Upload
trinhnhu
View
217
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Tập II
HUỲNH ÁI TÔNG
2
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
3
*
Mục Lục ………………………………………..……….. 3
Lời tựa …………………………………………………... 5
Chương thứ sáu: Nhà văn Việt Nam ở hải ngoại ….......... 7
Tiết một: Những nhà văn di tản ra nước ngoài năm 1975. 8
1. Vũ Khắc Khoan (1917-1986) ………………………… 9
2. Võ Phiến (1925-20 ) ………………………...……… 43
3. Linh Bảo (1927-20 ) ………………………………. 101
4. Thanh Nam (1931-1985) …………………….…….. 119
5. Nguyên Sa (1932-1998) ………………………..…. 139
6. Minh Đức Hoài Trinh (1930-20 ) ………………… 153
7. Xuân Vũ (1930-2004) ……………………………... 183
8. Viên Linh (1938-20 ) ………………………….….. 205
9. Túy Hồng (1938-20 ) …………….…….…………. 221
10. Nguyên Vũ (1942-20 ) ……………..……………. 243
11. Du Tử Lê (1942-20 ) …………………………….. 254
12. Trùng Dương (1944-20 ) …………………..…….. 277
13. Lê Tất Điều (1942-20 ) …………..…………...…. 305
Tiết hai: Những nhà văn ra nước ngoài sau năm 1975. 328
1. Hồ Trường An (1938-20 ) ……………..…………. 331
2. Mai Thảo (1927-1998) …………………..……….... 351
HUỲNH ÁI TÔNG
4
3. Trương Bảo Sơn (1916-2010) ……………………... 375
4. Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992) …………..……….. 393
5. Nhật Tiến (1936-20 ) ………………………...…… 405
6. Trần Hoài Thư (1942-20 ) ………………………… 425
7. Duyên Anh (1935-1997) ………………………...… 441
8. Nguyễn Mộng Giác (1942-2012) ……………….…. 473
9. Diễm Châu (1937-2006) ……………..……………. 489
10. Nguyễn Thị Vinh (1924-20 ) ……………………. 507
11. Nguyễn Xuân Hoàng (1940-20 ) …………..…….. 519
12. Luân Hoán (1942-20 ) ………………..………..… 533
13. Thế Uyên (1942-2013) ……………….…………... 545
14. Trần Dạ Từ (1940-20 ) …………………….…….. 559
15. Nhã Ca (1939-20 ) ………………………………. 573
16. Duy Lam (1932-20 ) …………………………….. 605
17. Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) ……….…………. 617
18. Tô Thùy Yên (1938-20 ) ………………………… 641
19. Phan Nhật Nam (1943-20 ) ……………………… 665
20. Hoàng Hải Thủy (1933-20 ) ……………….…….. 679
21. Doãn Quốc Sỹ (1923-20 ) ……………………….. 703
22. Nguyễn Đình Toàn (1936-20 ) …………………... 713
23. Trần Thị NgH. (1948-20 ) ……………………….. 725
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
5
*
Lời tựa
Trong tập sách này, chúng tôi trình bày những nhà văn Việt
Nam đã ở nước ngoài hoặc di tản ra nước ngoài do biến cố
ngày 30 tháng 4 năm 1975, họ là những người khai sơn
phá thạch trên vùng đất mới, để tiếp tục sự nghiệp văn
chương, trang trải nổi lòng của những con người viễn xứ.
Nhà văn, nhà thơ người ta ví như kiếp con tằm phải nhả tơ.
Cho nên khi họ còn sinh lực, sáng tác là hơi thở, là sự sống
của họ. Nhờ vậy, chúng ta có một dòng văn học Việt Nam ở
hải ngoại, dòng văn học này được tự do sáng tác như họ đã
từng sáng tác từ trước năm 1975 tại quê nhà. Dĩ nhiên có
một số đã lớn tuổi, sự sáng tác cũng giảm đi, hơn nữa đời
sống tại vùng đất mới tác động phần nào cho nền văn học
này, từ giới sáng tác cho đến người thưởng ngoạn.
HUỲNH ÁI TÔNG
6
Hầu hết những nhà văn trong tập sách này, đều có trình
bày trong Văn Học Miền Nam 1954-1975, trừ tiểu sử chỉ
bổ sung chút ít chi tiết, còn lại nội dung đều được chọn lọc
những tài liệu mới, hình ảnh mới đem vào.
Trong tập này, một số nhà văn đáng lẽ được trích nhiều bài
hay, nhưng do số lượng tập sách bị hạn chế 740 trang, nên
có vài nhà văn bị hạn chế như nhà thơ Tô Thùy Yên, nhà
văn Phan Nhật Nam, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đình
Toàn…
Dĩ nhiên không tránh khỏi sai sót, mong được độc giả rộng
lòng chỉ dẫn để bổ sung cho được hoàn hảo.
Xin quý vị tác giả, những người chủ trương các trang
Mạng, trang Blog có bài được trích đăng trong tập sách
này, nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của chúng tôi, do
nhờ có những bài viết ấy, tập sách này mới được hình
thành..
Trân trọng,
Soạn giả
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
7
*
Chương thứ sáu: Nhà văn Việt Nam ở hải ngoại
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số văn nghệ sĩ Việt
Nam đã rời khỏi Việt Nam đi định cư ở một số các nước
như Mỹ, Pháp …
Về sau một số nhà văn, nhà thơ vượt biên được định cư ở
nước ngoài, rồi tiếp theo một số khác được thân nhân bảo
lãnh hay thành phần quân nhân, công tư chức bị học tập cải
tạo được chánh phủ Mỹ cho tị nạn thuộc diện HO.
Cũng có một số nhà văn chỉ mới thành danh từ sau khi định
cư ở xứ người, họ sáng tác về tù đày, về cuộc vượt thoát
khỏi Việt Nam, về vùng đất mới, về thân phận con người.
Những nhà văn thuộc các thành phần kể trên, họ là những
người đã tạo thành một dòng văn chương Việt Nam ở hải
ngoại. Họ được tự do sáng tác, hoàn toàn khác biệt với
dòng văn chương trong nước bị gò bó trong khuôn khổ.
HUỲNH ÁI TÔNG
8
Tiết một: Những nhà văn di tản ra nước ngoài năm 1975.
Trước và trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số nhà văn
đã di tản ra nước ngoài.
Có nhà văn đang làm việc, sinh sống ở nước ngoài, nên sau
ngày mất nước, họ định cư luôn nước ngoài như Toàn
Phong Nguyễn Xuân Vinh, Linh Bảo Võ Thị Diệu Viên …
Một số nhà văn trước kia từng du học ở Pháp hay có gia
đình ở Pháp, nên họ di tản tới nước Pháp như Nguyên Sa,
Minh Đức Hoài Trinh …
Một số nhà văn được di tản sang Mỹ như Vũ Khắc Khoan,
đôi vợ chồng nhà văn Thanh Nam - Túy Hồng, Trùng
Dương, Xuân Vũ, Nguyên Vũ …
Trong Tiết này, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày những nhà
văn đặt nền móng cho dòng văn chương hải ngoại.
Các nhà văn được xếp thứ tự theo tuổi tác.
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
9
1. Vũ Khắc Khoan
Vũ Khắc Khoan (1917-1989)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27 tháng 2 năm 1917 tại Hà-nội,
là học trò trường Bưởi. Lên đại học, theo ngành y khoa hai
năm, trước khi vào trường Cao đẳng Canh nông.
Sau khi tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi
chuyển hẳn sang nghề dạy học, dạy lịch sử tại hai trường
Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà-nội. Vừa dạy học, ông
vừa hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan
Điểm với Nghiêm Xuân Hồng.
Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ
Thông, hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa năm 1948,
Giao thừa năm 1949 và bài tùy bút Mơ Hương Cảng năm
1953. Giao thừa có thể coi là vở kịch phi lý đầu tiên của
Việt Nam.
Ngay từ thời còn là sinh viên y khoa, Vũ Khắc Khoan đã
đạo diễn những vở Thế Chiến quốc và Nửa đêm truyền hịch
HUỲNH ÁI TÔNG
10
của Trần Tử Anh, trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội; ông
viết và dựng kịch bản đầu tay Trường ca Mông Cổ, tác
phẩm làm nền cho vở Thành Cát Tư Hãn sau này.
Năm 1952, vừa dựng, vừa diễn vở Thằng Cuội ngồi gốc
cây đa tại Nhà Hát Lớn.
Năm 1954 di cư vào Nam, Vũ Khắc Khoan cộng tác với
Nhật báo Tự Do, dựng lại nhóm Quan Điểm với Nghiêm
Xuân Hồng và Mặc Đỗ, dạy sử, văn chương và văn học sử
tại các trường Nguyễn Trãi, Chu Văn An ở Sài-gòn.
Từ 1962 lên dạy đại học. Chủ trương và cùng với Mai Thảo
ấn hành nguyệt san Vấn Đề, dạy và làm Giám đốc Kịch
nghệ tại trường Quốc Gia Âm Nhạc ở Sài-gòn.
Năm 1975, di tản sang Hoa Kỳ, ông dạy Pháp văn tại đại
học Minnesota trong hai năm, cộng tác với tờ Đất Mới của
Thanh Nam và tờ Văn của Mai Thảo. Cuối đời ông sáng tác
hai bài thơ văn xuôi: Berceuse en pluie mineure (Ru em
theo gam mưa thứ) và Le petit oiseau, la petite branche et
le printemps (Con chim nhỏ, cành cây nhỏ và mùa xuân) và
viết hai tác phẩm chưa hoàn tất là truyện dài Bướm đêm và
kịch Ngọa triều.
Vũ Khắc Khoan là sáng lập viên Hội Phật Giáo Việt Nam
tại Minnesota năm 1976 và làm Chủ tịch từ khi lập Hội cho
đến năm 1979; sáng lập viên và chủ tịch Hội Văn Hoá VN
tại Minnesota từ 1979-1983.
Vũ Khắc Khoan mất tại Minnesota ngày 12 tháng 9 năm
1986 vì bệnh ung thư, thọ 69 tuổi.
Tác phẩm:
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
11
- Thần tháp Rùa (1957)
- Ngộ nhận
- Nhập Thiên thai
- Những người không chịu chết (kịch nói, 1972)
- Người đẹp trong tranh
- Trương Chi (truyện ngắn)
- Ga xép (kịch nói)
- Hậu trường (kịch nói)
- Lộng ngôn (kịch nói)
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948)
- Giao thừa (kịch nói, 1949)
Thần Tháp Rùa (Nguyễn Đình Vượng, 1957)
Thành Cát Tư Hãn (kịch nói, 1961),
Những người không chịu chết (An Tiêm, 1969)
Ngộ nhận (Quan Điểm, 1969)
Mơ Hương Cảng (Kẻ Sĩ, 1971)
Tìm hiểu sân khấu chèo
Quan Âm Thị Kính (Lửa Thiêng, 1974)
Đọc kinh (An Tiêm, Paris, 1990)
Đoản văn xa nước (An Tiêm, Paris, 1995)
Trích văn:
Thần Tháp Rùa
http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=K%E1%BB%8Bch_n%C3%B3i&action=edit&redlink=1http://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n_ng%E1%BA%AFn
HUỲNH ÁI TÔNG
12
Năm loạn đầu hậu bán thế kỷ thứ hai mươi dương lịch, có
người trẻ tuổi họ Đỗ bán ruộng bỏ vùng quê lên Kẻ Chợ trọ
học.
Đỗ vốn thuộc lớp trung nông, thường sống bằng lợi tức ít
mẫu hương hỏa cha mẹ mất sớm để lại.
Vì quen nếp sống thanh đạm, gia dĩ lại sống một mình nên
ít lo sinh kế, hằng ngày thường hay đọc sách, da dẻ trắng
trẻo xanh xao, mình gầy vóc hạc. Lại luôn luôn mục kích
sự tàn bạo của đám phú nông mà tâm sự ù ê lộ ra ở đôi mày
hay nhíu, miệng có cười, cũng héo hắt không vui. Tính vốn
ít nói, trong chốn giao du lại cố tình giữ trọn cái nghĩa nước
nhạt của người nước Lỗ, cho nên lắm khi cả ngày không
lên tiếng một câu, hàng tháng biếng bước chân ra khỏi
cổng. Họa hoằn thao thao bất tuyệt, là lúc đối diện một
người hiểu biết. Những lúc đó, Đỗ thường ngửa mặt lên
trời mà than thời thế hoặc tác sắc đập bàn luận đàm quốc sự
đến bỏ cả cơm. Tuổi đã lớn nhưng Đỗ vẫn sống một mình,
không nghĩ tới việc vợ con. Con gái trong vùng có trêu
ghẹo ngỏ tình thì đỏ mặt ngoảnh đi. Người trong họ đôi khi
gợi việc trăm năm mối lái mà không tiếp chuyện.
Lên đến Kẻ Chợ, Đỗ ngồi dạy học ở phường hang Bạc, tạm
yên sinh kế để có thể tiếp tục học hành. Đất Kẻ Chợ, nhà
cửa như bát úp, người đi lại ngoài đường đông hơn mắc
cửi, mà Đỗ vẫn giữ nguyên tính cũ, ngày một buổi đến
trường nghe giảng văn rồi về thẳng nhà, đóng cửa đọc sách
lạ. Bạn cùng trường thấy lẻ loi, thỉnh thoảng rủ đi đánh cầu
nhẩy múa, Đỗ đều một mực từ chối. Nhưng trong câu
chuyện, nếu có ai đả động đến thời cuộc, so sánh lý thuyết
nọ với lý thuyết kia, là lập tức sắm sắm bước vào vòng thảo
luận, nói hằng giờ không biết mỏi. Hoặc nêu thuyết nhà
Phật mà bác bỏ định đề Cơ Đốc. Hoặc đề cao tư tưởng của
Văn sĩ Pascal mà đánh đổ lý luận vô thần. Hoặc chủ trương
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
13
giai cấp đấu tranh những mưu mô tư bản, Hoặc lập luận tự
do cá nhân để chống với độc tài đoàn thể. Có ai rụt rè nói
đến giá trị nội tại của nghệ thuật ắt Đỗ phải lớn tiếng thích
nghĩa nhân sinh. Nhưng nếu có người muốn hạ văn chương
xuống ngang hàng một “đồ thực dụng” thời Đỗ lại chép
miệng thở dài nhắc đến quan niệm nghệ thuật của Kant.
Giọng Đỗ trầm bổng như tiếng trúc tiếng tơ, khi mau khi
chậm, khi thoảng nhẹ tựa cơn gió mùa hạ, khi thiết tha như
tiếng đục trạm của người rũa ngọc. Bạn bè ai nghe cũng
thấy thích tai, cho là lạ, phục Đỗ học rộng, biết nhiều.
Tựu trung cũng chẳng hiểu Đỗ ra sao.
Một hôm, có người hiếu kỳ gần nửa đêm, đập cửa nhà Đỗ,
đòi chất vấn.
- Hiện nay thiên hạ chia đôi, không trắng thời đen, mà nghe
ông nói thì thật không biết là đen hay trắng .
Đỗ ngẫm nghĩ hồi lâu, thủng thằng trả lời :
- Tại sao anh cứ bắt buộc là đen hay trắng ? Mặt trăng vòm
trời khi khuyết, khi tròn. Áng sáng mùa thu trong như ngọc
mà thật ra lại hợp bảy màu. Lá cây phong bên bãi lúc xanh,
lúc đỏ. Chân lý ở đời không đơn giản như bụng dạ trẻ con.
Tai sao lại cứ bắt buộc là đen hay trắng ?
- Mùa xuân, mùa hạ thì lá xanh, mùa thu, mùa đông thì lá
úa đỏ. Áng sáng tuy hợp bảy màu nhưng chính mắt chỉ nhìn
thấy một. Trăng có tuần trăng khuyết, trăng tròn. Chân lý
tuy phức tạp nhưng không hẳn là nhờ nhờ, không màu sắc.
Nay đang đêm đến đập cửa nhà ông, là có ý thành. Xin cho
nghe những lời tâm sự.
HUỲNH ÁI TÔNG
14
Đỗ lặng thinh không trả lời.
Người kia bèn xích lại gần Đỗ :
- Mã Khắc Tư cầm bút mà thiên hạ phân đôi. Một đàng tư
bản đè xuống. Một đàng vô sản vùng lên. Tấn tuồng Hán
Sở tranh hùng thuở xưa lại diễn. Chúng ta thật đã sa vào cái
thế trên đe dưới búa, ý ông thế nào ?
Đỗ bỗng hỏi :
- Biết để làm gì?
- Khôn cũng chết, dại cũng chết. Vậy biết để sống.
- Cầu an ư?
- Ai mà không thích sống? Quan Công chịu đau đưa tay
cho Hoa-Đà cắt thịt cũng là thích sống. Tần Thủy Hoàng
dựng Vạn lý Trường thành mà lúc gần chết cũng còn tìm
thuốc trường sinh. Tìm mà bỏ chết, đó là thường tình của
con người.
- Vậy đầu hàng đi.
- Hán hay Sở ?
- Tư bản đè xuống mà hùa theo là tư cách tiểu nhân. Vô sản
vùng lên, nếu nhập vào, ắt mất tự do.
- Vậy cứ khoanh tay hay sao ?
Đỗ chưa kịp trả lời, người kia đã nói tiếp :
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
15
- Tôi thường nghe mỗi khi thời thế chuyển xoay là có thuết
lạ ra đời. Xưa thì Tô Tần bàn kế Hợp tung, Mạnh Tử luận
“Dân vi quý”. Gần đây có người Đăng Thục mưu việc duy
nhất tư tưởng Đông Tây, Hồ Hữu Tường băn khoăn muốn
vượt Mác xít. Ông vẫn được tiếng là người nói giỏi, tất phải
có ý định. Xin cho nghe.
Đỗ cúi đầu, người kia không chịu mà rằng :
- Hay định học lối vô vi của Lão Tử, không làm để khỏi
thất bại, không tụ, để khỏi phân ly?
Đỗ bèn thở dài mà rằng:
- Vô vi làm sao được? Ở cái bình diện nhân sinh tương đối
này thì làm sao mà thể hiện được cái nghĩa tuyệt đối của
một chữ Vô? Vô đấy mà cũng là Hữu đấy. Hữu đấy mà lại
là Vô. Khó lắm thay!
- Không vô vi tất phải làm, vậy làm gì?
Đỗ bỗng đổi giọng :
- Ông đã đọc sách Luận ngữ chưa?
- Đọc rồi.
- Tất biết chuyện Tăng- Điểm!
- Xin nghe!
- Nhân Tử Lộ, Tăng Điểm, Nhiễm Cầu, Công Tôn Hoa
ngồi hầu, Phu Tử hỏi rằng Khi các ngươi bình cư thường
nói : “Chẳng ai biết đến ta mà dùng ta”. Nếu như có người
biết mà dùng thì các ngươi định làm sao? Tử Lộ ước có
HUỲNH ÁI TÔNG
16
nghìn cỗ xe lớn, ở vào thế yếu mà chống thyết mạnh,
Nhiễm Cầu bàn đấn một chương trình kinh tế ba năm cho
dân no đủ. Công Tôn Hoa thì nghĩ đến việc “mặc áo huyền
đoan, đội mũ chương phủ” vào nhà Tôn Miếu mà giúp việc
Lễ.
- Còn Điểm thì sao?
- Tăng Điểm lúc ấy đang gảy cái đàn sắt, tiếng đàn thong
thả và hòa nhã, bỏ đàn xuống, đứng dậy mà thưa rằng: Chí
tôi khác hẳn ba anh kia. Đến cuối mùa xuân, áo mùa xuân
đã may xong, năm sáu người trạc độ hai mươi tuổi, sáu bảy
đứa trẻ con rủ nhau đi tắm sông Nghi, hóng gió nền Vũ vu,
rồi hát mà về. Phu Tử thở dài mà than rằng :”Ta cũng thích
như Điểm vậy !”
Người kia tròn mắt nhìn Đỗ:
- Tôi vẫn chưa hiểu.
- Có gì mà không hiểu?
- Vậy ý ông có thế thôi ư?
- Hãy tạm hiểu là như vậy.
Rồi Đỗ lẳng lặng sắp đồ pha trà, căn vặn thế nào cũng
không nói. Một lúc sau nhớ tới lệnh giới nghiêm, người kia
bỏ ra về. Hôm sau kể lại chuyện, cũng chẳng ai hiểu Đỗ
dụng ý nói gì.
Cuộc sống nơi Kẻ Chợ vốn đắt đỏ, số người tị - loạn càng
ngày càng đông, việc mưu sinh trở nên chật vật. Thiên hạ
mải kiếm gạo, dần dà không còn ai bàn tán tới Đỗ. Thản -
hoặc, có nhắc đến, cũng cho là viển vông, vu khoát.
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
17
Nhưng từ cái đêm nhắc tới lời Phu Tử, Đỗ lại thêm phần
thắc mắc. Đỗ nghĩ rằng cả bốn môn đồ Phu Tử đều có lý.
Vì sở thích Tăng Điểm chính là cái đích chung của thiên
hạ. Nhưng muôn tới được đó, tất phải hoàn thành cái cách
Nhiễm Cầu, mưu việc Tử Lộ và tề chỉnh cho thiên hạ một
thứ lễ nghi như ý Công Tôn Hoa. Bốn ước vọng tựu trung
là cả một quốc sách có trình tự rõ ràng. Đỗ thán phục cổ
nhân nhưng cũng thầm trách cổ nhân chỉ bày cái đích mà
chẳng vẽ ra phương tiện.
Thật tình ai mà thích mặc áo mùa xuân và tắm mát sông
Nghi ? Nhưng trong cơn đại loạn này, tìm đâu ra được một
Tử Lộ, một Nhiễm Cầu và nhất là một Công Tôn Hoa?...
Tiếng guốc ngoại ô lần tới họp chợ sáng Bắc Qua, đã nhiều
lần làm Đỗ giật mình thấy mình bó gối thâu đêm bên ấm trà
tàn bã.
Càng suy nghĩ, càng thấy tối. Đỗ ngày một héo mòn.
Người chủ trọ ái ngại, muốn lựa lời khuyên giải mà cũng
chẳng biết nói gì.
Ngày nguyên tiêu năm mão, có mở chợ hoa. Thiên hạ tạm
quên lo nghĩ, mặc áo mới, đổ ra đường, nam, phụ, lão, ấu,
lũ lượt kéo tới ven hồ Hoàn Kiếm.
Muốn thêm vui, viên thị trưởng họ Thẩm ra lệnh kéo lưới
bắt Rùa ở hồ lên để người Kẻ Chợ có dịp nhìn tận mặt con
vật tương truyền giật kiếm cứu quốc của vua Lê. Người
hiếu kỳ xem Rùa có tới hàng vạn. Không khí tưng bừng,
đây đó đèn treo hoa kết.
Người chủ trọ thấy Đỗ vẫn âm thầm một mình trên gác trọ,
bèn thúc dục ra phố. Bắt đầu còn từ chối, sau nể lời, Đỗ
miễn cưỡng vuốt tóc, khoác áo ra đường.
HUỲNH ÁI TÔNG
18
Khi tới nơi, ttrời đã ngả chiều, người chơi hội chỉ còn lác
đác. Vì lâu không ra chỗ thoáng, Đỗ tinh thần sảng khoái,
bèn bước vào một tửu quán, chọn chỗ khuất gọi rượu ngắm
hồ.
Lúc bấy giờ, gió đông thổi lộng, sóng hồ bệp bềnh, trăng
rằm lên ngôi, sương mỏng buông xuống ướt cả cỏ non. Đối
cảnh mà cảm khái, mềm môi, uống mãi, lúc đứng lên mới
biết đã say. Đỗ chập chững ven hồ mà bước. Một lát sau
thấy mình dừng lại trước Rùa, bèn dương mắt mà ngắm.
Rùa to bằng cái nia, đầu cổ sần sùi, bốn chân bị trói.
Đỗ đứng lặng nhìn Rùa. Rùa cũng vương cổ nhìn Đỗ. Dưới
ánh trăng nguyên tiêu, Đỗ chợt thấy mắt Rùa như mờ lệ.
Nhân còn say, Đỗ hỏi :
- Cũng biết thùy lệ ư ?
Rùa gật đầu, vươn cổ ra nhìn hồ. Nước hồ trong xanh dưới
ánh trăng xanh. Đáy hồ rêu cũng xanh. Đỗ nhìn quanh
không thấy có ai, bèn sắn tay áo cởi trói cho Rùa. Rùa dụi
đầu vào tay Đỗ, Đỗ thấy mát dợi lòng tay. Bèn vỗ vào mai
Rùa mà rằng :
- Thôi đi đi, từ nay nên cẩn thận.
Rùa choài mình xuống nước. Mai Rùa lấp loáng phút chốc
biến mất.
Đỗ nhìn theo hồi lâu rồi cũng trở về.
Đêm hôm đó, Đỗ chằn chọc, không nhắm mắt. Định đọc
sách, thì tâm thần phiêu diêu bất định, chữ múa trước mắt,
nghĩa sách thoảng xuôi như cơn gió mùa xuân.
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
19
Đỗ bèn vùng dậy, mở toang cửa sổ. Trăng tỏa đầy gác học.
Trăng soi sáng bốn bề ngập sách. Sách ở bàn, ở tủ, từng
chồng, từng tập, ở cả đầu giường. Quyển mở xem vội vài
trang, quyển khép kín im lìm một xó tường. Mã Khắc Tư
ôm ấp Lão Tử. Sartre nằm cạnh tập kinh Tân Ước. Bao
nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu cố gắng, bấy nhiêu cây mốc cắm
dọc con đường tư tưởng tự nẻo xa xôi, rắn vườn Eden chưa
từng bò sát cho đến bây giờ... Tựu trung, Chân Lý vẫn chập
chờn như đom đóm lập lòe giữ bãi tha ma. Sách lặng lẽ lên
bụi. Bụi sách lung lay ánh trăng nguyên tiêu. Đỗ bỗng thấy
ngộp thở mà quay đi. Và dụt dè hỏi rằng :
- Thế ra mỗi người là một thế sống tùy thời mà biến hóa
khôn lường.m Thế Chiến Quốc, Thế Xuân Thu... Thế sống
mạnh Tử và thế sống Khổng Khưu. Mà nào ai đã khuyên
nhủ được ai ? Hỡi ơi ! Ta vỡ lòng trong mốc bụi dĩ vãng,
nhớn lên cùng tập giấy mủn, nhìn thế cục xoay vần bằng
con mắt cố nhân. Nay lại định giải quyết hiện tại bằng
phương quá khứ ! Còn vỗ ngực trách ai nữa ?
Đỗ thở dài nhìn xuống đường.
“ Đường xanh bóng trăng. . . .”
Đường rộng rãi, thênh thang mà vắng ngắt.
Đỗ cảm thấy hoang mang như người lên đường mất bạn
đồng hành. Tự cởi, tự do nhưng lại thầm nghĩ :
- Thế ra ta chỉ một mình ?
- Tại sao ta lại một mình, còn em ?
Đỗ bàng hoàng quay lại, nheo mắt không tin. Vì đúng là có
một người đứng trước mặt Đỗ: một người thiếu phụ, thướt
HUỲNH ÁI TÔNG
20
tha, mặt trắng, mắt trong, da mịn, tóc mun chảy như suối
xuống vai, áo màu rêu mát lạnh.
- Nàng là ai ?
Câu hỏi tắt ngấm trong hơi thở ấm dan. Hai vòng tay thơm
ngát đã vòng quanh cổ Đỗ. Trăng sáng, môi ướt mọng chín
mùi, gió xuân lọt căn gác. Đỗ dợn ngùi mà mê đi.
Cuối canh tư, Đỗ bừng tỉnh. Hàng xóm gọi nhau ơi ới thổi
cơm. Gà gáy cuối phố. Cửa sổ vẫn rộng mở. Trăng sế vàng
khè. Nhìn quanh vắng ngắt, duy hương vương lại, giường
chiếu xô lệch, sách vở đạp xuống đất, Đỗ mới tin là chuyện
thực. Bèn đóng kín cửa để ủ hương thừa, ngẩn ngơ, ủ rũ
suốt cả ngày, không biết làm gì.
Đêm nàng lại đến. Hỏi tung tích, chỉ mỉm cười mà không
nói. Gạn dò thì nhẹ đáp :
- Đêm xuân ngắn ngủi, hỏi làm gì ? Đến với chàng thế này
chưa đủ sao ?
Đỗ không chịu, định căn vặn đến điều thì hai vòng tay mát
dịu đã quàng nơi cổ. Đỗ không cưỡng được mà mê đi.
Lại cũng như đêm trước, gà hàng xóm bắt đầu gáy, Đỗ lại
sực tỉnh một mình.
Từ đó, đêm nào cũng tới. Đỗ bỏ cả sách, ăn uống thất
thường, suốt ngày phờ phạc, sắm nắm đợi náng từ lúc lên
đèn. Có lúc nhớ tới cái không khí « giàn dưa lất phất » của
Bồ Tùng Linh, Đỗ rùng mình nghi là ma quái, nhưng lần
đầu gần đàn bà, gia dĩ môi nàng ấm quá, da nàng mịn
màng, cho nên định hỏi lại thôi, có ngờ cũng không cự
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
21
tuyệt. Trăm nghìn câu hỏi, áp má người ngọc, Đỗ lại mê đi
mà quên bẵng.
Người chủ trọ quen tính, cũng không lấy làm lạ, cho Đỗ bơ
phờ bởi, quá chăm học, chỉ biết ái ngại lắc đầu.
Cứ như thế, thoắt đã nở mùa hoa phượng. Cuộc tình duyên
lặng lẻ giữa hai người kéo dài cả một vụ xuân. Một đêm,
nàng đến mà ngồi yên, nét buồn in trên vẻ mặt. Đỗ có nắm
tay, cũng gượng gạo mỉm cười nhưng không dấu nỗi ưu tư.
Định hỏi, nàng đã thỏ thẻ bên tai :
- Đã đến lúc xa nhau rồi đấy !
Đỗ không tin mà cãi :
- Xa làm sao được ? Mà ai bắt xa nhau ?
Nàng ngồi yên một lát rồi mới nói, giọng như đượm lệ :
- Chàng với em vốn có tiền duyên, chàng còn nhớ ngày hội
nguyên tiêu ?
Đỗ gật, Nàng nói tiếp :
- Em vì mải vui hôm đó nên sa cơ mắc lưới. Chàng vì lòng
hào hiệp mà cởi trói cho em. Thụ ơn nặng cùng chàng nên
mới có ngày nay.
Đỗ thốt nhiên nhớ lại, giật mình :
- Vậy ra nàng là. . . .
HUỲNH ÁI TÔNG
22
- Em vốn là loài Rùa, tu đã trọn kiếp, nhất là có công với
Đất Nước này nên được Thiên đình giao cho cai quản ngôi
tháp giữa hồ Hoàn Kiếm.
- Nàng nói sao ? Nàng có công với Đất Nước này ?
- Chàng đọc sách nhiều, quên việc xây thành Cổ Loa rồi
sao ?
- Trời ơi Thần Kim Quy !
- Là em đó . . .
- Còn chuyện thanh gươm Lê Lợi ?
- Cũng là tại em !
Đỗ cúi đầu suy nghĩ, giây lâu mới nói lên lời :
- Nhưng tại sao lại phải xa nhau ?
Nàng thổn thức trả lời :
- Em đi lại với chàng, không dấu nổi tai mắt Thiên Đình
mà mang tội phải đầy sang Động Đình Hồ. Em lén đi giây
lát để chàng biết chuyện, mai sớm đã phải lên đường.
Đỗ ôm lấy vai nàng :
- Chậm lại ít bữa được chăng ?
- Lệnh Thiên Đình không thể trì hoãn. Vả công sai áp giải
đã chực sẵn từ sáng. . . . Mới lại đằng nào chẳng phải xa
nhau ?
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
23
Đỗ ngùi ngùi gặng hỏi :
- Xa nhau mãi ư ?
- Sớm lắm cũng khoảng hai năm. Còn chậm, thật chưa biết
đến bao giờ.
Nói rồi, hai người nhìn nhau thổn thức. Ve kêu ran ngoài
đường khắp các cành cây. Sao từng ngôi lấp lánh vòm trời.
Nàng chợt đứng dậy, nhưng Đỗ bàng hoàng nắm áo, nhất
định không chịu chia tay. Nàng đành nuốt lệ nói sẵng :
- Xa nhau ít lâu rồi lại gặp, Chàng sao nặng tình quá thế !
Đỗ rằng :
- Bây giờ mới biết thế sao ?
Biết Đỗ giận, nàng vội nhích lại gần :
- Nói đùa chàng đấy . . . Thật tình biết chàng từ lâu, ngay
từ khi chưa gặp . . .
- Thật hay đùa nữa ?
- Thật đấy ! Ngày ngày ven hồ mà đi nghe giảng văn, ai mà
không thấy ? Lại những trắng đêm đọc sách, vẻ ưu tư của
chàng, gợn cả sóng hồ. Em vốn cũng nặng tình với số phận
Đất Nước, làm gì mà không để ý ?
Đỗ vội hỏi :
- Ở đây rồi sẽ ra sao, có thể biết trước được không ?
Nàng cười mà không trả lời.
HUỲNH ÁI TÔNG
24
Đỗ lại gặng hỏi, thì nàng đáp :
- Biết làm sao được ?
- Cạnh nàng chắc cũng có vbàn luận nhiều đến thời cuộc,
nỡ nào lại còn giấu nhau ?
- Thân còn không tiếc, giấu chàng làm gì việc ấy ?
Đỗ tần ngần mà rằng :
- Tôi tưởng đã có định trước . . .
- Định hẳn làm sao được ?
- Thế sao lại có việc Lê Lợi đào được kiếm thần ?
- Đào được kiếm thần thì ai đào mà chả được ? Thiên Đình
thật ra có biệt nhỡn riêng ai ? Chỉ sợ không sử dụng nổi
kiếm thần mà thôi ! . . .
Đỗ không tin :
- Nếu có kiếm thần trong tay thì còn sợ gì nữa ?
Nàng liền nói tiếp :
- Trước kia em cũng lầm tưởng như chàng cho nên mới
hủy công tu luyện mà ra công giúp đỡ Thục Vương. Ấy thế
mà rồi cũng hỏng cả . . . Nỏ thần dù màu nhiệm, nếp xoáy
Loa thành có hiểm trở nhưng người đứng đầu không vững
tay sử dụng thì đại sự vẫn không thành . . . Nhân sự thật
thật là phức tạp. Tính trước làm sao được mối oan tình
Trọng Thủy, Mỵ Châu ? Cho nên Thiên Đình dù có biết
trước thời cơ cũng không lý nổi nhân sự. Lê Lợi, Quang
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
25
Trung chẳng qua chỉ là những người ý thành, tâm chính,
hiểu thời, nổi dậy mà thiên hạ phải bình, có thế thôi !
Nàng bặt lời, cúi đầu ngẫm nghĩ. Đỗ cũng cảm thấy xáo
trộn trong tâm mà yên lặng không lời . . . Trên trời, sao
từng ngôi tắt ngấm. Rì rào ngọn gió bắt đầu kể lể riêng tây
đây đó, từng lá từng cành. . .
Giọng người thần nữ Kim Quy lại thổn thức cất lên :
- Trước kia vì đại sự mà giận Mỵ Châu, bây giờ thật mới
hiểu nàng.
- Sao ?
- Lại còn phải hỏi ư ?
- Có bằng Mỵ Châu, Trọng Thủy không ?
- So sánh làm sao được ?
- Nếu muốn thử thách, liệu có dám làm như Mỵ Châu
không ?
- Có lẽ cũng không giữ nổi lòng đâu !
Đỗ dụt dè :
- Ngộ . . . muốn xin chiếc kiếm Lam Sơn thì sao ?
- Em được lệnh trên mà lấy lại kiếm thần nhưng lại không
giữ . . .
- Ai giữ ?
HUỲNH ÁI TÔNG
26
- Chính Lê Lợi ! . . . Nhưng chàng muốn được kiếm để
làm gì ?
Đỗ chợt dằn giọng :
- Nhận trách nhiệm. Mưu đại sự.
Dứt lời, gió đột nhiên tự bốn phương ào ào đưa lại. Vòm
trời đen kịt nhằng nhịt ánh chớp. Căn gác rung lên cùng
tiếng sấm vang dậy.
Thần Kim Quy tái mặt vùng dậy :
- Trời ơi !
Đỗ cũng hoảng hốt xô lại định giơ tay đỡ, nhưng nàng đã
rú lên :
- Đừng, đừng chạm vào em ! Em không còn là em nữa
đâu !
Trước mắt Đỗ, thần Kim Quy . . . lần lần lộ nguyên hình.
Đỗ thổn thức cố nói :
- Đừng quên nhau . . .
Ánh chớp sáng loáng mai rùa, long lanh ngấn lệ. Thần Kim
Quy gật đầu rồi từ từ bò khuất vào giữa cơn bão gió đen kịt
đêm tàn xuân. Đỗ gục vào thành giường mà khóc cho đến
sáng.
Gần sáng, bão gió chưa tắt, mưa đã dội xuống. Rồi vừ mưa
vừa gió suốt ba ngày ba đêm không lúc nào ngớt. Cây cổ
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
27
thụ Kẻ Chợ bật gốc có đến mấy trăm thân, nhà Kẻ Chợ bay
nóc có trên hàng nghìn chiếc.
Trời hửng nắng, thì cá hồ Hoàn Kiếm chết nổi lềnh bềnh
như bèo Nhật bản. Thiên hạ hiếu kỳ rủ nhau đi xem đông
nghịt ven hồ, ai cũng lấy làm lạ. Duy có Đỗ từ buổi đó thì
thôi hẳn ra đường, suốt ngày thơ thẩn trong phòng, lắm lúc
vật mình mà khóc, có đêm ôm gối tương tư, như điên như
dại. Lúc đầu còn có bạn đến thăm, nhưng vì lãnh đạm
không tiếp, lâu dần chẳng còn ai lui tới.
Năm Mão qua đi mà trọn bốn mùa, Đỗ không thôi thương
nhớ. Một ngày trọng Đông năm Thìn, Đỗ không đâu mà
cảm thấy bồn chồn, tâm linh xao động, dường như có gì
thúc bách. Bèn tung chăn đứng dậy, bách bộ quanh phòng.
Một lát, dừng bước trước đống sách. Quen lệ cũ, đã định
giơ tay với một cuốn : gió bấc chợt lọt kẽ song, phả vào
mặt Đỗ một mùi tử khí tự đống sách dâng lên. Nhìn kỹ,
mốc xanh lốm đốm khâm liệm đống sách đã tự bao giờ.
Nhằng nhịt, nhện đả giăng tơ, tơ nhện hứng bụi tường tỏa
trắng một góc buồng. Tự đêm nguyên tiêu kỳ ngộ, có lần
nào Đỗ nén lòng đọc được một trang ? Vả lại, cũng tự đêm
ấy, Đỗ bắt đầu thấy ngấy chữ nghĩa cổ nhân . . .
Đỗ nhìn xuống bàn tay. Bàn tay vốn xanh xao bỗng trở nên
gân guốc. Như muốn đập phá. Như muốn cấu xé. Thế rồi,
giữ lại cũng không kịp, hai bàn tay, mười ngón chồm lên.
Khi định thần, đống sách đã nằm gọn trong lò sưởi góc
phòng.
Cuộc phần thư bắt đầu.
Năm xưa, ngọc lửa phần thư nhóm lên do một bàn tay ưa
chuyện “khanh nho”. Kẻ sĩ đời Tần nghẹn ngào, hằn học,
HUỲNH ÁI TÔNG
28
lời nguyền rủa vượt khỏi Trường thành, sang sảng cập đến
tai hậu thế.
Giờ đây, lửa phần thư lại do chính một kẻ sĩ tự ý gây lên.
Lửa không lan rộng mà âm ỷ xoáy hẳn vào bề sâu một cơn
khủng hoảng.
Đỗ nhập thiền, vừa chừng kiến, vừa chịu cực hình một lễ
hỏa thiêu lạ lùng. Từng tờ một, quằn quại để rồi siêu thoát,
từng nguồn tư tưởng, Christ từ từ ngược lại quãng đường
dẫn tới đỉnh Golgotha. Thích Ca Mâu Ni lại gặp một gốc
Bồ đề. Mã Khắc Tư thủ thế trước Freud. Sartre giật mình,
ngơ ngẩn trong một thế ngõ cụt. Rồi lần lượt He’gel, Lão
Tử, Khổng Khưu. . . Từng tờ một, thiêu dần từng nỗi băn
khoăn. Đỗ qua từng cơn cảm giác tân kỳ. Có lúc xót xa như
bị lột xác, có lúc rợn người như thoáng bóng ma, nhiềukhi
ê chề như bị lăng trì. Dần dà thì tâm trí lâng lâng, ngũ giác
gấp phần minh mẫn. TƯởng như mang nổi nghìn cân, mọc
cánh mà bay ngang con hồng, con hộc, vươn mình đuổi kịp
ngực Ký, ngực Kỳ.
Ngọn lửa trong lò cũng qua cơn ngùn ngụt, tới độ điều hòa.
Đỗ đắm mình trong hơi ấm của lửa. Giữa tiết trọng đông
mà không khí gian phòng gợi đến nước sông Nghi và tấm
áo mát của thầy Tăng Điểm. Không khí gợi đến hơi thở
của…
- Em đã về đây ...chàng !
Lửa phần thư đã tắt. Trên đống tro tàn của đống sách hỏa
thiêu, người thần nữ Kim Quy xuất hiện.
Đỗ bàng hoàng giơ tay chới với. Nàng từ lò sưởi bước ra,
hương thơm ngây ngất quanh phòng.
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
29
- Trời ! Ta mê hay thật là nàng ?
Đỗ nắm chặt tay người thần nữ. Yên lặng ngùi ngùi trong
gian phòng ấm áp.
Một lát sau, nàng nhẹ nhàng rút tay ra rồi mỉm cười :
- Đã quyết định rồi sao ?
- Sao lại hỏi thế ?
- Thế sao lại đốt sách ?
- Đốt sách là quyết định ư ?
- Chàng chỉ còn một chút sản nghiệp tinh thần, Hỏa thiêu
đi là đã có ý định rồi đó !
- Không biết có ý định gì, nhưng vì đốt sách mà gặp lại
nhau, không quý sao ?
- Tại sao chàng biết đốt sách thì gặp lại em ?
- Căn vặn nhau mãi !
Nàng ngồi yên không nói. Đỗ gạn hỏi thì nhìn Đỗ mà tủm
tỉm cười. Bèn nắm lấy tay, đùa mà dọa :
- Không nói thì lại bắt chước họ Thẩm, còn nhớ không ?
Nàng nghiêm nét mặt :
- Cái dây của một viên thị trưởng bằng sao được một mối
tình ? Không cần trói cũng khó mà rời nhau . . .
HUỲNH ÁI TÔNG
30
Thấy Đỗ ngậm ngùi, nàng lại nói tiếp :
- Lần trước gặp chàng vì tiền duyên. Cũng vì tiền duyên mà
mang lụy tại Động Đình Hồ. Nhưng vì mối tình của chàng
có nặng, sóng tình cập tới Thiên đình, nên em sớm được trở
lại với chàng . . .
Đỗ lộ vẻ mừng:
- Có thể ở luôn với nhau được không ?
Nàng rằng :
- Sao lại không ? Nhưng còn phải đợi . . . Số là, lại với
chàng, em còn một nhiệm vụ.
- Sao ?
- Chàng cứ yên, em xin nói. Trước khi gặp em, chàng
thường băn khoăn về thế cuộc. Điều đó chân thành xuất tự
tâm can, hiện lên vẻ mặt, tất không giấu nổi Thiên đình.
Nhưng muốn mưu đại sự, một nỗi băn khoăn tất nhiên chưa
đủ. Cần phải có thời . . . Mà xét kỹ thì thời đến rồi đó . . .
- Xin nói rõ cho nghe . . .
- Chàng còn nhớ khi chia tay bận trước, chàng có gợi đến
việc kiếm thần . . .
- Quên làm sao được ?
- Chuyện có thể thành đấy. . . Nhưng . . .chàng có hiểu tại
sao em lại về đây, giữa khi chàng đốt sách ?
- Hiểu làm sao được . . .
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
31
- Thật tình nếu không có việc đốt sách thì chẳng bao giờ
lại được gặp nhau.
- Ồ ! . .
- Vì . . . Thiên đình tuy để ý tới chàng nhưng còn đợi
chàng tự ý quyết định.
- Vậy ra đốt sách là quyết định hay sao ?
- Chưa hẳn là thế, nhưng ít ra cũng lộ một phần ý chí . . .
Đỗ vùng dậy, đi lại quanh phòng. Người thần nữ yên lặng
nhìn theo, đầu mày cuối mắt lộ tình quyến luyến. Đêm lặng
lẽ xuống dần. Lòng người trẻ tuổi tơ vò trăm mối.
Có cơn gió bấc lọt kẽ song. Đỗ rùng mình tiến lại phía
người thần nữ, người nàng ấm như áo khinh cừu. Hai bàn
tay run rẽ như hai con sẻ, Đỗ hơi nhích ra xa, giọng cất lên
biểu lộ nỗi đắn đo đến cực độ.
- Giờ đây xin ngồi yên để nghe lời vàng ngọc. Nàng hãy
giảng giải rõ ràng. Sau cùng sẽ xin quyết định.
- Xin hỏi lại chàng, tại sao lại đốt sách ?
- Cũng không hiểu tại sao. Lúc biết thì lửa đã bén vào
sách.
- Thật ra thì cái việc phần thư của chàng âm ỷ đã từ lâu. Từ
lâu, từ đêm đầu tiên gặp gỡ,chàng đã thấy bực dọc với chữ
nghĩa của người xưa . . .
- Xin nghe . . .
HUỲNH ÁI TÔNG
32
- Chàng khổ tâm vì trong cái thế tranh hùng Hán Sở, không
biết đâu là nơi dụng võ. Một đằng là mặt đe nẩy lửa. Một
đằng là kẻ có tiền, một đằng hoàn toàn tay trắng. Nhập vào
đâu cũng chỉ là kế nhất thời. Đứng ở đâu cũng là mượn tạm
đất đứng . . .
Người thần nữ im lặng giây lâu, rồi lại tiếp :
- Lý ưng ra, chàng phải nhập vào bọn người áo vải vì thật
tình sản nghiệp của chàng không một tấc đất cắm dùi.
Nhưng cái khổ của chàng lại là những uẩn khúc tâm tư,
nhằng nhịt, dọc ngang như thế bàn cờ . . .
- Vậy đốt sách đi . . .
- Đốt được nhà . . . nhưng đốt sao được sách ? Chàng còn
nhớ cuộc phần thư thuở ban đầu xây dãy Trường thành ?
Càng đốt sách, nghĩa của chữ lại càng trong trẻo, dễ vút lên
cao, dễ lan ra rộng . . . Họ Tần đốt sách Khổng Khưu vậy
mà cái lý Tam cương của người nước Lỗ có bị hỏa thiêu
cùng sách ?
- Thế là đốt sách . . .
- Là một chuyện cần. Vì đối với chàng, đó là một hành vi
quyết định. Hành vi đó lại là một lời cầu nguyện động đến
Thiên đình. Và em đã được phép trở lại với chàng, khi lửa
phần thư đã bắt đầu dịu ngọn. Chàng muốn thiêu hủy đến
không còn một tấc đất tư duy. Nhưng kết cục, chàng lại
thấy em, giữa đống tro tàn. Em là của chàng. Cũng như đã
từ lâu chàng là của riêng em.
- Nói vậy, hóa ra lại là Vương Khải, Thạch Sùng ? Cái lẽ
quyết định là ở chỗ đó sao ?
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
33
- Sao lại mơ hồ đến thế, hở chàng ? Mặt trời sắp mọc và
mặt trời đang lặn, ánh sáng tuy bàng bạc như nhau, nhưng
sao lại vì cái thế bình minh khởi sắc với ánh tà thoi thóp
của lửa hoàng hôn ?
Đỗ cúi đầu suy nghĩ. Trong tịch mịch của đêm đông, người
con trai bắt đầu giác ngộ. Giữa bãi chiến trường nhọn hoắt
đao gươm, Đỗ dần dần nhận ra chỗ đứng của mình. Người
thần nữ đọc được ý nghĩ của chàng. Nàng bèn lên tiếng :
- Trong binh pháp, thường nhắc đến thế bối thủy. Chàng
nhận thấy chưa ? Không tiến cũng chết. Mà đứng yên lại
càng chóng chết.
Đỗ ngước mắt nhìn nàng :
- Không biết một mình có làm nổi . . .
- Sao lại một mình ? Thời đã đến, ắt là cái thế chung cho
phần đông thiên hạ. Vả lại kiếm thần sẽ giao phó tận tay,
chàng ngần ngại ư ?
Đỗ đứng phắt dậy :
- Thật ư ? Kiếm thần . . .
- Nhận kiếm thần chính là nhận nhiệm vu.
Đỗ bồn chồn :
- Vậy bao giờ ?
- Hẹn chàng giữa đêm trừ tịch, năm nay.
- Ngay bây giờ không được sao ?
HUỲNH ÁI TÔNG
34
- Ngay bây giờ ư ? Bây giờ. . . chàng ơi ! . . .
Giọng người thần nữ thiết tha. Mắt nàng ngời sáng. Đỗ
lạcvào một rừng hoa lạ. Trong yên lặng của trời đất, niềm
giao hòa vượt khỏi nhung của da và hoa hồng tím thẫm của
môi, chơi vơi tới mãi nơi thượng từng tĩnh khí.
Gà gáy sáng tự bao giờ.
Năm thìn, giữa đêm trừ tịch, cầu Thê Húc tự nhiên xụp đổ.
Người Kẻ Chợ đi xin lộc đền Ngọc Sơn ngã xuống hồ
không biết bao nhiêu mà kể. Thiên hạ xôn xao. Có người
cho là Thần Rùa báo oán việc xưa. Có kẻ nghi là điềm gở,
tính việc bán nhà mà bỏ vào Nam.
Lúc sửa lại cầu, viên đốc công thấy chân cầu tuy gẫy mà
gỗ vẫn tốt nguyên. Duy chỗ gẫy như có vật sắc phạt ngang,
ngày đêm rỉ nhực đỏ lòm như máu. Nói lại, ai cũng cho là
lạ. Kẻ bàn, người tán, không biết ra sao.
Có người biết Đỗ, tìm đến nơi định hỏi. Nhưng cũng giữa
đêm trừ tịch, Đỗ đã bỏ kinh thành, biệt vô âm tín ./.
(1954)
Trích thơ:
Vọng cố nhân
Lác đác sao buổi sớm
Xạc xào lá mùa thu
Cố nhân hề tan tác
Mộng cũ dưới cành du
Chử qua tử
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
35
Một ông sao sáng
Hai ông sáng sao
Dăm cụ bạn vàng lác đác
Lá mùa thu rụng đêm nao
Học thói Nhan Hồi rằng quên đừng nhớ
Nhưng hoa bèo dạt bờ ao
Tím ngát. Tím hoài lãng đãng
Lòng quê lại thấy dạt dào
Khui chai rượu nhỏ
Hồ trường biết rót phương naỏ
Chợ Cũ hay là Chợ Lớn
Phố Hàng Khay hay phố Hàng Đàỏ
Quán cóc mái xiêu chợ Đũỉ
Sông Hương chiều lộng gió Làỏ
Thôn Vĩ hàng cau bụi trúc?
Nguyễn Tri Phương hay góc Đa Kao
Sương khuya nhuốm bạc mái đầu
Bạn vàng kẻ trước người sau
Giới nghiêm cũng mặc hẻm nào cũng vô
ờ lại có những chiều nổi gió
Rượu ngà ngà cổ áo nâng cao
Khói huyền dâng lên mờ sao
Đêm Ba Tư quánh màu ma túy
Gác xép suông tình hẻm nhỏ
Vò đầu hát láo nghêu ngao
Rằng ta tự thủa nào tuổi trẻ
Nguyện không hùa theo kẻ làm cao
Rẳng ta trượng phu hề lòng như trăng sao
Chí như Hi Mã
Đỉnh nhọn hề vươn cao
Thời nhiễu nhương hề ta phù suy vùng vẫy
Việc thành rồi ngày trời tháng bạt tiêu dao
Ngày đó tóc sao xanh mướt
HUỲNH ÁI TÔNG
36
Mặt chữ điền, mày xếch chữ đao
Ngày đó vai như vai gấu núi
Vang sông hồ hề con sư tử hống
Giờ đây tóc xói lên cao
Giớ đây tâm sự thều thào
Giờ đây hết. Hết rồi. Thế đó.
Còn chăng mộng cũ tầm phàọ
Nắng phai bãi trước chiều đơn chiếc
Cành gầy thấp thoáng cánh sao
Lặng đếm vài ngôi sao sáng
Vài ông sao sáng sáng sao
Vài cụ bạn già lẩm cẩm
Mỗi năm tuổi hạc một cao
Vạn lý bi thu tác khách
Giờ này lận đận phương nao
Ngựa hoang nào biết hổi tàu
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay
Nói dại, dám có ngài rửng mỡ
Vác hạc vàng tếch đại lên cao
Theo thói người xưa bất phục phản
Mặc cho mây bay trên lầu cao
Đá tảng u mê mơ tiền sử
Chồn già ngơ ngẩn nghếch trăng lu
Cành phong chợt tỉnh cơn thiền định
Nghiêng cả thân gầy xuống gốc du
Nghe lạnh tiếng con chim lạ
Vương cổ tìm đôi, cánh trao thương
Trời phương tây đỏ rực
Lửa đỏ rực tà dương
Nhưng đá chưa xiết
Ấm sao nổi tình thường
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
37
Đẩy cửa lạnh òa vào mặt
Ném lại bên lò chuyện ngày xưa
Tuyết ngập chân cao chân thấp
Run run gậy nhỏ chỉ đường xa
Bay về phương nam có đàn ngỗng trắng
Tạ từ nghe lạnh dợn hồ hoang
Có con sóc nhỏ đi rón rén
Gót nhẹ in trên tuyết mênh mang
Đứng đây giữa ngã tư đường
Trời im không nói, đất mù sương
Chợt thoảng lời kinh Bát Nhã
Rùng mình khởi niệm vô thường
Viễn ly điên đảo mộng tưởng
Lâng lâng
Không cả vô thường
Bài Kệ Rong Chơi
Ta thuờng ở đó
Ngã ba cuộc đời
Tầm xuân xanh biếc
Mây trắng lên khơi
Ta thường đến đó
Ngã ba cuộc đời
Đăm đăm theo hút
Chân ai chân ai
Tà huy lay lắt
Lay lắt hoa rơi
Bước về đơn chiếc
Những bước mồ côi
HUỲNH ÁI TÔNG
38
Bước lên hốt hoảng
Những bước vào đời
Ta thường lại đó
Ngã ba cuộc đời
Mây bay không mỏi
Xanh thẳm nền trời
Ta kêu vượt lên
Ta gào yết đế
Dốc nghe khúc khuỷu
Mất hút nẻo trời
Đèo sâu vòi vọi
Mù tắp vời vời
Vượt lên vượt nữa
Vượt mãi không thôi
Ta thường về đó
Ngã ba cuộc đời
Ta thương theo ai
Bước đi chập chững
Vừa bước khỏi nôi
U minh thảng thốt
Nghiệp chướng bời bời
Rồi từ thủa đó
Chập chờn ma trơi
Khắp nẻo cuộc đời
Ai trụ ở đó
Ta hay là Ngươi ?
Ai trụ ở đó
Ngã ba cuộc đời
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
39
Tầm xuân vẫn biếc
Mây vẫn rong chơi
Ta vẫn rong chơi
Ngã ba cuộc đời.
Ngỡ Xuân
I
Nửa khuya nghe chim lạ
Hót lẻ trong cành du
Thoáng lời kinh vô ký
Chập chờn ánh lửa giang đầu
Hót khẽ trong cành du
Chợt nhìn qua khung cửa
Bạt ngàn ngợp trắng trăng lu
II
Xuân đã về miền Hương Tích ?
Sao có hoa mơ nở trắng rừng mơ ?
Hỡi ơi không trắng hoa rừng mơ
Mà trắng miền đất lạnh
Hoa tuyết bay trăng rực Ngũ Đại Hồ
Hoa tuyết rơi liệm trắng màu hoa miền Nhiệt đới
Nơi tuyết rơi chỉ ở trong thơ
Hoa tuyết rơi lất phất
Nghe như rờn rợn lời tâm sự
Mưa nhỏ thở dài trong giàn dưa
Liễu trai chí dị
Nửa khuya đất Hồ
Có con chồn già thùy lệ
III
HUỲNH ÁI TÔNG
40
Lại nghe con chim lạ
Hót lạnh trong cành du
Lạnh ấm trà hoa cúc
Lạnh lén vào trong tôi
IV
Tôi từ thưở xa miền Nhiệt Đới
Đến đây kết nghĩa với cây du
Lòng vẫn nhủ lòng rằng thôi đừng nhớ
Ngày ngày ngồi gốc cây du
Mơ cưỡi một con trâu
Đi về miền nắng quái
Lá du như sao buổi sớm
Nhưng biết đùa với nắng mùa thu
Cũng vàng cũng nhuộm màu quan tái
Và rụng khì cành gầy ôm tuyết trắng
Đi vào thiền khoảng cuối mùa thu
V
Nhưng bỗng nhiên im lặng
Im lặng trong cành du
Lắng tai tìm chim lạ
Nghe nhẹ bổng cành du
VI
Cúi đầu tưởng đến duyên kì ngộ
Mong manh chim lạ cành du
Rồi những khuôn mặt cũ
"Cùng lận đận bên trời một lứa"
Giờ đây thưa thớt
Như lá mùa thu
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
41
"Ước cũ duyên thừa"
Có còn tiếp nối ?
Hay chông chênh sát - na một thoáng
Chim lạ bỏ cành du
Cánh nhỏ vụt nhòe trong cánh tuyết ?
VII
Ngùi ngùi mái tóc mờ sương mù
Tuổi già lệ như "lác đác
Rừng phông hạt móc sa"
Đâu còn thuỳ lệ
Chỉ rưng rưng sầu
Nhà văn Vũ Khắc Khoan qua nét hí họa của Chóe
http://leminhquoc.vn/lmq/hoi-hoa/bai-viet/1326-le-minh-quoc-nho-choe.html
HUỲNH ÁI TÔNG
42
Sáng Sàigòn Tặng Vũ Khắc Khoan
Bùi Giáng
Đi về chép nốt tờ điên
Một qua mai một một tiền diện đi
Đường vui gió dục hai bề
Mộng buồn rớt hột hai buồn cả hai
Làng xa tỉnh lỵ nhớ ngày
Nhìn sương nguyệt rộng thu dài dã man
Ngã ba ngẫu nhĩ khôn hàn
Dừng chân chợt ngó phố quàng vai xuân.
Nhà phê bình Thụy Khê trong bài: Vũ Khắc Khoan (1917-
1986) tác phẩm là một thác ngôn viết về Vũ Khắc Khoan
như sau:
“Vũ Khắc Khoan là ngòi bút đặc biệt giao hòa triết lý
Đông Tây, cổ điển và hiện đại trong tác phẩm văn học một
cách tài tình. Sáng tác ít, nhưng mỗi tác phẩm đều đạt tới
mức cổ điển. Cổ điển trong cái nghĩa đẹp nhất: không theo
thời thượng mà tìm đến những giá trị phi thời gian. Có thể
nói ông là một trường hợp "văn dĩ tải đạo" độc đáo trong
văn học Việt Nam. Cái đạo ở đây là tư tưởng, là những vấn
đề đặt ra cho người trí thức tiểu tư sản ở thời kỳ chia đôi
đất nước nói riêng, và con người của mọi thời, nói chung,
trực diện với nghệ thuật và cuộc sống.”
Tài liệu tham khảo:
- Vũ Khắc Khoan Web: vi.wikipedia.org
- Thần tháp rùa Web: gio-o.com
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
43
2. Võ Phiến
Võ Phiến - Đoàn Thế Nhơn (1925-20 )
Nhà văn Võ Phiến tên thật là Đoàn Thế Nhơn sinh ngày 20
tháng 10 năm 1925 tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định,
Trung Phần Việt Nam. Ông còn có bút danh là Tràng
Thiên.
Võ Phiến là con của ông giáo Đoàn Thế Cần và bà Ngô Thị
Cương. Ông có người em ruột là Đoàn Thế Hối (1933-
1967) cũng là nhà văn với bút hiệu Lê Vĩnh Hoà.
Khoảng năm 1933, bố mẹ cùng em ông vào Rạch Giá sinh
sống, còn ông vẫn ở lại Bình Định với bà nội. Ông theo học
trường làng và trung học ở Quy Nhơn.
Năm 1942, ông ra Huế học trường Thuận Hóa và bắt đầu
viết văn. Bài tùy bút đầu tiên Những đêm đông được ông
viết năm 1943 và gửi đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật ở
Hà Nội.
http://vi.wikipedia.org/wiki/20_th%C3%A1ng_10http://vi.wikipedia.org/wiki/20_th%C3%A1ng_10http://vi.wikipedia.org/wiki/1925http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B9_M%E1%BB%B9http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh_%C4%90%E1%BB%8Bnhhttp://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BA%A1ch_Gi%C3%A1http://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_Nh%C6%A1nhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%BFhttp://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trung_B%E1%BA%AFc_Ch%E1%BB%A7_Nh%E1%BA%ADt&action=edit&redlink=1
HUỲNH ÁI TÔNG
44
Năm 1945, Võ Phiến đi bộ đội cho đến năm 1946, ông ra
Hà Nội học trường Văn Lang. Năm 1948, ông kết hôn với
bà Võ Thị Viễn Phố và dạy học ở trường trung học bình
dân Liên Khu V. Ông dùng bút danh Võ Phiến do tên bà
Viễn Phố lái lại.
Cuối năm 1954, Võ Phiến ra Huế làm việc tại Nha Thông
Tin một thời gian rồi chuyển vào lại Quy Nhơn, tại đây ông
tự xuất bản hai tác phẩm đầu là Chữ tình (1956) và Người
tù (1957), gửi bài đăng trên hai tạp chí Sáng Tạo và Bách
Khoa.
Sau tác phẩm Mưa đêm cuối năm (1958, Sài Gòn), Võ
Phiến bắt đầu được biết đến. Ông vào làm việc tại Sài Gòn
và cộng tác với các báo Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Khởi
Hành, Mai, Tân Văn, Bách Khoa, là một trong những cây
bút chủ lực của tạp chí này là Nguyễn Hiến Lê và Vũ Hạnh.
Năm 1962, Võ Phiến lập nhà xuất bản Thời Mới.
Võ Phiến rời Việt Nam một tuần lễ trước biến cố 30 tháng
4 năm 1975, ông định cư tại Los Angeles, Hoa Kỳ, làm
việc cho Sở Thuế vụ.
Võ Phiến tiếp tục xây dựng nền văn học Việt Nam tại hải
ngoại, xuất bản tập san Văn Học Nghệ Thuật từ 1978 đến
1979, và từ 1985 đến 1986.
Về sau ông dời về sống tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ.
Tác phẩm:
- Chữ Tình (Quy Nhơn, 1956)
- Người Tù (Quy Nhơn, 1957)
- Mưa Đêm Cuối Năm (Sài Gòn, 1958)
http://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99_%C4%91%E1%BB%99ihttp://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%A1ng_T%E1%BA%A1o_%28t%E1%BA%A1p_ch%C3%AD%29&action=edit&redlink=1http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=B%C3%A1ch_Khoa_%28t%E1%BA%A1p_ch%C3%AD%29&action=edit&redlink=1http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=B%C3%A1ch_Khoa_%28t%E1%BA%A1p_ch%C3%AD%29&action=edit&redlink=1http://vi.wikipedia.org/wiki/Los_Angeleshttp://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
45
- Đêm Xuân Trăng Sáng (Sài Gòn, 1961)
- Về Một Xóm Quê (Sài Gòn, 1961)
- Giả Từ (Sài Gòn, 1962)
- Thương Hoài Ngàn Năm (Sài Gòn, 1962)
- Thư Nhà (Sài Gòn, 1963)
- Tiểu Thuyết Hiện Đại (1963)
- Hăm Bốn Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà (dịch
Stefan Zweig)
- Các Trào Lưu Lớn Của Tư Tưởng Hiện Đại (dịch
Andre Mourois)
- Truyện Hay Các Nước 1 (dịch vơi Nguyễn Minh
Hoàng)
- Truyện Hay Các Nước 2 (dịch với Nguyễn Minh
Hoàng)
- Một Mình (Sài Gòn, 1965)
- Tạp Bút 1 (Sài Gòn, 1965)
- Tạp Bút 2 (Sài Gòn, 1965)
- Tạp Bút 3 (Sài Gòn, 1966)
- Đàn Ông (Sài Gòn, 1966)
- Ảo Ảnh (Sài Gòn, 1967)
- Phù Thế (Sài Gòn, 1969)
- Tạp Luận (Sài Gòn, 1973)
- Chúng Ta Qua Cách Viết (Sài Gòn, 1973)
- Đất Nước Quê Hương (Sài Gòn, 1973)
- Ông Chồng Muôn Thuở (dịch Dostoievski)
- Thư Gửi Bạn (Hoa Kỳ, 1976)
- Ly Hương (viết với Lê Tất Điều) (Hoa Kỳ, 1977)
- Nguyên Vẹn (Hoa Kỳ, 1978)
- Lại Thư Gửi Bạn (Hoa Kỳ, 1979)
- Văn Học Miền Nam, Tổng Quan (Hoa Kỳ, 1987)
- Truyện Thật Ngắn (Hoa Kỳ, 1991)
- Quê (Hoa Kỳ, 1992)
- Đối Thoại (Hoa Kỳ, 1993)
- Viêt (Hoa Kỳ, 1993)
- Sống và Viết (Hoa Kỳ, 1996)
HUỲNH ÁI TÔNG
46
- Thơ Thẩn (Hoa Kỳ, 1997)
- Văn Học Miền Nam, truyện 1 (Hoa Kỳ, 1999)
- Văn Học Miền Nam, truyện 2 (Hoa Kỳ, 1999)
- Văn Học Miền Nam, truyện 3 (Hoa Kỳ, 1999)
- Văn Học Miền Nam, ký (Hoa Kỳ, 1999)
- Văn Học Miền Nam, tùy bút và kịch (Hoa Kỳ, 1999)
- Văn Học Miền Nam, thơ (Hoa Kỳ, 1999)
- Cảm Nhận (Hoa Kỳ, 1999
- Quê Hương Tôi (Nhã Nam-Thời Đại, VN, 2012)
Trích văn:
Thác đổ sau nhà
Đáng lẽ hôm đó tôi không đi với nhà tôi. Một phần vì tôi
chưa quen tiệc tùng đông đảo mà đám cưới hôm đó thì nhà
trai mời rất đông. Vả lại hồi ấy tôi có mang trên ba tháng,
thân hình đã có những nét thay đổi; một người đàn bà dù
không hay làm đỏm cũng không thấy có hứng thú chen đến
chỗ đông người với một thân hình như thế.
Tuy vậy khi nhà tôi sắp đi thì vợ chồng anh Thuỷ ghé vào.
Chị Thuỷ kéo tôi vào nhà trong, nhất định nằn nì đòi tôi
cùng đi cho có bạn. Chị bảo nếu không có tôi thì chị cũng
không đi dự tiệc, nên muốn cho chắc chắn chị không cho
anh Thuỷ đi thẳng mà bắt ghé vào nhà tôi để rủ. Chị xốc
hai tay vào nách, lôi tôi đứng dậy, vuốt vuốt trên bụng tôi,
rồi nghẻo đầu ngắm nghía, cười ngắc nghẻo, thì thào:
- Trông được gái lắm. Có ai thấy bụng dạ gì đâu nào? Đi
với người ta cho rồi.
Tôi bật cười. Vẫn với vẻ đùa đùa, nhanh nhẹn láu táu, chị
mở tủ lấy áo ra, lấy lược chải tóc cho tôi, lấy kem lấy phấn
dàn ra.
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
47
Vì cái tính láu táu đó mà chị Thuỷ cứ dồn dập, bắt ép khẩn
khoản xua chị em tới, đòi làm cho kỳ được những điều chị
muốn. Kỳ thực chị không biết là mình muốn, mình cần
điều đó tới đâu. Cho nên nhiều lần, sau khi xảy ra chuyện
đáng tiếc, chị ân hận vì điều mà chị muốn chị em làm xét
lại không có gì cần thiết. Tôi vừa trang điểm vừa nghĩ đến
chỗ đó. Nghĩ thế mà vẫn cứ phải làm theo sự thúc giục vui
vẻ của chị.
Từ đầu cho tới giữa bữa tiệc tôi ngồi khá dễ chịu. Bên phải
tôi là chị Thuỷ, bên trái là một bà đã có tuổi, nhã nhặn, nói
chuyện có chừng mức và nhỏ nhẹ. Giọng nói bà ta thân
mật tự nhiên, vì thế chẳng bao lâu chúng tôi trò chuyện với
nhau như trong phòng khách của nhà mình, quên để ý đến
cảnh đông đảo xung quanh. Vẻ nhỏ nhẹ kín đáo của chúng
tôi khiến cho không ai chú ý đến phía chúng tôi ngồi, và
như thế càng làm cho tôi tránh khỏi cái khó chịu mà tôi
tưởng tượng lúc ở nhà.
Chợt trong phòng tiệc tự nhiên im lặng, chỉ có tiếng một
người nói. Bà khách ngồi bên tôi ngẩng lên nhìn. Tôi cũng
ngó theo. Người khách đang nói, chẳng biết tự lúc nào đã
rời bỏ ghế của mình, bưng ly rượu đi đi lại lại. Cũng chẳng
biết bắt đầu làm sao mà ông ta được mọi người chú ý. Hiện
thời thì trừ một số khách đàn bà, còn bao nhiêu đều ngưng
chuyện riêng, chăm chú theo dõi ông ta. Thỉnh thoảng mới
có người nêu lên một câu hỏi ngắn, cũng là thuộc về câu
chuyện ông ta đang nói. Ông ta nói chuyện về săn bắn.
Đó là một người thấp, vào khoảng năm mươi tuổi, có vẻ
dày dạn. Nước da đen, đường nét trên khuôn mặt hơi thô.
Nhưng cặp mắt thực lanh. Đầu tóc ông ta không chải, khô
và quăn, nhưng không bù xù. Ông ta mặc bộ đồ nỉ màu tím
sẫm đắt tiền, mà không có chút gì chải chuốt. Cử chỉ nhanh
HUỲNH ÁI TÔNG
48
nhẹn, dễ dãi, tự nhiên. Trông qua, người ta có cảm tưởng
ngay là một người từng trải, không kiểu cách, quen với
cảnh hội hè đám tiệc. Lại là một người thực tế, giản dị,
tránh những ước vọng cao xa, với một khinh bỉ khôn
ngoan.
Thoạt tiên tôi nhìn thấy ông ta rồi liền cúi xuống tiếp tục
gắp món ăn. Nhưng giọng nói của ông ta vẫn vang bên tai.
Tôi lắng nghe câu chuyện. Bỗng nhiên tôi hoảng hốt. Một
lo sợ chơi vơi không rõ vì sao làm tôi nôn nao. Người đàn
ông đó nhắc lại một cái gì hẳn có liên quan đến tôi. Tôi
ngẩng đầu lên nhìn lại. Ông ta đã trở về đứng ngay sau
chiếc ghế của mình, một tay đặt lên lưng ghế, lắng tai chờ
nghe câu hỏi của người khách ở một bàn xa. Vụt một cái
ông ta sụn xuống, rùn cổ thụt đầu vào, nhô hai vai lên, và
giơ cao hai bàn tay, há miệng trợn mắt, “À!” một tiếng.
Mọi người cười. Rồi ông ta chụp mạnh một tay, nắm lấy
lưng ghế, tay kia trả chiếc ly xuống bàn, lắc đầu nói:
- Không! Không! Ban đêm không bao giờ trông thấy được
voi ở xa đến thế. Bọn thợ săn chúng tôi chừa con voi ra,
còn lại tất cả đều dưới quyền chúng tôi. Chúng tôi đội
ngọn đèn trên đầu tiến vào trong rừng là có thể trông thấy
tất cả muôn thú, trừ con voi. Và con người, vâng, và con
người nữa. Là vì mắt voi và mắt người không phản chiếu
ánh đèn. Thế cho nên nhiều khi mình đã đến gần bên một
con voi mà vẫn tưởng là tảng đá. Ngoại trừ con voi, bọn
thợ săn chúng tôi làm chủ núi rừng. Quét một ngọn đèn
bắn trong đêm thì trong vòng đường kính năm mươi thước
chúng tôi có thể thấy từ cặp mắt con cọp, con heo rừng,
cho đến những chấm sáng li ti của mắt con nhện, mắt
những con nhái, con cào cào, châu chấu, đến những cặp
cánh lóng la lóng lánh của sâu bọ lăn tăn. Sáng nhất là mắt
cọp và mắt nai. Mắt cọp sáng ngời, có tia sao. Còn những
mắt heo rừng, thỏ, chồn... thì đỏ lờ lờ như màu mã não. Có
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
49
lần chúng tôi...
Tôi cúi xuống bàn, tâm trí hoàn toàn rối loạn. Nhất định là
người đàn ông đang nói đó và giọng nói của ông ta có một
liên quan gì với tôi hết sức hệ trọng. Khổ nhất là người ta
không có phương pháp gì có thể tự ý gợi lại một ký ức khi
nó chưa chịu hiện đến. Tôi biết chắc lúc đó thần sắc tôi
biến đổi khác thường. Bà khách bên cạnh nhìn tôi, giấu vẻ
lo ngại, nghiêng người tới với một vẻ săn sóc, tìm một câu
nói:
- Ông ấy thạo quá.
Tôi cười và đáp như máy: “Vâng, thạo quá.”
Chị Thuỷ quay sang phía chúng tôi, nói thêm:
- Ông quận Toàn đấy mà. Chị không biết sao? Quận Toàn
mà nói chuyện săn bắn không thạo thì ai thạo? Hồi thầy tôi
còn làm phán sự tòa sứ ở tỉnh, cách đây hai mươi năm,
chúa nhật nào ông ta cũng có thú rừng bắn được đem
biếu...
Tôi cười vu vơ, không đáp, lắng tai nghe tiếng ông quận
Toàn tiếp tục nói. Ông ta mỗi lúc mỗi xưng “bọn thợ săn
chúng tôi” mặc dù trong tiệc chỉ có mình ông là thợ săn.
Xưng đến “bọn thợ săn chúng tôi” ông ta ưỡn người ra,
hãnh diện. Ngoài khi nói về chuyện săn bắn, thì ông ta bặt
thiệp, nhũn nhặn, thân mật. Ông ta thân với chủ nhà và tự
coi như người nhà. Thỉnh thoảng ông ta ngừng nói chuyện,
rót thêm rượu vào ly một người khách, mời một món ăn.
Khi đó ông ta hạ giọng xuống, có khi ông ghé vào tai pha
trò một câu nhỏ, một tay thân mật đặt lên vai người khách,
săn đón, vồn vã. Rồi lại ngẩng lên, lớn tiếng tiếp tục
chuyện săn thú, như chiếc phi cơ lại cất cánh hiên ngang
HUỲNH ÁI TÔNG
50
lên trời, bỏ lại những nhà cửa xe cộ dưới đất.
Ông ta giơ một bàn tay với những ngón to và ngắn ngủn
lên ngang đầu, ra dấu cho mọi người im lặng chú ý, rồi lên
tiếng:
- Này nhé, làm thế nào phân biệt được mắt con thú với sao
trên trời? À, cái đó mới ngộ! Nếu không phân biệt được thì
có người đang đi trong rừng trông thấy hai vì sao lọt qua
kẽ lá sáng bên nhau như hai con mắt thú, thế là cứ nhắm
mà bắn bừa thôi. Ha! Muốn phân biệt thì thế này: bọn thợ
săn chúng tôi bao giờ sau khi chiếu đèn về một phía nào
mà gặp những chấm sáng cũng cẩn thận quất đèn về hướng
khác, rồi liếc mắt ngó xiên lại chỗ cũ. Nếu những chấm
sáng vừa rồi tắt đi thì đích là mắt thú, còn nếu vẫn cứ sáng
thì đó là sao rồi. Sao trời hoặc là lửa, vâng, lửa...
Ông quận Toàn giơ bàn tay lên, vung vung, ra dấu cảnh
cáo:
- Cái này mới nguy hiểm đây. Ở trên núi vẫn có những
đóm lửa bất ngờ như thế. Chúng tôi thường gặp. Hoặc là
thợ rừng ngủ lại, hoặc là người đi lỡ đường, hoặc là những
người cầm bò trên núi, họ đốt lửa lên cho ấm rồi nằm ngủ
xung quanh. Về khuya, lửa tắt, còn lại những đốm lẻ tẻ
giữa đống tro. Khi ấy mà lầm là mắt thú rừng, cứ bấm cò
súng một cái là thế nào, hà, hà! thế nào cũng một vài nhân
mạng nhé.
Trong phòng nổi lên những tiếng ồn ào. Ông quận Toàn
ngừng nói. Tôi không dám nhìn lên mặt ông ta nữa. Tôi đã
gần nhớ ra câu chuyện, gần hiểu sự liên hệ giữa ông ta với
tôi là như thế nào rồi. Vô tình tôi tìm khuôn mặt nhà tôi ở
góc phòng đối diện. Rồi tôi cúi đầu. Khó chịu nhất là lúc
này bà khách bên cạnh tôi lại bắt đầu nói chuyện. Thực là
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
51
khổ, trong lúc tôi cần yên tĩnh một chút, mà phải vờ lắng
tai nghe, dạ dạ vâng vâng. Tôi không biết bà khách bên
cạnh nói những gì, và có để ý đến thái độ của tôi không.
Đột nhiên tôi giật mình vì bà ta cười lên một tiếng ngắn.
Tôi sợ hãi ngước nhìn, nhưng thấy nét mặt bà vui vẻ thực
tình. Và bà đã bỏ câu chuyện của mình để theo dõi câu
chuyện ông quận Toàn. Ông quận nói:
- Có một lần thế này, thật là chết người! Chuyện xảy ra
cách không bao lâu, vâng cũng chẳng lâu gì. Nguyên là
trước chiến tranh tôi đã làm việc ở đây gần mười năm cho
nên tôi thông thạo hết núi rừng. Bởi vậy lần này, hồi mới
được đổi trở về đây tôi có thể đi bắn một mình trên đèo
Vạn. Độ mười một giờ đêm, tôi vừa leo lên một cái động
tranh thì ngọn đèn của tôi chiếu vào một đám mắt sáng lố
nhố. Thật nhiều mắt. Tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng. Tôi
chưa từng gặp một đàn nai nào đông đến thế. Tôi quất đèn
sang một bên, liếc lại nhìn: quả là mắt, không phải lửa. Tôi
đặt súng lên vai, định bụng lẩy luôn hai phát đạn một lượt.
Hai phát đạn vào cái đám mắt đó thế nào cũng được hai
con nai. Tôi bóp cò. Đạn thúi! Úi chao! Tôi đi săn hăm bốn
năm rồi, trường hợp đó chưa khi nào xảy ra: cả hai viên
đạn đều hỏng cả hai...
Ông quận Toàn bấu chặt lấy lưng ghế, chồm người tới, trố
mắt tròn xoe nhìn mọi người, kinh ngạc. Rồi ông ta lắc lắc
cái đầu, lặp lại:
- Hỏng cả hai viện đạn, thật là kỳ cục. Tôi vừa tức giận
vừa lo sợ, hạ súng xuống thay đạn. Không biết lật bật thế
nào tôi đánh rơi một viên đạn xuống tảng đá dưới chân, nó
lăn nhảy lóc cóc mãi một lúc lâu xuống tận dưới khe xa
mới dừng lại. Tôi bực mình, sợ đàn nai hoảng hốt chạy
mất. Nhưng quái lạ, chúng vẫn cứ đứng yên, giương mắt lố
nhố. Tôi lại chợt nghe phất thoang thoảng một mùi khai
HUỲNH ÁI TÔNG
52
khai, hôi hôi quen thuộc. Tôi sinh nghi. Đã đặt súng lên
vai, tự nhiên tôi hạ xuống và rón rén bước lần tới. Nếu là
đèn pin đội trên đầu thì cách xa hai chục thước đã có thể
trông thấy hình thù con vật, nhưng hôm đó tôi dùng đèn đá
cho nên phải tiến gần độ mười hai thước tây. Ngọn đèn của
tôi chiếu thấy một đàn bò trên năm chục con, đứng có nằm
có, giữa một cái rông cất sơ sài bằng cây tươi vừa đốn
trong núi. Sát bên cạnh rông nhốt bò là cái chòi của người
giữ bò! Ui chao, trời đất ơi! Tôi bủn rủn tay chân...
Ông quận Toàn xuỗi cả hai tay, nghẻo đầu thất vọng một
lúc. Rồi ông ta vùng tỉnh táo, chồm tới:
- Trong đời bọn thợ săn chúng tôi đôi khi vẫn có gặp một
a-văng-tuya như thế. Thật là chết người. Hú vía! Nếu hai
viên đạn không hỏng, hay nếu tự nhiên tôi không nghi
ngại, bước tới, thì đêm đó có thể đã xảy ra một vụ án mạng
rồi. Nhân mạng thực sự chứ không phải là đền bò thôi đâu
nhé. Nếu tôi nổ, viên đạn lọt vào trong chòi người giữ bò...
Trời ơi! Khi tôi chạy xồ tới, giật cái cửa chòi ra, thấy hắn
ta vẫn còn nằm ngủ, không hay biết gì cả, tôi hét lên như
điên...
Ông quận Toàn đang nói hăng. Rất có thể ông ta sẽ nói
tiếp. Tôi thấy bừng bừng trong người, và chóng mặt, như
ngồi trên một chiếc xe đang phóng nhanh xuống dốc.
Nhưng tự nhiên quận Toàn ngừng lại. Những lúc ta cố tìm
hiểu ý nghĩa biểu thị trên một nét mặt, thì lại chính là
những lúc ta không đoán được gì cả: các chi tiết đơn giản
nhất cũng hóa ra khó hiểu, thật là đáng giận. Lúc đó vẻ mặt
ông quận Toàn tự dưng tắt mất cái hăng hái, ông cúi xuống
đĩa đồ ăn. Việc ông khép thình lình câu chuyện có vẻ như
là kín đáo dành riêng đoạn sau giữ lại cho mình. Trên môi
ông phảng phất bóng dáng một nụ cười ranh mãnh. Nhưng
tôi cũng không tin hẳn như thế. Là vì cái vẻ chăm chú thận
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
53
trọng khi ông bôi cho đều “xốt” vào con tôm và sự khoan
khoái biểu lộ rõ rệt trên nét mặt lúc ông ta vừa nhai nhồm
nhoàm vừa quay sang bình phẩm món ăn với người bên
cạnh khiến tôi lại nghĩ rằng ông ta là một người thô sơ,
không bận tâm đến đoạn sau của câu chuyện. Và cái
thoáng cười vừa rồi lại không chừng có ý nghĩa giễu cợt.
Ông quận Toàn bỗng ngẩng cao đầu, ngả lưng ra, ưỡn
người khoan khoái. nhìn một loạt khắp phòng tiệc. Như
tuồng kể xong câu chuyện săn bắn là rồi một nhiệm vụ,
bây giờ ông ta có quyền thảnh thơi và bày tỏ sự thảnh thơi
với mọi người. Nhưng cử chỉ tầm thường đó làm tôi khiếp
vía. “Nếu ông ta trông thấy tôi?”... Tưởng như ông ta đang
quất ngọn đèn săn trong rừng và “bọn thợ săn của ông ta”
đang làm chủ núi rừng, còn tôi thì chỉ là một con nai nhỏ,
trốn sao cho khỏi cái thứ ánh sáng có thể soi thấu từng con
mắt chuột, mắt nhái li ti đó. Thực vậy, tôi có cảm tưởng
cái hột xoàn tí hon gắn trên đôi hoa tai của tôi, cái mặt
nhẫn đeo nơi tay tôi cũng quá sáng, có thể khiến ông ta chú
ý đến tôi... Cặp mắt ông ta lướt qua như một chiếc oanh tạc
cơ lướt ngang đầu. Tôi gầm đầu xuống, lặng người đi một
lát...
Bên tai tôi chị Thuỷ lại nhanh nhẩu:
- Ông quận Toàn này bắn thì thôi khỏi nói. Hồi tôi còn nhỏ
có một hôm ông ấy đi với thầy tôi về quê. Từ lúc chiều đến
chạng vạng tối, ông ấy cho gánh về nhà tôi bảy con công.
Bảy con công bự, khiếp chưa? Chị biết, công nó khôn lắm
nhé, ta khó lần mò đến gần mà khỏi bị nó thấy. Ông ta
không thèm rình mò gì cả, chỉ hỏi thăm thợ rừng xem
chúng nó thường ngủ chỗ nào. Thường thường chúng nó
lựa một cây trụi lá vì chúng sợ chồn. Cây trụi lá càng dễ
nhắm dễ bắn. Ông ta cứ việc đến sớm, tìm chỗ nấp cẩn
thận bên gốc cây. Chiều, công nó về từng con từng con.
HUỲNH ÁI TÔNG
54
Con nào về đậu vừa yên ông ta liền nổ súng ngay, nó rớt
đánh đùng một cái như quả dừa rụng. Mặc kệ, ông ta cứ
ngồi yên trong bụi, không ra. Ra ngay lúc đó là hỏng nhé.
Cứ ngồi yên một tí là có con công khác về ngay. Nghe
tiếng nổ chúng nó về xem thử, cứ thế ông lần lượt giết hết
đàn công. Nghĩa là đừng bắn trượt con nào. Trượt một con
là hỏng, vì những con sau biết ngay có tai nạn.
Chị Thuỷ đã nói tới cái câu có vẻ kết thúc:
- Quận Toàn, thôi khỏi nói, ông ta săn bắn kinh nghiệm và
khôn ghê lắm...
Nhưng bất ngờ chị chuyển qua ý khác:
- Trời! Ông ta mê bắn cách lạ. Cái đêm Nhật đảo chánh
năm 45, suốt đêm ông ta bắn trên núi không hay một chút
xíu xiu. Hồi đó ông ta làm việc ở tòa sứ ngoài Nghệ An.
Gà gáy, ông ta xách súng về nhà, đi ngay vô phòng ngủ,
cũng vẫn chưa hay biết gì. Tới giờ làm việc, ông ta sắp sửa
mặc đồ đạc vào thì tòa sứ cho người tới mời, ông ta cằn
nhằn tưởng có chuyện gì gấp. Chừng đến tòa sứ nghe nói
mới ngã ngửa ra tưng hửng. Thôi thì lúc đó sứ tây nó lo
phần nó, công chức người mình nó cho nghỉ việc, chờ
Nhật tới định đoạt. Thế là trong mấy ngày chờ đợi ông
quận Toàn lại xách súng đi bắn, thản nhiên như không!
Khi Nhật tới, gọi công chức lại tiếp tục công việc thì ông
ta đã bắn thêm được ba con nai chà. Ông thân tôi mỗi lần
nói đến tật mê bắn của quận Toàn đều nhớ chuyện đó.
Quận Toàn lúc ấy đang ngồi lơ đãng xỉa răng. Đối với mọi
người ông ta đã lặn mất vào đám đông thực khách, không
còn là một nhân vật đáng chú ý nữa. Có lẽ chính ngay ông
ta cũng không còn nghĩ đến câu chuyện vừa qua. Trông cái
môi ông nhếch lên, lưỡi ông quơ soát lại hàm răng, và ông
VĂN HỌC VIỆT NAM CẬN VÀ HIỆN ĐẠI II
55
chíp chíp nho nhỏ trong miệng, tôi đoán có lẽ cái vị của
món bồ câu ăn với xà-lách còn một chút lưu luyến nơi ông.
Nhưng chắc ông đã bắt đầu nghĩ đến ly cà-phê sắp thưởng
thức rồi.
Càng theo dõi quan sát ông quận Toàn tôi càng tin rằng
con người đó nhất định không thể bận rộn vì những ý
tưởng phức tạp hơn. Tôi càng nhìn càng thấy các ngón tay
ngắn ngủn với làn da thô dày và đùn lại sù sì ở các đốt
cũng như vẻ mặt của ông ta đáng lẽ là của một người nông
dân tâm lý thô sơ, chất phác, siêng làm và thực tế. Chừng
ấy nét tính tình ở một người có học thức có tiền của lại làm
ra một mẫu người cầu an ích kỷ, không thèm bận tâm đến
một lý tưởng xa vời nào, một người siêng tìm và biết
thưởng thức những giải trí dễ dãi, những thú vui vật chất.
Bà khách ngồi bên tả chia cho tôi một que tăm. Tôi ngả
người dựa lưng ghế, xỉa răng, và tự nhiên có cảm tưởng
thư thái dễ chịu, dần dần thoát khỏi sự hồi hộp lo sợ thắc
mắc. Chị Thuỷ đang mở chiếc ví đặt trên đùi ra, soi gương
chặm những chấm mồ hôi trên mặt. Phòng tiệc lộn xộn ồn
ào, đàn ông vừa hút thuốc vừa nói chuyện từng nhóm riêng
với nhau. Rồi người ta bắt đầu xô ghế đứng dậy.