằng:
Thân thiệt Bồ Đề cội,
Lòng như Minh Cảnh Đài.
Ngày ngày siêng quét dọn,
Chớ cho lấm Trần Ai.
Ông LỤC TỔ nói rằng:
Bồ Đề đâu có cội,
Minh Cảnh vốn không Đài.
Vốn là không một vật
Nào có vướng Trần Ai.
Chính thật là lời nói đích đáng như thế.
Câu Thần Tự thanh: nghĩa là: lòng không tạp niệm rối rắm, thì
Ngươn Thần tự nhiên đặng thông sáng, mà nếu Ngươn Thần được
thông sáng, thì con Mắt, lỗ Tai, lỗ Mũi, cái Lưỡi, cái Tâm, cái Thân
Mình là Lục Thần không xao xuyến thì Lục Dục không sinh ra,
không dấy động đặng, chữ TAM ĐỘC ấy là: Thần Tam Thi, thường
gọi là Tam Thi ở trong mình mình. Có ba vị thần đó, một là thần
Thượng Thi, tên là Bành Cư cai quản việc lành dữ của người nơi
Thượng Tiêu, hai là thần Trung Thi tên là Bành Chất cai quản việc
lành dữ của người nơi Trung Tiêu, ba là thần Hạ Thi, tên là Bành
Kiều cai quản việc lành dữ của người ở Hạ Tiêu.
a) Là Thần Thượng Thi ở Ngọc Chẩm Quan
b) Là Thần Trung Thi ở Hiệp Tích Quan
c) Là Thần Hạ Thi ở Vĩ Lư Quan.
Mỗi lần gặp ngày SANH THẦN, GIÁP TÝ, thì dưng tấu việc lành
dữ của người, mình lại có chín thứ trùng đều làm hại chẳng vừa, nó
ngăn trở Tam Quan, và CỬU KHIẾU làm cho CHƠN DƯƠNG
chẳng đặng thăng lên, mà chín thứ trùng đều có tên vậy.
1) Là: Phục trùng ở Khiếu Ngọc Chẩm.
2) Là: Long trùng ở Khiếu Thiên Trụ.
3) Là: Bạch trùng ở Khiếu Đào Đạo.
4) Là: Nhục trùng ở Khiếu Thần Đạo.
5) Là: Xích trùng ở Khiếu Hiệp Tích
6) Là: Cách trùng ở Khiếu Huyền Xu
7) Là: Phế trùng ở Khiếu Mạng Môn
8) Là: Vị trùng ở Khiếu Long Hổ.
9) Là: Cương trùng ở Khiếu Vĩ Lư.
Thần Tam Thi thì ở Tam Quan. Cửu Trùng thì ngăn Cửu Khiếu
biến hóa đa đoan, ẩn hiện khôn lường, hoặc hóa Gái tốt, mộng di
Dương tinh, hoặc hóa ra huyễn cảnh, khiến cho ngủ mà sanh phiền
não, khiến cho Đạo cả chẳng thành vậy.
ĐƠN KINH thi rằng:
Chín Trùng Ba Độc ẩn trong mình,
Ngăn lắp Huỳnh Hà trược khí sinh.
Hành Giả đánh tan Ba Động Phủ,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
20
Cửu Trùng tiêu diệt mới trường sinh.
Chính là lời nói thật như vậy, chẳng biết những người trau Đạo có
biết phép chém Tam Thi giết Cửu Trùng hay không. Bằng không
biết phải tìm Minh Sư chỉ lời: thỉnh Tôn Ngộ Không ở Động Hải
Long, cùng cầu đặng cây thiết bảng, đánh cho mở Ba Ải, mượn cây
Đinh Ba của Trư Bát Giới cào cho trống chín khiếu, như vậy thì
Tam Thi mất hình, Cửu Trùng dứt dấu Ba Ải, chín khiếu đều thông,
thì pháp luân thường chuyển, Tánh Căn hằng còn, nền Đạo bền
vững, thất tình ân ái, Lục Dục chẳng sanh, Tam Độc tiêu diệt vậy.
VÔ CẤU TỬ thi rằng:
Thất tình Lục Dục ấy Phong Trần,
Mưa lớn một đêm rửa sạch chân.
Chờ đến Địa Lôi vừa phát động,
Ba thây Quỉ trốn mới an thân.
HỰU
Tai hại chi hơn lũ thất tình,
Trước không trừ khử lũ Yêu Tinh.
Đợi khi sấm sét cùng Mưa Gió,
Quỉ khóc Thần kinh khó vẹn gìn.
ĐẠT MA SƯ TỔ thi rằng:
Nhứt Dương dấy động dụng Tâm Tư,
Chín Quỷ Ba Yêu mới khử trừ.
Đến trận giữ gìn cho chín chắn,
Đề phòng quan hệ chớ sật sừ.
HỰU
Chơn Dương dấy động phải tương công,
Chớ để Tam Thi với chín trùng.
Độn nhập Trận Đồ gây rối rắm,
Phá tan thiệt hại lớn không cùng.
KHÍ CHẤT: Phẩm Thứ Chín (9):
Sở dĩ bất năng giã, vi tâm, vị trừng dục vị khiển dả.
Nghĩa là: Chỗ lấy chẳng đặng ấy vì lòng chưa lóng, lòng dục chưa
trừ đặng vậy.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu “Sở dĩ bất năng giã” ấy là: Chẳng quét tam tâm, trừ tứ
tướng, tam tâm là: quá khứ tâm, vị lai tâm, hiện tại tâm, tứ tướng là:
nhơn tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, câu “Vị
trừng” là: lòng chưa lóng, nhơn tâm chưa thoát, Đạo Tâm khó sanh
vậy. Câu “Dục vị khiển” ấy là: thất tình lục dục chưa trừ dứt vậy.
Con người sanh trong Trời Đất mà chẳng đặng thành Tiên, thành
Phật, thành Thánh, thành Hiền, ấy là tại sao vậy? Đều bởi: chẳng
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
21
hay trừ hỷ, trừ nộ, trừ ai, trừ lạc, trừ dục mà ra, rõ ràng vậy. Nếu trừ
dứt cái lẽ “hỷ tình” là mừng quá, đổi làm cái Ngươn Tánh, trừ dứt
cái “nộ tình” là giận quá, đổi làm cái Ngươn Tình, trừ dứt cái “ai
tình” là thương quá, đổi làm cái Ngươn Tinh, trừ dứt cái “lạc tình”
là vui quá, đổi làm cái Ngươn Thần, trừ dứt cái “dục tình”, là tình
dục, đổi làm cái Ngươn Khí. Như vậy thì Ngũ Dục hóa làm Ngũ
Ngươn, thì nào Tiên mà chẳng đặng thành, Phật mà chẳng đặng
chứng vậy.
Nho giáo nói rằng: “Giới Thận Hồ Kỳ Sở Bất Đổ, Khủng Cụ
Hồ Kỳ Sở Bất Văn”. Nghĩa là: nên dè răn cái chỗ chẳng thấy, nên
sợ cái chỗ chẳng nghe.
Thích giáo nói rằng: Vô Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, Vô Sắc,
Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Nghĩa là: Không mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý, không sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Đạo Giáo nói rằng: Hoản Hoản, Hốt Hốt, Yểu Yểu, Minh
Minh. Nghĩa là: Chán Chán, Nhán Nhán, Lu Lu, Mờ Mờ, như
chiếu theo Tam Giáo, Thánh Kinh mà giữ gìn, thì có lòng riêng
nào mà chẳng bỏ đặng, lòng dục nào mà chẳng trừ đặng vậy.
Vả lại Tam Giáo, Thánh Nhơn đều dạy người trừ lòng tư dục là
tại sao vậy? Vì lòng tư dục thuộc khí Âm, còn Tam Giáo, Thánh
Nhơn dạy người gìn cái Thiên Lý là tại sao vậy? Bởi Thiên Lý
thuộc khí Dương, nếu thuận theo khí Âm thì thành Quỉ, còn trọn
khí Dương thì thành Tiên.
Trong Đơn Kinh nói rằng: sớm tấn Dương Hỏa, chiều thối Âm
Phù. Chẳng hay trong đời Thiện Nam, Tín Nữ có biết đặng cái
công tấn Dương, thối Âm chăng? Bằng chẳng biết thì mau mau
đem việc giả trong đời mà bỏ dứt, rồi tu Chơn, tích Đức cho cảm
lòng Trời, thì sẽ gặp Minh Sư chỉ bày cái Tánh cùng Thiên Đạo, và
cái lẽ tấn Dương, thối Âm, thì chẳng nhọc công mà thành Đạo vậy.
Ôi! Cái Tánh cùng Thiên Đạo há dễ mà nghe đặng sao? Nay ta đem
Thiên Đạo lược chỉ đại khái mà nói ra đây, mỗi lần gặp ngày Sóc
(Mùng 1) trên Trời mặt Nhựt, mặt Nguyệt đều đi đến ngày mùng 3
giờ Tý tấn một khí Dương kêu là Quái Địa Lôi Phục, đến ngày
mùng 5 giờ Hợi tấn hai khí Dương kêu là Quái Địa Trạch Lâm, đến
ngày mùng 8 giờ Tỵ tấn ba khí Dương, tên là Quái Địa Thiên Thái,
là luyện “Diên” tám lượng, đến ngày mùng 10 giờ Hợi tấn bốn hào
Dương tên là Quái Lôi Thiên Đại Tráng, đến ngày 13 giờ Tý tấn
năm hào Dương tên là Quái Trạch Thiên Khuyết, đến ngày 15
(rằm) giờ Hợi tấn sáu hào Dương tên là Quái Càn Vi Thiên (Trời).
Kinh Dịch nói rằng: Người quân tử trọn ngày Càn, Càn là tượng
thuần Dương vậy, nhược bằng chẳng dùng lửa nấu luyện cho thành
kim đơn, để đến qua khỏi đây ắt sanh khí Âm vậy, đến ngày 18 giờ
Tỵ tấn một khí Âm tên là Quái Thiên Phong Cấu, đến ngày 20 giờ
Hợi tấn hai khí Âm tên là Quái Thiên Sơn Độn, đến ngày 23 giờ Tỵ
tấn ba khí Âm tên là Quái Thiên Địa Bỉ, là luyện “Hống” nửa cân,
đến ngày 25 giờ Hợi tấn bốn khí Âm tên là Quái Phong Địa Quang,
đến ngày 28 giờ Tỵ tấn năm khí Âm tên là Quái Sơn Địa Bát, đến
ngày 30 giờ Hợi tấn sáu khí Âm tên là Quái Khôn Vi Địa (Đất) ấy
là sáu hào Thuần Âm vậy, thì trên Trời không có mặt Nguyệt trọn
đêm ấy, thì cả thảy muôn vật đều chịu tối tăm mà loài người phải
chịu không có Mạng vậy.
HỚN CHUNG LY đề thi rằng:
Luyện tánh trước tua luyện Lão Bành,
Một vầng Nga Nguyệt, hướng khôn sanh.
Âm Phù lui tới, Đơn càn chí,
Dương Hỏa đầy vơi, Nguyệt lần sanh.
Đem Khảm lấp Ly, về cội cũ,
Cầm Ô bắt Thố, phục sơ thành.
Từ đây tránh khỏi đường “Diêm Chúa”,
Thành bực Thần Tiên đến Ngọc Kinh.
HỰU:
Sửa tánh nên lo sửa Lão Bành,
Ơ hờ một mãi họa liền sanh.
Âm Phù chẳng thối, đơn sai lạc,
Dương Hỏa không dày, dược tiệm minh.
Đổi Tượng rút Hào, “Ly Khảm” định,
Cầm Long tróc Hổ, “Địa Thiên” thành.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
22
Trước không gìn giữ cho chu đáo,
Đọa lạc “Âm Ty” vướng ngục hình.
HƯ VÔ: Phẩm Thứ Mười (10):
Năng khiển chi giã, nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm, ngoại
quán kỳ hình, hình vô kỳ hình, viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật,
tam giả kỳ ngộ, duy kiến hư không.
Nghĩa là: Trừ đặng cái đó là: trong xem lòng, lòng không lòng,
ngoài xem hình, hình không hình, xa xem vật, vật không vật, ba
điều ấy đã ngộ, duy thấy nơi hư không.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu “Năng khiển chi giã” ấy là: đem hết tất cả tạp niệm, vọng
tưởng xô đuổi ra chỗ khác, câu “Nội quan kỳ tâm” ấy là: nheo con
mắt mà ngó vô trong, tỷ như mặt Nhựt, mặt Nguyệt, cùng Tinh tú,
nếu chiếu diệu ra ngoài thì cả thảy Thế Giới nầy phải chịu tối tăm,
lạnh lẽo; và vạn vật mất sự ấm áp, lấy đâu mà sanh hóa đặng nên
người hành đạo phải “hồi quang phản chiếu”. Thấy ngó vào trong là
lý đó vậy. Câu “Tâm vô kỳ tâm” ấy là: tạp niệm đều do nơi lòng
mà sanh ra, đến lúc này luôn cả lòng đều dường như mất hết, coi
tạp niệm nó còn do nơi đâu mà sanh ra nữa vậy. Câu “Ngoại quán
kỳ hình” ấy là: Nheo con mắt mà xem bề ngoài, là nguồn cội do sự
“tận tịnh” Thiên Lý lưu hành đó. Câu “Hình vô kỳ hình” ấy là tâm
do nơi hình mà sanh ra, nay luôn cả hình dường như mất hết, coi
lòng nó còn do nơi đâu mà sanh ra nữa vậy? Câu “Viễn quán kỳ
vật” ấy là: Lấy con mắt xem Trời, Đất, Nhựt, Nguyệt, Tinh tú, núi
non, rừng rú, nhà cửa đều dường như mất hết, coi cái tâm ở chỗ nào
mà sanh ra nữa vậy? Câu “Tam giả kỳ ngộ duy kiến hư không”
ấy là: Trời, Đất, Người, tam tài muôn vật như chưa có vật chi, chỉ
“Hỗn Hỗn Độn Độn”, chỉ nơi trống không mà thôi, hẳn chưa rồi
vậy, nên gọi rằng: duy kiến hư không, lấy bề ngoài mà nói, thì gọi
là Hư không, còn dùng bề trong mà nói thì gọi là Chơn không.
Chơn không ấy là khiếu Huyền Quan, tự trong mình xuất hiện ra
mà phá tan cả thảy sự u ám đó vậy. Trong kinh có nói rằng: Khắp
ba cõi: từ trong tới ngoài chỉ có một cái Đạo là Đáng tôn trọng hơn
hết.
Đức Lão Tổ nói rằng: Ta có một việc lo lớn, là lo vì có cái thân,
nếu như ta không có cái thân, thì Ta nào phải lo. Lại nói rằng: bỏ
cái thân giả ra sau, đem cái thân thiệt ra trước, bỏ cái thân giả ra
ngoài đặng, thì mới còn cái chơn thân ở trong.
Kinh Kim Cang nói rằng: Nếu dùng tướng thời khó thấy Phật
Như Lai.
Ông Lâm Tế Thiền Sư nói rằng: Phật thiệt không hình, Tánh
thiệt không vóc, Pháp thiệt không tướng. Lời Cổ Tiên nói rằng:
chớ chấp thân này là thật Đạo, ngoài cái thân mới thiệt là Chơn
Thân.
Từ xưa đến nay người làm đặng nên Tiên, nên Phật, đều dùng lẽ
quên mình gìn cái Đạo thật mầu nhiệm vậy. Khá than cho đời có
một hạng người u mê, chẳng những là quên hẳn cái mình, lại còn
đem thân giả nầy mà nhận là thân thiệt, say mê rượu thịt, nuôi mập
thân này, mặc quần áo tốt đặng thêu vẽ thân này, yêu đắm sắc tốt,
đặng làm bạn thân nầy, thậm chí đến người tu niệm, lại còn dùng
gấm bác đoạn, gấm lục tự khí, gấm tiểu châu thiên, tất cả đều sửa
soạn trang sức cho thân mình đặng lộng lẫy, hoặc uống rượu thuốc
Tam hoàn dược thảo, ngũ kim bát thạch mà làm thuốc ngoại
đơn, hoặc làm cái công tam phong thế chiến, đem con gái nhỏ mà
làm lò đảnh, đem tinh khí của con gái nhỏ, đoạt lại mà gọi là lấy
Âm bổ Dương hoặc uống tinh khí mà làm bổ não, hoặc uống
“hồng diên” 2 mà gọi là Tiên Thiên Mãi Tử, hoặc uống Bạch
Nhũ3 mà làm rượu “Bồ đề”, hoặc ngồi “khô” nín hơi, gọi là tham
thiền, hoặc giữ cái Tâm gọi là luyện Tánh, mỗi mỗi là pháp thuộc
về Bàng Môn, ba ngàn sáu trăm (3,600) khó kể ra cho xiết, đều lấy
sắc thân mình làm cho chốn u minh luống chịu đông đúc khổ não,
chẳng lúc nào trống trải sung sướng vậy. Những hạng người ấy
trong buổi sanh tiền đã chẳng thành Đạo, một mai Dương Khí tiêu
hết, Tứ Đại: Thủy, Hỏa, Địa, Phong phân trì, thì điểm Linh Tánh
sa vào chốn trầm luân, còn xác thịt đâu khỏi chịu sự nát tan và cái
nhục thân nào có còn chi vậy.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
23
2Hồng diên: Là đường kinh nguyệt của đàn bà con gái.
3Bạch nhũ: là sữa non của đàn bà con gái.
Tử Thanh Chơn Nhơn đề thi rằng:
Phép ấy nhiệm mầu chỉnh thiệt chân,
Không trước không sau cũng không thân:
Chán chán lu mờ mà thấy đặng,
Mới thiệt siêu phàm thoát hồng trần.
HỰU
Phép lạ nào qua phép lạ nầy,
Không dài không vắn lại không dây:
Nếu hay hoảng hốt minh minh yểu,
Thoát xác siêu phàm chẳng trở tay.
Túy Hư Tử đề thi rằng:
Không lòng không vật cũng không thân,
Đặng hội sanh tiền cựu Chủ nhân:
Chỉnh thiệt ở trong gìn một vật,
Linh đài nhóm lại chút xa trần.
HỰU
Không Tâm không Huyết lại không Hình,
Rõ thấu nguyên hình buổi hạ sinh:
Vẹn giữ “cung trung” toàn một vật,
Linh Đài rực rỡ ánh Minh tinh.
* * * * * * *
HƯ KHÔNG: Phẩm Thứ Mười Một (11):
Quán không diệt không, không vô sở không, sở không ký vô,
vô vô diệt vô, vô vô ký vô, trạm nhiên thường tịch, tịch vô sở
tịch, dục khởi năng sinh, dục ký bất sinh, tức thị chơn tịnh.
Nghĩa là: Xem không cũng không, không không chỗ không, chỗ
không đã không, không không cũng không, không không đã không,
an vậy, lặng không chỗ lặng, lòng dục há sanh đặng, lòng dục đã
chẳng sanh, là thiệt Chơn Tịnh.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu “Quán không diệt không, không vô sở không:” ấy là đây
nương theo bài trước mà nói, phải quét sạch Tam Tâm, phi trừ Tứ
Tướng, ngoài chẳng biết có cái vật, trong chẳng hay có cái lòng,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
24
chỉ còn lại Chơn Không mà thôi, đến như lúc này luôn cả Chơn
Không đều dường như mất hết. Câu “Vô vô diệt vô, vô vô ký vô”:
là nói không có chơn không, không có Thái không, không có dục
giới, không có sắc giới, không có tưởng giới, tan nát cả hư không.
Câu “Trạm nhiên thường tịch, tịch vô sở tịch”: là nói thành đạt
đại tịnh rồi, thì không người, không ta, hỗn hỗn, độn độn, còn một
giống Tiên Thiên vậy thôi. Câu “Dục khởi năng sanh, dục ký bất
sanh, tức thị chơn tịnh”: là nói lòng dục niệm chẳng sanh đặng thì
mới vào cảnh chơn tịnh vậy. Chừng ấy Tam Huê mới tự nhiên tụ
đảnh, Ngũ Khí mới triều ngươn.
Tam Huê là: Thần đầy đủ nơi “hạ tiêu” thì Tinh hiện ra Diên
Huê (bông chì).
Thần đầy đủ nơi “trung tiêu” thì trung khiếu hiện ra Ngân Huê
(bông bạc).
Thần đầy đủ nơi “thượng tiêu” thì Thần hiện ra Kim Huê (bông
vàng) nên mới gọi rằng Tam Huê tụ nơi Đảnh vậy.
1) Không lưu luyến nơi “sự mừng” thì hồn định, thì phương Đông
của khí Thanh Đế triều ngươn (Thanh Long Can).
2) Không lưu luyến nơi “sự giận” thì phách định, thì phương Tây
của khí Bạch Đế triều ngươn (Bạch Hổ Phế)
3) Không lưu luyến nơi “sự vui” thì Thần định, thì phương Nam
của khí Xích Đế triều ngươn (Châu Tước Tâm).
4) Không lưu luyến nơi “sự thương” thì Tinh định, thì phương Bắc
của khí Hắc Đế triều ngươn (Huyền Vũ Thận).
5) Không lưu luyến nơi “sự muốn” (dâm dục) thì Ý định, thì Trung
Ương của khí Huỳnh Đế triều ngươn (Tỳ) cho nên gọi rằng ngũ
khí triều ngươn vậy.
Nho giáo nói rằng: Hễ lòng nhơn dục sạch hết thì Thiên Lý lưu
hành.
Thích giáo nói rằng: Rực rỡ ánh sáng không chỗ nào ngăn lấp,
không không chỗ hết.
Đạo giáo nói rằng: Trống cái lòng, đầy cái bụng, đó thật là cội của
Đạo vậy. Xem cái không nhưng chẳng phải hoang đàng hay ngồi
không như hình cây khô đâu! Chẳng qua là trừ dứt cái lòng tạp
niệm mà thôi. Nếu như gặp Minh Sư chỉ truyền: Chỗ nào là An
Lư? Chỗ nào là Lập Đảnh? Sao gọi là Luyện Kỷ? Sao gọi là Trúc
Cơ? Sao kêu là Hái Thuốc? Sao kêu là Già Non? Sao gọi là Hà
Xa? Sao gọi là Hỏa Hầu? Sao gọi là Càn Khôn giao cảm? Sao gọi
là Khảm Ly thêm bớt? Sao gọi là Kim Mộc tịnh giao? Sao gọi là
diên hống giao nhau? Sao gọi là Dương hỏa Âm phù? Sao gọi là
thanh tịnh mộc dục? Sao gọi là quán mãn Càn Khôn? Sao gọi là
thoát thai Thần hóa?
Cứ theo thứ lớp công phu, nếu tự ý riêng mình ngồi tịnh xem
không rồi Tam Huê tụ nơi Đảnh nào? Ngũ Khí triều nơi Ngươn
nào? Chỉ kết cuộc lại hình tợ cây khô, lòng như tro lạnh, một mai
hết số rồi, thì thành ra quỉ Thánh Linh hiện hóa, hiện hình đi qua
lại trước mặt thấy đặng rõ ràng hình đó gọi là Quỉ Tiên, hoặc làm
đầu chúng thần mà thọ hưởng hương khói, hoặc đầu thai kiếp khác
mà làm tước giàu sang sung sướng xác thân vật chất.
Nếu như còn mê tánh thì cũng phải sa vào chốn trầm luân như
xưa, bao nhiêu công cán coi như mất hết, rất đáng thương thay!
Những người học Đạo phải hết lòng cẩn thận ấy vậy.
Quan Khổng Tử thi rằng:
Phú quí dường như bọt nước trôi,
Cuộc trần sớm dứt chớ lôi thôi;
Rõ nhìn báu vật lò un đúc,
Rèn đặng Kim Cang khỏi kiếp nhồi.
HỰU
Giàu sang tan hiệp tợ mây bay,
Thức phá trần lao thoát đọa đày;
Gặp đặng Minh Sư truyền khẩu quyết,
Thừa Long kỵ Phụng ắt nghe rày.
Cừu Lưu Tôn thi rằng:
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
25
Không hình, không tượng, không tiên phương,
Không lặng, không tâm, không tánh vương:
Trong không, không chẳng, không sắc tướng,
Chơn không mầu nhiệm mới văn chương.
HỰU
Không hình, không tượng, không tiên phương,
Không tích, không tâm, không tánh vương;
Không lý bất không, không sắc tướng,
Chơn không quang diệu đại văn chương.
* * * * * *
--oOo--
CHƠN THƯỜNG: Phẩm Thứ Mười Hai (12):
Chơn thường ứng vật, chơn thường đắc tính, thường ứng,
thường tịnh, thường thanh tịnh hỷ.
Nghĩa là: Thiệt hằng ứng vật, thiệt hằng đặng Tánh, hằng ứng,
hằng tịnh, hằng thanh tịnh vậy.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
26
Câu: “chơn thường ứng vật” ấy là: không tạp niệm rối loạn gọi là
chơn, năm Đức, năm Ngươn, gọi là thường, cảm mà đặng thông
gọi là ứng, bông thuốc phát sanh gọi là vật vậy.
Câu: “chơn thường đắc Tánh” ấy là đây cảm, kia ứng gọi là
đặng, là đắc chánh linh chẳng tan gọi là Tánh vậy.
Câu: “Thường ứng, thường tịnh”, ấy là: chữ thường này là bình
thường, là nói có việc đến thì ứng biến, việc qua rồi thì Thanh tịnh
vậy.
Câu: “Thường thanh tịnh hỷ” ấy là: lặng yên chẳng xao động
vậy. Kẻ sĩ trau Đạo mỗi ngày thường phải quét dọn Tam Tâm trừ
phi Tứ Tướng, bỏ vọng tưởng, vẹn giữ lòng thành khí Dương cực
sanh khí Âm lặng lẽ chẳng xao động, muôn duyên đốn dứt, khí Âm
cực sanh khí Dương, cảm mà tự thông, muôn mối triều Tông (gốc),
mà khí Tiên Thiên năm đức phát hiện, đó mới thật là Chơn thường
vậy. Chơn thường ấy là Tánh lương tri vậy. Tiên Thiên, Ngũ
Ngươn phát hiện tên là ứng vật ấy là lương năng vậy. Lương tri,
Lương năng đó mới thật là chơn Tánh, tâm người chết hết, Tâm
Đạo trọn sống, đó mới thật là chơn thường đắc Tánh, một khí Tiên
Thiên, gọi là vật, hiểu biết thâu góp, gọi là ứng, Tâm người hằng
thác, Tâm Đạo hằng sống, Tâm Đạo hằng sống thì vọng niệm chẳng
sanh, vọng niệm chẳng sanh thì hằng phục khí Tiên Thiên lại, khí
Tiên Thiên hằng phục lại thì bông thuốc hằng sanh, bông thuốc
hằng sanh thì Chơn Tánh hằng sáng, Chơn Tánh hằng sáng thì chơn
thường thường ứng, Chơn Thường thường ứng thì hà xa thường
chuyển, Hà xa thường chuyển thì nước biển thường tràn, nước biển
thường tràn thì hỏa hầu hằng luyện, hỏa hầu hằng luyện thì Kim
Đơn hằng kết, Kim Đơn hằng kết thì mộc dục thanh tịnh, mộc dục
thanh tịnh thì Pháp Thân đã thành, Pháp Thân đã thành mới thật là
Công Viên Quả Mãn vậy. Cho nên gọi là: thường ứng, thường tịnh,
thường thanh tịnh hỷ vậy.
Khả thương: cho người Đời ở Đạo Nho thì học Thánh Hiền, thấy
trong Ngũ Kinh Tứ Thơ thường nói: Trước là trừ lòng dục, thì
tưởng trừ được lòng dục rồi thì xong việc cả, lại chẳng suy xét câu
Tồn Tâm Dưỡng Tánh, tâm ấy phải giữ chỗ nào, lại còn tánh ấy
lại phải thế nào mà dưỡng nó.
Còn ở Đạo Thích, thì tham thiền, học Phật, thấy trong Kinh Pháp
Hoa, kinh Kim Cang hằng nói: Trừ vọng niệm là trước, thì tưởng là
trừ được vọng niệm rồi, thì đã yên việc cả, lại chẳng xét cho tột câu
Minh Tâm Kiến Tánh, tâm phải làm sao cho nó sáng, còn Tánh
phải làm sao cho đặng thấy nó.
Còn ở Đạo Tiên thì tu chơn, học tiên, thấy kinh Thanh Tịnh, kinh
Đạo Đức, kinh Cảm Ứng hằng nói: Trước là xem chỗ không, thì
tưởng là xem được rồi, là xong việc cả, lại chẳng suy câu Tu Tâm
Luyện Tánh, tâm làm sao mà tu, Tánh làm sao mà luyện, hà lấy
một việc ngoan không, khổ tọa, ngồi như cây khô mà thành Đạo
được sao?
Há chẳng biết Đại Đạo là Thiên Đạo, Thiên Đạo mà sanh trưởng
muôn vật, là trọn nhờ Nhựt Nguyệt, Tinh, Thần, Gió, Mây, Mưa,
Sấm, Sét mà kết thành vậy.
Kinh Dịch có nói rằng: Nổi lên sấm chớp, nhuần xuống mưa gió,
Nhựt Nguyệt thay đổi, một nóng một lạnh là phải vậy. Há dùng một
việc không không, không làm chi mà muôn vật trở nên sanh thành
đặng sao?
Văn Xương Đế Quân thi rằng:
Trời, Đất, Âm Dương thảy không tình,
Mống đỏ rõ ràng chốn chốn linh;
Duy có Huyền căn đồng Thái Cực,
Tự nhiên tỏ rõ hiệp Thiên Kinh.
Roi truyền muôn thuở gồm ngàn thuở,
Chon lựa Thanh Minh với Thái Minh;
Lặng lẽ động Dương bày đức nhiệm,
Chơn cơ vận động chẳng lưu đình.
HỰU
Càn Khôn, Nhựt Nguyệt thật không hình,
Chốn chốn đều nhờ ánh hiển linh;
Chỉnh có Huyền Quang soi Thái Cực,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
27
Tự nhiên quán xét sanh thiên kinh.
Lưu hành vạn cổ khiêm thiên cổ,
Hiệp tuyển Thanh minh vĩnh Thái bình;
Tịch diệt chơn thường kim diệu Đức,
Máy linh chuyển hóa chẳng ngưng đình.
* * * * * * *
CHƠN ĐẠO: Phẩm Thứ Mười Ba (13):
Như thử thanh tịnh, tiệm nhập chơn Đạo, ký nhập chơn Đạo
danh vi đắc đạo.
Nghĩa là: Như thế này thanh tịnh lần vào chơn Đạo, đã vào Chơn
Đạo gọi là đắc Đạo.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu: Như thử thanh tịnh tiệm nhập chơn Đạo, ấy là: đây nương
theo bài trước mà nói, trọn đặng thanh tịnh vô vi như thế nầy, thì
khí Tiên Thiên mới đem lại đặng, nếu hườn khí Tiên Thiên lại đặng
rồi, thì mới lần theo thứ lớp mà vào Chơn Đạo.
Chơn Đạo ấy là chẳng phải “ba ngàn sáu trăm” Đạo Bàng Môn
với “chín mươi sáu” giống ngoại Đạo, mà dám sánh, Đạo đó là
Tiên Thiên Đại Đạo là Đạo sanh Trời, sanh Đất, sanh Người và
sanh muôn Vật vậy.
Đạo lớn như vậy quả là vật Chi đó vậy. Nghĩa là Khí Vô Cực
Chơn Đạo là từ xưa đến nay lấy miệng truyền nhau mà thôi, chẳng
dám viết ra sách vở, kinh kệ sợ kẻ chẳng hiền biết đặng ắt bị Trời
phạt. Tuy vậy mà trong kinh sách có toàn ẩn mối Đạo đều là lời nói
thí dụ, dấu mẹ mà nói con, dấu gốc mà nói ngọn, còn đại khái thì
mượn vật mà bày Đạo. Cũng như mão họ Trương mà đội cho họ Lý
vậy. Như đây chẳng dám bày tỏ hết ra, vì nể lòng từ bi, bác ái của
Tam Giáo, Đạo Tổ, mà phải lộ bày chút ít việc đại khái dùng để làm
bằng chứng cho những người tìm Đạo, đặng khỏi sự sai lầm vào
Bàng Môn Tả Đạo vậy thôi.
Chơn Đạo ấy là: Cái buổi ban đầu tạo sanh ra mình là phải vậy,
nhờ Tinh Cha, Huyết Mẹ hai vật ấy giao hiệp lại Tinh là Diên,
Huyết là Hống. Hễ Diên giao với Hống tên là Càn Đạo mà thành
Trai, Hống giao với Diên tên là Khôn Đạo mà thành Gái. Nửa tháng
sanh khí Dương, nửa tháng sanh khí Âm, do đó mà sanh ngũ tạng,
do đó mà sanh ra lục phủ, do đó mà sanh ra khắp châu thân ba trăm
sáu mươi lăm (365) lóng xương, do đó mà sanh ra tám mươi bốn
ngàn (84000) sợi lông và lỗ chơn lông.
Tiên Thiên Quái Khí đã đủ rồi, như trái chín thì rụng cuống, lọt
cái cân đẩu sa xuống đất sổ ra, khóc lên một tiếng thì khiếu Tiên
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
28
Thiên Vô Cực hóa làm Ngươn Thần, Ngươn Khí, Ngươn Tinh theo
Khí Vô Cực mà ra, chia làm ba nhà: Cung Càn mất trung Dương
mà sa xuống Cung Khôn, Cung Khôn biến làm Cung Khảm. Cung
Khôn mất hào trung Âm mà qua Cung Càn, Cung Càn biến làm
Cung Ly, Tiên Thiên: Cung Càn, Cung Khôn mất ngôi nhà mà biến
làm Hậu Thiên: Cung Khảm, Cung Ly ấy là: Thủy Hỏa vị tế vậy.
Từ đây Khí Hậu Thiên dụng sự ấy là: cái đường của kẻ Phàm Phu,
nhưng người có căn Tiên duyên Phật, thì hỏi tìm cái chơn Đạo phép
phản Bổn Hườn Nguyên. Chơn Đạo ấy là: trước hết điểm cái khiếu
Vô Cực. Khiếu ấy Tam Giáo gọi nhiều danh từ khác nhau:
Đạo Nho kêu là Chí Thiện, Đạo Thích kêu là Nam Mô, Đạo Tiên
kêu là Huyền Quang … bài trước đã nói rõ ràng rồi, phải dụng cái
công Lục Thần hội hiệp giữ chặt khiếu ấy, giữ lâu thì khiếu mở, thì
Ngươn Thần Qui vị, lại dụng cửu tiết huyền công tên là Kim Đơn
Cửu Chuyển bớt “Hào đổiTượng”, đem Khảm lấp Ly đoạt cái
chánh khí Tiên Thiên, hớp cái tinh huê của Nhựt Nguyệt dụng văn
võ của Hỏa Hầu, tu tám báu Kim Đơn, tháng ngày gắng sức, hòa
quang hỗn tục, chứa Đức lập công ba ngàn công đủ, tám trăm quả
đầy thì sẽ có đơn thơ hạ chiếu. Chừng ấy mới cổi xác mà bay về
Trời, tiêu diêu nơi ngoài muôn vật.
Trời Đất có hư, chớ nó không hư, nên gọi là vóc Kim Cang (vàng
cứng) như vậy mới chẳng uổng cho mình sinh ra một kiếp người,
nay gặp đặng dịp may như thế; như muốn, phải tìm Minh Sư để
được “Khẩu truyền tâm thọ”, phải lập tâm cương quyết, dầu sống
thác chẳng thối chí ngã lòng thì ắt trọn vẹn vậy.
Ngươn Thỉ Thiên Tôn thi rằng:
Thanh Tịnh Kinh mầu vốn tự nhiên,
Đặng thông Chơn Đạo, tĩnh Tiên Thiên;
Kim Đơn uống đặng, thân thông Thánh,
Thành đặng tiêu diêu lãng quyền Tiên.
HỰU
Thanh tịnh Kinh mầu, gốc tự nhiên,
Ai người đoạt thấu khí Tiên Thiên.
Thuốc linh uống được thân thông sáng,
Về cõi tiêu diêu chứng quả Tiên.
Linh Bửu Thiên Tôn thi rằng:
Thanh Tịnh Chơn Ngôn, vốn chẳng nhiều.
Trong kinh huyền diệu, ít với nhiều;
Thân này có chén trường sanh rượu,
Xin hỏi “phàm phu” uống bao nhiêu.
HỰU
Lời lẽ tuy nhiều, Đạo ít oi,
Phàm phu trí hẹp, lại thêm hòi:
“Nội Trung” chứa sẵn trường sanh tửu,
Muốn uống cần nên ráng sức moi.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
29
DIỆU HỮU: Phẩm Thứ Mười Bốn (14):
Tuy danh đắc ĐẠO thiệt vô sở đắc,
Nghĩa là: Tuy tên đặng Đạo thiệt không chỗ đặng.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ “Tuy” là tuy nhiên, chữ “danh” là: danh mục, chữ “đắc” là
đặng truyền, chữ “ĐẠO” là Đại Đạo, chữ “thiệt” là chơn thiệt, chữ
“vô” là khí hư vô.
Câu “tuy danh đắc ĐẠO” ấy là: nương theo bài trước mà nói lần
vào Chơn Đạo vậy, đặng chịu lãnh Minh Sư chơn truyền chánh thọ,
mới chỉ: chỗ nào là khiếu Huyền Quang? Làm sao kêu là Lục Thần
hội hiệp? làm sao gọi là Trúc Cơ luyện kỷ? làm sao gọi là Hái
Thuốc Luyện Đơn? Làm sao kêu là Bông Thuốc già non? Làm
sao kêu là Khử Trược, Lưu Thanh? Làm sao kêu là Hống giao
với Diên? Làm sao kêu là Anh Nhi Xá Nữ? Làm sao kêu là Kim
Công, Huỳnh Bà? Làm sao kêu là Kim Mộc tinh giao? Làm sao
kêu là thủy hỏa ký tế? Làm sao kêu là Pháp Luân Thường
Chuyển? Làm sao kêu là Dương Hỏa, Âm Phù? Làm sao kêu là
Văn Phanh Võ Luyện? Làm sao kêu là Thanh Tịnh, Mộc Dục?
Làm sao kêu là Quản Mãn, Càn Khôn? Làm sao kêu là Ôn
Dưỡng, Thoát Thai? Làm sao kêu là Thất Hườn, Cửu Chuyển?
Làm sao kêu là Di Lư, Hoán Đảnh? Làm sao kêu là Rồng kêu,
Cọp Rống? Làm sao kêu là Diên Bích, Điều Thần? Mỗi mỗi chịu
lãnh mới gọi là Đặng Đạo vậy. Tuy gọi Đặng Đạo thiệt không chỗ
đặng, bởi sao vậy?
Vả lại Đạo, chỗ nói quan khiếu nhược vật cả thảy mỗi món, đều
không cùng tột, tên tốt báu lạ đời ở trong mình có sẵn, chớ phải ở
ngoài thân mình mà đến đặng, cho nên gọi rằng: Thiệt không chỗ
đặng là vậy. Quả chơn thiệt mà lấy làm đặng ấy, là lúc chịu lãnh thọ
đến sau, khổ tu, khổ luyện, lập định, là chí lâu dài, lòng sắt, dạ đá,
ngàn nạn, chẳng đổi, muôn nạn, chẳng lui, giàu sang, chẳng hay,
nghèo hèn chẳng dời đặng, oai quyền chẳng ép đặng cái chí, há
chẳng nên nửa đường mà bỏ, mà định phải đem những cái giả danh,
lợi, ân, ái, tửu, sắc, tài, khí, một dao chém dứt, kíp mau tu chỗ thiệt
danh, lợi, tửu, khí, ân, ái, tài, sắc, ở trong thân mình thì mới là Đặng
Đạo, mà chẳng những cái Giả ở ngoài mình thì người người đều
biết còn những cái Thiệt ở trong thân mình, ít ai hiểu.
Hãy nghe Ta đem những cái Chơn Thiệt mà nói ra đây: Mình
chầu Kim Khuyết hưởng Thọ Tước Trời mới là danh Thiệt, Kim
Đơn thành tựu vô giá, quí báu, mới là Lợi Thiệt, siêu độ cha mẹ giờ
hằng tôn kính mới là Ân Thiệt.
Khảm Ly giao nhau, Kim Mộc đều nhau, mới là Ái Thiệt.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
30
Ngọc Dịch, Huỳnh Tương, Bồ Đề, Hương Giao mới là Rượu
Thiệt, bảy báu Diêu Trì tám báu Kim Đơn mới là Của Thiệt. Hơi
ấm rất hòa, hạo nhiên hồi phong mới là Khí Thiệt. Ấy mới là tám
món báu ở trong mình mình, bỏ đặng ở ngoài mà nên đặng chỗ
trong, bỏ đặng cái giả mà nên đặng cái thiệt, ngoài thì bồi công
trong thì tu quả, khi động thì độ người khi tịch thì độ mình, ngày
qua tháng lại, công ngoài rộng lớn, quả trong viên minh, bỏ xác
thăng lên, muôn kiếp hằng còn, mới gọi là: Hiểu Đạo, Thành Đạo,
Đắc Đạo, là cái tài năng của bực Đại Trượng Phu đầy đủ rồi vậy.
Đạo Tâm Tử thi rằng:
Khuyên nhủ người đời học Thánh hiền,
Vinh hoa phú quý cũng đồ nhiên:
Thân này sẵn có trường sanh rượu,
Vóc đây đâu thiếu dưỡng mạng tiền.
Sắc ấy là không, không ấy sắc,
Tiên là chỗ tánh, tánh là tiên;
Thế gian nghe đặng thơ Ta khuyến,
Kíp sớm hồi đầu lên pháp thuyền.
HỰU
Khuyên cả Nguyên Nhơn chí Thánh Hiền,
Giàu sang danh lợi dễ gì yên;
Người người sẵn có trường sanh tửu,
Thế thế nào không dưỡng mạng tiền.
Sắc ấy vốn không, không vốn sắc,
Tiên nguồn Tổ Tánh, Tánh nguồn Tiên;
Bằng ai nghe rõ lời khuyên nhủ,
Sớm kíp quày chơn thượng Pháp thuyền.
* * * * * * *
THÁNH ĐẠO: Phẩm Thứ Mười Lăm (15):
Vi hóa chúng sanh, danh vi đắc Đạo, năng ngộ chi giã, khả
truyền Thánh Đạo.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
31
Nghĩa là: Chuyển hóa chúng, gọi là đặng Đạo hay tỉnh đó vậy, khá
truyền Thánh Đạo.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu “vi hóa chúng sanh ấy”, chữ “vi” là chuyển ý, chữ “hóa” là
phổ độ, chữ “chúng” là cả thảy, chữ “sanh” là: trai lành, gái tín,
khuyên hóa chín mươi sáu (96) ức kẻ chúng sanh về Tây mới kêu là
đắc Đạo.
Câu “danh vi đắc Đạo” ấy là:
Chữ “danh” là Dương danh, chữ “vi” là giúp nên, chữ “đắc” là thọ
trì, chữ “Đạo” là công phu khuyên hóa kẻ chúng sanh trau Đạo.
Công Đức rộng lớn, tự bề ngoài mà đặng hiệp vào trong, cho nên
gọi là đặng Đạo vậy.
Câu “năng ngộ chi giã” ấy là: chữ năng là: hay làm, chữ ngộ là
xét tột lẽ, hết Tánh dùng đến Mạng, phải siêng năng Tham Thiền
chịu khó nhọc, năng hái thuốc, phải từ trong đến ngoài gia công
mới đặng.
Câu “khả truyền Thánh Đạo” ấy là: chữ “khả” là khá dùng, chữ
“truyền” là độ người, chữ “Thánh” là bực Cao Nhơn, chữ “Đạo” là
Thiên cơ vậy. Công đầy, quả đủ, lãnh thọ, Mạng Trời thì mới nên
truyền Đạo vậy.
Nếu người chưa đặng quả ấy mà cao vọng làm Thầy làm Tổ thì
phải đọa chẳng chơi. Ông Lữ Tổ nói rằng người phải người, độ siêu
phàm thế, rồng phải rồng giao khỏi ô nê.
Chưa lãnh Mạng Trời chẳng khá truyền Đạo.
Đạo Nho nói rằng: húy thiên mạng, húy đại nhơn, húy thánh
ngôn chi ngôn. Tiểu Nhơn bất tri Thiên Mạng, nhi bất húy dã. Nghĩa là: sợ Mạng Trời, sợ người Đức lớn, sợ lời nói của Đức
Thánh Nhơn, kẻ Tiểu Nhơn chẳng biết mạng Trời nên chẳng sợ
vậy.
Người đời có biết cái gốc sanh mình chăng? Từ khi cha mẹ giao
cảm Diên Hống tương đầu thọ Khí Huyết mà kết thành “thai”. Đến
sau hoài thai đặng một tháng là ba trăm sáu chục (360) giờ thì khí
vô cực mới thành, từ đó về sau nửa tháng sanh khí dương, nửa
tháng sanh khí âm, từ một tháng kể tới, thì nửa tháng khí Vô Cực
một lần động mà sanh Khí Dương Hoàng Cực, lại nửa tháng Khí
Vô Cực một lần tịnh mà sanh Khí Âm Hoàng Cực ấy là hoài thai đã
đặng hai tháng vậy.
Lại nửa tháng Khí Hoàng Cực một lần động mà sanh Khí Dương
Thái Cực, lại nửa tháng khí Hoàng Cực một lần tịnh mà sanh Khí
Âm Thái Cực ấy là hoài thai đã đặng ba tháng vậy.
Lại nửa tháng Khí Thái Cực một lần động mà sanh Khí Lão
Dương, lại nửa tháng khí thái cực một lần tịnh mà sanh Khí Lão
Âm ấy là hoài thai đã đặng bốn tháng vậy.
Rồi lại nửa tháng Khí Lão Dương một lần động mà sanh Khí Thái
Dương, lại nửa tháng khí Lão Âm một lần tịnh mà sanh Khí Thái
Âm, ấy là hoài thai đã đặng năm tháng vậy.
Lại nửa tháng Khí Lão Dương một lần tịnh mà sanh Khí Thiếu
Âm. Lại nửa tháng Khí Lão Âm một lần động mà sanh Khí Thiếu
Dương, ấy là hoài thai đã đặng sáu tháng vậy.
Lại nửa tháng Khí Thái Dương một lần động mà sanh Cung Càn,
lại nửa tháng Khí Thái Âm một lần tịnh mà sanh Cung Khôn, ấy là
hoài thai đã đặng bảy tháng vậy.
Lại nửa tháng Khí Thái Dương một lần tịnh mà sanh Cung Đoài,
lại nửa tháng Khí Thái Âm một lần động mà sanh Cung Cấn, ấy là
hoài thai đã đặng tám tháng vậy.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
32
Lại nửa tháng Khí Thiếu Âm một lần động mà sanh Cung Ly, lại
nửa tháng Khí Thiếu Dương một lần tịnh mà sanh Cung Khảm, ấy
là hoài thai đã đặng chín tháng vậy.
Lại nửa tháng Khí Thiếu Âm một lần tịnh mà sanh Cung Chấn, lại
nửa tháng Khí Thiếu Dương một lần động mà sanh Cung Tốn, ấy là
hoài thai đã đặng mười tháng vậy.
Bởi Khí Vô Cực mà sanh Khí Hoàng Cực, bởi Khí Hoàng Cực mà
sanh Khí Thái Cực do Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, do Lưỡng Nghi
sanh Tứ Tượng, do Tứ Tượng sanh Bát Quái muôn vật châu thân ba
trăm sáu mươi lăm (365) lóng xương tám mươi bốn ngàn (84000)
sợi lông và lỗ chân lông, đều do Vô Cực Thánh Đạo mà sanh ra đó
vậy.
Bà Đẩu Mẫu Ngươn Quân thi rằng:
Biết đặng sanh mình Tánh bèn qui,
Không chẳng làm là Đạo Vô Vi.
Muôn nhành một cội lui nơi kín,
Sanh Thánh sanh Phàm lấy đó suy.
HỰU
Rõ chỗ sanh tánh ắt khỏi hồi,
Không làm chẳng phải chẳng làm mồi.
Gom về một mối tàng nơi kín,
Nên Thánh nên Hiền cũng thế thôi.
Quan Âm Cổ Phật thi rằng:
Khá truyền Thánh Đạo lãnh từ Hàng,
Phổ độ quần mê luyện tánh quan.
Hiểu thấu tiên thiên thanh tịnh đạo,
Kim Tiên bất lão sống diên tràng.
HỰU
Ai người lãnh thọ đặng kỳ truyền,
Giác ngạn mau chơn xuống pháp thuyền.
Thẳng đến Tây Thiên miền Cực Lạc,
Không già không chết hưởng diên niên.
TIÊU TRƯỞNG: Phẩm Thứ Mười Sáu (16):
Thái Thượng Lão Quân viết:
Thượng Sĩ vô tranh, hạ sĩ háo tranh.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
33
Nghĩa là: Ông THÁI-THƯỢNG LÃO-QUÂN nói rằng: Bực
thượng sĩ không tranh, bực hạ sĩ ham tranh.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ “thái” là lớn cả, chữ “thượng” là lớn cao, chữ “Lão” là xưa
trước, chữ viết nói rằng, bực “thượng sĩ” là căn cơ rộng lớn, tinh
hoa sáng suốt, bực “hạ sĩ” là người học ít, nền cội cạn hẹp mà hay
cố chấp vậy.
Chữ “Vô Tranh” là tánh trầm tịnh, bao dung, thâm hậu.
Chữ “Háo Tranh” ấy là ham cao háo thắng vậy.
Đức Lão Quân nói: Tâm của bực Thượng Sĩ tức là tâm của
Thánh Nhơn, bao gồm Trời Đất, trọn vẹn lẽ Trời, cả tâm chí người
hiền, kẻ ngu đều bao gồm hết, hòa quan hỗn tục, tự khiêm, tự ty,
giấu mạnh, cất bạo, chẳng lộ khoe giác, ngoài tròn trong vuông, làm
việc thì nói theo Thiên Lý mở lời thì thuận với lòng người, như vậy
thì nào có tranh.
Câu “Hạ sĩ háo tranh” ấy là: Bực Hạ Sĩ cũng là người ham học,
ngặt vì nền cội cạn hẹp, học chẳng đến địa vị Thánh Hiền, nên phần
nhiều có ham cao cố chấp riêng tây, háo thắng, khoe mình là giỏi,
luận bàn phải quấy, cho nên gọi là ham tranh vậy. Bực Thượng Sĩ
như tấn khí Dương, là cái đạo của người Quân Tử, bực Hạ Sĩ như
tấn khí Âm, là cái bớt của kẻ tiểu nhơn vậy, cái lẽ thêm bớt Khí
Âm Dương, và cái đạo còn mất, tới lui chẳng khá mà chẳng biết
vậy, con người thuở mới sanh ra mình dịu như lụa, ấy là cái Tượng
quái khôn mềm như vậy, đến 960 ngày ấy là 32 tháng thì mới đổi
một hào khí mới sanh ra thuộc Quái Khôn, đến 2 tuổi lẻ 8 tháng
tấn một khí dương, biến Quái Khôn làm Quái Phục, đến 5 tuổi lẻ 4
tháng tấn 2 khí dương, biến Quái Phục làm Quái Lâm, đến 8 tuổi
tấn 3 khí dương, biến Quái Lâm làm Quái Thới, đến 10 tuổi lẻ 8
tháng tấn 4 khí dương, biến Quái Thới làm Quái Tráng, đến 13
tuổi lẻ 4 tháng tấn 5 khí dương biến Quái Tráng làm Quái Khuyết,
đến 16 tuổi tấn 6 khí dương biến Quái Khuyết làm Quái Càn, ấy là
6 HÀO THUẦN DƯƠNG đó là ngôi của bực Thượng Sĩ vậy, như
lúc này mà tu luyện thì mau lên cõi Thánh, từ đây đến sau hễ 96
tháng là 8 năm, thì biến một hào, trong buổi này mà chẳng tu thì lần
lần thành ra bực Hạ Sĩ, đến 24 tuổi tấn 1 khí âm, biến Quái Càn
làm Quái Cấu, trong buổi này mà lo tu, chẳng lâu sẽ phục lại vậy,
bằng chẳng lo tu đến 32 tuổi tấn 2 khí âm, đổi Quái Cấu làm Quái
Độn, buổi này bằng lo tu luyện cũng còn dễ thành công, nhược
bằng chẳng tu để đến 40 tuổi tấn 3 khí âm, biến Quái Độn làm Quái
Bỉ, trong buổi này mà lo tu lyện cũng khá tấn công đặng, nhược
bằng chẳng lo tu để đến 48 tuổi, tấn 4 khí ấm, biến Quái bỉ làm
Quái Quan, tới buổi này mà lo tu luyện lâu ngày mới đặng thành
công, nhược bằng chẳng lo tu để đến 56 tuổi tấn 5 khí âm, biến
Quái Quan làm Quái Bác, đến lúc này lo tu luyện phải học hành
cực khổ lắm mới nên đặng, nhược bằng không tu để đến 64 tuổi tấn
6 khí âm, đổi Quái Bác làm Quái Khôn, ấy là khí Âm trọn, đã hết
khí Dương, Quái Khí đã đủ rồi đến lúc này còn lại khí dương dư
chút đỉnh, nếu gắng chí tu luyện thì khá tùng trong khí âm mà câu
kết mối chơn dương, trong chỗ chết lần ra chỗ sống, nhược bằng
chẳng chịu tu, đợi đến khí dương dư đã hết thì tránh đâu cho khỏi
số vô thường kêu cửa, một hơi thở hết rồi; Ôi thôi! Đến lúc ấy nghĩ
lại sống suốt một đời, nào có khác gì một giấc chiêm bao, tỉnh mê
trong giây lát vậy, kính khuyên người đời chớ luận tuổi già, tuổi trẻ,
kíp sớm hồi đầu làm nên lẽ phải, chớ khá chờ đến buổi gần chết
mới chịu ăn năn, dầu có muốn tu, tu làm sao cho kịp nào.
Nhẫn Nhục Tiên Nhơn thi rằng:
Thượng Sĩ không tranh, thiệt Thánh Công.
Rõ ràng tam giáo vốn một giòng.
Thái hòa không ngại, thái hòa nhiệm,
Sắc tướng chớ lầm, sắc tướng không.
Nguyện rạng khắp soi ngoài bốn biển,
Ngàn sông làu chói tam tài trong.
Dương đầy tiên tử, âm đầy quỉ,
Người đời đâu biết ấy tròn trong.
HỰU
Thượng Sĩ còn tranh luận với ai,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
34
Suốt thông tam giáo thật chơn tài.
Thái hòa chẳng ngại, thái hòa diệu
Sắc tướng không hoài, sắc tướng khai.
Nhựt nguyệt rõ ràng tròn bốn biển,
Giang sang ánh rạng khắp ba tài.
Dương là tiên tử, âm là quỉ,
Chớ vội vàng toan liệu siển sai.
ĐẠO ĐỨC: Phẩm Thứ Mười Bảy (17):
Thượng Đức bất đức, hạ đức chấp đức, chấp trước chi giã, bất
minh đạo đức.
Nghĩa là: Bực thượng đức chẳng đức, bực hạ đức cầm đức, chấp
mất chẳng rõ đạo đức.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu “Thượng-Đức Bất-Đức” ấy là: Chẳng phải là người bực
thượng đức, lại chẳng tôn trọng cái đức. Vì bực thượng đức là thuộc
Tiên Thiên, năm đức đều trọn, ở Đạo Nho thì dùng “Tam-Can
Lãnh” là: Tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ Ư chí-thiện.
“Năm Giềng” là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín mà làm đức, dùng
trung thứ mà lập hạnh, Ở Đạo Thích thì dùng “Tam-Qui” là: Qui
Y Phật, Qui Y Pháp, Qui Y Tăng và “Ngũ Giới” là sát sanh, trộm
cắp, tà-dâm, nói láo, uống rượu, si mê mà làm đức, dùng “Từ-Bi”
lập hanh. Ở Đạo Tiên thì “Tu Luyện” Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ
mà làm đức, dùng “Cảm Ứng” mà lập hạnh, năm đức trọn vẹn
chưa nhiễm khí hậu thiên nên gọi là “Thượng-Đức” vậy, dầu có
nhiễm khí hậu thiên, mà đem lại khí Tiên Thiên đặng, thì cũng cho
là bực Thượng Đức, đức ấy vốn thiệt trong mình sẵn có, chẳng phải
đợi tìm ở ngoài, cho nên gọi rằng: “Thượng Đức Bất Đức” vậy.
Câu “Hạ Đức” mà lại tôn trọng cái đức, vì người bực hạ đức đã
nhiễm khí Hậu Thiên, năm đức, năm ngươn lần lần mất hết, nếu
chẳng dùng đạo mà nói cái đức, thì cũng khó đem lại khí Tiên
Thiên, làm sao kêu là chấp đức, là biết chỗ lỗi mau cải hóa, biết tội
phải sám hối:
Răn việc sát sanh mới nên nhơn.
Răn việc trộm cắp mới nên nghĩa.
Răn việc tà dâm mới nên lễ.
Răn việc ăn thịt, uống rượu mới nên trí.
Răn việc nói láo mới nên tín.
Mà Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín năm đức do gắng gượng mà đến
cho nên gọi rằng bực hạ chấp đức là vậy.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
35
Câu “Chấp trứ chi giã Bất Minh Đạo Đức” ấy là: Chữ “Chấp” là
chấp mê, chữ “Trứ” là mắc tướng, chẳng tin việc âm công chẳng rõ
đạo đức.
1. Thấy người răn việc sát sanh, đặng phóng sanh linh mà dùng
nhơn thì lại nói rằng: khinh thân người mà trọng súc vật.
2. Thấy người răn việc trộm cắp, dùng của tiền bố thí cho người
nghèo khổ, mà dùng nghĩa, thì lại nói rằng: bổn phận đã không
lo mà còn ngăn đón mối nợ người.
3. Thấy người răn tà dâm, đặng giữ thân thể mà dùng nên lễ, thì
lại nói rằng: dứt người dâm dục bạc tình, làm cho mất thế giới.
4. Thấy người răn việc ăn thịt, uống rượu mà dùng trí, thì lại nói
rằng: loài lục súc vốn để cho người ăn có quan hệ chi.
5. Thấy người răn việc nói láo, đặng giữ tánh thiệt mà nên chữ
tín, thì lại nói rằng: hễ bụng tốt thì thôi không cần chi lời nói.
Mỗi mỗi đều cố chấp chẳng thông, khó kể cho hết nên gọi rằng:
“Bất minh đạo đức”. Há chẳng biết Khổng-Thánh-Nhơn chỗ
nói: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Đức Thái-Thượng trị hạ Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Phật Thích-Ca thị rằng: Sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói láo, uống rượu, ấy là nói sao vậy.
1. Nếu chẳng giới Sát Sanh thì không Nhơn, khuyết Mộc, ở trên
Trời thì sao Tuế Tinh chẳng yên, ở dưới đất thì phương Đông
có tai nạn, ở nơi người thì tạng Can Đởm bị hại vậy.
2. Nếu chẳng răn Trộm Cắp thì không Nghĩa, mà khuyết Kim ở
trên Trời thì sao Thái Bạch chẳng an, ở dưới đất thì phương
Tây có tai nạn, ở nơi người thì tạng Phế và Đại Trường bị hại
vậy.
3. Nếu chẳng giới Tà Dâm thì không Lễ mà khuyết Hỏa, ở trên
Trời thì sao Huỳnh Bạch chẳng an, ở dưới đất thì phương Nam
có tai nạn, ở nơi người thì Tạng Tâm và Tiểu Trường bị hại
vậy.
4. Nếu chẳng giới ăn thịt, uống rượu là không Trí, mà khuyết
Thủy, ở trên Trời thì sao Thần Tinh chẳng an, ở dưới Đất thì
phương Bắc có tai nạn, ở nơi người thì Tạng Thận và Bàng
Quang bị hại vậy.
5. Nếu chẳng răn nói láo, thì không Tín, mà khuyết Thổ, ở trên
Trời thì sao Trấn Tinh chẳng an, ở dưới Đất thì Trung Ương
có tai nạn, ở nơi người thì Tạng Tỳ bị hại vậy. Hỡi ôi! Thương
thay.
THIÊN HUÊ CHƠN NHƠN thi rằng:
Tiên-Thiên, Thượng Đức tánh thuần dương,
Rằng khứng tu hành quả thiệt cường.
Ngũ-Đức Ngũ Ngươn ba báu đủ,
Cần chi chấp Đức phải lao trường.
HỰU
Tiên Thiên, Thượng Đức bởi thuần dương,
Gắng chí tu nên thật tráng cường.
Năm Đức Năm Ngươn ba báu đủ,
Cần chi chấp đức phải phô trương.
THỂ-HÀ-TIÊN thi rằng:
Tam-Giáo nguyên lai một lý đồng,
Nào hay phân biệt ở Tây Đông.
Tam-Huê, Tam-Bửu, tam Quy rõ,
Ngũ-Đức, Ngũ-Hành, Ngũ giới đồng.
HỰU
Tam-Giáo nguyên lai một thể đồng,
Mựa đừng phân rẽ kẻ Tây Đông.
Ba-Huê, Ba Báu, Ba ngươn ý,
Năm-Đức, Năm-Hành một cội trong.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
36
VỌNG TÂM: Phẩm Thứ Mười Tám (18):
Chúng sanh bất đắc Chơn Đạo giã vi hữu vọng tâm.
Nghĩa là: Chúng sanh chỗ lấy chẳng đặng Chơn Đạo ấy là vì có
vọng tâm.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu “Chúng sanh sở dĩ bất đắc Chơn Đạo giã” ấy là: Trong
Thiên hạ, Thiện nam, Tín nữ chung cả chúng sanh, chơn đạo ấy là:
Tiên Thiên Đại Đạo, chẳng phải ba ngàn sau trăm (3600) Bàng
Môn đó vậy, câu “Vi hữu vọng tâm” ấy là: chữ Vong và chữ Nữ là
chữ Vọng, vả lại Tâm người thuộc Quái Ly, Quái Ly là chữ Nữ là
hình gái lại là Mặt Nguyệt, Mặt Nhật là Chủ Tể các vì Tinh Tú
mà chữ Nữ là thuộc Âm là tượng trưng hậu phi chánh trực vô tư,
soi sáng trong thiên hạ, sanh hóa muôn vật, nuôi dưỡng chúng sanh,
mà nếu có vọng tâm mà mất chữ Nữ là mất chơn linh. Trên Trời
chơn linh là mặt Nhật, nơi người là ngươn Thần, mà ngươn Thần
tức là tâm vậy, nếu vọng khước cái tâm thì còn do đâu mà dấy sự
sanh hóa vậy, điều vọng khước cái tâm là do nơi tửu, sắc, tài, khí,
danh, lợi, ân, ái, dẫn dắt vậy, vọng tưởng uống rượu đặng dưỡng
thân há chẳng rõ cái hại trong rượu, làm mê tâm loạn tánh, thân
người khí mạch cũng đồng với Trời, Đất, cái hơi lên xuống doanh
khắp xây vần, hễ uống rượu vào thì khí mạch chẳng thuận, khí
mạch chẳng thuận thì kinh mạch đều sai, nếu kinh mạch đều sai thì
thọ ngươn phải vắn vậy.
1. Vọng tưởng sắc đẹp đặng gần mình, há chẳng biết trong sắc
đẹp nó có hại là: nó cạo xương, gọt cốt, chặt hồn phách con
người, thân người nhờ có Tinh mà sanh Khí, nhờ Khí mà
sanh Thần, trong có đủ ba món Báu ấy người mới sống lâu,
mà hễ Tinh huyết hao thì sanh Khí chẳng đặng. Khí suy thì
sanh Thần chẳng đặng, mà hễ ba món Báu ấy mà hao tán thì
Thọ Ngươn phải vắn vậy.
2. Vọng tưởng Tiền của đặng no ấm trong nhà há chẳng biết
cái hại. Trọng tiền của là: ngày, đêm lo lắng, trăm điều khó
nhọc, cái “Điểm Tinh Khí Thần” làm cho hao tán, dầu có
giàu đặng ngàn vàng đi nữa cũng khó mua đặng Quỉ Vô
Thường không bắt, nếu ba tấc hơi mà dứt rồi thì cũng tay
không, không đem theo một phân hào, duy có tội dữ nó theo
mình, phải đọa lạc vào Tứ sanh Lục đạo, chuyển kiếp
không thôi. Khá thương thay! Ham tranh đấu khi đặng làm
oai anh hùng, há chẳng biết hại trong khi giận: là việc nhỏ
chịu không đặng, thì thành ra việc lớn, đến đỗi phải mất
nhơn mạng, hay là việc nầy, việc nọ phải đến quan làng, tù
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
37
tội, trăn trối, làm cho hư nhà, hại cửa, vợ hờn, con giận,
chừng ấy có ăn năn cũng muộn vậy.
3. Vọng tưởng danh vị đặng dùng để vinh thân, há chẳng biết
trong cái hại của chữ “danh” là tập nghề văn thì lao tâm,
còn tập nghề võ thì lao hình, cả một đời sống dầu có làm
quan đến cực phẩm đi nữa cũng khó mua đặng số trường
sanh: nếu làm Trung Thần, hay Lương Tướng, đến sau
thác thì đặng làm thần, còn làm gian đảng, làm nghịch tặc
thì đến sau thác phải sa vào chốn trầm luân vậy.
4. Vọng tưởng ân ái đặng ôm ấp bên mình, há chẳng biết cái
hại trong tình ân ái là: Nếu như mình có tiền, có bạc, thì vợ
nó kính, con nó thảo, nếu như mình nghéo khó, thiếu thốn,
thì vợ ắt chẳng hiền, con ắt chẳng thảo, mà dầu có vợ hiền
con thảo đi nữa, thì ắt thương vợ mến con, bị ràng buộc,
một mai mà ba tấc hơi dứt rồi, thì ai là vợ, còn ai là con,
việc mình làm thì mình chịu lấy, dầu vợ con nó có thương
mến cách nào cũng chẳng thay thế cho mình đặng vậy.
Nên kính khuyên người đời, nếu đem việc giả ấy mà trừ cho hết
chẳng nên quan tâm tới nó, nhược bằng chẳng vậy, thì dầu có tận
tâm, tận chí, tận tính, tận thành, trường trai, giới sát cho mãn kiếp,
trọng kính, bái lạy, Phật, Thánh, Tiên mà chẳng tìm ra Đạo cả,
chẳng bỏ vọng niệm, chẳng diệt lòng phàm, dầu có trường trai khổ
hạnh, lạy Phật tụng kinh thế mấy đi nữa cũng không thể nào mà giải
thoát khỏi cõi trần này đặng.
Tẩy Trần-Tử thi rằng:
Rửa sạch hồng trần học Phật Tiên,
Không lo không tưởng rất ổn yên.
Chẳng tham Tửu, Sắc, Tài cùng Khí,
Học pháp trường sanh sống vạn niên.
HỰU.
Phủi sạch tâm phàm học Thánh Tiên,
Không lo không liệu học Chơn Nguyên.
Chẳng ham Tửu, Sắc, Tài cùng Khí,
Thoát khỏi hồng trần sống vạn niên.
NHƠN THẦN: Phẩm Thứ Mười Chín (19):
Ký hữu vọng tâm tức kinh kỳ thần.
Nghĩa là: Đã có vọng tâm thì kinh những Thần.
Ông Thủy-Tinh-Tử giải rằng:
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
38
Chữ “Ký” là đã nên vậy, chữ “Hữu” là có thiệt vậy, chữ “Vọng”
là vọng động vậy, chữ “Tâm” là Thần vậy, chữ “Tức” là định chắc
vậy, chữ “Thần” là Chủ vậy.
Đây là nương theo bài trước mà nói vậy, tất cả kẻ Sĩ luyện Đạo
chẳng nên khởi Vọng niệm, nếu vọng tâm mà khởi thì kinh động
Ngươn Thần, ngươn thần tàng ẩn nơi Tâm, còn tâm của Thần thì
ẩn nơi con mắt. Trong Khuê Chỉ Tánh Mạng nói rằng: Thần của
Trời là tựu nơi mặt Nhựt, Thần của người là tựu nơi con Mắt, cái
Tâm là chủ soái các vị Thần, con Mắt là tiên phuông chỗ tựu các
Thần. Vả lại trong thân con người cộng hết thảy là Sáu Mươi Bốn
(64) Vị-Thần, đặng ứng theo số sáu mươi bốn quái vậy. Con người
ban đầu thọ thai, trước hết khí Vô-Cực, theo khí Vô-Cực mà sanh
khí Thái Cực, theo khí Thái Cực mà sanh khí Lưỡng Nghi, theo
khí Lưỡng Nghi mà sanh khí Tứ-Tượng, theo Tứ-Tượng mà sanh
Bát-Quái. Châu thân trăm vóc, do một gốc mà tán ra muôn nhánh,
gom về 64 quái đều gom về 4 quan, đều gồm về Bát Quái, do Bát
Quái gồm về Tứ Tượng, do Tứ Tượng gồm về Lưỡng Nghi, do
Lưỡng Nghi gồm về Thái Cực, do Thái Cực gồm về Vô-Cực đó là
muôn nhánh gồm về một gốc đó vậy, là cái Đạo sanh bực Thánh
đó vậy, chẳng biết người trau Đạo có biết cái lẽ một gốc đó chăng?
Thoảng như chẳng rõ mau mau Tích Đức cho cảm động Lòng Trời
thì sẽ gặp Minh Sư chỉ bày một gốc đạo cả, mỗi ngày giữ chặt một
Gốc chẳng cho Ngươn-Thần dời đổi ra muôn nhánh, thì nào có
vọng tâm mà kinh động Ngươn Thần vậy. Thần là chủ mà chẳng
kinh động thì 64 vị Thần chung quanh đều hỗn-hiệp với Ngươn-
Thần, hễ ngươn thần mà đặng chúng thần hỗn hợp thì sáng suốt ắt
rộng lớn, mà hễ Thần đặng thạnh vượng thì sanh Tánh-Linh, mà
hễ có Tánh-Linh thì đạo Thần Tiên xong vậy. Còn phải học thêm
cho thông hiểu phép chuyển Huyền-Công luyện thành Ngươn-
Thần thì chừng ấy mới chứng đặng Ngôi Đại La Kim Tiên. Cùng
lập thêm công ngoài đặng bồi bổ, thì thăng lên chứng Quả Đại-La
Thiên-Tiên vậy. Vả chỗ Gốc là phép cửu chuyển đây phải nhờ
Minh Sư truyền dạy mới rõ đặng. Còn trong mình có 4 bộ chức sắc
là: Xuân Quan – Hạ Quan –Thu Quan – Đông Quan, mỗi bộ có
16 quan chức, cộng chung 4 cái 16 là 64 ứng với 64 Quái. Ta lược
16 quan chức nội Bộ Xuân Quan để cho dễ hiểu vậy.
1. Tâm là chức Quân Chủ Thần tỏ sáng suốt do nơi đó mà ra vậy.
2. Con Mắt là chức Giám Sát Quan các sắc chi đều do nơi đó mà
thấy vậy.
3. Cái Miệng làm chức Xuất Nạp Quan lời nói do nơi đó mà ra vậy.
4. Lỗ Tai làm chức Thể Thính Quan các tiếng chi do nơi đó mà
nghe vậy.
5. Lỗ Mũi làm chức Thần Biện Quan mùi thơm, hôi đều do nơi đó
mà biết vậy.
6. Can làm chức Tướng Quân Quan mưu sự do nơi đó mà ra vậy.
7. Phế làm chức Tướng Truyền Quan trị tiết do nơi đó mà ra vậy.
8. Bao Tử làm chức Gián Nghị Quan châu tri do nơi đó mà ra vậy.
9. Thận (cật) làm chức Tác Cường Quan, hay khéo đều do nơi đó
mà ra vậy.
10. Đởm (mật) làm chức Trung Chánh Quan quyết đoán đều do nơi
đó mà ra.
11. Vị làm chức Vương Lâm Quan phân biệt do nơi đó mà ra vậy.
12. Tỳ làm chức Thần Sứ Quan, vui mừng do nơi đó mà ra vậy.
13. Tiểu-Trường làm chức Thọ Thanh Quan hóa vật do nơi đó mà
ra vậy.
14. Đại-Trường làm chức Truyền Đạo Quan biến hóa vật dụng nơi
đó mà ra.
15. Bàng-Quang làm chức Châu Đạo Quan nước tiểu do nơi đó mà
ra vậy.
16. Tam-Tiêu làm chức Khuyết Độc Quan thủy đạo do nơi đó mà ra
vậy.
Ấy là 16 quan chức trong bộ Xuân Quan mà cả thảy 64 ở trong
bốn bộ, đều phải tùng quyền điều động của Thần Tâm mà phải tôn
vị Thần Tâm làm vua.
Các lẽ ấy đều do nơi mình hành đạo, sao cho đúng lẽ phải, thì
Tạng Tâm mới được trọn quyền làm Chủ Tể trong thân mình,
chừng ấy liền phong tước cho Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, làm tứ tướng:
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
39
là bốn tướng chánh, còn kỳ dư kế đó tất cả ngàn muôn Thần đều
phải theo mạng lịnh Vua là Tạng Tâm thì Ngôi Tiên, Phật làm sao
mà không nên được vậy.
Văn-Xương Đế Quân thi rằng:
Vọng niệm kinh Thần tán vạn phương,
Hồn về Địa phủ mất Chơn Dương.
Giá lạnh sóng dữ từng từng dợn,
Núi giáo rừng gươm chốn chốn chường.
Một tưởng hồi dương gìn giữ đạo,
Tam điền khí thấu đặng Kim Đơn.
Khuyên người kíp sớm qui Thanh Tịnh,
Chẳng uổng nhơn gian khổ trăm đường.
HỰU
Tán loạn Tâm Thần tưởng vạn phương,
Làm cho Linh Tánh thất Chơn Dương.
Qui đầu Địa Phủ hàn băng hãm,
Đọa lạc Âm hà kiến kích dương.
Một niệm hào Dương hành đạo luật,
Tam điền khí hậu đắc Đơn Dương.
Nếu không sớm gấp quay đầu lại,
Chẳng khác canh thâu giấc mộng trường.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
40
VẠN-VẬT: Phẩm Thứ Hai Mươi (20):
Ký Kinh kỳ Thần tức trước vạn vật.
Nghĩa là: Đã kinh những Thần thì mắc muôn vật.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ “Ký” ấy là việc đã qua vậy, chữ “kinh” ấy là chẳng an vậy,
chữ “Thần” ấy là Ngươn Thần vậy. Chữ “Tức” ấy là đến chừng đó
vậy. Chữ “Trước” ấy là cố chấp vậy, chữ “Vạn” ấy là bao trùm cả
thảy vậy, chữ “vật” ấy là các vật có hình thể vậy, vả như người có
vọng tâm thì Ngươn Thần tùy theo Thức Thần dẫn dắt, chẳng tư
tưởng muôn vật trên Trời, thì cũng tư tưởng muôn vật dưới Đất,
chẳng tư tưởng muôn vật ngoài thế sự, thì cũng tư tưởng muôn vật
trong thân mình, mà muôn vật trong Trời chẳng qua là: Nhựt,
Nguyệt, Tinh, Thần, Mây, Mưa, Sấm, Gió. Tám chữ đó cũng bao
gồm cả trên Trời, muôn vật dưới Đất chẳng qua là: Sơn-Xuyên,
Thảo-Mộc, Ngũ-Hành, Tứ-Sanh. Tám chữ đó cũng bao gồm tất
cả dưới Đất, còn muôn vật ngoài thế sự chẳng qua là: Danh, Lợi,
Ân, Ái, Tửu, Sắc, Tài, Khí, tám chữ đó dầu việc chi cũng bao gồm
trong thế sự, còn muôn vật trong Thân Người chẳng qua là: Hào,
Mao, Khổng, Khiếu, Tinh, Huyết, Cốt, Nhục, tám chữ đó dầu
bao nhiêu cũng gồm trong Thân Mình cả. Mà muôn vật trên trời,
muôn vật dưới Đất, muôn vật ngoài thế sự và muôn vật trong Thân
Mình Người cũng gom về Tiên Thiên, Bát Quái sanh hóa ra vậy.
Nguyên lai Tiên-Thiên Bát-Quái đối lại là:
Quái Càn phương Nam
Quái Khôn phương Bắc
Quái Ly phương Đông
Quái Khảm phương Tây
Ấy là bốn ngôi chánh vậy.
Quái Chấn ở Đông-Bắc
Quái Tốn ở Tây-Nam
Quái Cấn ở Tây-Bắc
Quái Đoài ở Đông-Nam
Ấy là bốn ngôi gốc vậy.
ẤY gọi là BÁT QUÁI đối với nhau vậy:
Quái Càn ba hào Dương đối với Quái Khôn ba hào Âm nên gọi
là: TRỜI, ĐẤT ăn ngôi vậy. Quái Chấn dưới một hào Dương
giữa, trên hai hào Âm đối với Quái Tốn, dưới một hào Âm giữa
trên hai hào Dương nên gọi là Sấm Gió bắt nhau vậy, Quái Khảm
giữa một hào Dương ngoài hai hào Âm đối với Quái Ly giữa một
hào Âm ngoài hai hào Dương gọi là Thủy Hỏa bất tương xạ, Quái
Cấn trên một hào Dương, giữa và dưới hai hào Âm đối với Quái
Đoài trên một hào Âm, giữa và dưới hai hào Dương, nên gọi là Núi
Đầm Không Khí vậy.
Ấy gọi rằng hào tương chiếu đối cùng nhau vậy:
Quái Hào đối nhau thì gọi là Khí Tiên Thiên, mà Trời chẳng dời
đổi là cái Đạo Thành Thánh vậy. Nhưng sau khi ấy tùng Khí
Hồng Mông phân tán nên hào Dương giữa Quái Càn gởi đi giao
hào Âm giữa Quái Khôn biến Quái Khôn làm Quái Khảm, hào
Âm giữa Quái Khôn đi giao hào Dương giữa Quái Càn biến Quái
Càn làm Quái Ly, hào Âm trên Quái Khảm đi giao hào Dương
trên Quái Ly biến Quái Ly làm Quái Chấn, hào Dương dưới Quái
Ly đi giao hào Âm dưới Quái Khảm biến Quái Khảm làm Quái
Đoài, trên và giữa hai hào Âm Quái Chấn đi giao trên và giữa hai
hào Dương Quái Tốn biến Quái Tốn làm Quái Khôn, hào Dương
trên và hào Âm Quái Tốn đi giao hào Âm trên và hào Dương dưới
Quái Chấn biến Quái Chấn làm Quái Cấn, hào Dương trên và hào
Âm dưới Quái Cấn đi giao hào Âm trên và hào Dương dưới Quái
Đoài biến Quái Đoài làm Quái Tốn, giữa và dưới hai hào Dương
Quái Đoài đi giao giữa và dưới hai hào Âm Quái Cấn biến Quái
Cấn làm Quái Càn cho nên:
Quái Ly phương Nam
Quái Khảm phương Bắc
Quái Chấn phương Đông
Quái Đoài phương Tây
Quái Càn ở Tây-Bắc
Quái Tốn ở Đông-Nam
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
41
Quái Cấn ở Đông-Bắc
Quái Khôn ở Tây-Nam
Khí Tiên Thiên biến thành Khí Hậu Thiên. Khí Hậu thiên là
Khí Lưu Hành, cho nên Khí Hậu Thiên phải tuân theo mạng linh
Thiên Trời là cái phép Viên Mãn vậy, chỗ dùng thiệt chẳng dè,
chớ Khí Tiên Thiên là nguồn cội của Đạo Vô Vi, còn Khí Hậu
Thiên là Kết Thuật của Hữu Vi.
Cho nên chẳng đặng thành Phật thành Tiên ấy vì cớ như vậy:
Khương Tiết Phu Tử thi rằng:
Muôn vật Nguyên lai ở tại Thân,
Thiên Văn Địa Lý cũng đồng gần.
Phàm phu chẳng Xét nguyên đồng lý,
Hồn xuống U-Minh Đất lấp thân.
HỰU
Vạn vật nguyên lai một tấm thân,
Dầu cho Trời Đất cũng đồng cân.
Phàm phu nếu chẳng tường nguyên lý,
Ắt khó lìa nơi đại ngục trần.
Tử Tư Phu Tử thi rằng:
Chẳng sanh vọng niệm chẳng kinh Thần,
Đâu hay bày vật tối thiên chân.
Khuyên người kíp kiếm linh minh khiếu,
Dưỡng tánh gìn lòng học Thánh Tiên.
HỰU
Không riêng một niệm khỏi kinh thần,
Trước tướng vật thì muội tánh chân.
Nếu chẳng tồn tâm cùng dưỡng tánh,
Làm sao đặng rõ ý trung nhân.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
42
THAM CẦU: Phẩm Thứ Hai Mươi Mốt (21):
Ký trước vạn vật tức sanh tham cầu.
Nghĩa là: đã đắc muôn vật thì sanh tham cầu.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ “Ký” là đã qua rồi, chữ “Trước” là mắc tướng, chữ “vạn” là
muôn việc, chữ “Vật” là sự vật, chữ “tức” là bèn muốn, chữ
“tham” là ham quấy, chữ “cầu” là vọng cầu, đây là nương theo bài
trước mà nói: Vả lòng người một khi mà bị muôn vật dẫn dắt rồi,
thì tùy theo muôn vật mà dấy lòng tham, nếu lòng tham mà dấy
động, thì ắt lo tưởng sanh tâm tìm tòi đó thiệt là Nhơn Dục, thì
thuộc khí Hậu Thiên Bát Quái cai quản.
Hễ lòng người nhiễm tham muốn rồi, thì sự trái quấy khó thoát
khỏi, chỉ có hạng người có căn Tiên duyên Phật Tánh Linh chẳng
tối, coi giàu sang như mây nổi, xem tửu sắc như dao bén, đem Khí
Hậu Thiên mà trở lại khí Tiên Thiên, ấy là bực Thượng trong
muôn ngàn người chọn tuyển đặng một vậy, còn những hạng người
bực Trung, bực Hạ thì phải lụy về Hậu Thiên Bát Quái chỗ câu
thúc, chẳng đem đặng trong Khí Hậu Thiên mà trở lại Khí Tiên
Thiên, Lạc Thơ mà trở lại Hà Đồ vậy.
Vả lại lòng tham là ngôi Sao thứ nhứt trong Sao Bắc Đẩu tên gọi
là Tham Lang Tinh, dữ hơn hùm sói. Việc tu Tiên Đạo mà chẳng
bỏ dứt được ngôi Sao ấy thì Đại Đạo khó thành vậy.
Làm sao kêu là Hậu Thiên Lạc Thơ, ngôi Sao số 2, số 4, số 6, số
8, số 10 thuộc Âm, vì đã thuộc Âm nên thường sanh tham cầu.
Số Địa Lục thuộc Quí Thủy là giao cảm của Tinh, cái tánh nó ưa
tham cầu Sắc Tốt. Số Địa Nhị thuộc Đinh Hỏa là tư lự của Thần,
cái tánh nó ưa tham cầu Vinh hoa phú Quý. Số Địa Bát thuộc Ất
Mộc là khí Chất của Tánh, cái tánh nó ưa tham cầu Giàu sang, số
Địa Tứ thuộc Tân Kim là vọng của tình, cái tánh nó ưa tham cầu
rượu thịt, số Địa Thập thuộc Kỷ Thổ là tư ý của Thần, cái tánh nó
ưa tham cầu Cao Lớn. Ấy là năm con Ma trong Khí Hậu Thiên
Lạc Thơ, nó làm cho tiêu hết Ngũ Hành trong mình vậy.
- Thứ nhất là: Tham Dâm làm hại Tinh thì Thủy suy kém
vậy.
- Thứ hai là: Tham của là hại Tánh Mạng thì Mộc suy kém
vậy.
- Thứ ba là: Tham sang làm hại Thần thì Hỏa suy kém vậy.
- Thứ tư là: Tham sát sanh làm hại Tình thì Kim suy kém
vậy.
- Thứ năm là: Tham hơn thua làm hại Khí thì Thổ suy kém
vậy.
Nếu Ngũ-Hành mà khuyết kém thì Thân Người đâu đặng sống lâu
vậy. Khuyên trong Thiện Nam, Tín Nữ chẳng nên để chân vào trận
Ngũ Ma đó vậy, phải lấy khí Hậu Thiên mà đem trở lại khí Tiên
Thiên:
- Đem hào Dương giữa Quái Khảm trở về hào âm giữa Quái
Ly, biến Quái Ly làm Quái Càn.
- Đem hào Dương giữa Quái Ly trở về hào giữa Quái Khảm,
biến Quái Khảm làm Quái Khôn.
- Đem hào Dương giữa Quái Chấn trở về hào dưới Quái Đoài,
biến Quái Đoài làm Quái Khảm.
- Đem hào Dương dưới Quái Đoài, trở về hào Dương trên
Quái Chấn, biến Quái Chấn làm Quái Ly.
- Đem trên và giữa hai hào Dương Quái Càn trở về trên và
giữa hai hào Âm Quái Khôn, biến Quái Khôn làm Quái Tốn.
- Đem giữa và dưới hai hào Âm Quái Khôn trở về giữa và
dưới hai hào Dương Quái Càn, biến Quái Càn làm Quái
Cấn.
- Đem hào dương trên hào Âm dưới Quái Cấn trở về hào
Dương ở dưới hào Âm ở trên Quái Tốn, biến Quái Tốn làm
Quái Đoài.
- Đem hào Dương trên hào Âm dưới Quái Tốn trở về hào
Dương dưới hào Âm ở trên Quái Cấn, biến Quái Cấn làm
Quái Chấn.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
43
Đó là rút Hào đổi Tượng, khí Hậu Thiên trở lại khí Tiên Thiên,
Ngũ Ma hóa làm Ngũ Ngươn, Lạc Thơ trở làm Hà Đồ, Ngũ
Hành tương sanh, thì được làm bực kỳ Nhơn trong Thiên hạ vậy.
TỬ-VI ĐẠI-ĐẾ thi rằng:
Thái Thượng lão quân đạo diệu huyền,
Kinh cao một bộ để lưu truyền.
Tam huê tam bửu vốn ngươn khí,
Ngũ tặc ngũ ma thuộc hậu thiên.
Đổi tượng bớt hào dằn tánh lửa,
An lư lập đảnh luyện kim liên.
Chẳng ham chẳng tưởng tùy thời hóa,
Một thuở thanh nhàn một thuở tiên.
HỰU
Thái Thượng ban ân thuyết diệu huyền,
Kinh thiên một bộ mật chơn truyền.
Ba ngươn, ba báu: nguồn tinh khí,
Năm tặc, năm ma: gốc hậu thiên.
Đổi tượng, rút hào thông hỏa tánh,
Dời lò thay đảnh nấu kim đơn.
Chẳng ham chẳng vọng tùy thời hóa,
Buổi đặng thanh nhàn buổi ấy Tiên.
PHIỀN NÃO: Phẩm Thứ Hai Mươi Hai (22)
Ký sanh tham cầu tức thị phiền não, phiền não vọng tưởng ưu
khổ Thân Tâm.
Nghĩa là: đã sanh tham cầu thì phải phiền não, phiền não vọng
tưởng lo khổ thân tâm.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Câu Ký Sanh Tham Cầu: Chữ “Ký” là đã làm thành sự nghiệp,
chữ “sanh” là động tâm, chữ “tham” là háo thắng, chữ “cầu” là khổ
tâm.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
44
Câu Tức Thị Phiền Não: Chữ “Tức” là như vậy, chữ “thị” là
dường ấy, chữ “phiền” là trong lòng nóng nảy, chữ “Não” là hờn
giận.
Câu Phiền Não Vọng Tưởng: chữ “phiền” là nhiều việc, chữ
“Não” là bực tức, chữ “vọng” là lòng vọng quấy, chữ “tưởng” là lo
lắng vậy.
Câu Ưu Khổ Thân Tâm: Chữ “ưu” là rầu, chữ “khổ” là cực khổ,
chữ “thân” là hình thể, chữ “Tâm” là quân chủ trong cả châu thân.
Bởi vì người đời chẳng hay bỏ đặng danh lợi, ân ái, tửu sắc, tài khí
nên bị Lục Trần, Lục Tặc nhiễm vào vậy. Tham cầu vinh quí nếu
chẳng đặng vinh quí thì sanh ra phiền não vậy, nếu ta đặng vinh quí
rồi, thì sanh ra biết bao phiền não nữa, chi cho bằng phá bỏ cái
danh, thành tâm trau Đạo đến ngày thành Đạo rồi thì danh vang
trong Thiên hạ, nêu danh muôn đời như vậy, như vậy quí biết
chừng nào. Trong Kinh Đạo Đức nói rằng:
Tuy hữu cũng bích dĩ tiên tứ, mà bất như tọa trấn thử Đạo:
Nghĩa là: Dầu cổ đeo ấn tướng, lưng mang Đai Ngọc, ngồi xe bốn
ngựa, cũng chẳng bằng sự thành nhơn rồi, ngồi thung dung mà hành
Đại-Đạo vậy.
Khổng Phu Tử nói rằng: Giàu sang là mọi người đều muốn, song
chẳng phải Đạo mà đặng thì ta cũng chẳng màng vậy. Tham cầu tài
lợi, nếu chẳng đặng tài lợi thì sanh ra phiền não, nếu đặng rồi thì
trong tài lợi đặng sanh ra biết bao nhiêu là phiền não nữa, chi bằng
phá bỏ chữ Lợi, thành tâm trau Đạo thì trong mình Tinh, Khí,
Thần ba món báu ấy là Pháp Tài (của thiệt) mua đặng tánh mạng
mình và thêm tuổi sống lâu như vậy có phiền não chi mà sanh ra
được nữa.
Lời Thánh nói rằng: chẳng phải nghĩa mà đặng giàu sang ta coi
như mây nổi, vì tan hiệp trong nháy mắt.
Trung-Dung có câu: Gặp cảnh nghèo hèn, làm theo phận nghèo
hèn.
Thầy Mạnh Tử nói rằng: Dầu nghèo chẳng hay dời đổi, lại nói
rằng:
Người Quân Tử Lo Đạo Chớ Chẳng Lo Nghèo
Tham cầu Sắc-Đẹp, nếu chẳng đặng sắc đẹp thì sanh ra phiền não,
còn đặng sắc đẹp rồi ắt sanh ra ân ái, lại theo sự ân ái lại sanh ra
biết bao nhiêu phiền não nữa, chi bằng phá bỏ chữ sắc, thành tâm
trau Đạo thì trong thân mình có sẵn Anh-Nhi, Xá-Nữ, mỗi ngày
hằng thân cận, khảm ly giao cấu nhau Kim, Mộc sánh nhau ít nhiều
tư vị khó dùng lời nói cho hết, một ngày thành Đạo rồi Gái Trai
đồng bạn, tôn trọng biết là bực nào.
Thánh Nhơn nói: Huyết khí chưa định răn dè nơi sắc dục.
Lữ Tổ thi rằng:
Hai tám giai nhân vóc tợ tô,
Trong lưng rút kiết chém ngu đồ.
Tuy nhiên chẳng thấy đầu rơi rụng,
Thầm khiến cho chàng khí huyết khô.
HỰU
Dịu dàng hai tám gái đương tơ,
Dắt kiếm bên lưng chực kẻ khờ.
Chẳng phải đợi cơn đầu cổ rụng,
Hao mòn Tinh Huyết cốt gân khô.
Còn đến việc khí là giận mà tranh đấu hơn thua, nếu nhịn chẳng
đặng thì trong thị phi sanh ra biết bao là phiền não, chi cho bằng
phá bỏ chữ Khí, thành tâm trau luyện mà dưỡng trong mình cho đầy
Tam-Huê, Ngũ-Khí, thái-hòa Ngươn-Khí kết lại thành thuốc Kim-
Đơn, dầu có phiền não cũng hóa ra không.
Thánh Nhơn nói: Huyết Khí mới cứng, răn dè nơi việc tranh đấu,
phải trì cái chí, chớ nóng cái khí, dầu cho tất cả những việc nào
không nghiệp ý thì cũng sanh phiền não: Ta đặng chỉ dùng một chữ
không, trống rỗng cái lòng, thì đâu có bị tai hại lớn, hệ trọng lớn
gây ra phiền não vậy.
Khưu Tổ thi Rằng:
Chẳng tham danh lợi chẳng tham hoa,
Sớm tối nằm trên ngút Thể-Hà.
Bụng đói Viên-Hầu dưng Đào chín,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
45
Miệng khô Long-Nữ lại đem trà.
Còn hơi hớn khẩu ba ngàn cửa,
Lại hóa Kinh Đô bá vạn nhà.
Khuyên nhủ người đời mau tỉnh ngộ,
Quét bay phiền não luyện Huỳnh Nha.
HỰU
Chẳng tham danh lợi chẳng tham hoa,
Bữa bữa dung triêu ngọc Thể Hà.
Có vẫn Viên Hầu dưng ngọc quả,
Khảm, Càn Long-Nữ khiến mong trà.
Giàu như Hớn khẩu tam thiên lộ,
Vinh quá Kinh Đô bá vạn gia
Khuyên nhủ người đời mau tỉnh ngộ,
Sớm khai phiền não luyện Huỳnh Nha.
SANH TỬ: Phẩm Thứ Hai Mươi Ba (23):
Tiện tao trược nhục, lưu lãng sanh tử, thường trầm khổ hải
vĩnh thất chơn Đạo.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
46
Nghĩa là: Dễ gặp trược nhục, trôi nổi sống chết, hằng chìm biển
khổ biệt mất chơn Đạo.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ “Tiện” là định ý muốn, chữ “Tao” là gặp đến, chữ “Trược”
là hạ tiện, chữ “Nhục” là bị người khinh dễ, câu “Tiện tao trược
nhục” ấy là: Nói người sanh ở đời lòng tham chẳng nhàm, vì ưa
muốn sự danh lợi, ân ái mà gây ra phiền não lo rầu, mỗi mỗi dường
như sóng dợn, chịu chỗ sai lầm, nếu mà xảy chân đi rồi thì phải bị
cái nhục ngũ trược vậy.
Chữ “Lưu” là chìm xuống, chữ “lãng” là việc chồng chất, chữ
“sanh” là Hà Đồ, chữ “tử” là Lạc Thơ, câu “Lưu Lãng sanh tử” là
nói người đời mảng mê đắm nơi Tửu sắc tài khí chẳng biết sống do
nơi đâu mà đến, còn thác rồi lại ở đâu, vả lại cái Đạo sanh Tiên
Phật và phàm phu đều do theo Hà Đồ mà thôi.
Người Sanh lúc ban đầu chịu Ngươn Khí của cha mẹ kết thành
một trái minh, Minh Châu tên là Vô Cực, nhờ tinh cha, huyết mẹ
kêu là Thái Cực.
- Thiên Nhứt sanh Nhâm Thủy, ở trên thì sanh con ngươi
bên tả, ở dưới sanh hai bàng quang (bong bóng).
- Địa Nhị sanh Đinh Hỏa, ở trên thì sanh khóe con mắt bên
hữu, ở dưới thì sang tạng Tâm.
- Thiên Tam sanh Giáp Mộc, ở trên thì sanh tròng đen con
mắt bên tả, ở dưới thì sanh Đởm (mật).
- Địa Tứ sanh Tân Kim ở trên thì sanh tròng trắng con mắt
bên hữu, ở dưới thì sanh tạng Phế (phổi).
- Thiên Ngũ sanh Mậu Thổ, ở trên thì sanh da mí mắt bên tả,
ở dưới thì sanh vị (bao tử).
- Địa Lục thành Quý Thủy, ở trên thì sanh con ngươi mắt
bên hữu, ở dưới thì sanh Thận (hai trái cật).
- Thiên Thất thành Bính Hỏa, ở trên thì sanh khóe con mắt
bên tả, ở đưới thì sanh tiểu trường (ruột non).
- Địa Bát thành Ất Mộc, ở trên thì sanh tròng đen con mắt
bên hữu, ở dưới thì sanh tạng Can (gan).
- Thiên Cửu thành Canh Kim, ở trên thì sanh tròng trắng
con mắt bên tả, ở dưới thì sanh đại trường (ruột già).
- Địa Thập thành Kỷ Thổ, ở trên thì sanh mí con mắt bên
hữu, ở dưới thì sanh tỳ (lá lách).
Do đây mà sanh ngũ tạng và sanh lục phủ cho đến châu thân 365
lóng xương, 84000 lỗ chân lông và sợi lông. Mỗi vật chi cũng do
Hà Đồ mà sanh đó vậy.
Sanh người phàm như thế này, sanh bực thánh cũng như thế vậy.
Vả lại con người mà phải thác đó là do nơi Lạc Thơ vậy. Theo
Tiên Thiên Hà Đồ mà biến thành Hậu Thiên Lạc Thơ, lại theo
Lạc Thơ Hậu Thiên: Trung Ương Thổ đi khắc với Bắc Phương
Thủy thì Thận hao vậy, Bắc Phương Thủy đi khắc với Nam Phương
Hỏa thì Tạng Tâm hao vậy, Nam Phương Hỏa đi khắc với Tây
Phương Kim thì Phế hao vậy, Tây Phương Kim đi khắc với Đông
Phương Mộc thì Can hao vậy, Đông Phương Mộc đi khắc với
Trung Ương Thổ thì Tỳ hao vậy.
Vì tùng Lạc Thơ nên Ngũ Tạng chịu tương khắc. Hậu Thiên là
khí lưu hành nên phải tuân mệnh lệnh Thiên Thời. Kết thuật của
Hữu Vi Quản Thúc nên Ngũ Tạng ngày một hao mòn, lần đến Lục
Phủ trăm vóc cũng đều chịu suy kém hết.
Vả như thế mà chẳng chịu chết, còn đợi chừng nào chết đây, sanh
kia chẳng khác như sóng lượn dập dồn cho nên gọi rằng: Lưu Lãng
Sanh Tử vậy. Còn câu thường trầm khổ hải là nơi Tửu Sắc Tài
Khí là bốn cái Biển Khổ rất lớn, bằng ai chẳng dẹp trừ nó đặng thì
đâu khỏi chìm đắm nơi biển khổ vậy.
Câu Vĩnh Thất Chơn Đạo là nói vì mê đắm nơi bốn chữ đó, nên
phải chìm xuống nơi Biển Khổ cơ thể con người còn giữ chẳng
đặng thay, đâu đặng nói đến cái Đạo, há chẳng phải là vĩnh thất
chơn đạo sao. Rất khá thương tiếc thay!!!
Tiếp Dẫn Đạo Nhơn thi rằng:
Khổ khuyến người tu chẳng gắng ghi,
Tham sa biển khổ tại cớ gì.
Trăm năm phú quí dường chớp nháng,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
47
Đến giấc vô thường có chút chi.
HỰU
Cạn tiếng khuyên đời chẳng chịu tu,
Thường chìm khổ hải đọa ngàn thu.
Giàu sang danh lợi dường mây nổi,
Hơi thở không hườn vạn sự hưu.
Túy Hư Chơn Nhơn thi rằng:
Lão Quân độ thế giảng tâm kinh,
Chỉ rõ trong mình Nhựt Nguyệt Tinh.
Sống thác đôi đàng mình tự chủ,
Phật Tiên hai bực ở Tâm Linh.
HỰU
Thương đời Thái Thượng diễn Minh Kinh,
Dốc độ người qua biển ái tình.
Chết sống nếu không quyền tự chủ
Thành Tiên nên Phật tự TÂM mình.
SIÊU THOÁT: Phẩm Thứ Hai Mươi Bốn (24):
Chơn thường chi đạo, ngộ dã chi đắc, đắc ngộ đạo giả thường
thanh tịnh hỷ.
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
48
Nghĩa là: Cái Đạo Chơn thường biết ấy tự đặng, đặng biết đạo ấy
thường thanh tịnh vậy.
Ông THỦY TINH TỬ giải rằng:
Chữ “chơn” là thiệt vậy, chữ “Thường” là Đạo Trung Dung vậy,
chữ “Chi” là hành trì vậy, chữ “Đạo” là Vô Cực.
- Câu Chơn Thường chi Đạo là nói Tiên Thiên Đại Đạo là
Chơn Đạo, còn 3600 Bàng Môn đều là Tả Đạo.
- Chữ “Chơn Đạo” là Chánh lòng sửa mình – Giả Đạo là
kiếm chỗ vắng làm việc quấy vậy. Chữ “Ngộ” là xét tột, chữ
“Tự” là định chắc vậy, chữ “Đắc” là lãnh thọ vậy.
- Câu “Ngộ giả tự đắc” là người hay xét tánh đến mạng hỏi
cầu bực Chí Nhơn chỉ dạy các bí quyết Phản Bổn Hườn
Nguyên mới thiệt là NGỘ GIẢ TỰ ĐẮC vậy. Há phải dạy
người cứ theo trên giấy mực kinh kệ mà chép tìm, khá hay
rõ thấu đặng sao?
Lời Cổ Ngữ rằng:
Sơ Tổ tây lai một chữ Không,
Trọn nhờ Tâm Ý gắng kỳ công.
Bằng dò kinh sách tìm phương pháp,
Ngòi viết chấm khô cạn biển Đông.
HỰU
Đạt Mạ tây qua một chữ Không,
Trọn nương Tâm Ý dụng kỳ công.
Hằng dò kinh sách tìm phương pháp,
Giấy mực nghiên hồ cũng khó thông.
ĐỘNG ĐÌNH HỒ:
Trong Ngộ Chơn Thiên nói rằng:
Dẫu người thông sáng bằng Nhan Mẫn,
Chưa gặp chơn thuyền cũng khó thông.
Câu “Đắc ngộ đạo giả” là thiệt người lành chứa đầy công quả,
nhiều Đức Hạnh cảm động lòng Trời gặp vị Minh Sư hạ mình lãnh
Đại Đạo. Xét thông cái Lý, ngày đêm khổ tu cái Đạo, chẳng nên
nửa đường mà bỏ.
Chính nhờ công quả đầy đủ, Đơn Thơ xuống chiếu Cổi Xác thăng
thiên, chừng ấy mới thiệt là rồi việc lớn. Như vậy mới phải là tìm
Đạo, cầu Đạo, đặng Đạo, thông Đạo, trau Đạo, giữ Đạo, thành
Đạo, liễu Đạo có đủ tám chữ đó, ấy là Bực Đại Trượng Phu, Việc
Lớn Đã Rồi Vậy.
Câu “Thường thanh tịnh hỷ” ấy là chữ “Thường” là lâu dài, chữ
“Thanh” là tròn sáng, chữ “Tịnh” là an ninh, ấy là nơi Đạo Thành,
Đức đủ, Công quả viên mãn Dương Thần xung cửa tam quan, bấy
giờ chư Phật hay Thượng Đế hội các vị tổ, chầu đức Kim Mẫu,
chiếu theo công lớn nhỏ mà định phẩm cấp, cấp y theo công quả
đầy khuyết mà phong tước trời, áo tiên, ngọc đài mặc vào đặng ấm
cái thân, trái ngọc, rượu huỳnh tương, đặng dùng mát cái dạ, tam
thừa cửu phẩm, chiếu y theo cửu phẩm mà định: ngũ tiên bát bộ
xem quả mà tặng, hoặc ở chốn trung thiên, hoặc ở chốn tây thiên,
đều là cảnh cực lạc, hoặc ở vòng tam thập lục thiên, hoặc ở thất
thập nhị địa, đều là phước đức, hoặc ở chốn tam thanh tứ phủ, hoặc
ở chốn thập nhị địa, đều là chốn thanh tịnh, cao cao, thấp thấp, lớn
lớn, nhỏ nhỏ, y công định chức, một mãi không riêng, theo duyên,
theo phận mà hưởng phước thanh tịnh, há chẳng tốt sao, như vậy
mới chẳng uổng bổn phận làm người, sanh ra một trường đời mà
đạt địa vị ấy, mới là Đại Trượng Phu ở bực trên người vậy. Đến
chừng ấy mới gọi là: Thường Thanh Tịnh vậy.
Ngươn Thỉ Thiên Tôn thi rằng:
Thanh Tịnh Kinh mầu hẳn bực trên,
Tu hành trai gái khá làm nên.
Kim khoa Ngọc luật là ngôi thứ,
Cửu luật quần sanh tiến hóa lên.
HỰU
Thanh Tịnh Kinh mầu thiệt diệu huyền,
Âm Dương hiệp nhứt khá cần chuyên.
Kim Khoa Ngọc Luật chung cùng mối,
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
49
Chín sáu Càn Khôn nhặc nhiệm truyền.
Linh Bửu Thiên Tôn tán:
Kiếm tìm thanh tịnh tĩnh chơn không,
Thâu Tánh về Tây chớ ở Đông.
Hái thuốc luyện đơn công quả đủ,
Siêu phàm nhập Thánh bái Tiên ông.
HỰU
Gắng công thanh tịnh đoạt Chơn Không,
Thâu Tánh hồi Tây chớ vọng Đông.
Hái thuốc nấu Đơn công quả trọn,
Thay hồn đổi xác yết Thiên Công.
Cái Thiên Cổ Phật tán viết:
Thanh tịnh báu kinh rất diệu huyền,
Nhờ Ông Thiên Nhứt giải chơn truyền.
Ai mà hiểu lý kinh này trọn,
Tam Giáo ngàn thu tọa Bửu Liên.
HỰU
Thanh Tịnh Kinh linh rất nhiệm mầu,
Giải bày nguồn cội rất cao sâu.
Nếu ai thấu đặng điều thâm thúy,
Thoát kiếp Phàm Phu thượng ngọc lầu.
--oOo--
CHUNG
THANH TỊNH KINH Thái Thượng Đạo Tổ
50
MỤC LỤC
Lời tựa trang xx
Thanh Tịnh Kinh (Chánh văn) “ “
Lời bình của các vị Chơn Nhơn “ “
Vô Cực – Phẩm Thứ Nhứt (1) “ “
Vô Cực đồ hình “ “
Hoàng Cực – Phẩm Thứ 2 “ “
Hoàng Cực đồ hình “ “
Thái Cực – Phẩm Thứ 3 “ “
Thái Cực đồ hình “ “
Tam Tài – Phẩm Thứ 4 “ “
Tam Tài đồ hình “ “
Đạo Tâm – Phẩm Thứ 5 “ “
Đạo Tâm đồ hình “ “
Nhơn Tâm – Phẩm Thứ 6 “ “
Nhơn Tâm đồ hình “ “
Lục Tặc – Phẩm Thứ 7 “ “
Lục Tặc đồ hình “ “
Tam Thi – Phẩm Thứ 8 “ “
Tam Thi đồ hình “ “
Khí Chất – Phẩm Thứ 9 “ “
Khí Chất đồ hình “ “
Hư Vô – Phẩm Thứ 10 “ “
Hư Vô đồ hình “ “
Hư Không – Phẩm Thứ 11 “ “
Hư Không đồ hình “ “
Chơn Thường – Phẩm Thứ 12 “ “
Chơn Thường đồ hình “ “
Chơn Đạo – Phẩm Thứ 13 “ “
Chơn Đạo đồ hình “ “
Diệu Hữu – Phẩm Thứ 14 “ “
Thánh Đạo – Phẩm Thứ 15 “ “
Thánh Đạo đồ hình “ “
Tiêu Trưởng – Phẩm Thứ 16 “ “
Tiêu Trưởng đồ hình “ “
Đạo Đức – Phẩm Thứ 17 “ “
Đạo Đức đồ hình “ “
Vọng Tâm – Phẩm Thứ 18 “ “
Vọng Tâm đồ hình “ “
Nhơn Thần – Phẩm Thứ 19 “ “
Nhơn Thần đồ hình “ “
Vạn Vật – Phẩm Thứ 20 “ “
Vạn Vật đồ hình “ “
Tham Cầu – Phẩm Thứ 21 “ “
Tham Cầu đồ hình “ “
Phiền Não – Phẩm Thứ 22 “ “
Phiền Não đồ hình “ “
Sanh Tử - Phẩm Thứ 23 “ “
Sanh Tử đồ hình “ “
Siêu Thoát – Phẩm Thứ 24 “ “
Siêu Thoát đồ hình “ “
Mục Lục “ “
--oOo--