45
Phần thứ nhất LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 2 70 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH I. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 2, TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945- 1954) 1. Tình hình các địa phương trên địa bàn Quân khu sau cách mạng tháng Tám thành công Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội trước toàn thể quốc dân, đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), từ thời điểm này đất nước bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ độc lập tự do, kết thúc sự cai trị của chính quyền thực dân và phong kiến. Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là thành quả của phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo đó là thắng lợi của một dân tộc thuộc địa, dám vùng lên chống lại ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Cách mạng tháng Tám thành công, hầu hết các địa phương trên cả nước đều giành được chính quyền về tay nhân dân lao động. Nhưng trên địa bàn Quân khu các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang và thị xã Vĩnh Yên, do tổ chức đảng và cơ sở cách mạng chưa đủ mạnh nên không có khởi nghĩa hoặc khởi nghĩa không thành công. Tình hình các địa phương trên địa bàn Quân khu vào thời điểm này diễn ra vô cùng phức tạp, phong trào cách mạng đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Trên địa bàn Quân khu từ tháng 11/1945, hai tiểu đoàn quân Pháp đã từ Vân Nam – Trung Quốc kéo vào Lai Châu chiếm đóng với ý đồ chiếm lại toàn bộ vùng Tây Bắc. Trước tình hình Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng trên con thuyền cách mạng, vượt qua ghềnh thác, lãnh đạo toàn thể dân tộc, tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, khôn khéo dũng cảm, kiên quyết đấu tranh, để bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám. Như vậy vấn đề cấp bách được đặt ra cho quân và dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu lúc này là: Tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng ở những địa phương đã giành được chính quyền về tay nhân dân; còn những nơi ta chưa giành được chính quyền thì nhanh chóng đấu tranh để thiết lập chính quyền về tay nhân dân, đồng thời kiên quyết chống lại âm mưu của thực dân Pháp và các thế lực phản động. 2. Công tác xây dựng lực lượng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phản động tay sai. Tháng 10 năm 1945, Chính phủ quyết định thành lập các Chiến khu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9, 11 để lãnh đạo và chỉ huy chiến đấu; các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên,

Quân khu 2

  • Upload
    hadat

  • View
    227

  • Download
    3

Embed Size (px)

Citation preview

Phần thứ nhấtLỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 2

70 NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH

I. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 2, TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945- 1954)

1. Tình hình các địa phương trên địa bàn Quân khu sau cách mạng tháng Tám thành công

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội trước toàn thể quốc dân, đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), từ thời điểm này đất nước bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ độc lập tự do, kết thúc sự cai trị của chính quyền thực dân và phong kiến.

Sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là thành quả của phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo đó là thắng lợi của một dân tộc thuộc địa, dám vùng lên chống lại ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân đế quốc.

Cách mạng tháng Tám thành công, hầu hết các địa phương trên cả nước đều giành được chính quyền về tay nhân dân lao động. Nhưng trên địa bàn Quân khu các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang và thị xã Vĩnh Yên, do tổ chức đảng và cơ sở cách mạng chưa đủ mạnh nên không có khởi nghĩa hoặc khởi nghĩa không thành công. Tình hình các địa phương trên địa bàn Quân khu vào thời điểm này diễn ra vô cùng phức tạp, phong trào cách mạng đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Trên địa bàn Quân khu từ tháng 11/1945, hai tiểu đoàn quân Pháp đã từ Vân Nam – Trung Quốc kéo vào Lai Châu chiếm đóng với ý đồ chiếm lại toàn bộ vùng Tây Bắc. Trước tình hình Tổ quốc lâm nguy, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vững vàng trên con thuyền cách mạng, vượt qua ghềnh thác, lãnh đạo toàn thể dân tộc, tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, khôn khéo dũng cảm, kiên quyết đấu tranh, để bảo vệ thành quả cách mạng tháng Tám.

Như vậy vấn đề cấp bách được đặt ra cho quân và dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu lúc này là: Tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng ở những địa phương đã giành được chính quyền về tay nhân dân; còn những nơi ta chưa giành được chính quyền thì nhanh chóng đấu tranh để thiết lập chính quyền về tay nhân dân, đồng thời kiên quyết chống lại âm mưu của thực dân Pháp và các thế lực phản động.

2. Công tác xây dựng lực lượng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phản động tay sai.

Tháng 10 năm 1945, Chính phủ quyết định thành lập các Chiến khu 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 9, 11 để lãnh đạo và chỉ huy chiến đấu; các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên,

2

Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang thuộc Chiến khu 1. Tỉnh Sơn La, Lai Châu cùng với các tỉnh khác thuộc Chiến khu 2.

Trong một thời gian ngắn (từ cuối năm 1945 đến cuối năm 1946) các đơn vị Vệ quốc đoàn lần lượt ra đời gồm: Chi đội giải phóng quân Trưng Trắc ở Vĩnh Yên, Chi đội giải phóng quân Trần Quốc Toản ở Phú Thọ, Chi đội giải phóng quân 3 ở Sơn La sau này trở thành Trung đoàn 148 Sư đoàn 316. Tháng 11/1945 Trung ương Đảng quyết định thành lập mặt trận Tây Bắc để ngăn chặn bước tiến của quân Pháp xâm lược.

Ngày 19/10/1946 Chiến khu 10 được thành lập do đồng chí Bằng Giang là Tư lệnh, đồng chí Xuân Thu là Chính trị uỷ viên.

Trước những thay đổi của tình hình chiến sự cả nước và để phù hợp với điều kiện mới của cuộc kháng chiến, Đảng và Chính phủ quyết định phân chia lại các đơn vị hành chính và quân sự. Tháng 9/1947 huyện Mai Đà (Hòa Bình) và vùng tây nam Phú Thọ của Khu 10 sát nhập với Sơn La, Lai Châu thành Khu 14.

Từ năm 1948 thực hiện chỉ thị của trên, Khu 10 và Khu 14 được sát nhập thành Liên khu 10. Lúc này địa bàn Liên khu 10 gần như trùng với địa bàn Quân khu 2 hiện nay. Đồng chí Bùi Quang Tạo là Bí thư liên khu uỷ kiêm Chủ tịch uỷ ban hành chính kháng chiến khu, đồng chí Bằng Giang là Tư lệnh Liên Quân khu, đồng chí Lê Trọng Tấn là Liên khu phó.

Tháng 11/1949 do yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, Liên khu 10 và Liên khu 1 sát nhập thành Liên khu Việt Bắc, ngoài Bộ Tư lệnh Liên khu Việt Bắc, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giải phóng Tây Bắc, Trung ương quyết định thành lập thêm Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Bắc đảm nhiệm chỉ huy tác chiến trên 4 hướng ở các tỉnh: Sơn La, Lai châu, Yên Bái, Lào Cai; đồng chí Bằng Giang được cử làm Tư lệnh, đồng chí Song Hào làm Chính uỷ.

3. Lực lượng vũ trang Quân khu tham gia đấu tranh chống phá hoại của bọn phản động tay sai.

Với dã tâm trở lại xâm lược Việt Nam, ngày 23/9/1945 thực dân Pháp đã nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, ở miền Bắc 20 vạn quân Tưởng, lấy danh nghĩa quân đồng minh tràn vào giải giáp quân đội Nhật, hòng tiêu diệt Đảng Cộng sản Việt Nam, tiêu diệt Việt Minh, giúp tay sai lật đổ chính quyền nhân dân còn non trẻ. Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám.

Trên địa bàn Quân khu, ngày 13/6/1948 quân và dân thị xã Yên Bái đã tấn công vào sào huyệt của Quốc Dân Đảng, giải phóng hoàn toàn thị xã Yên Bái khỏi sự kiểm soát của Quốc Dân Đảng.

Tháng 8/1946 thực hiện chủ trương của trên, LLVT Liên khu 1 đã tổ chức chiến dịch dẹp trừ Quốc Dân Đảng phản động trên dọc tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai; đồng chí Bùi Quang Tạo, xứ uỷ viên Bắc Kỳ và đồng chí Bằng Giang – Tư lệnh khu, trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp, quân và dân ta

3

đã lần lượt giải phóng thị xã Vĩnh Yên, Bạch Hạc, Việt Trì, Phú Thọ, Yên Bái, Phố Lu, Lào Cai.

Trong quá trình tiến lên giải phóng Lào Cai, các đơn vị lực lượng vũ trang Khu 10 đã tích cực chủ động chiến đấu dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, góp phần to lớn vào thắng lợi chung trong cuộc chiến đấu chống Quốc Dân Đảng phản động.

Ở Hà giang đã tổ chức một Đại đội cảnh vệ, quân số 500 người phối hợp chặt chẽ với chủ lực Chiến khu tiến hành bao vây khoanh vùng đấu tranh làm tan giã tổ chức và bắt giữ xử lý những tên đầu sỏ phản động tay sai, đến đầu năm 1947 các lực lượng vũ trang Hà Giang cùng với đồng bào các dân tộc trên địa bàn xoá sổ các nhóm phản động tay sai Quốc Dân Đảng.

Thắng lợi cuộc đấu tranh gian khổ quyết liệt chống quân Tưởng và bè lũ phản động Quốc Dân Đảng trong những năm 1945 – 1946 thể hiện sách lược đấu tranh tài tình của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi này có ý nghĩa vô cùng quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho LLVT và nhân dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

4. Chiến đấu chống thực dân Pháp quay lại xâm lược, góp phần đánh bại chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” của chúng.

Sau cách mạng tháng Tám thành công, LLVT của ta còn rất non trẻ, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, điều kiện sinh hoạt và các mặt bảo đảm khác còn nhiều thiếu thốn. Song được sự yêu thương đùm bọc và giúp đỡ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, LLVT đã anh dũng chiến đấu chống lại cuộc hành binh lấn chiếm của thực dân Pháp cũng như các hành động phá hoại, khiêu khích của các thế lực phản động.

Thu đông năm 1947 quân và dân Khu 10, Khu 11, Khu 14 đã dũng cảm chiến đấu tiêu diệt phần lớn cánh quân Com – muy – nan, bẻ gãy “gọng kìm Sông Lô” trong chiến dịch tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp. Trung đoàn 148 tích cực chặn đánh địch bảo vệ tây nam Phú Thọ. Trung đoàn 92 Phú Yên chiến đấu ngoan cường chặn đứng các cuộc tiến công của địch từ Nghĩa Lộ, Than Uyên ra phía ven hữu ngạn Sông Hồng. Trung đoàn 87, Trung đoàn 112 và các Trung đội pháo binh của Quân khu đã tổ chức nhiều trận phục kích, gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề trên đường số 2 và Sông Lô.

Đến tháng 12/1947 gọng kìm phía tây của giặc Pháp đã bị bẻ gãy. Quân và dân Khu 10 đã viết nên bản hùng ca Sông Lô hào hùng với những chiến thắng Khoan Bộ, Đoan Hùng, Bình Ca, Khe Lau, Mác Khan…Trên mặt trận Sông Lô quân và dân Khu 10 đã diệt 1.200 tên địch, bắn chìm và cháy 15 tàu chiến các loại của thực dân Pháp.

Năm 1950 LLVT Tây Bắc phối hợp chặt chẽ với lực lượng chủ lực của Bộ mở chiến dịch Lê Hồng Phong 1 và chiến dịch Lê Hồng Phong 2, giải phóng toàn bộ tỉnh Lào Cai, huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) và một phần của tỉnh Yên Bái.

4

Tháng 3/1948 Liên khu uỷ, Bộ Tư lệnh Liên khu đã quyết định mở chiến dịch Nghĩa Lộ, kết quả là ta đã buộc địch phải rút khỏi 7 vị trí, gọi hàng 163 nguỵ binh. Trong chiến dịch Sông Đà tháng 2/1949, chiến dịch Sông Thao tháng 3/1949 và các chiến dịch khác với quy mô vừa và nhỏ, các đơn vị của ta đã đánh 436 trận, diệt 2.683 tên, bắt sống 353 tên, gọi hàng 562 tên, thu 500 súng các loại, 6 tấn đạn và nhiều quân dụng khác. Phá vỡ mảng lớn tuyến phòng thủ của địch trên chiến trường Tây Bắc.

Từ ngày 8/2 - 10/3/1950, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Bắc tiếp tục mở chiến dịch Lê Hồng Phong 1 do đồng chí Bằng Giang Tư lệnh mặt trận Tây Bắc làm chỉ huy trưởng, đồng chí Song Hào Chính uỷ mặt trận Tây Bắc làm Chính uỷ chiến dịch. Kết quả đã tiêu diệt 470 tên địch, làm bị thương 230 tên, bắt và gọi hàng 191 tên, phá và thu nhiều vũ khí quân trang, quân dụng của địch giải phóng trên 1000 km2 với hơn 1 vạn dân.

Cuối năm 1950, đầu năm 1951, LLVT Tây Bắc tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo giải phóng một phần phía bắc tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 3/1951 Trung đoàn 148 cùng bộ đội địa phương các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai đuổi đánh hơn 1000 tàn quân của Tưởng Giới Thạch tràn sang đất ta, tiêu diệt hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí các loại.

Trong chiến dịch Lý Thường Kiệt (tháng 10/1951), tham gia chiến dịch giải phóng Tây Bắc (năm 1952) ta đã tiêu diệt 1.005 tên địch, bắt sống 5.024 tên, diệt gọn 4 tiểu đoàn và 24 đại đội, đánh thiệt hại nặng nề nhiều tiểu đoàn cơ động của địch, giải phóng vùng đất rộng 28.500 km2 với 25 vạn dân.

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1953, phối hợp với bộ đội chủ lực, quân và dân Tây Bắc đã tiến công phỉ ở khắp nơi tiêu diệt trên 7.000 tên phỉ, hoàn thành tốt nhiệm vụ tiễu phỉ, trừ gian ở Tây Bắc.

Trong chiến dịch Thu - Đông (1953 - 1954) mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, với tinh thần ” Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã tự nguyện tham gia đóng góp nhiều sức người sức của cho chiến dịch: 7.310 tấn gạo ( vượt chỉ tiêu 347 tấn, bằng hơn ¼ số lượng gạo toàn chiến dịch), 389 tấn thực phẩm, huy động 27.657 dân công vượt chỉ tiêu Trung ương giao. Các đơn vị Trung đoàn 174, Trung đoàn 98 của Đại đoàn 316 đã trực tiếp tham gia chiến dịch với những trận đánh xuất sắc trên đồi A1, A3, C1, C2 và sân bay Mường Thanh. Đặc biệt trên đồi A1 - cao điểm phòng ngự then chốt trên hướng Đông của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở đây diễn ra giằng co hết sức gay go, ác liệt. Khối bộc phá gần 1.000 kg do bộ đội ta đào hầm và đặt trong lòng đồi A1 được phát nổ là hiệu lệnh xung phong toàn mặt trận, tổng công kích vào sở chỉ huy của quân Pháp, bắt sống tướng Đờ - cat - xtơ - ri.

Quân và dân các dân tộc Tây Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ ne vơ, chấm dứt gần một thế kỷ xâm lược đất nước ta.

5

II. LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954-1975)

1. Công tác xây dựng LLVT Quân khu góp phần củng cố chính quyền các cấ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Với những thành tích và chiến công xuất sắc đóng góp vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chiến thắng vĩ đại diễn ra ngay trên quê hương Tây Bắc đã cổ vũ quân và dân trên địa bàn Quân khu quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ xây dựng địa bàn Quân khu thành một khu vực vững mạnh về cả chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh và quốc phòng.Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, tháng 5/1955 khu tự trị Tây Bắc được thành lập. Quân khu Tây Bắc lần lượt do các đồng chí Bằng Giang, Vũ Lập, Lê Thuỳ làm Tư lệnh; đồng chí Chu Phương Đới, Lê Thanh làm Phó tư lệnh; đồng chí Vũ Nhất, Chu Huy Mân, Lê Đình Thiệp, Trần Thế Môn, Hoàng Kiền, Trương Công Cẩn làm Chính uỷ.

Từ năm 1954 đến trước khi cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ra miền Bắc (6/1965), LLVT Quân khu đã được củng cố kiện toàn thêm một bước. Bộ đội chủ lực của Quân khu được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu cao, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ vùng Tây Bắc của Tổ quốc, và làm nhiệm vụ quốc tế tại 6 tỉnh Bắc Lào. Bộ đội địa phương và dân quân tự vệ được phát triển rộng khắp đã tham gia tích cực cùng bộ đội chủ lực diệt phỉ trừ gian, giữ vững an ninh chính trị trên địa bàn. Đồng thời luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ cơ động được giao.

Trong những năm 1955 - 1960, mặc dù còn rất nhiều khó khăn gian khổ và phức tạp nhưng LLVT Quân khu và đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, giữ vững an ninh chính trị, phát triển sản xuất từng bước xây dựng quê hương thành căn cứ địa cách mạng vững mạnh. LLVT Quân khu qua thực tế vừa chiến đấu vừa công tác đã có những bước trưởng thành lớn mạnh, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

2. LLVT Quân khu trong thực hiện nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng, tham gia công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và tổ chức thành công Đại hội đại biểu Quân khu Tây Bắc lần thứ nhất.

Tháng 1/1958 Tổng Quân uỷ đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị tham gia nhiệm vụ kết hợp kinh tế với quốc phòng. LLVT Quân khu đã thực hiện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; cùng với nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện và tham gia lao động sản xuất, thời gian này, LLVT Quân khu đã góp phần tích cực cùng Đảng bộ, chính quyền địa phương và đồng bào các dân tộc hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ngày 4/ 7/ 1960, Đại hội đại biểu Quân khu Tây Bắc được tiến hành. Về dự Đại hội có 140 đại biểu chính thức và 15 đại biểu dự thính. Sau 6 năm hoà bình, đây là lần đầu Đại hội đại biểu Quân khu được tiến hành. Những vấn đề quyết định

6

ở Đại hội có ý nghĩa rất lớn về lãnh đạo, chỉ đạo trong toàn Quân khu, đánh dấu một bước ngoặt mới trên bước đường đi lên của Quân khu, mở ra một thời kỳ mới – thời kỳ tích cực xây dựng hậu phương căn cứ Tây Bắc vững mạnh, làm tròn nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ đất nước và nghĩa vụ quốc tế.

3. LLVT Quân khu xây dựng hậu phương chiến lược vững mạnh, làm nghĩa vụ quốc tế, đánh thắng chiến tranh phá hoại, chi viện cho chiến trường Miền Nam, cùng cả nước đưa cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược tới thắng lợi hoàn toàn.

Thực hiện nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ thành quả của CNXH ở miền Bắc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế, đồng thời chi viện tích cực cho cách mạng miền Nam tiến tới giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. LLVT Quân khu tích cực tham gia lao động sản xuất, một số đơn vị được tách ra thành lập các nông trường, công trường góp phần xây dựng những cơ sở và trung tâm kinh tế Tây Bắc.

Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân các dân tộc Tây Bắc đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế, dấu chân các chiến sỹ tình nguyện, các chuyên gia dân chính đảng…đã in đậm khắp bản làng của 6 tỉnh Bắc Lào. Tình đoàn kết liên minh chiến đấu Việt - Lào mãi mãi là biểu tượng cao đẹp của quan hệ đặc biệt keo sơn gắn bó giữa 2 dân tộc.

Từ tháng 5/1965 đến cuối năm 1972, Quân khu đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, cùng quân và dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc. Lực lượng phòng không 3 thứ quân của Quân khu đã bắn rơi 339 máy bay phản lực hiện đại của địch (trong đó có 2 máy bay B52, 3 máy bay F111), bắt sống nhiều giặc lái; đặc biệt nhiều nơi dân quân các dân tộc đã dùng súng bộ binh bắn rơi máy bay phản lực của Mỹ như: Nữ dân quân Yên Châu (Sơn La), dân quân xã Tiền Châu/ Yên Lãng, Đạo Trù/ Lập Thạch (Vĩnh Phú)… bảo vệ vững chắc hậu phương Tây Bắc; đó là những biểu hiện rõ nét sinh động của thế trận phòng không nhân dân Việt Nam đã đánh thắng vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ, tô thắm truyền thống anh dũng, chiến thắng, sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta.

Từ tháng 01/1965, Trung đoàn 174 đã có mặt và tham gia chiến đấu ở Sầm Nưa, giải phóng Hứa Mường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiếp đó Trung đoàn 148, Trung đoàn 174 (Sư đoàn 316) đã tham gia hai chiến dịch Xiêng Khoảng - Mường Sủi giành thắng lợi to lớn, kết thúc đợt hoạt động mùa khô 1968 - 1969 của lực lượng tình nguyện Quân khu trên chiến trường các tỉnh Bắc Lào. Trong đợt chiến đấu này ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, bắt 455 tên, gọi hàng 876 tên (chủ yếu là lực lượng đặc biệt Vàng Pao), thu hơn 1.700 súng các loại, bắn rơi và phá huỷ 32 máy bay, nhiều sở chỉ huy của địch bị tiêu diệt hoặc bị đánh thiệt hại nặng.

Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Sư đoàn 316 nằm trong đội hình chiến đấu của Quân đoàn 3 đã tham gia nhiều trận chiến đấu, ghi đậm những chiến công vang dội. Với thành tích loại khỏi vòng chiến đấu 6.715 tên địch, bắn rơi 4 máy bay, thu 26 khẩu pháo và trên 3.000 súng các loại. Góp phần tô thắm truyền thống “Quyết chiến quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

7

Trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước có: 209.000 thanh niên ưu tú con em các dân tộc Tây Bắc lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu trên khắp các chiến trường. Nhiều đơn vị vinh dự được vào miền Nam chiến đấu, chia lửa cùng đồng bào miền Nam ruột thịt, chiến đấu trên các chiến trường và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, như Sư đoàn 316 anh hùng được vinh dự tham gia chiến dịch giải phóng Tây Nguyên với nhiệm vụ đánh trận mở màn then chốt giải phóng Buôn Ma Thuật và nằm trong đội hình của Quân đoàn 3 đánh vào hướng tây bắc, cửa ngõ tiến vào Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc 30/4/1975.

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA LLVT QUÂN KHU (1975 - 2016)

1. Thành lập Quân khu 2 và cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc

Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh giải phóng trường kỳ của dân tộc ta, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân chủ nhân dân. Cách mạng nước ta bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập thống nhất, cả nước đi lên CNXH. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới của cách mạng, giữa năm 1976 Quân khu Tây Bắc được sáp nhập thành Quân khu 1, đồng chí Đàm Quang Trung được cử giữ chức Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu; các đồng chí Vũ Lập, Lê Thuỳ, Lê Thanh là Phó Tư lệnh, đồng chí Võ Quốc Vinh là Phó Chính uỷ.

Trước tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, bọn phản động Pôn pốt được hỗ trợ của bọn phản động quốc tế đã gây ra nạn diệt chủng ở Cam Pu Chia và tiến hành chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Tây Nam nước ta. Đồng thời trên tuyến biên giới phía Bắc kẻ thù cũng ráo riết chuẩn bị chiến tranh xâm lược.

Để kịp thời điều chỉnh, bố trí lực lượng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình mới, ngày 21/06/1978 Quân khu 2 được thành lập, theo Sắc lệnh số 62/LCT của Chủ tịch nước, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú.

Ngày 1/7/1978 Bộ Tư lệnh Quân khu chính thức điều hành mọi hoạt động của LLVT Quân khu. Bộ Tư lệnh Quân khu 2 lần lượt do các đồng chí Vũ Lập làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ; các đồng chí Đặng Quân Thuỵ, Đào Trọng Lịch, Trần Tất Thanh, Ma Thanh Toàn, Đỗ Bá Tỵ, Dương Đức Hoà làm Tư lệnh Quân khu; Các đồng chí Huỳnh Đắc Hương, Phạm Hồng Cư, Phạm Sinh, Lò Văn Nhài, Trần Thụ, Nguyễn Hữu Thìn, làm Phó Tư lệnh về chính trị. Từ năm 2006 thực hiện Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị, các đồng chí Lê Minh Cược, Nguyễn Ngọc Liên, Lê Hiền Vân làm Chính uỷ Quân khu.

Ngày 17/02/1979 đến 16/3/1979 quân và dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu đã cùng với quân và dân cả nước dũng cảm kiên cường đánh bại cuộc tiến công xâm lược của đối phương ở biên giới phía Bắc. Riêng hướng Quân khu 2 đã chiến đấu với 3 quân đoàn của đối phương. Sư đoàn 316, Sư đoàn 355, Sư đoàn 313 đã cùng với đơn vị địa phương anh dũng chiến đấu đánh bại nhiều cuộc tiến

8

công của đối phương, gây cho chúng nhiều tổn thất nặng nề, buộc phải rút về bên kia biên giới.

Ngày 16/3/1979 đến đầu năm 1989 trên biên giới phía Bắc còn phức tạp, đối phương vẫn tiếp tục lấn chiếm biên giới, tuyến biên giới Hà Tuyên trở thành điểm nóng của cả nước; có những ngày chúng sử dụng đến gần 90.000 quả đạn pháo, cối các loại bắn sang đất ta; ngã ba Phong Quang, khu vực 4 hầm đồi Cô ích, đồi Đài, cao điểm 1509, đã trở thành địa danh, chiến tích được cả nước biết đến.

Trong thời gian này, LLVT Quân khu đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới. Quân đoàn 29 với 4 Sư đoàn và các đơn vị binh chủng trực thuộc được thành lập, phòng thủ hướng Hoàng Liên Sơn. Sư đoàn 356, 313, 314 cùng một số Trung đoàn của các tỉnh và chủ lực của Bộ thay phiên nhau làm nhiệm vụ chiến đấu phòng thủ tuyến Hà Tuyên. Sư đoàn 326 và một số đơn vị khác phòng thủ hướng Lai Châu. Ngoài các đơn vị của Quân khu 2 còn có sư đoàn 357, 411 và một số Trung, Lữ đoàn binh chủng trực thuộc làm nhiệm vụ dự nhiệm ở các tỉnh biên giới (mỗi tỉnh có từ 1 đến 2 Trung đoàn, huyện biên giới có Tiểu đoàn và Đại đội, xã biên giới có từ 1 Trung đội đến 1 Đại đội dân quân tự vệ).

Trước quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta, từ đầu năm 1989 đối phương buộc phải xuống thang, rút khỏi nhiều điểm lấn chiếm trái phép. Qua 10 năm chiến đấu, LLVT Quân khu 2 cùng với đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã anh dũng chiến đấu, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt, vừa chiến đấu vừa xây dựng, từng bước trưởng thành, hiệu suất chiến đấu ngày càng cao, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực của đối phương, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh, ta đã buộc đối phương phải rút khỏi những dải đất nơi biên cương đã lấn chiếm. Đó là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng đối với quân và dân các dân tộc Tây Bắc, đồng thời cũng là thắng lợi chung của toàn quân, toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc.

2. Xây dựng LLVT Quân khu “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại ” .

Qua 30 năm đổi mới (1986 - nay), dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy thành tích đạt được trong các cuộc kháng chiến, quân và dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu đã tập trung nỗ lực, củng cố tăng cường tiềm lực quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; chất lượng tổng hợp của LLVT Quân khu nhất là bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sỹ và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị ngày một nâng cao.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ cách mạng mới, từ năm 1989 đến nay LLVT Quân khu đã có sự điều chỉnh về lực lượng, biên chế, tổ chức. Một số đơn vị được giải thể như Quân đoàn 29, Sư đoàn 356, Sư đoàn 313, Sư đoàn 314, Sư đoàn 357, Sư đoàn 411, Sư đoàn 326… Một số đơn vị được rút gọn làm nhiệm vụ huấn luyện quân dự bị động viên như: Sư đoàn 355, các Trung đoàn trực thuộc tỉnh cũng được rút gọn. Các đoàn KT - QP được thành lập,

9

đó là Đoàn 379, 326, 313, 314, 356, 345, Công ty 705 làm nhiệm vụ kinh tế kết hợp với quốc phòng.

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, tình hình thế giới diễn biến phức tạp tiềm ẩn những yếu tố khó lường, chủ nghĩa đế quốc tận dụng ưu thế về kinh tế, quân sự tiếp tục can thiệp vào độc lập chủ quyền của các nước, bất chấp dư luận thế giới. Đối với nước ta chúng tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng, nhất là lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và phong tục tập quán lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số để kích động di, dịch cư tự do, truyền đạo trái pháp luật… để phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Tây Bắc trở thành một trọng điểm trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch, phản động.

Trong bối cảnh tình hình vừa có những thuận lợi, vừa có khó khăn đan xen. Đảng uỷ - BTL Quân khu cùng với Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã luôn đoàn kết, thống nhất, phát huy truyền thống của Quân đội và LLVT Quân khu, truyền thống của quân, dân các dân tộc Tây Bắc, lãnh đạo LLVT Quân khu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, trong thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nắm vững nhiệm vụ chính trị, chủ động vượt mọi khó khăn hoàn thành toàn diện các mặt công tác, có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Tiêu biểu là:

– Xây dựng LLVT Quân khu vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

LLVT Quân khu luôn đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, triển khai và thực hiện sâu rộng có hiệu quả Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; đấu tranh chống lấn chiếm bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động di, dịch cư tự do và hoạt động truyền đạo trái pháp luật, làm thất bại âm mưu thủ đoạn “ Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn; nền quốc phòng toàn dân được củng cố; khu vực phòng thủ được tăng cường; chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT Quân khu không ngừng được nâng lên. Công tác tổ chức xây dựng Đảng thường xuyên được chú trọng, gắn xây dựng cấp ủy, tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh với xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.

LLVT Quân khu đã triển khai và thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng môi trường văn hoá ở đơn vị cơ sở. Các nội dung, biện pháp xây dựng chính quy theo Chỉ thị 37 của Thường vụ ĐUQSTW được thực hiện đồng bộ. Cán bộ, chỉ huy các cấp, các tổ chức làm việc theo đúng chức trách.

– Phát huy truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”, nâng cao chất lượng huấn luyện, SSCĐ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quân khu.

10

Thực hiện tốt công tác SSCĐ và xây dựng khu vực phòng thủ; các cơ quan, đơn vị và địa phương triển khai đồng bộ và toàn diện các kế hoạch tác chiến phòng thủ cơ bản, kế hoạch SSCĐ, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, phòng chống cháy rừng, bảo vệ rừng. Chỉ đạo diễn tập KVPT và diễn tập chỉ huy cơ quan một bên hai cấp, đặc biệt là diễn tập KVPT tỉnh Vĩnh Phúc làm điểm cho toàn quân năm 2009 đạt kết quả tốt. Các Trung đoàn, Sư đoàn chủ lực hàng năm thực hiện tốt kế hoạch diễn tập, luyện tập chỉ huy cơ quan. Hoàn thành tốt công tác rà phá vật cản phục vụ cho nhiệm vụ phân giới cắm mốc trên biên giới Việt -Trung; biên giới Việt – Lào. Kết hợp chặt chẽ với bộ đội biên phòng, DQTV các xã biên giới tuần tra canh gác, phát hiện và xử lý kịp thời các vụ xâm canh, xâm cư, lấn chiếm trái phép.

Thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, triển khai đồng bộ, toàn diện, hoàn thành tốt kế hoạch nội dung, chương trình đề ra sát với yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu, phù hợp với đối tượng tác chiến, cách đánh truyền thống và trang bị vũ khí của Quân đội ta

– Thực hiện tốt công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Quân khu

Quán triệt chức năng nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, đội quân công tác, Quân khu đã phối hợp với các cấp, các ngành ở địa phương tích cực tiến hành công tác dân vận, tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh khắc phục thiên tai và thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội. Đã đưa các tổ, đội công tác liên ngành và hàng ngàn lượt cán bộ chiến sỹ đi xây dựng cơ sở ở các nơi xung yếu, vùng sâu, vùng xa, thực hiện “bốn cùng” với nhân dân, giúp nhân dân định canh định cư, tổ chức lại bản làng, ổn định cuộc sống, đấu tranh chống hoạt động tuyên truyền đạo, hoạt động tôn giáo trái pháp luật, phối hợp tham gia xoá mù chữ, vận động nhân dân xoá bỏ cây thuốc phiện. Quân khu đã quyên góp hàng chục tỷ đồng xây dựng quỹ “đền ơn đáp nghĩa”, quỹ “xoá đói giảm nghèo”, giúp chính quyền địa phương khắc phục khó khăn, cứu hộ cứu nạn trong thiên tai lũ lụt, tham gia xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội địa phương, xây dựng điểm sáng văn hoá ở các thôn, xã, làng, bản… Các đơn vị trong Quân khu đã nhận phụng dưỡng hàng trăm Mẹ Việt Nam anh hùng, tặng sổ tiết kiệm và nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách, gia đình có công với cách mạng; tổ chức khám chữa bệnh và cấp thuốc điều trị cho nhân dân trên địa bàn. Hình ảnh “Bộ đội cụ Hồ” ngày càng được giữ vững toả sáng trong lòng đồng bào dân tộc Tây Bắc.

– Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo vượt lên khó khăn tổ chức thực hiện tốt việc bảo đảm công tác hậu cần, kỹ thuật cho nhiệm vụ SSCĐ và các hoạt động khác của LLVT Quân khu.

Luôn bảo đảm công tác hậu cần đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho các nhiệm vụ. Thực hiện tốt phong trào thi đua“ Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”. Duy trì nghiêm lượng dự trữ vật chất, trang bị hậu cần SSCĐ; phát huy tốt nội lực, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tự túc 100% rau ăn, 75% định lượng thịt, cá;

11

đời sống bộ đội giữ được ổn định và cải thiện, hàng năm có trên 90% đơn vị đạt tiêu chuẩn “ Nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”.

Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương về lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới. Thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “ Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”. Bảo đảm đầy đủ, kịp thời vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các nhiệm vụ (vũ khí trang bị SSCĐ luôn có hệ số Kbđ = 1, Kt = 1).

IV. NÉT TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU VÀ NHỮNG PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ CỦA LLVT QUÂN KHU TRONG 70 NĂM QUA

1. Những nét truyền thống tiêu biểuNgày 19/10/1946 theo quyết định của Trung ương; Chiến khu 10 được thành

lập gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên và huyện Mai Đà ( Hoà Bình). Ngày 08/9/1995 Bộ Quốc phòng đã ra quyết định số 794/QĐ-QP công nhận ngày 19/10/1946 là ngày truyền thống của Lực lượng vũ trang Quân khu 2.

Nằm ở phía Tây bắc của Tổ quốc, Quân khu 2 là một địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng- an ninh; Địa bàn Quân khu 2 ngày nay gồm 09 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Bao gồm 75 huyện, 04 thị xã, 09 thành phố; 1.504 xã, phường, thị trấn; có diện tích rộng 64.598.17 km2, có gần 7 triệu dân với 34 dân tộc anh em cùng chung sống, có đường biên giới giáp Trung Quốc và Lào dài 1.402 km.

Sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, sự chăm lo giúp đỡ của tổ chức Đảng và Chính quyền địa phương, sự thương yêu đùm bọc của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. LLVT Quân khu đã khắc phục mọi khó khăn gian khổ vượt qua nhiều thử thách hy sinh, mưu trí sáng tạo lập nên nhiều chiến công to lớn; LLVT Quân khu ngày càng trưởng thành vững mạnh, đã viết nên truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”; góp phần tô thắm truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam anh hùng và truyền thống oanh liệt của nhân dân các dân tộc Tây Bắc.

70 năm qua, trên chặng đường xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, trải qua các thời kỳ cách mạng, nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, song dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, trong chiến đấu, làm nhiệm vụ quốc tế cũng như xây dựng phát triển kinh tế. LLVT Quân khu luôn thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Chủ động, tự lực, tự cường, mưu trí sáng tạo, đoàn kết gắn bó, chiến đấu ngoan cường, tham gia nhiều chiến dịch trên các chiến trường, có nhiều trận đánh tiêu biểu từ Nam chí Bắc; từ chiến dịch Thu – Đông năm 1947 với chiến thắng Sông Lô, tới các chiến dịch Sông Đà (tháng 1/1948), Nghĩa Lộ (tháng 3/1948), Yên Bình (tháng 10/1948), Sông Thao (tháng 6/1949), Lê Hồng Phong 1 và Lê Hồng Phong 2 (năm 1950), Trần Hưng Đạo (năm 1951), Lý Thường Kiệt (tháng 10/1951), chiến dịch giải phóng Tây Bắc (năm 1952), tới

12

chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch giải phóng Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, LLVT Quân khu đã cùng với nhân dân và đơn vị bạn chiến đấu dũng cảm, tiêu diệt địch, bảo vệ vững chắc biên giới thiêng liêng của Tổ quốc. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, LLVT Quân khu thường xuyên nâng cao sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, huyện vững chắc, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong LLVT Quân khu; chủ động phòng chống có hiệu quả chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Có được những chiến công và thành tích đó trước hết có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, sự lãnh đạo thường xuyên trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Quân uỷ Trung ương BQP.

Những chiến công đó, có đóng góp rất to lớn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc, đã hết lòng cưu mang đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ cán bộ chiến sỹ LLVT Quân khu, tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, góp phần chiến thắng mọi kẻ thù, xây dựng quê hương Tây Bắc giàu đẹp.

Những chiến công đó là sự kết tinh ý chí quyết chiến, quyết thắng, tự lực, anh dũng của LLVT ba thứ quân trong Quân khu; đã không ngừng rèn luyện phấn đấu xây dựng bản lĩnh chính trị, trình độ huấn luyện, SSCĐ và chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Truyền thống vẻ vang của LLVT Quân khu là những di sản tinh thần quý báu được xây dựng bằng công sức, xương máu của những anh hùng, liệt sỹ và các thế hệ cán bộ chiến sỹ trong LLVT Quân khu và sự đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc Tây Bắc. Những truyền thống, chiến công đó đã và đang trở thành nguồn sức mạnh tinh thần cổ vũ động viên mọi cán bộ chiến sỹ trong LLVT Quân khu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội giao cho trong giai đoạn cách mạng mới.

2. Những bài học kinh nghiệmMột là: Đảng bộ Quân khu luôn quán triệt sâu sắc đường lối chiến tranh

nhân dân, Quốc phòng toàn dân của Đảng, vận dụng sáng tạo và điều kiện cụ thể của Quân khu, đề ra chủ trương giải pháp đúng đắn phù hợp nhằm xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận Quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, đủ sức làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Hai là: Thường xuyên chăm lo củng cố, tăng cường đoàn kết các dân tộc, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, hệ thống chính trị và LLVT trong cơ chế phối hợp hành động thống nhất,

13

kết hợp chặt chẽ kháng chiến với kiến quốc, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Ba là: Luôn coi trọng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của LLVT Quân khu, nắm vững định hướng lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, không ngừng tăng cường bản chất giai cấp công nhân, quyết tâm chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, bảo đảm cho LLVT Quân khu luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Bốn là: Đặc biệt chú trọng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng trong LLVT Quân khu, bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc và có hiệu quả của Đảng trong mọi hoạt động của LLVT Quân khu và trong mọi tình huống.

Năm là: Thường xuyên bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ tính tiền phong gương mẫu về đạo đức, phong cách lối sống năng lực chỉ đạo và tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng những phát triển mới của tình hình và nhiệm vụ.

70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng; được nhân dân các dân tộc Tây Bắc tin yêu, đùm bọc; phấn khởi tự hào về truyền thống vẻ vang của mình, cán bộ chiến sĩ các LLVT Quân khu nguyện giữ vững và phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết nhất trí, tiếp bước thế hệ cha anh, mãi mãi xứng đáng truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng” và xứng đáng với những phần thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng. Quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách, kiên định vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, xây dựng Quân khu ngày càng vững mạnh, xứng đáng là địa bàn chiến lược quan trọng cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

V. NHỮNG PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ CỦA LLVT QUÂN KHU TRONG 70 NĂM QUA

A. Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế

1. LLVT Quân khu được Đảng, Nhà nước tặng thưởng01 Huân chương Sao vàng - Tặng thưởng năm 198501 Huân chương Hồ Chí Minh - Tặng thưởng năm 197902 Huân chương Quân Công (01 Huân chương Quân Công hạng Nhất - năm

1984, 01 Huân chương Quân Công hạng Nhì - năm 1983)02 Cờ thưởng luân lưu của Chính phủ (năm 1983, 1985)

14

2. Các tập thể và cá nhân trong LLVT Quân khu được tặng thưởng- 172 tập thể và 107 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT

ND- 3.149 bà Mẹ được phong tặng và truy tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam Anh

hùng”- 05 Huân chương Sao vàng - tặng năm 1985 cho quân và dân 5 tỉnh ( Sơn

La, Lai Châu, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú)- 06 Huân chương Hồ Chí Minh: (Tặng cho Sư đoàn 316; các tỉnh Sơn La,

Lai Châu, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Vĩnh Phú)- 39 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Độc lập- 1.023 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Quân công- 8.543 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công- 10.146 cá nhân được tặng thưởng Huân chương, Huy chương Kháng chiến

chống Mỹ cứu nước- 06 Cờ thưởng của Chủ tịch nước- 35 Cờ thưởng của Thủ tướng Chính phủ- 118 Cờ thưởng của Bộ Quốc phòng.B. Trong thời kỳ đổi mới1. LLVT Quân khu được Đảng, Nhà nước tặng thưởng- LLVT Quân khu được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí

Minh lần thứ hai ( năm 2002).- Năm 2011 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng lần thứ 2- Năm 2015 được Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tặng thưởng

Huân chương IT - XA - LA hạng nhất- 01 Cờ thưởng luân lưu của Chính phủ (năm 1986)2. Các tập thể và cá nhân trong LLVT Quân khu được tặng thưởng- 04 đơn vị được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND thời kỳ đổi

mới.- 01 đơn vị được tặng Huân chương Quân công hạng Nhất.- 02 đơn vị được tặng Huân chương Quân công hạng Nhì.- 01 đơn vị được tặng Huân chương Quân công hạng Ba.- 02 đơn vị được tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất.- 08 đơn vị được tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì.- 09 đơn vị được tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Ba.- 02 đơn vị được tặng Huân chương Lao động hạng Ba.

15

- 06 lượt đơn vị được tặng Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ.- 21 lượt đơn vị được tặng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ.- 36 lượt đơn vị được tặng Cờ thi đua của Bộ Quốc phòng.- 66 lượt đơn vị được tặng Cờ thi đua của Bộ Tư lệnh Quân khu.- 586 lượt đơn vị được Bộ Tư lệnh Quân khu tặng “Đơn vị Quyết thắng”.- 10 cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp toàn

quân.- 3.780 cá nhân được các cấp tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở.- 39. 278 cá nhân được các cấp tặng Bằng khen, Giấy khen, Chiến sỹ tiên

tiến.- 26 cá nhân được Nhà nước Lào tặng thưởng Huân chương, Huy chương

hữu nghị.Phần thứ hai

MỘT SỐ CHIẾN DỊCH, TRẬN ĐÁNH TIÊU BIỂU LLVT QUÂN KHU THAM GIA TRONG 2 CUỘC KHÁNG CHIẾN

VÀ LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ

1. Chiến thắng sông Lô (chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947)Trong toàn chiến dịch, quân và dân Khu 10 đã chiến đấu hơn 60 trận, tiêu

diệt trên 1.600 tên địch, bắn chìm và bắn cháy 15 tàu, bắn rơi 1 máy bay (số địch bị tiêu diệt gần bằng 1/2 tổng số thiệt hại của địch trong toàn bộ chiến dịch Việt Bắc). Ta phá hủy và thu được nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng.

Quân và dân Khu 10 đã bẻ gãy “Gọng kìm sông Lô” của địch, góp phần đánh bại cuộc tiến công lên Việt Bắc của giặc Pháp, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, làm phá sản chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, tạo thế và lực để cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn mới.

2. Chiến thắng của Tự vệ Thành Tuyên Quang (chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947)

Đó là chiến công của tự vệ thành Tuyên Quang, đã phục kích đánh địch diệt hơn 100 tên khi chúng đang hành quân từ Tuyên Quang lên Chiêm Hóa ngày 22/10/1947 tại km số 7 (đường Tuyên Quang - Hà Giang).

Sau khi nắm được kế hoạch hành quân của địch, đêm 21/10/1947 tự vệ thành Tuyên Quang đã sử dụng 4 quả bom loại 100 kg (thu được của địch) bố trí trận địa phục kích. Khoảng 10 giờ sáng ngày 22/10/1947 đội hình địch gồm 500 tên thuộc Tiểu đoàn Lơ – giốt lọt vào trận địa. Ta kịp thời điểm hỏa, những tiếng nổ long trời, dậy đất rơi đúng vào đội hình địch, xác địch nằm ngổn ngang. 72 tên chết tại chỗ, 30 tên khác bị thương. Số sống sót hết sức kinh hoàng vội rút về thị xã, bị ta truy kích đến km số 5 diệt thêm 30 tên nữa thu nhiều vũ khí, đạn dược.

16

Sau trận này, chính kẻ địch phải thừa nhận “Tiếng nổ hỏa ngục” ở Km số 7 đã bẻ gãy và làm thất bại hoàn toàn cuộc hành quân của chúng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá, đây là một trong 10 chiến thắng lớn của toàn chiến dịch Việt Bắc.

3. Chiến dịch Biên giới 1950Hướng chính của chiến dịch là Cao – Bắc – Lạng có Trung đoàn 174 tham

gia. Hướng nghi binh là Lao Cai, gồm Trung đoàn 165; Trung đoàn 148; 1 tiểu đoàn của Hà Tuyên; 2 đại đội của Lào Cai; 1 đại đội của Yên Bái. Tổng số binh lực lên tới 21 đại đội.

Kết quả: Trên hướng chính ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 10 Tiểu đoàn địch (trên 8.000 tên) thu 3.000 tấn vũ khí, phương tiện chiến tranh; trên hướng nghi binh, quân và dân Quân khu 2 đã hoàn thành nhiệm vụ, diệt và làm tan dã 2 tiểu đoàn địch (diệt 244 tên, có 1/3 là Âu Phi), thu nhiều vũ khí có cả pháo lớn, bức rút 63 vi trí, giải phóng hầu hết tỉnh Lào Cai, huyện Hoàng Su Phì/ Hà Giang và một phần tỉnh Yên Bái.

Chiến dịch Biên giới giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn), nối liền biên giới Tây Bắc và Đông Bắc thành một dải, mở thông giao lưu quốc tế, làm thay đổi cục diện chiến tranh: ta bước sang giai đoạn chiến lược phản công và tiến công, buộc Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự.

4. Chiến dịch Tây Bắc 1952- Sau gần 2 tháng (14/10 - 10/12) anh dũng chiến đấu, quân và dân ta đã tiêu

diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, diệt 1.005 tên, bắt sống 5.024 tên; tiêu diệt 4 tiểu đoàn và 28 đại đội, đánh thiệt hại nặng nhiều tiểu đoàn tinh nhuệ ; phá hủy và thu toàn bộ vũ khí, đồ dùng quân sự, các kho lương thực, thực phẩm. Vùng mới giải phóng rộng 28.500 km2 với 25 vạn dân. Cả 4 cánh đồng lớn Mường Thanh/Điện Biên, Mường Lò/Nghĩa Lộ, Mường Tấc/Phù Yên, Mường Than/Than Uyên đã thuộc về ta.

- Tây Bắc trở thành căn cứ địa nối liền với Việt Bắc, là “một bảo đảm lâu dài cho cuộc kháng chiến của chúng ta và sẽ có ảnh hưởng đến cách mạng Lào, mặc dù tình hình sau này phát triển như thế nào”. Chiến thắng Tây Bắc đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiến lên một bước mới trên con đường tiếp tục giữ vững và phát huy thế chủ động chiến lược, đồng thời đã đập tan cái gọi là “Xứ Thái tự trị” trong âm mưu chia rẽ dân tộc “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp.

Đây cũng là thắng lợi của tinh thần phục vụ hết lòng hết sức vì tuyền tuyến của quân dân khu Tây Bắc: gần 20 vạn dân công, với 7 triệu ngày công, 11.750 tấn gạo, 164 tấn muối, 235 tấn thịt, 44 tấn thực phẩm, 83 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng đã được đã được huy động phục vụ chiến dịch.

5. Chiến dịch Điện Biên PhủVới tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” nhân dân các dân

tộc Tây Bắc mặc dù bị thiên tai mất mùa, sau chiến dịch Tây Bắc đời sống còn gặp

17

nhiều khó khăn nhưng vẫn tích cực tham gia đóng góp sức nguời, sức của cho thắng lợi của chiến dịch, vượt cả số lượng, chất lượng, thời gian Trung ương giao : gạo 7.310 tấn (vượt chỉ tiêu 347 tấn, bằng hơn 1/4 số lượng gạo toàn chiến dịch), thịt 389 tấn (vượt 79 tấn) huy động 27.657 dân công. Riêng tỉnh Lai châu đã huy động được 16.973 dân công, 2.666 tấn gạo, 226 tấn thịt, 210 tấn rau xanh, 348 ngựa thồ, 58 thuyền mảng, 24.070 cây gỗ các loại làm đường cho xe pháo. Châu Điện Biên, nơi tuyến lửa ác liệt, đồng bào sống vô cùng khó khăn cũng đóng góp được 555 tấn gạo, 36 tấn thịt, 105 tấn rau xanh. Châu Mường Tè phỉ hoạt động ráo riết, nhân dân cùng bộ đội vừa tiễu phỉ vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu cũng đóng góp được 76 tấn gạo, 43 con ngựa thồ, 14 thuyền mảng, 2.700 ngày công. Nhân dân Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc nô nức đi dân công hoả tuyến, tham gia mở đường, chuyển lương thực đạn dược. Chiến sĩ Ma Văn Thắng quê Phú Thọ lập kỷ lục về thồ hàng bằng xe đạp đạt 325 Kg. Nhân dân Tây Bắc còn chăm sóc bộ đội từ cái kim sợi chỉ, cổ vũ thăm hỏi các chiến sĩ hết sức chu đáo. Chỉ tính riêng tỉnh Phú Thọ có trên 2 vạn lá thư, 1.000 bộ quần áo, 175 áo trấn thủ, 92 chăn màn, 452 bánh thuốc lào, 157 kg đường, 114 kg chè khô, 2.316 viên thuốc ký ninh và thuốc cảm… Chiến dịch Điện Biên Phủ mãi mãi là niềm tự hào của quân dân các dân tộc Tây Bắc. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Sư đoàn 316 (Trung đoàn 174, Trung đoàn 98) đã trực tiếp tham gia chiến dịch với những trận đánh xuất sắc trên đồi A1, A3, C1, C2 và sân bay Mường Thanh. Đặc biệt trên đồi A1 - cao điểm phòng ngự then chốt trên hướng Đông của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở đây diễn ra giằng co hết sức gay go, ác liệt. Khối bộc phá 1.000 kg do bộ đội ta đào hầm và đặt trong lòng hầm A1 được phát nổ là hiệu lệnh xung phong toàn mặt trận, tổng công kích vào sở chỉ huy của quân Pháp, bắt sống tướng Đờ - cat - xtơ - ri.Trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 và trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Sư đoàn 316 đã đánh 17 trận, tiêu diệt 3.300 tên địch, bắt sống và gọi hàng 6.500 tên, thu và phá huỷ 3.200 súng các loại, bắn rơi và bắn cháy 11 máy bay, 3 xe tăng cùng nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Các Trung đoàn 174, Trung đoàn 98 vinh dự được nhận cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 7 đồng chí được tuyên dương Anh hùng LLVT, 6 đồng chí được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Sư đoàn được tặng 1 Huân chương Quân công hạng Nhất, 4 Huân chương Quân công hạng Ba.

6. Những chiến công tiêu biểu, trên mặt trận chống gián điệp, biệt kích của Mỹ, Ngụy (1960 - 1968) và trong chống chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc của đế quốc Mỹ (1965 - 1972) của quân và dân Tây Bắc.

Trong khi quân và dân miền Bắc đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng XHCN thì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tìm mọi cách tung biệt kích, gián điệp móc nối với bọn phản động cũ để phá hoại hậu phương chiến lược, làm suy yếu tiềm lực quốc phòng của ta, trong đó Tây Bắc là một trong những địa bàn trọng điểm.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân Tây Bắc đã xây dựng được phòng tuyến chiến tranh nhân dân sâu rộng, cảnh giác cao, luôn sẵn sàng và tổ chức chiến

18

đấu tốt nên đã kịp thời tóm gọn, tiêu diệt nhiều toán gián điệp, biệt kích của Mỹ, Ngụy.

Tiêu biểu như:- Ngày 27/5/1961 tại Phù Yên (Sơn La) ta đã tóm gọn toán biệt kích gồm 4

tên, thu 4 tiểu liên, 2 súng ngắn, lương thực và nhiều trang bị khác. Đây là toán gián điệp biệt kích đầu tiên của Mỹ, Ngụy tung ra miền Bắc.

- Tháng 6/1962 tại Pù Lài (Điện Biên), ta tóm gọn 6 tên biệt kích toán Rơ Muýt sau đó đã thuyết phục, động viên, sử dụng toán này thành một “cái bẫy” nhử địch để thu toàn bộ vũ khí, lương thực tiếp tế của địch và tóm gọn một toán khác gồm 5 tên.

- Ngày 8/6/1963 ta bắt gọn toán biệt kích gồm 7 tên ở Khe Ót, xã Phong Dụ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái…

- Từ năm 1965 đến năm 1968 quân dân Tây Bắc đã phát hiện hơn một chục toán gián điệp, biệt kích tung vào địa bàn Tây Bắc, diệt 51 tên, bắt 35 tên, thu nhiều vũ khí, trang bị, phương tiện hoạt động của chúng và nhiều tài liệu quan trọng.

Cuối năm 1964 để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ quyết định liều lĩnh tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đối với miền Bắc nước ta.

Trước tình hình đó, Quân khu đã chủ động, khẩn trương tổ chức xây dựng và củng cố lực lượng, kịp thời bố trí thế trận phòng không nhân dân trên toàn địa bàn. Góp phần đánh bại cuộc chiến tranh bằng không quân của đế quốc Mỹ trên bầu trời miền Bắc. Những chiến công tiêu biểu của quân và dân Tây Bắc:

- Từ tháng 5/1965 đến cuối năm 1972, lực lượng phòng không của Quân khu đã bắn rơi 339 máy bay Mỹ (trong đó có 2 máy bay B52, 3 máy bay F111), bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ vững chắc hậu phương Tây Bắc.

- Ngày 14/6/1965, Tiểu đoàn 14 pháo phòng không thuộc Sư đoàn 316 đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay đầu tiên (chiếc F105) của không lực Hoa Kỳ trên bầu trời Tây Bắc

- Ngày 20/8/1965 tổ dân quân trực chiến xã Mậu Đông huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái đã dùng súng trường bắn rơi tại chỗ 1 chiếc F.105.

- Ngày 20/10/1965 tổ trực chiến của hai dân quân Phùng A Di, Phùng A Dua dân tộc Mông xã Kim Bon huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, đã dùng súng trường bắn rơi 1 chiếc F.105. Đây là chiếc máy bay Mỹ đầu tiên do dân quân người Mông bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.

- Đầu tháng 9/1966, tiểu đội dân quân người Dao trực chiến ở thôn Khe Lép, Xuân Tầm đã bắn rơi 1 chiếc máy bay F.105. Đây là chiếc máy bay Mỹ đầu tiên do dân quân người Dao bắn rơi.

- Tháng 10/1972, dân quân xã Tiền Châu, huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc) đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay F.111 của Mỹ. Đây là chiếc máy bay thứ 4.000 của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc.

19

- Nữ dân quân Yên Châu, tỉnh Sơn La đã dùng súng bộ binh trong một ngày bắn rơi 2 máy bay Mỹ. Cảm hứng trước hình tượng đẹp của người con gái Thái vừa sản xuất giỏi, vừa chiến đấu giỏi, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Loan đã sáng tác ca khúc “Người Châu Yên em bắn máy bay”, một ca khúc được nhiều người ưa thích.

7. Chiến dịch Nậm Thà (1962)Chiến dịch Nậm Thà (1962) là chiến dịch tiến công của liên quân Lào - Việt

(trong đó có Sư đoàn 316) vào khu vực Mường Sinh - Nậm Thà, nhằm ngăn chặn địch và thu hồi vùng bị chiếm, hỗ trợ cho hội nghị hiệp thương ba phái ở Cánh Đồng Chum và hội nghị Giơ - ne - vơ 1962 về Lào.

Chiến dịch chia làm hai đợt. Đợt 1 (từ 2/5 - 6/5), liên quân Lào - Việt tiến công Mường Sinh, phát triển chiếm Mường Long; địch ở Nậm Thà hoảng loạn, tan vỡ. Đợt 2 (từ 6/5 - 12/5), phát triển thắng lợi, liên quân Lào - Việt đánh địch rút chạy về Mường Xài, đánh chiếm điểm cao 1860 và sau đó chỉ truy kích địch đến bản Púng, không để Mỹ tạo cớ can thiệp sâu vào Lào.

Kết thúc chiến dịch liên quân Lào - Việt loại khỏi vòng chiến đấu 1.564 tên địch, thu trên 400 súng các loại, giải phóng trên 5.000 Km2 với trên 76.000 dân; buộc chính quyền Viêng Chăn phải ký Hiệp định Cánh Đồng Chum (12/6/1962) thành lập chính phủ liên hiệp ba phái và sau đó ký Hiệp định Giơ - ne - vơ về Lào.

8. Chiến dịch Nậm Bạc (1968)Đây là chiến dịch tiến công của quân tình nguyện Việt Nam (trong đó có Sư

đoàn 316) phối hợp với Tiểu đoàn 409 quân giải phóng nhân dân Lào và LLVT tỉnh Luông Pha Băng, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân Viêng Chăn, giải phóng vùng Nậm Bạc.

Sau 16 ngày đêm chiến đấu liên tục, ta tiêu diệt 973 tên địch, bắt hơn 2.000 tên, phá hủy 12 máy bay, 11 pháo; giải phóng vùng Nậm Bạc, Khăm Đeng với trên 1 vạn dân.

Thắng lợi của chiến dịch đánh dấu bước phát triển thế chủ động của các lực lượng cách mạng trên chiến trường Lào; phối hợp nhịp nhàng có hiệu quả với quân và dân miền Nam Việt Nam trong tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968.

9. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng ChumSư đoàn 316 đã tham gia chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum mùa mưa

1972. Cánh Đồng Chum là khu vực giành giật quyết liệt giữa ta và địch. Sau 170 ngày đêm phòng ngự, ngày 15/11/1972 chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum kết thúc thắng lợi. Các chiến sĩ tình nguyện Tây Bắc đã cùng bạn loại khỏi vòng chiến đấu 5.600 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công lấn chiếm của quân ngụy Lào và quân Thái Lan, phối hợp có hiệu quả với cuộc tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam.

Đây là lần đầu tiên trên chiến trường Lào, bộ đội tình nguyện Tây Bắc và bộ đội giải phóng Lào đánh thắng địch trong mùa mưa; cũng là lần đầu tiên ta tiến hành thắng lợi một chiến dịch phòng ngự quy mô lớn. Qua đó ta đã tích lũy được

20

nhiều kinh nghiệm về nghệ thuật tổ chức và thực hành chiến dịch. Thắng lợi này đã đưa đến việc ký kết Hiệp định Viêng Chăn tháng 2 năm 1973.

10. Chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sửTrong cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm giải phóng đất nước, vào giai

đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước quyết liệt và huy hoàng, Quân khu 2 vinh dự có Sư đoàn tham gia chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, góp phần cùng quân và dân miền Nam và cả nước làm nên đại thắng mùa xuân 1975.

Trong chiến dịch Tây Nguyên, Sư đoàn 316 là lực lượng đột kích chủ yếu tiến công Buôn Mê Thuột, đây là trận đánh then chốt của chiến dịch. Cán bộ chiến sĩ Sư đoàn đã nêu cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, chiến đấu linh hoạt, ngoan cường, tiến công dũng mãnh tiêu diệt sinh lực địch, nhanh chóng làm chủ chiến trường, giải phóng Buôn Mê Thuột và đập tan các cuộc phản kích của địch, hoàn thành xuất sắc mục tiêu chiến dịch đề ra. Chiến dịch này, Sư đoàn đã tiêu diệt và bắt sống 5.266 tên địch, trong đó có tên Đại tá Vũ Thế Quang, Sư đoàn phó Sư đoàn 23 ngụy. Kết thúc chiến dịch Sư đoàn được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhất, có 21 đơn vị và 246 cán bộ, chiến sĩ được tặng thưởng Huân chương Quân công và Chiến công các loại.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh cùng với 5 cánh quân thần tốc tiến về Sài Gòn, Sư đoàn 316 nằm trong đội hình Quân đoàn 3 chiến đấu trên hướng Tây Bắc, với nhiệm vụ chốt chặn trên đường số 1 và đường số 22, kiềm chế Sư đoàn bộ binh 25 Ngụy, không cho chúng rút từ Tây Ninh về Đồng Dù và Hóc Môn. Trong chiến dịch này, Sư đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, loại khỏi vòng chiến đấu 6.715 tên địch, bắn rơi 4 máy bay, thu 26 pháo và trên 3000 súng các loại.

Ngày 16/1/1976, Sư đoàn 316 được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Nhất.

Phần thứ baKẾT LUẬN

I- TRƯỞNG THÀNH, LỚN MẠNH TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Xuất phát từ điều kiện vị trí, địa lý và dân cư, tuy có sự thay đổi về tổ chức và tên gọi qua từng giai đoạn cách mạng, nhưng Quân khu 2 vẫn luôn được coi là địa bàn chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng trong các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Sinh ra và lớn lên trên vùng đất đó, lại được kế thừa những truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc, qua mỗi chặng đường lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang Quân khu đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, ngày càng giành được những thắng lợi to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) các lực lượng vũ trang Quân khu là một bộ phận quan trọng góp phần tạo nên sức

21

mạnh vĩ đại của cả dân tộc để giành chiến thắng. Mỗi bước phát triển, mỗi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên chiến trường cả nước có tác động thúc đẩy, tạo điều kiện để lực lượng vũ trang Quân khu phát triển mạnh mẽ; đồng thời mỗi một bước phát triển, mỗi một thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu đều có ảnh huởng và tác động đến cục diện chung của cuộc kháng chiến. Do vậy mà mỗi bước trưởng thành và thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu trong 9 năm gian khổ, trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) có tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử sâu sắc.

Điều ấy thể hiện trước hết ở chỗ, thắng lợi mà các lực lượng vũ trang Quân khu đã giành được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi vĩ đại, biểu tượng của tinh thần yêu nước, tinh thần quyết chiến quyết thắng “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng” của lực lượng vũ trang Quân khu.

Phát huy truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của nhân dân các dân tộc trên địa bàn, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, bắt nguồn từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, sinh ra và lớn lên từ các khu căn cứ, khu du kích, từ những đơn vị vũ trang nhỏ lẻ ban đầu, các lực lượng vũ trang Quân khu từng bước phát triển lớn mạnh và trưởng thành, trở thành lực lượng nòng cốt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trên địa bàn Quân khu.

Khi bước vào cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang Quân khu nói riêng, cùng với đồng bào Tây Bắc nói chung đứng trước những khó khăn chồng chất và những thách thức rất to lớn. Quân xâm lược Pháp kéo vào Lai Châu (mở đầu cho việc đánh chiếm miền Bắc), lực lượng vũ trang Quân khu lúc này còn non trẻ, trang bị rất hạn chế, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, nhưng với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, các đơn vị của lực lượng vũ trang Quân khu cùng với nhân dân các dân tộc Tây Bắc đã từng bước vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, tích cực chủ động chiến đấu ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược.

Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, để chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, dưới sự chỉ đạo của Trung ương và của chính quyền các cấp, nhân dân các dân tộc trên địa bàn đã ủng hộ hàng chục ki-lô-gam vàng và hàng vạn đồng. Ngoài việc động viên con em mình hăng hái tòng quân, tham gia dân quân tự vệ, xung phong Nam Tiến, Tây Tiến, đồng bào các dân tộc Tây Bắc còn tích cực tham gia cuộc vận động mua sắm vũ khí cho bộ đội và tự vệ chiến đấu. Chỉ trong một đợt vận động, đồng bào ở Mường Chanh (Sơn La) đã ủng hộ hàng trăm con trâu, nhờ đó đã mua sắm được 30 khẩu súng. Và trong suốt những năm dài kháng chiến, mặc dù đời sống còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”, được sự chở che, giúp đỡ của nhân dân, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu luôn tích cực, chủ động chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tập trung huy động tới mức cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Sở dĩ các lực lượng vũ trang ta vượt qua được khó khăn, gian khổ, chiến đấu giành thắng lợi chính là nhờ có sự chi viện, giúp đỡ vô cùng to lớn của nhân dân. Chỉ riêng trong ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10 năm 1952),

22

chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953); chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 5 năm 1954) đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã đóng góp hơn 8 triệu ngày công, 13.425 tấn gạo, 420 tấn thịt lợn, 2.350 con trâu, bò; 573 tấn lương khô, 12 tấn đường, 41 tấn thực phẩm khác, vận chuyển trên 517 tấn vũ khí, đạn dược, cùng hàng ngàn xe đạp thồ và nhiều phương tiện khác.

Trong thực tế những năm chiến đấu chống thực dân Pháp trên chiến trường Tây Bắc; thực dân Pháp đã bằng mọi thủ đoạn, tìm mọi cách để cán bộ, bộ đội ta không liên lạc được với dân, như chúng đã thực hiện tập trung dân quanh đồn, rào làng, lập trạm kiểm soát nghiêm ngặt... Nhưng mọi biện pháp ngăn chặn, kiểm tra của chúng cũng không ngăn cản được đồng bào các dân tộc đi theo kháng chiến, theo cán bộ, bộ đội Cụ Hồ để chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng quê hương. Trong khói lửa của cuộc kháng chiến đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu nước đấu tranh bất khuất, hy sinh, dũng cảm của đồng bào các dân tộc. Lực lượng vũ trang Quân khu cùng đồng bào các dân tộc rất tự hào vì đã có những đóng góp to lớn vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Ngoài sự chi viện về sức người, sức của cho các chiến dịch, trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, các lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương đã tiến hành hàng ngàn trận đánh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Chỉ nói riêng ở Lào Cai, quân và dân ta đã tiến hành 1.149 trận đánh lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 7.726 tên địch, bắn cháy và bắn hỏng 7 máy bay, thu 1.112 súng các loại, 9 xe ô tô, 18 máy vô tuyến điện cùng hàng trăm tấn đạn được, quân trang, quân dụng, về phía ta có 853 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang anh dũng hy sinh.

Cùng với thắng lợi của quân và dân cả nước, thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã góp phần chọc thủng, phá vỡ các phòng tuyến của địch, đập tan âm mưu bao vây biên giới của chúng, mở đường giao lưu quốc tế giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Lào và cách mạng Trung Quốc.

Như trên đã nói, đánh chiếm vùng Tây Bắc, thực dân Pháp xâm lược nhằm thực hiện mưu đồ: Cô lập căn cứ địa Việt Bắc ở phía tây, làm bàn đạp thâm nhập Thượng Lào, khóa chặt đoạn biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Trên thực tế trong 9 năm (1945 - 1954) thực dân Pháp không ngừng đẩy mạnh các hoạt động nhằm “bịt biên giới, ngăn chặn sự tiếp xúc của Việt Nam với Trung Quốc”. Để đập tan mưu đồ này, Đảng ta luôn chủ trương phải phá kế hoạch bao vây biên giới của địch. Thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm 1948 ở Lào Cai, Hà Giang ta đã chú trọng việc xây dựng cơ sở ở biên giới, đặc biệt là ở những vùng trọng yếu như: Bản Lầu, Pặc Chì, Hà Khẩu, Bát Xát... Để mở rộng biên giới, bắt liên lạc với cách mạng Trung Quốc, từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 20 tháng 4 năm 1949, Bộ tư lệnh Quân khu 10 quyết định mở chiến dịch Lao - Hà. Từ ngày 16 tháng 9 năm 1950 đến ngày 14 tháng 10 năm 1950, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo mở chiến dịch Biên Giới với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông nối liền với các nước xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới (chiến dịch Lê Hồng Phong 2), trong đó có những đóng góp của lực lượng vũ trang Quân khu trên hướng phối hợp Tây Bắc, đã tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực địch, giải phóng biên giới, mở rộng căn cứ Tây Bắc;

23

mở thông đường liên lạc quốc tế, tạo điều kiện cho ta phối hợp với quân giải phóng nhân dân Trung Quốc tiêu diệt tàn quân Quốc dân Đảng. Đồng thời ta cũng đã chủ động mở những đợt tấn công truy quét phỉ và bọn đặc vụ Tưởng ở vùng biên giới Việt - Trung để giữ vững và củng cố con đường liên lạc quốc tế.

Đối với cách mạng Lào, lực lượng vũ trang Quân khu luôn sát cánh chiến đấu cùng bạn, với tình cảm “hạt gạo cắn đôi”, “hạt muối sẻ nửa”. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình”, ngay từ năm 1947 Đảng và Chính phủ ta đã chủ trương tăng cường giúp đỡ cách mạng Lào, chuẩn bị tiền đề xây dựng căn cứ địa và tiến tới xây dựng Quân đội cách mạng Lào. Ngày 20 tháng 5 năm 1948, Bộ Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam quyết định thành lập Ban xung phong Lào Bắc với nhiệm vụ là: Xây dựng cơ sở cách mạng ở vùng Bắc Lào, trực tiếp liên lạc với Ủy ban kháng chiến và Tỉnh Đảng bộ Sơn La, với Ban xung phong Trung Dũng Sơn La để phối hợp hành động, Địa bàn đứng chân của Ban xung phong Lào Bắc là Sơn La, lấy Mộc Châu - Sơn La làm bàn đạp tiến vào các vị trí Sóp San, Sốm Pín, Xiềng Khọ, Mường Hét đến Phong Xi Lỳ. Mặt khác nhằm góp phần tạo đội ngũ cán bộ cho cách mạng Lào, cuối năm 1949 ta và bạn đã thành lập trường Lào Bắc (khóa 1 đã đào tạo được 100 cán bộ). Để phá vỡ phòng tuyến Sông Mã của địch, mở thông biên giới Việt - Lào, tháng 11 năm 1949, Liên quân Lào - Việt đã mở chiến dịch Sông Mã. Cùng với các hoạt động này, hoạt động của Trung đoàn 148, Tiểu đoàn 910 và các đơn vị khác của lực lượng vũ trang Quân khu bên cạnh lực lượng vũ trang Lào đã góp phần tăng cường và củng cố tình đoàn kết chiến đấu giữa hai dân tộc Việt - Lào và tạo điều kiện cho cách mạng Lào liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn. Chiến dịch Thượng Lào (từ 8 tháng 4 đến 3 tháng 5 năm 1953) là biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết chiến đấu sắt son giữa quân đội và nhân dân hai nước. Trong chiến dịch này (như ở phần trên đã nói) các đơn vị của lực lượng vũ trang Quân khu đã có những đóng góp vô cùng to lớn. Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào đã nối liền hậu phương kháng chiến của cách mạng Lào với vùng tự do của Việt Nam, làm cho thế phối hợp chiến lược giữa cách mạng và tình đoàn kết hữu nghị hai nước Việt - Lào có thêm điều kiện phát triển thuận lợi. Thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã góp phần đập tan chính sách “chia để trị”, “dùng người Việt đánh người Việt”; đập tan âm mưu gây phỉ, giải phóng nhân dân Tây Bắc thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân, phong kiến.

Trên địa bàn Quân khu, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang Quân khu trong các đợt và chiến dịch tiễu phỉ luôn là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Hoạt động của phỉ không đơn thuần là những cuộc vũ trang bạo loạn nổi lên ở từng khu vực, mà còn là một bộ phận trong chiến lược chia rẽ dân tộc “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Để thực hiện âm mưu gây phỉ và chính sách “chia để trị”, “dùng người Việt đánh người Việt”, trên địa bàn Quân khu, thực dân Pháp xâm lược đã ráo riết lập ra cái gọi là “Xứ Thái tự trị”, “Xứ Nùng tự trị”. Chúng dựa vào tầng lớp thổ ty, lang đạo lớn, có thế lực để gây phỉ và thống trị đồng bào các

24

dân tộc. Dựa vào uy lực và sự dung túng của thực dân Pháp, chúng ra sức đàn áp, bóc lột nhân dân. Như vậy, trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, ách thống trị tàn bạo của thực dân phong kiến là rất nặng nề. Nhiệm vụ của cách mạng đặt ra là vừa chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược vừa tiến hành tiễu phỉ, vừa ra sức xây dựng hậu phương, xây dựng chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân. Các đơn vị trong lực lượng vũ trang Quân khu đã có mặt ở tất cả các trận tuyến; từ những trận chiến đấu quy mô lớn chống quân xâm lược đến các chiến dịch tiễu trừ thổ phỉ, xây dựng củng cố hậu phương và đã liên tiếp giành được thắng lợi. Chính điều ấy đã góp phần vào việc giải phóng đồng bào thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của thực dân, phong kiến và từng bước xác lập quyền làm chủ của đồng bào các dân tộc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, cũng chính là thắng lợi đánh dấu sự trưởng thành lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng cách mạng nói chung, trong đó đặc biệt quan trọng là sự trưởng thành, lớn mạnh của lực lượng vũ trang Quân khu. Lực lượng vũ trang Quân khu, nòng cốt của cuộc chiến tranh cách mạng trên địa bàn đã có bước phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Từ những đơn vị vũ trang nhỏ lẻ được hình thành trong các khu căn cứ, khu du kích thời kỳ tiền khởi nghĩa dần dần phát triển thành những chi đội giải phóng quân, các trung đoàn vệ quốc đoàn. Vào thời điểm cuối năm 1952 ở Tây Bắc mới có 14 đại đội, đến cuối năm 1953 Khu đã xây dựng được 28 đại đội chủ lực Tỉnh, huyện và một số tiểu đoàn chủ lực Khu. Riêng về dân quân du kích toàn khu có 3.836 du kích, 4.420 dân quân. Ở Sơn La, đầu năm 1953 mới có 2 đại đội chủ lực, mỗi huyện có từ 1 đến 2 trung đội; đến đầu năm 1954 đã xây dựng được 1 tiểu đoàn độc lập, mỗi huyện có 1 đại đội độc lập.

Không chỉ phát triển mạnh về số lượng mà cả về trình độ tác chiến và hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng vũ trang Quân khu cũng đã được nâng lên rõ rệt. Từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ dẫn đường, phục vụ bộ đội chủ lực chiến đấu, thông qua thực tiễn vừa chiến đấu vừa xây dựng, lực lượng vũ trang Quân khu đã độc lập tác chiến, tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng phối hợp với bộ đội chủ lực trong các chiến dịch lớn. Chẳng những chiến đấu giỏi trên chiến trường trong nước mà còn sát cánh chiến đấu cùng quân và dân nước bạn Lào anh em liên tiếp giành chiến thắng.

Sự lớn mạnh và trưởng thành nhanh chóng của lực lượng vũ trang Quân khu trong quá trình phát triển của cuộc kháng chiến cùng với những chiến công và thành tích đã đạt được (như đã trình bày ở các phần trên) đã góp phần tạo nên sự ổn định về chính trị và sức mạnh tổng hợp của hậu phương Tây Bắc. Đây không chỉ là nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi của quân và dân trên địa bàn Quân khu trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà còn là những điều kiện thuận lợi cho quân và dân Tây Bắc cùng với cả nước bước vào một thời kỳ mới của cách mạng - thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Ngoài những ý nghĩa to lớn trên, sự trưởng thành, lớn mạnh và những chiến công mà lực lượng vũ trang Quân khu đã giành được trong cuộc kháng chiến

25

chống thực dân Pháp xâm lược đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó đặc biệt là vấn đề xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, xây dựng lực lượng về mọi mặt.

Việc thành lập và đưa các đội vũ trang tuyên truyền, các đội xung phong xuống tận các bản, mường, đi sâu vào vùng địch hậu, hoạt động theo phương châm “chính trị trọng hơn quân sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”. Nhờ hoạt động theo phương châm này, các đội vũ trang tuyên truyền và các đội xung phong không những đã góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền chủ trương, chính sách, đường lối kháng chiến, đoàn kết dân tộc của Đảng; vạch trần âm mưu, thủ đoạn phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của địch; kêu gọi nhân dân các dân tộc đoàn kết đứng lên kháng chiến, mà còn góp phần vào việc diệt tề, trừ gian, xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng các đoàn thể quần chúng, phát động chiến tranh du kích.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vấn đề xây dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến ở Tây Bắc là một nhiệm vụ mà lực lượng vũ trang Quân khu luôn được quán triệt và thực hiện một cách có hiệu quả. Trong nhận thức cũng như trong thực tiễn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi căn cứ địa, hậu phương là một bộ phận quan trọng của chiến lược chiến tranh nhân dân. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ ngày 15 đến 17 tháng 1 năm 1948) chủ trương chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới, phát triển dân quân, phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là trong vùng địch kiểm soát... Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, ngày 20 tháng 1 năm 1948, Bộ Tổng chỉ huy đã ra chỉ thị nêu rõ: “Nhiệm vụ giải phóng Tây Bắc và xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là nhiệm vụ căn bản của Liên khu 10”. Ngày 28 tháng 2 năm 1948, trong mệnh lệnh về việc thành lập Ban xung phong Tây Bắc, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân Việt Nam cũng lại nhấn mạnh: Xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là nhiệm vụ quân sự cơ bản.

Quá trình lực lượng vũ trang tham gia xây dựng, củng cố căn cứ địa, luôn gắn liền và tác động lẫn nhau với quá trình chiến đấu và phát triển của cuộc kháng chiến. Mỗi bước phát triển, mỗi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên chiến trường Tây Bắc đều gắn liền với những thành tựu mà lực lượng vũ trang cùng nhân dân các dân tộc Tây Bắc giành được trong quá trình xây dựng và củng cố căn cứ địa. Vượt qua những năm đầu đầy khó khăn, phức tạp, từ năm 1949 việc xây dựng, củng cố căn cứ địa Tây Bắc đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cũng từ đây, nhờ xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ địa mà cục diện trên chiến trường Tây Bắc đã có thay đổi ngày càng có lợi cho ta. Từ năm 1949 đến năm 1954, trên địa bàn Quân khu đã liên tiếp diễn ra các trận đánh, các chiến dịch quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trong đó lực lượng vũ trang Quân khu đóng góp vai trò quan trọng. Thắng lợi của các trận đánh, các chiến dịch này mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ có phần đóng góp không nhỏ của các căn cứ địa, hậu phương kháng chiến. Đồng thời thắng lợi của các trận đánh, các chiến dịch này cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố, mở rộng căn cứ địa. Đó là sự tác động biện chứng giữa hai mặt của một vấn đề vừa kháng chiến vừa kiến quốc; vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phương vững chắc mà lực lượng vũ

26

trang Quân khu đã được quán triệt và thực hiện có hiệu quả.Khi bắt tay vào xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến, bên cạnh những thuận lợi, lực lượng vũ trang cùng nhân dân các dân tộc Tây Bắc đứng trước những khó khăn, thử thách lớn. Từ cuối năm 1947 đầu năm 1948 trên địa bàn Quân khu, thực dân Pháp đã kiểm soát hầu hết các tỉnh lỵ, thị xã, thị trấn, đường giao thông quan trọng. Lúc này, cơ sơ chính trị, cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang của ta còn rất mỏng và non yếu. Trên danh nghĩa tuy thực dân Pháp đã kiểm soát được hầu hết các vị trí quan trọng, nhưng chúng không thể nào kiểm soát được lòng yêu nước, yêu cách mạng của đồng bào các dân tộc. Thực tiễn chỉ ra rằng, nếu không có lòng yêu nước, không có tinh thần cách mạng cao cả của đông đảo quần chủng, thì dù căn cứ địa hậu phương nào có núi cao, hiểm trở đến đâu cũng sẽ bị quân địch đánh phá. Suy cho cùng hậu phương vững chắc nhất, căn cứ vững chắc nhất vẫn là “hậu phương và căn cứ trong lòng nhân dân”. Trên tinh thần đó, để xây dựng căn cứ, hậu phương trên địa bàn Quân khu thời kỳ này trước hết phải dựa chắc vào dân. phát huy sức mạnh của nhân dân nhằm khắc phục những khó khăn chồng chất, đảm bảo cho thắng lợi của công cuộc xây dựng, củng cố và mở rộng hậu phương kháng chiến trên một địa bàn chiến lược quan trọng. Dựa chác vào dân để xây dựng căn cứ địa là biểu hiện cụ thể của quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và quan điểm chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng. Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, vai trò và sức mạnh của nhân dân được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực. Muốn có lực lượng vũ trang mạnh, có chỗ đứng chân, có tiềm lực để chiến đấu và chiến thắng thì nhất thiết càng phải dựa chắc vào dân, bám dân, bám đất. Trên thực tế quá trình chiến đấu và công tác, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã nhận thức sâu sắc và làm tốt được điều ấy dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu, cùng với sự giúp đỡ to lớn của cấp ủy, chính quyền các địa phương. Thực tế cho thấy trên địa bàn Quân khu, có lúc địch đã thực hiện âm mưu “tát cạn nước để bắt cá”, ví như ở Lai Châu, đi đôi với những thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, khống chế, từ tháng 1 năm 1951, địch mở các cuộc càn quét vào các khu du kích ở Quỳnh Nhai, Tuần Giáo, Điện Biên. Càn quét đến đâu chúng dồn dân về ở sát đồn để dễ bề kiểm soát, nhằm cô lập nhân dân với cán bộ, bộ đội ta. Để giành dân và đập tan âm mưu thủ đoạn thâm độc của địch, các đơn vị lực lượng vũ trang ta phải rất coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng làm cho đồng bào các dân tộc thấy rõ đường lối kháng chiến, chính sách dân tộc của Đảng, âm mưu thâm độc của đế quốc thực dân cùng bé lũ tay sai phản động. Đồng thời các đơn vị và mọi cán bộ, chiến sĩ ta phải thực hiện thật tốt chính sách dân tộc của Đảng, chăm lo, bồi dưỡng sức dân, giải quyết tất những yêu cầu bức xúc và nguyện vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc. Từ đó mà khơi dậy trong đồng bào tinh thần yêu nước, lòng căm thù quân xâm lược, tin vào bộ đội, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hết lòng vì cách mạng, hết lòng thương yêu, giúp đỡ bộ đội.

Quán triệt quan điểm của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh, ta đã thành lập các đội vũ trang tuyên truyền, các đội xung phong để tiến sâu vào các vùng sau lưng địch với nhiệm vụ xây dựng cơ sở cách mạng, cơ sở quần chúng, phát triển

27

chiến tranh du kích và hoạt động theo phương châm coi trọng chính trị hơn quân sự, tuyên truyền hơn tác chiến. Thông qua hoạt động của các đội vũ trang tuyên truyền, các đội xung phong mà cơ sở chính trị, cơ sở cách mạng ở các vùng sau lưng địch ngày càng được phục hồi, củng cố và phát triển. Và từ các cơ sở chính trị, các khu du kích, các căn cứ du kích cũng lần lượt được xây dựng, củng cố và mở rộng, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta. Ví như ở Sơn La, ta đã xây dựng được các khu du kích nổi tiếng như: Y Lương, Mường Mần, Hát Lót, Mường Sại (Mai Sơn); Mường Bú, Mường Chùm, Mường Bằng (Mường La); từ đó đã dấy lên phong trào xây dựng khu căn cứ du kích như ở Long Hẹ, Mường Bám (Thuận Châu)... hay ở Lai Châu ta đã xây dựng được khu đu kích Tả Xìn Thàng gồm 8 xã. Đi từ xây dựng cơ sở chính trị tiến lên xây dựng khu du kích và căn cứ du kích, đó là quy luật hình thành và phát triển của hậu phương chiến tranh nhân dân trong vùng sau lưng địch nói chung, trong vùng sau lưng địch ở Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng. Việc đưa các đại đội độc lập, các đội vũ trang tuyên truyền, các đội xung phong luồn sâu vào vùng hậu địch, gây cơ sở chính trị phát động chiến tranh du kích, tạo điều kiện cho việc thành lập các đội du kích, căn cứ du kích là một trong những thành công nổi bật của quá trình xây dựng củng cố căn cú địa và phát triển lực lượng vũ trang trên địa bàn Quân khu trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Việc phát triển, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, trong đó lực lượng dân quân du kích có một vai trò, vị trí rất quan trọng, điều ấy luôn được các cấp lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường Tây Bắc quan tâm và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả.

Từ vị trí chiến lược rất quan trọng của địa bàn Quân khu, ngay từ đầu tháng 11 năm 1945, nghĩa là chỉ chưa đầy hai tháng sau khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa, 2 tiểu đoàn quân Pháp từ Vân Nam (Trung Quốc) quay lại đánh chiếm Lai Châu và một số nơi khác. Tây Bắc trở thành nơi sớm nhất bị quân Pháp xâm nhập với quy mô lớn. Đánh chiếm Lai Châu rồi mở rộng đánh chiếm các nơi khác ở Tây Bắc, thực dân Pháp nhằm thực hiện mưu đồ rất thâm độc: Cô lập căn cứ địa Việt Bắc từ phía tây, uy hiếp đồng bằng, trung du Bắc Bộ, làm bàn đạp xâm nhập Thượng Lào, khóa chặt biên giới Việt - Trung.

Để kịp thời đánh bại âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, tháng 11 năm 1945 Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Tây Bắc. Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 4 năm 1946, Bộ Tổng Tham mưu đã điều động 7 đại đội lên Tây Bắc xây dựng cơ sở chính trị và chiến dấu ngăn chặn bước tiến quân của quân xâm lược. Việc sớm quyết định mở Mặt trận Tây Bắc và huy động một lực lượng quan trọng tham gia “Tây Tiến” chứng tỏ Đảng ta đã sớm nhận rõ vị trí chiến lược của địa bàn Tây Bắc và sớm quan tâm tới chiến trường này. Tháng 1 năm 1947, Hội nghị quân sự lần thứ nhất của Đảng đã nhận định: “Căn cứ địa rừng núi ở miền Tây Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có một giá trị chiến lược rất quan trọng đối với miền Bắc Việt Nam và cả miền Bắc Đông Dương”.

Nêu cao quyết tâm chiến đấu bảo vệ quê hương, lực lượng vũ trang cùng nhân dân Tây Bắc đã sát cánh cùng với bộ đội Tây Tiến vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, hy sinh, chiến đấu để ngăn chặn có hiệu quả cuộc tiến công xâm lược

28

của giặc Pháp. Điều ấy thể hiện tinh thần tích cực, chủ động tiến công của bộ đội và đồng bào các dân tộc nhằm giành quyền làm chủ ở một địa bàn chiến lược quan trọng. Cùng với nhân dân cả nước, lực lượng vũ trang Tây Bắc đã góp phần quan trọng vào việc đánh bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp xâm lược.

Từ sau thất bại nặng ở Việt Bắc Thu Đông năm 1947, Pháp buộc phải chuyển sang đánh lâu dài, thực hiện chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Trên địa bàn Quân khu, Pháp tìm mọi cách để mở rộng phạm vi kiểm soát, cho tới cuối năm 1947 đầu năm 1948, thực dân Pháp đã kiểm soát hầu hết các Tỉnh lỵ, thị xã, thị trấn và các trục đường giao thông quan trọng ở Tây Bắc. Từ đây chiến trường Tây Bắc lại được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và vấn đề giải phóng Tây Bắc, xây dựng căn cứ địa Tây Bắc trở thành một nhiệm vụ trọng yếu, xuyên suốt trong sự chỉ đạo và điều hành chiến tranh cũng như xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng. Ngày 20 tháng 1 năm 1948, Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân đã ra chỉ thị nêu rõ: Nhiệm vụ giải phóng đồng bào Tây Bắc và xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là nhiệm vụ căn bản của Liên khu 10.

Vừa đẩy mạnh xây dựng lực lượng, vừa ra sức xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, đồng thời kiên cường đánh bại các cuộc càn quét lấn chiếm của địch, đó là quy luật của việc xây dựng và phát triển của lực lượng vũ trang, quy luật phát triển của cuộc kháng chiến trên chiến trường Tây Bắc. Tại đây từ năm 1945, đặc biệt là từ năm 1949 đến 1954 đã liên tiếp diễn ra những trận chiến đấu, những chiến dịch lớn. Riêng năm 1949 đã diễn ra một loạt chiến dịch có tầm quan trọng và có ý nghĩa lịch sử sâu sắc: chiến dịch Sông Đà (từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 2 năm 1949), chiến dịch Lao - Hà (tháng 3 năm 1949), chiến dịch Sơn La (tháng 5 năm 1949): chiến dịch Sông Thao (từ ngày 6 tháng 5 đến cuối tháng 7 năm 1949), chiến dịch Sông Mã (tháng 11 năm 1949)... Thắng lợi của các chiến dịch này, trong đó có sự đóng góp đáng kể của lực lượng vũ trang Quân khu, đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta phát triển lên một bước mới, vững chắc. Đặc biệt từ năm 1950, chiến trường Tây Bắc lại được đặt vào vị trí chiến lược then chốt, có ý nghĩa quyết định đến vận mệnh của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Chấp hành chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng, từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 năm 1950, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Bắc quyết định mở chiến địch Lê Hồng Phong 1 với hướng chủ yếu ở Lào Cai. Mục đích của chiến dịch này là: Tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng thị xã Lào Cai, mở thông đường liên lạc quốc tế, phá tan khối ngụy binh của địch. Qua chiến dịch này, tuy địch có bị thiệt hại nặng và buộc phải phân tán lực lượng đối phó với cuộc tiến công của ta ở vùng rừng núi Tây Bắc, nhưng trên thực tế ta vẫn chưa đạt được mục tiêu chiến dịch đề ra. Sau chiến dịch cục diện ở Lào Cai chưa có sự biến đổi, ta lại phải tiếp tục cuộc chiến đấu mới. Tháng 9 năm 1950 Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên Giới (Lê Hồng Phong 2) với hướng chính là Cao - Bắc - Lạng và hướng phụ là Lào Cai. Với nhiệm vụ chủ yếu là nghi binh, kiềm chế quân ứng chiến của địch, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã phối hợp chiến đấu diệt và làm tan rã 2 tiểu đoàn địch, bức rút 63 vị

29

trí, giải phóng một vùng rộng lớn (hầu hết Tỉnh Lào Cai và một phần Tỉnh Yên Bái), nối liền Tây Bắc với Đông Bắc, phá tan ý đồ phong toả biên giới của địch. Bước sang năm 1951 các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu tiếp tục đánh giặc rộng khắp, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường và tạo nên thắng lợi trong chiến cuộc Đông Xuân 1951 -1952.

Bằng kinh nghiệm xương máu trong việc xác định hướng tiến công, từ sau chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951), Đảng ta đã xác định rõ: Hướng tiến công chính của ta Thu Đông 1952 là Tây Bắc. Từ quyết sách này mà ta đã giành được thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc (14-10 đến 10-12-1952). Thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự, chính trị, kinh tế; đồng thời đây cũng chính là thắng lợi của tinh thần chiến đấu, phục vụ chiến đấu đầy hy sinh cao cả của lực lượng vũ trang Quân khu cũng như nhân dân các dân tộc để cùng với bộ đội chủ lực Bộ làm nên chiến thắng. Cũng chính từ đây Tây Bắc đã trở thành nơi định đoạt số phận của cuộc chiến tranh Đông Dương. Trong Đông Xuân 1953 - 1954 Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chọn Tây Bắc làm hướng tiến công chiến lược chính và như vậy trên thực tế ta đã điểm đúng huyệt hiểm yếu của địch, buộc địch phải đổ quân xuống Điện Biên Phủ, chấp nhận trận quyết chiến chiến lược. Trận Điện Biên Phủ, trận đánh lịch sử, có tầm vóc thời đại đã diễn ra trên địa bàn Tây Bắc và trong trận quyết chiến chiến lược này, quân và dân ta là người chiến thắng; thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ chiến bại.

Tóm lại, trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang Quân khu đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, vừa phát triển chiến tranh du kích, vừa xây dựng căn cứ địa, hậu phương kháng chiến, vừa làm nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế đã góp phần to lớn vào việc đánh lui từng bước, đáng bại từng âm mưu, thủ đoạn, từng chiến lược, chiến thuật của thực dân Pháp xâm lược, tiến tới giành thắng lợi vang dội ở Điện Biên Phủ, đưa tới việc thất bại của thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Những thắng lợi to lớn cùng với những bài học về xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, về tổ chức chỉ huy chiến đấu và thực hành chiến đấu được rút ra trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược sẽ được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu vận dụng và phát huy trong cuộc chiến đấu mới vô cùng gian khổ và oanh liệt đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

II- GIÀNH THẮNG LỢI VẺ VANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược vừa kết thúc thì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước lại bắt đầu. Cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh đã diễn ra dai dẳng và quyết liệt hơn 20 năm, và cuối cùng nhân dân ta đã toàn thắng.

Trong thắng lợi chung ấy của cách mạng Việt Nam, lực lượng vũ trang Quân khu đã son sắt đoàn kết một lòng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, phát

30

huy truyền thống và những thành tựu đã đạt được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tranh thủ những điều kiện thuận lợi lúc không có chiến tranh, đã tích cực phấn đấu góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà; đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng Lào.

Là một Quân khu miền núi hiểm trở, đất rộng người thưa, có nhiều dân tộc ít người, có đường biên giới với Trung Quốc và Lào, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá thấp, giao thông không thuận lợi, nhưng với đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, được Trung ương và Bác Hồ thường xuyên quan tâm chỉ đạo, cùng với sự lớn mạnh của miền Bắc, các lực lượng vũ trang Quân khu từng bước đã tạo nên sự trưởng thành và lớn mạnh đáp ứng với yêu cầu chiến đấu và chi viện chiến trường cũng như làm nghĩa vụ quốc tế.

Tiếp tục quán triệt và nắm vững mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng, giữa xây dựng hậu phương với chi viện tiền tuyến, hơn 20 năm cùng quân và dân cả nước tiến hành cuộc kháng thiến chống Mỹ, cứu nước là hơn 20 năm lực lượng vũ trang Quân khu đã cùng với đồng bào các dân tộc trên địa bàn không ngừng xây dựng, củng cố căn cứ địa - hậu phương chiến lược ngày càng vững mạnh.

Nét nổi bật trong xây dựng căn cứ địa - hậu phương chiến lược trên địa bàn Quân khu là xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ và bộ đội biên phòng cũng được quan tâm xây dựng vững mạnh đáp ứng yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống gián điệp, biệt kích, thổ phỉ, chống chiến tranh phá hoại, chi viện tiền tuyến miền Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở các Tỉnh Bắc Lào.

Do đặc điểm địa lý và địa hình, vùng rừng núi Tây Bắc là địa bàn hoạt động của gián điệp, biệt kích, thổ phỉ từng kéo dài nhiều năm, nhất là những năm từ 1959 đến 1965. Những lần địch tung gián điệp, biệt kích bằng nhảy dù, đổ bộ trực thăng, hoặc xâm nhập bằng đường bộ qua biên giới, cho tới những vụ “xưng vua”, “đón chúa”, gây bạo loạn ở Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Pha Long… đều bị các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu kết hợp với đồng bào các dân tộc bắt gọn và trừng trị đích đáng, trong đó có công đầu thuộc về bộ đội, dân quân tự vệ, mạng lưới an ninh nhân dân ở biên giới và nội địa. Tiêu biểu cho phong trào bảo vệ an ninh biên giới và nội địa đó là: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Quàng Văn Liên (dân tộc Xá), Trần Văn Thọ, Nguyễn Đình Thứ và các đơn vị anh hùng: Đồn 5 Leng Xu Xìn, Đồn 15 Tây Trang, Ban công an xã Chiềng Le, xã Xín Thầu…

Trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, với thế trận chiến tranh nhân dân đất đối không rộng khắp, các lực lượng vũ trang Quân khu cùng đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã bắn rơi hơn 300 máy bay Mỹ các loại, góp phần đánh bại hoàn toàn chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc. Với thành tích bắn rơi máy bay địch cùng với những thành

31

tích khác, dân quân các xã Tú Nang, Chiềng Hặc (Sơn La), Cát Thịnh (Nghĩa Lộ)... được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Trong cuộc đối đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, chiến công của lực lượng vũ trang Quân khu không chỉ dừng lại ở con số máy bay địch bị bắn rơi. Trước hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, biến mất mát đau thương thành sức mạnh, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã cùng đồng bào các dân tộc kiên cường bám trụ, sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, vươn lên khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, động viên con em ra nhập quân đội làm tròn trách nhiệm của hậu phương đối tới tiền tuyến. Dưới sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh Quân khu, hàng trăm nghìn thanh niên các dân tộc đã lên đường tòng quân chiến đấu. Hàng trăm lá đơn viết bằng máu của thanh niên các dân tộc được gửi lên các cơ quan quân sự nói lên nguyện vọng tha thiết được lên đường tòng quân cứu nước. Trên địa bàn Quân khu, ngoài hoạt động sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi của các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu, các phong trào “Phụ lão ba giỏi”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,… được dấy lên sôi động khắp các địa phương. Lực lượng vũ trang Quân khu thực sự là nòng cốt trong việc khơi dậy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống bất khuất chống ngoại xâm được phát huy hơn lúc nào hết, làm rạng rỡ núi sông hùng vĩ, xứng đáng là vùng đất của Điện Biên Phủ oai hùng.

Được giao nhiệm vụ chiến đấu chi viện cho chiến trường các Tỉnh Bắc Lào, quán triệt tinh thần giúp bạn là tự giúp mình, cả Đông Dương là một chiến trường đánh Mỹ, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã không quản ngại hy sinh, gian khổ, trọn nghĩa trọn tình với cách mạng và nhân dân nước bạn. Các đội công tác cơ sở, các đoàn chuyên gia, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương tình nguyện, trong hàng chục năm trời chiến đấu, hoạt động không mệt mỏi, đã để lại trong lòng nhân dân và quân đội nước bạn tình nghĩa thủy chung, trong sáng, niềm tin yêu, gắn bó mật thiết như con em một nhà. Chiến thắng mà các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu tham gia sát cánh chiến đấu cùng bạn ở Nậm Bạc, Pa Thí, Tông Sơ... cùng với những chiến dịch Luông Nậm Thà, Toàn Thắng, 74B, Mường Sủi và đặc biệt là chiến dịch phản công, tiến công, phòng ngự ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã góp phần tiêu diệt, làm tan rã hàng chục nghìn tên địch, quét sạch nhiều ổ phỉ lâu đời, làm cho lực lượng đặc biệt Vàng Pao, quân đánh thuê Thái Lan, quân chủ lực phái hữu cùng cố vấn Mỹ phải lo sợ, kinh hoàng, cố dốc toàn lực ra đối phó nhưng vẫn phải thất bại. Hàng chục nghìn ki-lô-mét vuông đất đai, hàng chục vạn dân của các Tỉnh Bắc Lào được giải phóng. Chính quyền nhân dân các cấp, các cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang địa phương của bạn không ngừng được củng cố, phát triển và phát huy hiệu lực. Trong hơn 10 năm sát cánh chiến đấu cùng bạn, cùng hy sinh gian khổ, no đói có nhau, biết bao cán bộ, chiến sĩ các đơn vị tình nguyện của lực lượng vũ trang Quân khu đã ngã xuống vì sự nghiệp giải phóng của nhân dân các bộ tộc Lào, nhiều cán bộ, chiến sĩ và đơn vị đã trở thành Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Các đơn vị anh hùng như: Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 6, Trung đoàn 335; các trung đoàn 148, 174, Sư đoàn 316; các anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

32

Đèo Văn Khổ, Mùa A Páo, Triệu Xuân Tâng, Vi Văn Pụn, Cà Văn Khum, Đỗ Văn Trì, Nguyễn Văn Vinh, Trần Ngọc Phương, Hoàng Trọng Xén... mãi mãi là những tấm gương chiến đấu tiêu biểu không thể xóa mờ, là biểu tượng sáng ngời cho tình đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào.

Trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975, Sư đoàn 316, sư đoàn chủ lực, thiện chiến của Quân khu đã có mặt ở chiến trường miền Nam, chiến đấu giành chiến thắng vang dội ở Buôn Ma Thuột, trận mở màn then chốt của chiến dịch giải phóng Tây Nguyên. Tiếp đó trong đội hình các binh đoàn chiến lược, Sư đoàn 316 là một mũi tiến công của Quân đoàn 3 chiến đấu ở hướng tây bắc Sài Gòn đã chiến đấu ngoan cường dũng cảm, chặn đứng, tiến tới tiêu diệt một bộ phận quan trọng Sư đoàn 25 ngụy, không cho chúng rút chạy về Sài Gòn, tạo điều kiện cho các đơn vị bạn thực hành tổng công kích giải phóng thành phố mang tên Bác, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Với những thành tích và chiến công đã đạt được, Sư đoàn 316 được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (ngày 1 tháng 5 năm 1975).

Những thành công và thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu trong hơn 20 năm cùng cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nằm trong thành công và thắng lợi chung của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến.

Thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu là thắng lợi của ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược của lực lượng vũ trang ba thứ quân, không ngừng được chăm lo, xây dựng, trưởng thành, lớn mạnh, sẵn sàng chiến đấu cao, chiến đấu giỏi trong mọi tình huống chiến tranh, luôn xứng đáng là một đội quân “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Quán triệt quan điểm đấu tranh vũ trang và đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và quốc phòng toàn dân của Đảng, Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân khu đã cùng với các cấp ủy và chính quyền địa phương trên địa bàn không ngừng chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân ngày càng lớn mạnh, làm nòng cốt xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, đánh thắng chiến tranh phá hoại và chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam cũng như làm nghĩa vụ quốc tế trên chiến trường Bắc Lào.

Trước yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, trong bối cảnh một nửa nước có hòa bình, một nửa nước còn phải tiếp tục chiến đấu quyết liệt với kẻ thù Mỹ - ngụy cùng với âm mưu ngày càng mở rộng chiến tranh của chúng, nhiệm vụ đặt ra cho Quân khu là phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng trong mọi tình huống.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trải qua quá trình rèn luyện, thử thách lâu dài của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng vũ trang Quân khu đã có bước trưởng thành và lớn mạnh trên nhiều mặt. Vấn đề cơ bản nhất là đã xây dựng được bản chất cách mạng, phẩm chất chính trị hết sức tốt đẹp, tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên cường, biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối với

33

sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, quyết tâm chiến đấu không gì lay chuyển nổi vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế vô sản chân chính. Từng bước xây dựng, chiến đấu trưởng thành, chất lượng của lực lượng vũ trang Quân khu không ngừng được nâng cao, vững vàng về bản lĩnh chính trị, chặt chẽ về tổ chức, kỷ luật, giỏi về tác chiến, giỏi về công tác vận động quần chúng. Đó chính là cái vốn vô cùng quý giá, cái gốc dẫn đến mọi thắng lợi trong xây dựng và chiến đấu trước yêu cầu của tình hình mới cũng như sau này. Lực lượng vũ trang Quân khu đã gìn giữ, phát huy và xây dựng những phẩm chất đó thành truyền thống tốt đẹp “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng”, góp phần tô thắm thêm truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trong thời gian xây dựng hòa bình, lực lượng vũ trang Quân khu vừa tham gia khôi phục, phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa làm tốt công tác bảo vệ trị an. Quán triệt nhiệm vụ chuyển quân ra lao động sản xuất, góp phần phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, kết hợp với việc xây dựng quân đội theo hướng chính quy, hiện đại, Quân khu đã tập trung xây dựng lực lượng đủ mạnh, coi trọng đúng mức tỷ lệ và chất lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ. Các nông trường quân đội mà lực lượng vũ trang Quân khu tham gia xây dựng (Điện Biên, Vân Hùng, Tháng Mưòi...) đã phát huy tốt tác dụng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế trên địa bàn Quân khu.

Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang Quân khu đã phát huy vai trò nòng cốt trong phong trào toàn dân đánh giặc, đánh thắng không quân Mỹ, bảo vệ địa bàn và góp phần quan trọng cùng quân và dân các Tỉnh Bắc Lào đánh bại liên tiếp từng bước leo thang chiến tranh của địch, củng cố, mở rộng vùng giải phóng. Các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương được luân phiên rèn luyện trong chiến đấu trên các chiến trường. Lực lượng phòng không ba thứ quân được tăng cường về số lượng và chất lượng, tạo nên lưới lửa nhiều tầng, nhiều lớp ở khắp các hướng, cảnh giác cao, chiến đấu giỏi, đã bắn rơi nhiều máy bay địch. Đặc biệt các tổ trực chiến của dân quân các dân tộc ít người Thái, Mông, Dao... bằng súng bộ binh đã bắn rơi máy bay Mỹ. Các đơn vị bộ đội chủ lực như Sư đoàn 316, Trung đoàn 335, Trung đoàn 82, Tiểu đoàn 41, Tiểu đoàn 25 luôn luôn được kiện toàn, củng cố, đảm nhiệm được nhiệm vụ chủ yếu trong nhiều chiến dịch tiến công, phản công và phòng ngự trên mọi địa hình trong cả mùa mưa và mùa khô, lập nên những chiến công oanh liệt. Các tiểu đoàn bộ đội địa phương như Tiểu đoàn 428, Tiểu đoàn 907 của Sơn La và Lai Châu đã liên tục chiến đấu thông mùa, nhiều năm trên chiến trường các Tỉnh Bắc Lào, được quân đội, nhân dân bạn tin yêu như con em một nhà. Lực lượng dân quân tự vệ thường xuyên được quan tâm xây dựng và củng cố, luôn chiếm tỷ lệ 10% dân số; đây cũng chính là lực lượng quan trọng trong đánh máy bay bay thấp, ứng cứu giao thông, truy lùng biệt kích, thổ phỉ, xây dựng làng xã chiến đấu và là lực lượng xung kích trong mọi công tác ở cơ sở.

Trên suốt chặng đường xây dựng và chiến đấu, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu, các lực lượng vũ trang luôn nắm vững và quán triệt sâu sắc tư tưởng chiến lược tiến công, đặc điểm chiến trường và đối tượng tác chiến để có cách đánh phù hợp, sáng tạo đạt hiệu suất chiến đấu cao. Chính nhờ

34

vận dụng đúng đắn đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, các lực lượng vũ trang Quân khu đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Đó là đường lối toàn dân đánh máy bay Mỹ, toàn dân làm công tác phòng tránh, toàn dân làm công tác bảo đảm giao thông vận tải, kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu với sản xuất, giữa đánh địch với phòng tránh, thực hiện chuyển hướng kinh tế, nhằm phục vụ quốc phòng, bảo đảm đời sống nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với vũ khí, trang bị còn thô sơ, hạn chế, lại phải đương đầu với một đối tượng địch mạnh và hiện đại vào bậc nhất thế giối, nhưng các lực lượng vũ trang Quân khu đã cùng nhân dân các dân tộc trên địa bàn nắm vững tư tưởng tiến công, dám đánh và biết đánh, càng đánh càng sáng tạo, nên đã đánh thắng cả máy máy phản lực siêu âm của Mỹ. Các trận địa trực chiến phòng không với lối đánh phục kích, đón lõng, lúc tập trung, khi phân tán, cơ động lực lượng đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân, của các loại hỏa lực, tiêu diệt nhiều máy bay địch. Thực hiện tay cày tay súng, tay búa tay súng, địch đến thì đánh, địch đi lại sản xuất, kết hợp với lưới lửa nhiều tầng, nhiều lớp, trên tất cả các hướng của lực lượng phòng không ba thứ quân, tạo nên sức mạnh của chiến tranh nhân dân ba thứ quân.

Trong cuộc chiến đấu trên chiến trường các Tỉnh Bắc Lào, trước đối tượng tác chiến thường bỏ chạy khi bị ta đánh mạnh, hơn nữa lại là địa hình rừng núi hiểm trở, do vậy mà ta khó thực hiện được mục tiêu tiêu diệt gọn từng đơn vị địch. Nắm được quy luật của chúng, các đơn vị bộ đội tình nguyện của Quân khu đã thực hiện cách đánh bao vây, đón lõng nhiều tầng, nhiều hướng, hình thành thế bao vây chiến thuật và chiến dịch, tổ chức đột phá mạnh vào cơ quan chỉ huy đầu não với lực lượng thích hợp, sau đó dồn quân địch vào điểm quyết chiến để tiêu diệt. Khi đánh quân địch phản công và tiến công, các đơn vị của ta đã vận dụng chiến thuật chốt kết hợp vận động tiến công diệt nhiều sinh lực địch. Lần đầu tiên tổ chức chiến dịch phòng ngự, các đơn vị tình nguyện của Quân khu vừa triển khai lực lượng phòng ngự trận địa kết hợp chặt chẽ giữa công sự, vật chướng ngại và hoả lực đánh quân địch từ xa đến gần, kết hợp chốt giữ với vận động xuất kích nhỏ; vừa có lực lượng phòng ngự cơ động mạnh nắm và tạo thời cơ đánh những trận vận động lớn tiêu diệt và đánh thiệt hại từng mũi tiến công của địch. Luồn sâu đánh hiểm, tác chiến kết hợp với địch vận cũng được vận dụng phổ biến vào những thời điểm và điều kiện thích hợp. Nhờ vận dụng sáng tạo những cách đánh trên mà trong các chiến dịch phản công, tiến công, phòng ngự ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, trình độ đánh tiêu diệt đến cấp tiểu đoàn, trung đoàn địch, bằng hiệp đồng binh chủng của các đơn vị tình nguyện Quân khu đã được khẳng định. Lực lượng vũ trang Quân khu không những giỏi trong tác chiến ở địa hình rừng núi mà còn tác chiến giỏi trong đánh địch ở thành phố và đồng bằng trong những chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Trong khi thực hiện nhiệm vụ xây dựng căn cứ địa - hậu phương Tây Bắc ngày càng vững mạnh theo sự chỉ đạo của trên, một vấn đề luôn được quan tâm đó là xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang. Từ nhận thức hậu phương là một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh, vì hậu phương là nguồn cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến; hậu phương không vững mạnh thì

35

tiền tuyến không thể đánh thắng được; một thành công trong việc chỉ đạo xây dựng hậu phương ở Tây Bắc là trong khi xây dựng phát triển tiềm lực kinh tế, luôn luôn gắn chặt với củng cố quốc phòng, kết hợp yêu cầu thời bình với yêu cầu thời chiến, yêu cầu trước mắt với yêu cầu lâu dài. Một nền quốc phòng mạnh phải dựa trên một nền kinh tế được xây dựng và phát triển vững chắc. Mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và khi có chiến tranh thì nhanh chóng chuyển nền kinh tế thời bình sang thời chiến. Chính nhờ có những nhận thức và chỉ đạo này mà vấn đề quân sự - quốc phòng luôn được quan tâm đầu tư đúng mức, các lực lượng vũ trang, nòng cốt của thế trận chiến tranh nhân dân được chăm lo, phát triển. Trên thực tế cho thấy nhờ làm tốt điều ấy mà các lực lượng vũ trang Quân khu đã đi đầu trong cuộc chiến đấu đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống gián điệp, biệt kích, thổ phỉ và dẹp yên những vụ bạo loạn, hậu phương đã được bảo vệ ngày càng phát triển, hoàn thành vẻ vang vai trò của mình trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

Tiếp tục, không ngừng kế thừa và phát huy những thành tựu thu được trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), chặng đường hơn 20 năm xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu là chặng đường nối tiếp của sự phát triển từ tác chiến du kích, phân tán nhỏ lẻ tiến lên tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn với thế trận vững chắc và cách đánh thích hợp. Được Đảng và Bác Hồ trực tiếp chăm lo, giáo dục, được nhân dân đùm bọc nuôi dưỡng, lực lượng vũ trang Quân khu đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ quân sự, chính trị mà Đảng và nhân dân giao cho. Quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của lực lượng vũ trang ba thứ quân trên địa bàn Quân khu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã để lại nhiều kinh nghiệm quý cho giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn chiến lược quan trọng này.

III- VỮNG BƯỚC TIẾN LÊN TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BÀO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Với đại thắng mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã giành toàn thắng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất Tổ quốc. Cùng với đồng bào, chiến sĩ cả nước, lực lượng vũ trang Quân khu bước sang một thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có nhiều thời cơ và thuận lợi, nhưng cũng không ít những thách thức và khó khăn mới. Nhiệm vụ đặt ra lúc này là giải quyết và khắc phục những hậu quả và những vấn đề mà cuộc chiến tranh đã gây ra một cách tàn khốc trong mấy chục năm trời. Cùng lúc đó phải nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu nhằm đập tan những âm mưu cùng những hành động chống phá mới của các thế lực thù địch, phản cách mạng; cùng quân và dân cả nước tích cực thực hiện việc hàn gắn, khôi phục và phát triển nền kinh tế với mục tiêu cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Dưói sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốíc phòng, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã kiên

36

định, vững vàng, phát huy bản chất, truyền thống quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng, giữ vững lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với đường lối đổi mới của Đảng, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chủ động, sáng tạo, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Quân đội giao cho trong tình hình mới.

Quân và dân ta đã giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tổ quốc hòa bình, thống nhất. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Quân khu Tây Bắc và Quân khu Việt Bắc hợp nhất lại thành Quân khu 1 (theo Sắc lệnh số 45/LCT ngày 15 tháng 5 năm 1976 của Chủ tịch nước). Lúc này, trong thế bố trí chiến lược của cả nước, Quân khu 1 có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, trấn giữ phần lớn diện tích phía bắc Bắc Bộ, trong đó có hai vùng chiến lược liên hoàn là Tây Bắc và Đông Bắc rộng lớn, trùng điệp. Nhiệm vụ được giao lúc này là: Tiếp tục duy trì sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc biên giới và an ninh, trật tự nội địa; xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, rộng khắp. Tham gia xây dựng kinh tế, gắn kinh tế với quốc phòng, làm tròn nhiệm vụ quốc tế với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Để thực hiện được nhiệm vụ đó, công việc đầu tiên là nhanh chóng thực hiện ổn định, tổ chức biên chế theo sắc lệnh của Chủ tịch nước và những quy định của Bộ Quốc phòng. Ngay sau khi có sắc lệnh của Chủ tịch nước về việc hợp nhất hai Quân khu, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng đã ra quyết định thành lập Đảng bộ Quân khu 1. Từ đây Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu đã chủ động triển khai hàng loạt công việc từ tổ chức biên chế, bố trí đội hình đứng chân của các đơn vị, đến quán triệt nhiệm vụ quyết tâm của lực lượng vũ trang Quân khu trong bối cảnh và tình hình mới. Thực hiện điều đó, bên cạnh việc chỉ đạo, điều hành giao nhiệm vụ cho khối chủ lực cơ động, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu đã dành sự quan tâm tích cực tới việc củng cố các cơ sở, xây dựng dân quân tự vệ, triển khai việc nắm bắt và nghiên cứu tình hình ở biên giới với mục đích củng cố toàn diện các cơ sở dân quân tự vệ ở biên giới, để nhằm phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng này trong lao động sản xuất và bảo vệ biên giới. Đồng thời qua khảo sát, nghiên cứu, nắm tình hình xây dựng kế hoạch bảo vệ biên giới về lâu dài. Đến hết quý II năm 1977, toàn bộ cơ sở dân quân tự vệ các xã biên giới và các xã vùng xung yếu đều đã được củng cố và đi vào hoạt động có nền nếp hơn trước. Tỷ lệ dân quân tự vệ trong Quân khu lúc này là 11%, riêng các xã vùng biên giới là 12%.

Một nhiệm vụ nữa mà lực lượng vũ trang Quân khu đã thực hiện tốt trong thời gian này là vấn đề khắc phục và giải quyết các hậu quả của chiến tranh, lực lượng công binh ba thứ quân đã phối hợp tốt trong việc phát hiện rà phá bom mìn - vật liệu nổ, đây là một nhiệm vụ không kém phần gay go, quyết liệt, trên thực tế có cả đổ máu, hy sinh nhằm giải phóng đất đai bảo đảm phục vụ an toàn cho các công trình xây dựng, các tuyến giao thông và cho nhân dân ổn định sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế. Chính những việc làm này đã góp phần rất tích cực vào việc thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) của các địa phương trên địa bàn Quân khu.

37

Đồng thời ngay sau khi chuyển qua thời bình, Quân khu đã phối hợp với các địa phương giải quyết một khối lượng công việc rất lớn như mất tin, mất tích, quy tập mộ liệt sĩ, thu dung và điều dưỡng thương bệnh binh từ khắp các chiến trường trở về.

Có thể nói từ sau ngày đất nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất đến năm 1978, nằm trong đội hình, thế bố trí chiến lược quốc gia trên phạm vi Quân khu 1, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cùng đồng bào các dân tộc ở hướng Tây Bắc (Quân khu Tây Bắc cũ) cùng với đồng bào, chiến sĩ trong Quân khu cũng như cả nước đã không ngừng phát huy thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; bước vào thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với quyết tâm cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xây dựng quê hương Tây Bắc, Việt Bắc ngày càng vững mạnh cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng, an ninh. Thực hiện nhiệm vụ quốc phòng gắn với kinh tế và kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh, các lực lượng vũ trang Quân khu đã hình thành hai khối, một khối thường trực sẵn sàng chiến đấu, một khối tham gia xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn.

Khi tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, dự đoán trước khả năng phát triển của tình hình, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định chia tách Quân khu 1 thành hai Quân khu là: Quân khu 1 và Quân khu 2 nhằm mục đích tạo nên thế trận quốc phòng mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là khi mà các thế lực hiếu chiến, phản động ngày càng lộ rõ âm mưu và hoạt động chống phá cách mạng nước ta một cách quyết liệt.

Theo quyết định của Nhà nước, địa bàn Quân khu 2 lúc này gồm các Tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Sơn La (cơ bản là Quân khu Tây Bắc trước đây). Như vậy, Quân khu 2 vẫn giữ nguyên vị trí chiến lược quan trọng trong thế bố trí chiến lược liên hoàn của cả nước. Thiếu tướng Vũ Lập được bổ nhiệm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 2.

Chia tách ra chưa được bao lâu, lực lượng vũ trang Quân khu lại phải đương đầu với một cuộc chiến tranh không kém phần quyết liệt và đầy hy sinh gian khổ, kéo dài tới 10 năm trên tuyến biên giới phía Bắc mà Quân khu đảm nhiệm.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Đảng ủy Quân sự Trung ương và sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng. Các đơn vị lực lượng vũ trang ba thứ quân, cùng với đồng bào các dân tộc trên địa bàn Quân khu, đặc biệt là ở các tỉnh biên giới phía Bắc, đã kiên cường nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm bảo vệ biên giới và lãnh thổ quốc gia, đánh trả ngay từ những ngày đầu đối phương xâm nhập vào lãnh thổ Tổ quốc. Bằng lòng kiên trì cùng tinh thần dũng cảm trong chiến đấu, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ và giữ vững chủ quyền, lãnh thổ, biên giới quốc gia (diễn biến đã trình bày ở Chương III).

Khi cuộc chiến tranh biên giới kết thúc thắng lợi, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, lực lượng vũ trang Quân khu có sự điều chỉnh quan trọng, theo

38

hướng tinh giảm lực lượng thường trực, tăng cường lực lượng dự bị động viên. Thực hiện chủ trương đó, từng bước Thường vụ, Bộ tư lệnh Quân khu chỉ đạo các địa phương, đơn vị quán triệt chủ trương, yêu cầu nhiệm vụ mà Bộ Quốc phòng đề ra cho toàn quân nói chung và lực lượng vũ trang Quân khu nói riêng, xây dựng phương án kế hoạch điều chỉnh lực lượng bảo đảm yêu cầu tinh gọn, sẵn sàng chiến đấu cao. Khối chủ lực cơ động của Quân khu theo đó được thu gọn nhưng khả năng và sức mạnh chiến đấu phải không ngừng được nâng cao. Thực hiện chủ trương lớn cùa Đảng và Nhà nước, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng nhằm không ngừng củng cố và giữ vững địa bàn chiến lược Tây Bắc, tạo sự ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, trên địa bàn Quân khu các đoàn kinh tế - quốc phòng lần lượt ra đời, đứng chân ở những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc, ở đó trình độ phát triển mọi mặt còn hạn chế, nơi mà các thế lực thù địch, phản động dễ lợi dụng để tập hợp lực lượng nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Trên thực tế, dưới sự lãnh đạo của Thường vụ Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu, sự phối hợp tạo điều kiện giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, sự ủng hộ của đồng bào các dân tộc, các đoàn kinh tế - quốc phòng đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Bộ Quốc phòng và Quân khu giao cho, được nhân dân các dân tộc tin yêu, cấp ủy và chính quyền địa phương đánh giá cao vai trò, vị trí cũng như những đóng góp to lớn mà cán bộ, chiến sĩ các đoàn kinh tế - quốc phòng đã làm được. Nhiều vấn đề phức tạp như tôn giáo, dân tộc, di dịch cư tự do... dần dần được giải quyết, ánh sáng các nghị quyết của Đảng, những chủ trương, chính sách của Nhà nước đã đến được với đồng bào; những luận điệu xuyên tạc, những hành động phá hoại, thù địch của các thế lực phản động bị vạch trần và đập tan. Thế trận quốc phòng an ninh không ngừng được củng cố ngày càng vững chắc, đặc biệt là ở những vùng xung yếu, tạo môi trường ổn định cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Các cuộc diễn tập trong khu vực phòng thủ tỉnh, diễn tập cấp sư đoàn được Bộ tư lệnh Quân khu chỉ đạo thường xuyên theo kế hoạch. Thông qua diễn tập nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng an ninh của lãnh đạo, chỉ huy các cấp cũng như nhân dân các dân tộc trên địa bàn được nâng cao; việc vận hành cơ chế cũng như năng lực điều hành, chỉ huy tác chiến của lãnh đạo, chỉ huy các cấp từ chủ lực tới địa phương được thành thạo; sức cơ động và khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang ba thứ quân được tăng cường... Và cũng chính từ đó mà thế trận quốc phòng, thế trận chiến tranh nhân dân tiếp tục được củng cố, phát triển và ngày càng hoàn thiện, có khả năng đạt tới những đỉnh cao mới nếu như có chiến tranh xảy ra.

Hòa cùng với nhịp độ khẩn trương trong không khí đổi mới xây dựng và phát triển đất nước, ngoài nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, lực lượng vũ trang Quân khu còn làm tốt chức năng “một đội quân công tác”. Hàng trăm tổ, đội công tác xây dựng cơ sở với hàng nghìn lượt cán bộ sĩ quan tham gia đã có mặt ở những địa bàn trọng điểm, phức tạp, những vùng đặc biệt khó khăn để cùng với cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân các dân tộc cùng nhau chung sức, chung lòng xây dựng và phát triển quê hương, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn

39

và đập tan những hành động chống đối của các thế lực phản động. Rất nhiều cuộc hành quân dã ngoại kết hợp với làm công tác dân vận, nhiều công trình đền ơn đáp nghĩa, và rất nhiều những hoạt động giao lưu kết nghĩa thấm đẫm tình quân dân cả nước đã được các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu tổ chức thực hiện. Những trận bão lũ, những trận sạt lở đất diễn ra trên địa bàn, lực lượng vũ trang Quân khu đều kịp thời có mặt, coi đó là cuộc chiến đấu với thiên tai để bảo vệ tính mạng, tài sản cho nhân dân. Thông qua những hoạt động trên, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thêm một lần nữa được khắc sâu trong tâm trí và trái tim đồng bào; chính điều ấy lại làm tăng thêm nguồn sống và sức mạnh chiến đấu cho các lực lượng vũ trang Quân khu.

IV - THẮNG LỢI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆMBảy mươi năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành (1946 - 2016) là bảy

mươi năm lực lượng vũ trang Quân khu 2, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác tiến bước dưới ngọn cờ của Đảng, trong sự thương yêu, đùm bọc của nhân dân, sự giúp đỡ của cấp ủy, chính quyển địa phương, cùng các đơn vị bạn, sự sẻ chia của tinh thần quốc tế cao cả (đặc biệt là quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào). Những thành tựu và thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu nằm trong thành tựu và thắng lợi chung của quân và dân cả nước.

Thắng lợi đó trước hết thuộc về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến. Với đường lối chính trị và quân sự đúng đắn, với sự lãnh đạo sắc sảo, nhạy bén của Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, lực lượng vũ trang Quân khu 2 đã từng bước vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ; bền gan chiến đấu, liên tiếp giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm tròn nhiệm vụ đối với dân tộc và hoàn thành vẻ vang nghĩa vụ quốc tế.

Thắng lợi đó thuộc về nhân dân các dân tộc trên địa bàn Quân khu không phân biệt dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng, già trẻ, gái trai đã một lòng tin yêu, che chở, giúp đỡ các lực lượng vũ trang tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, vừa sản xuất vừa chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Thắng lợi đó còn là thắng lợi của ý chí quyết tâm chiến thắng của lực lượng vũ trang ba thứ quân không ngừng được chăm lo, xây dựng, trưởng thành, lớn mạnh, luôn xứng đáng là một đội quân “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Thắng lợi mà lực lượng vũ trang Quân khu có được trong 70 năm qua, là thắng lợi tổng hợp của nhiều yếu tố tạo nên trong quá trình ra đời và phát triển của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, được thể hiện trên địa bàn chiến lược Tây Bắc. Do đó, sự ra đời và phát triển của lực lượng vũ trang Quân khu vừa nằm trong quy luật chung, lại vừa có những nét riêng đặc sắc của vùng Tây Bắc. Chặng đường lịch sử 70 năm xây dựng, trưởng thành của lực lượng vũ trang Quân khu đã để lại nhiều kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công, từ đó có thể rút ra những vấn đề có giá trị chỉ đạo sâu sắc, sau đây:

40

1. Quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiến hành chiến tranh nhân dân và xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Quân khu, đề ra những chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp với từng thời điểm, từng giai đoạn, từng vùng, miền, gắn với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và quân đội giao phó, nhằm xây dựng lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và các thế lực phản động, tay sai.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng trải qua 70 năm rèn luyện, thử thách trong các cuộc kháng chiến, lực lượng vũ trang Quân khu đã từng bước trưởng thành lớn mạnh toàn diện và vun đắp nên những truyền thống vẻ vang của mình.

Vấn đề cơ bản nhất là đã xây dựng cho lực lượng vũ trang mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ có bản chất cách mạng, phẩm chất chính trị tốt đẹp, tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, biểu hiện lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc, quyết tâm chiến đấu không gì lay chuyển nổi vì độc lập, tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội và tinh thần quốc tế vô sản chân chính. Từng bước xây dựng, chiến đấu, từng bước trưởng thành, chất lượng lực lượng vũ trang Quân khu không ngừng được nâng cao, vững vàng về bản lĩnh chính trị, chặt chẽ về tổ chức, kỷ luật, giỏi về tác chiến, giỏi về công tác vận động quần chúng, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc ít người. Đó là cái vốn vô cùng quý giá, là cái gốc dẫn đến mọi thắng lợi trong xây dựng và chiến đấu trước yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới cũng như lâu dài về sau này. Lực lượng vũ trang Quân khu đã gìn giữ và phát huy, xây dựng những phẩm chất đó và tôi luyện, thử thách qua chiến đấu và công tác đúc kết nên những truyền thống tốt đẹp, góp phần tô thắm thêm truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Trên một chiến trường rất khó khăn về nhiều mặt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chăm lo của chính quyền các cấp và sự đùm bọc của nhân dân, lực lượng vũ trang Quân khu đã không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng. Từ những đơn vị vũ trang nhỏ lẻ được hình thành trong thời kỳ tiền khỏi nghĩa, dần dần phát triển thành các chi đội giải phóng quân, các trung đoàn vệ quốc đoàn. Trước yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều đơn vị chủ lực ưu tú của Quân khu đã được điều động đi tham gia xây dựng các đại đoàn, các binh chủng chủ lực của Bộ, góp phần tạo nên những quả đấm thép của Quân đội nhân dân Việt Nam (Tiểu đoàn pháo binh 410, Trung đoàn 165, Trung đoàn 209, Sư đoàn 316...).

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chủ lực của Quân khu phát triển tới cấp sư đoàn, cùng nhiều trung đoàn bộ binh, pháo binh, phòng không, đơn vị huấn luyện quân tăng cường được điều động đi chiến đấu trên khắp các chiến trường.

Đến thời kỳ chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, lực lượng vũ trang Quân khu phát triển tới cấp quân đoàn, có tới hàng chục sư đoàn cùng nhiều trung, lữ đoàn và các đơn vị trực thuộc, với quân số lên tới hàng chục vạn. Đây là thời kỳ

41

lực lượng vũ trang Quân khu phát triển tới đỉnh cao về số lượng.Từ chỗ vũ khí trang bị còn thô sơ, đơn giản, bước vào cuộc kháng chiến,

thực hiện chủ trương “cướp súng giặc giết giặc”, kết hợp với tự sản xuất, mua sắm và được sự chi viện của các nước anh em, trang bị của lực lượng vũ trang Quân khu ngày càng được cải thiện, nâng cao đáp ứng với yêu cầu chiến đấu và giành chiến thắng với mọi kẻ thừ xâm lược.

Nắm vững chức năng vừa là đội quân đánh giặc giỏi, vừa là đội quân công tác, sản xuất giỏi, qua từng giai đoạn, từng thời kỳ, lực lượng vũ trang Quân khu đã dành nhiều tâm sức, thời gian, xây dựng địa bàn, cùng với cán bộ dân, chính, Đảng len lỏi tới từng bản làng tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, xây dựng các cơ sở chính trị, truy lùng biệt kích; tuyên truyền, giáo dục, vận động, trừ tiễu phỉ. Bộ đội tới đâu, ở đó những tập tục xấu, mê tín dị đoan được từng bước đẩy lùi, nếp sống mới đến với từng thôn bản, thanh niên nam, nữ, các cháu thiếu niên nhi đồng được học chữ, học hát những bài ca cách mạng, tạo nên gương mặt mới cho vùng nông thôn, miền núi Tây Bắc.

Cũng từ đặc điểm chiến trường và đối tượng tác chiến mà lực lượng vũ trang Quân khu luôn nắm chắc tư tưởng chiến lược tiến công, tìm cách đánh phù hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam vào thực tế chiến trường trung du, miền núi xa hậu phương, từng bước xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng hoàn chỉnh. Đó là thế trận xen kẽ, đan cài với địch ở vùng sau lưng địch; phối hợp chiến đấu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm; vây hãm, tiến công quân địch bằng một mạng lưới căn cứ du kích, khu du kích liên hoàn từ trung du lên miền núi; hệ thống các hành lang chiến lược bao vây, chia cắt quân địch giữa trung du và miền núi; giữa phạm vi các tỉnh và các vùng trong một tỉnh. Chính nhờ thế mà phát huy được sức mạnh tổng hợp của chiến trường, thực hành tiến công quân địch trên cả ba vùng là rừng núi, trung du và thành thị; đánh địch bằng quân sự, chính trị, binh vận, kết hợp chặt chẽ ba thứ quân bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, phát triển chiến tranh du kích vùng sau lưng địch, từng bước nâng dần từ du kích chiến sang vận động chiến, tác chiến hiệp đồng binh chủng; xây dựng cơ sở chính trị vững chắc trong nhân dân để chống phỉ, kết hợp đánh lớn, đánh vừa và đánh nhỏ, vừa đánh địch trong công sự vững chắc, vừa kéo địch ra khỏi công sự để tiêu diệt.

Vậy là, sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, chặng đường 70 năm xây dựng và chiến đấu của lực lượng vũ trang Quân khu là chặng đường phát triển từ tác chiến du kích, phân tán nhỏ lẻ, tiến lên tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng với thế trận vững chắc và cách đánh thích hợp, ngày càng sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho. Bài học về xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân trên địa bàn Quân khu trong 70 năm qua là tài sản quý giá cho sự nghiệp tiếp tục phát triển lực lượng vũ trang trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

2. Thấu triệt đường lối chiến tranh nhân dân và chủ trương đại đoàn kết dân

42

tộc của Đảng, nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong mọi thời điểm cách mạng. Do vậy, ngoài việc chăm lo phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc; lãnh đạo và chỉ huy lực lượng vũ trang qua các thời kỳ đều hết sức coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt tới công tác tuyên truyền giáo dục, vận động và tổ chức quần chúng, đặc biệt là chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, đoàn kết quân dân, qua đó mà phát động thành công cuộc chiến tranh nhân dân tạo nên sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù.

Sức mạnh từ nhân dân bao giờ cũng là điểm tựa vững chắc để lực lượng vũ trang chiến đấu và chiến thắng. Trên địa bàn Quân khu, nhân dân các dân tộc vừa là lực lượng cụ thể, trực tiếp trong từng công việc, từng trận đánh, vừa là lực lượng chiến lược của chiến tranh nhân dân, trong suốt chặng đường phát triển của cách mạng hôm qua và mai sau. Bài học dựa chắc vào dân, tin dân, không ngừng chăm lo tình đoàn kết quân dân như cá với nước chẳng những có giá trị và đã phát huy hiệu quả to lớn trong 70 năm qua mà vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang Quân khu hôm nay và mai sau.

3. Phải gắn chặt việc chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang với việc xây dựng hậu phương, căn cứ địa. Hậu phương, căn cứ địa có vững thì lực lượng vũ trang mới có chỗ đứng chân, có điểm tựa vững chắc để chiến đấu và chiến thắng; đồng thời lực lượng vũ trang lớn mạnh sẽ là lực lượng nòng cốt để bảo vệ hậu phương, căn cứ địa. Bảy mươi năm qua, triệt để tận dụng ưu thế “thiên thời, địa lợi” trên địa bàn, lãnh đạo, chỉ huy lực lượng vũ trang Quân khu đã thường xuyên tập trung chăm lo xây dựng, củng cố căn cứ địa hậu phương vững mạnh toàn diện, coi đây là nhiệm vụ chiến lược tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù.

Trên địa bàn Quân khu, từ tháng 2 năm 1943, Trung ương Đảng đã chọn Sơn Dương (Tuyên Quang) là trung tâm đầu não của căn cứ địa cách mạng trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám. Tiếp sau này là các căn cứ Vần - Hiền Lương, Lập Thạch, Tam Dương, Vạn Thắng, Phục Cổ... lần lượt được xây dựng. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân và dân Tây Bắc vừa chiến đấu, vừa xây dựng hậu phương. Trên thực tế việc xây dựng căn cứ địa Tây Bắc là một quá trình lâu dài, gian khổ và vô cùng ác liệt.

Việc đưa các đại đội độc lập, vũ trang tuyên truyền luồn sâu vào hậu địch, gây dựng cơ sở chính trị, phát động chiến tranh du kích, chuẩn bị chiến trường cho các chiến dịch lớn đạt hiệu quả là một trong những thành công điển hình của sự nghiệp xây dựng căn cứ địa Tây Bắc mà lực lượng vũ trang Quân khu đã góp phần làm tốt.

Huyện Lục Yên (Yên Bái) là nơi đứng chân của các tổ chức và lực lượng cách mạng Lào Cai trong những ngày đầu kháng chiến. “Khu tranh đấu” Cam Đường - Phong Niên - Xuân Quang trở thành vùng tự do đầu tiên của nhân dân Lào Cai. Khu du kích Cao Phạ, Đá Xô đã góp phần vào thắng lợi của chiến dịch giải phóng Nghĩa Lộ. Vùng tự do Mường Kim, Than Uyên là hậu cứ đầu tiên của Ban cán sự Đảng Tỉnh Lai Châu; chính từ đây theo bước tiến của đội xung phong Quyết Tiến và các đại đội độc lập thuộc Trung đoàn 115, mà Ban cán sự Đảng Lai Châu đã tiến vào gây dựng cở sở ở Lai Châu. Tây nam Phú Thọ là nơi đứng chân

43

của Trung đoàn 148 và các cơ quan kháng chiến của tỉnh Sơn La khi mà toàn bộ tỉnh này bị quân Pháp chiếm đóng. Sự ra đời của khu du kích ở vùng tự do Mộc Hạ, Phù Yên, Vùng Mèo 99... đã góp phần tích cực vào việc phục hồi và phát triển chiến tranh du kích ở tỉnh Sơn La. Căn cứ địa Lào Bắc trở thành hậu phương tin cậy của cách mạng Lào.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Tây Bắc là một bộ phận quan trọng nằm trong hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, là một căn cứ hậu phương chiến lược của cả nước, đồng thời là hậu phương trực tiếp của các tỉnh Bắc Lào, trong nghĩa vụ quốc tế đối với bạn.

Thời kỳ này, một thành công trong chỉ đạo xây dựng hậu phương ở Tây Bắc là trong khi xây dựng, phát triển kinh tế luôn luôn gắn chặt với củng cố quốc phòng, kết hợp yêu cầu thời bình với yêu cầu thời chiến, yêu cầu trước mắt với yêu cầu lâu dài. Nhờ sự chỉ đạo kết hợp chặt chẽ này mà qua hai lần chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đời sống nhân dân vẫn ổn định, sản xuất được đẩy mạnh và phát triển, các lực lượng vũ trang Quân khu và nhân dân các dân tộc vừa sản xuất vừa chiến đấu đánh thắng kẻ thù.

4. Sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định tới sự lớn mạnh, trưởng thành cũng như những thành tích và chiến công mà lực lượng vũ trang Quân khu giành được trong 70 năm qua.

Xác định rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm lớn lao của mình, các cấp bộ Đảng trên địa bàn Quân khu, từ Đảng ủy Quân khu, Đảng ủy các đơn vị, các tỉnh ủy đã không ngừng củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang một cách trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt. Nhờ đó mà lực lượng vũ trang luôn luôn vững mạnh cả về tư tưởng, tổ chức, kiên định với đường lối, mục tiêu cách mạng của Đảng, phát huy tốt nghệ thuật quân sự Việt Nam trên chiến trường Tây Bắc, liên tiếp giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Trong quá trình chỉ đạo và điều hành chiến tranh cũng như xây dựng lực lượng vũ trang, dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, các cấp bộ Đảng trong lực lượng vũ trang Quân khu đã quán triệt sâu sắc và nỗ lực thực hiện đường lối của Đảng, làm cho đường lối của Đảng biến thành sức mạnh hiện thực để chiến thắng kẻ thù. Những thành công và thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu trong 70 năm qua là thắng lợi của sự lãnh đạo của Đảng bộ trong việc giáo dục, giác ngộ quần chúng. Sức mạnh lãnh đạo của Đảng chính là sức mạnh của quần chúng được tập hợp, được tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ theo đường lối chính sách của Đảng, vận dụng sát với tình hình, đặc điểm và tính chất của địa bàn. Chiến trường Tây Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đứng trước biết bao khó khăn, thử thách, lực lượng vũ trang ta lúc ấy còn non trẻ, trang bị hạn chế, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, thêm vào đó địa hình lại phức tạp, thời tiết khắc nghiệt, ta phải đương đầu với một lực lượng mạnh của địch. Do sớm nhận thấy vị trí chiến lược vô cùng quan trọng của Tây Bắc, Đảng ta ngay từ đầu đã dành sự quan tâm đặc biệt và chỉ đạo sát sao, toàn diện, kịp thời đối với vùng đất chiến lược này. Trong nhiều vấn đề chỉ đạo

44

của Đảng, vấn đề tổ chức, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ở Tây Bắc luôn được đặt ở vị trí quan trọng. Ngoài việc xây dựng lực lượng tại chỗ, Trung ương đã điều động lên Tây Bắc nhiều đơn vị để rồi sau đó xây dựng thành những đơn vị chủ công trên chiến trường này. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lực lượng vũ trang Quân khu luôn nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng ủy Quân sự Trung ương. Chính nhờ vậy trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, đặc biệt là những thời điểm khó khăn, ác liệt của chiến tranh lực lượng vũ trang Quân khu vẫn bền gan chiến đấu, vững tin vào thắng lợi, vượt qua hy sinh gian khổ quyết chiến, quyết thắng. Bài học về lòng trung thành tuyệt đối và chấp hành nghiêm sự lãnh đạo của Đảng, chính là bài học để đưa tới mọi thắng lợi của lực lượng vũ trang Quân khu trong 70 năm qua, cũng như cho cả hôm nay và mai sau.

5. Trong quá trình xây đựng lực lượng vũ trang, phải quán triệt sâu sắc tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”. Trên tinh thần ấy lực lượng vũ trang Quân khu, trong suốt chặng đường lịch sử ra đời và phát triển của mình lúc nào cũng luôn tích cực, chung sức, chung lòng với Quân đội giải phóng nhân dân Lào, giải phóng quân Trung Quốc để chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cùng các thế lực phản động khác.

Trong các chiến dịch tiễu phỉ và diệt trừ phản động Quốc dân Đảng ở tuyến biên giới Việt - Trung, lực lượng vũ trang Quân khu đã phối hợp với quân giải phóng Trung Quốc chiến đấu kiên cường, giành thắng lợi vẻ vang, giải phóng, khai thông biên giới tạo nên sự ổn định, tạo điều kiện cho sự phát triển của cách mạng mỗi nước.

Đối với cách mạng Lào, từ năm 1948 Đội xung phong Lào Bắc đã mở đường từ Sơn La, Lai Châu sang gây dựng căn cứ địa ở vùng Thượng Lào. Tiếp đó Trường Lào Bắc đã ra đời góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ, tăng cường cho cách mạng Lào; rồi hoạt động của Trung đoàn 148 và các đơn vị khác bên cạnh lực lượng vũ trang yêu nước Lào đã củng cố thêm một bước tình đoàn kết chiến đấu của quân đội và nhân dân hai nước.

Chiến dịch Thượng Lào (3-1953), Nậm Hu (1-1954) là biểu tượng cao đẹp cho tình đoàn kết sắt son, chẳng những đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng đất đai, mở rộng khu căn cứ kháng chiến cho cách mạng Lào, mà còn góp phần tạo nên chiến thắng của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được giao nhiêm vụ chiến đấu, chi viên cho các Tỉnh Bắc Lào, các đơn vị lực lượng vũ trang Quân khu đã không ngại hy sinh gian khổ, trọn nghĩa vẹn tình với cách mạng và nhân dân nước bạn. Các đội công tác cơ sở, các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương của Quân khu, trong hàng chục năm trời chiến đấu, hoạt động trên chiến trường Lào, đã để lại trong lòng nhân dân các bộ tộc Lào cũng như quân đội bạn bao tình nghĩa thủy chung trong sáng, niềm tin yêu, gắn bó mật thiết như con em một nhà. Chiến thắng Nậm Bạc, Pa Thí, Luông Pha-băng, Tông Sơ... cùng với các chiến dịch Nậm

45

Thà, Toàn Thắng, 74B, Mường Sủi, đặc biệt là chiến dịch phản công, tiến công, phòng ngự ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã góp phần tiêu diệt, làm tan rã hàng chục nghìn tên địch, quét sạch nhiều ổ phỉ lâu đời, làm cho lực lượng đặc biệt Vàng Pao, quân đánh thuê Thái Lan, quân chủ lực phái hữu cùng cố vấn Mỹ lo sợ, hoảng hốt dốc toàn lực ra đối phó nhưng thất bại vẫn hoàn thất bại. Hàng chục nghìn ki-lô-mét vuông đất đai, hàng chục vạn dân được giải phóng. Các cơ sở Đảng, chính quyền nhân dân các cấp, các tổ chức quần chúng, lực lượng vũ trang địa phương của bạn không ngừng được củng cố, phát triển và phát huy hiệu lực. Trong những năm sát cánh cùng bạn chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ tình nguyện của Quân khu đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng của nhân dân các bộ tộc Lào. Nhiều đơn vị và cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, trở thành biểu tượng sáng ngời cho tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt Lào.

Bảy mươi năm qua, tiến bước dưới ngọn cờ của Đảng, lực lượng vũ trang Quân khu đã cùng với đồng bào, chiến sĩ cả nước đi trọn chặng đường cách mạng đầy chông gai, thử thách, nhưng cũng hết sức vẻ vang, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, bước đầu xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ hằng mong muốn. Phát huy truyền thống “Trung thành, tự lực, đoàn kết, anh dũng, chiến thắng” lực lượng vũ trang Quân khu đang tiếp tục không ngừng phấn đấu, vươn lên, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho, cùng quân và dân cả nước quyết tâm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.