Upload
lycong
View
257
Download
3
Embed Size (px)
Citation preview
1.
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Am 8, 4-7; 1Tm 2, 1-8; Lc 16, 1-13
MỤC LỤC
1. Tên quản lý khôn khéo .................................................... 2
2. Sử dụng tiền bạc .............................................................. 4
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.......................... 7
4. Người quản lý trung tín ................................................. 10
5. Trung tín – Lm Giuse Trần Việt Hùng ......................... 14
6. Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần Ngà .................. 19
7. Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền ............... 22
8. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống .................. 26
9. Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng ........ 31
10. Khôn khéo ................................................................... 38
11. Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc ........................... 41
12. Không thể làm tôi hai chủ – Veritas ........................... 43
13. Không thể thờ hai chủ – Achille Degeest ................... 46
14. Hãy bắt đầu hơn là thế gian ........................................ 48
15. Những đồng bạc lẻ ...................................................... 51
16. Bản năng - McCarthy .................................................. 55
17. Tiền bạc - McCarthy ................................................... 57
18. Tên quản lý khôn khéo ................................................ 60
19. Hai chủ ........................................................................ 63
20. Tiền của ....................................................................... 66
21. Tính cách ..................................................................... 69
22. Khôn ngoan đích thực - Lm. Phạm Thanh Liêm ........ 71
23. Suy niệm của JKN....................................................... 74
24. Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX Vũ Phan Long .... 79
25. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin .......................... 89
26. Chú giải của R. Gutzwiller .......................................... 92
27. Chú giải của Noel Quesson ......................................... 95
2.
1. Tên quản lý khôn khéo
Thánh Luca thường hay dùng câu chuyện để dẫn vào một
bài học. Câu chuyện là tuỳ, bài học là chính. Ở đây câu
chuyện là sự khéo léo xoay xở của một tên quản lý bất lương.
Vì là điều tuỳ, nên thánh Luca đã không quan tâm đến những
chi tiết, chúng ta chỉ biết anh ta bị mang tiếng là đã phung
phá sản nghiệp của chủ và bị cho nghỉ việc.
Trước cái tin bất ngờ như sét đánh này, anh đã tính toán,
giảm bớt số nợ của những người đã vay mượn ông chủ, biến
họ trở thành người bạn, những kẻ đồng loã, sau này sẽ giúp
đỡ anh. Cư xử như vậy là bát lương đối với chủ, nhưng đó lại
là sự khôn ngoan của thế gian. Chúa Giêsu khen ngợi sự
khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái thế gian đã khôn khéo
hơn con cái sự sáng. Ngài không khen ngợi việc làm của hắn,
vì hắn là kẻ bất lương, nhưng Ngài phải nhận rằng hắn là một
kẻ khôn khéo và mau lẹ. Ngài đau lòng khi nghĩ tới bình diện
Nước Trời, người ta đã không mau lẹ và khôn khéo như vậy.
Ngài đã đem ơn cứu độ đến trong lời giảng và gương sáng
của Ngài, nhưng sao người ta lại hững hờ và chậm chạp quá
vậy. Đó là điều đau lòng và đáng trách. Nhưng nếu muốn
mau lẹ và khôn khéo đối với Nước Trời, thì chúng ta phải
làm gì?
Và đây là bài học, là phần chủ yếu Chúa muốn gởi đến
cho chúng ta. Thánh Luca đã không đưa ra một câu trả lời
đầy đủ, vì các công việc phải làm để đón nhận Nước Trời thì
nhiều và mỗi lần giảng, Chúa Giêsu lại nêu lên một góc cạnh
nào đó. Điều Chúa muốn giáo huấn chúng ta hôm nay đó là
vấn đề tiền bạc.
Trước hết Ngài muốn khuyên chúng ta hãy bắt chước óc
sáng tạo và sự tích cực của tên quản lý mà lo lắng đến việc
Nước Trời. Đồng thời cũng hãy bắt chước hắn trong việc
3.
tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Hắn đã tìm cách
bảo đảm tương lai đời này thì chúng ta là con cái sự sáng,
cũng phải tìm cách bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải
làm gì và tiền của đời này có giúp ích được gì chăng?
Dĩ nhiên là có. Hãy dùng nó mà tậu của cho mình một
kho tàng ở trên trời, nơi đó không có mối mọt và trộm cướp.
Ngược lại nếu chỉ dùng tiền bạc mà làm ăn ở đời này thì
khốn cho kẻ ngu ngốc vì khi chết liệu có mang theo được
hay không? Nhưng thế nào là dùng tiền bạc để tậu cho mình
một kho tàng ở trên trời?
Của cải vật chất được ký thác cho chúng ta không phải để
chúng ta giữ làm của riêng và coi đó như thần thượng để tôn
thờ, nhưng để chúng ta chia sẻ với anh em, làm cho không ai
còn thiếu thốn. Vậy chúng ta phải chọn lựa: Hoặc coi tiền
bạc là đối tượng mình phải tìm kiếm chất chứa cho thật
nhiều, hoặc coi nó như của ký thác để giúp đỡ lẫn nhau.
Quan điểm trên xem tiền bạc thành thần tượng. Còn quan
điểm dưới, coi nó chỉ là phương tiện xây dựng hạnh phúc
chung cho mọi người.
Như thế qua dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đi từ bình diện trần
gian sang bình diện Nước Trời. Ngài nói đến sự khôn khéo
của con cái thế gian mà thúc giục con cái sự sáng hãy lanh lẹ
hơn đối với công việc thiêng liêng. Chúa không chấp nhận
thái độ tham lam tiền bạc, biến tiền bạc nên thần tượng,
ngược lại Ngài muốn chúng ta dùng tiền bạc để chia sẻ và
giúp đỡ kẻ khác. Thái độ trước coi tiền bạc là một thứ tôn
giáo, quan điểm sau nhờ tôn giáo mà chúng ta thấy cần phải
chia sẻ mọi sự với mọi người.
4.
2. Sử dụng tiền bạc
Đoạn Tin Mừng sáng này có vẻ khó hiểu, vì thế tôi xin
bắt đầu bằng một câu chuyện:
Có một anh lính ba gai, không bao giờ làm hài lòng về
cấp chỉ huy của mình là một ông đại tá. Mỗi lần trình diện
thì hoặc là giày còn bẩn, súng chưa lau, hay tới chậm mất
mấy phút. Hôm đó anh được xả trại và được tự do đi chơi
cho tới 8 giờ tối. Vào lúc 7g45 anh vẫn còn lang thang ngoài
phố. Bất ngờ anh trông thấy chiếc xe của ông đại tá. Định rẽ
vào một con hẻm nhưng không kịp. Ông đại tá dừng xe trước
mặt anh và nói:
- Đúng 8g anh phải trình diện tôi tại bộ chỉ huy, bằng
không sẽ bị 3 ngày cấm cố.
Anh lính suy nghĩ thật mau. Chỉ còn 15 phút nữa. Đi bộ
thì không kịp, đón xe thì không có. Lập tức anh chạy theo
chiếc xe của ông đại tá. May thay chiếc cốp phía sau vẫn còn
mở. Thế là anh vội nhảy lên và chui tọt vào trong. Ông đại tá
cho xe chạy vòng vòng qua mấy ngã đường rồi trở về doanh
trại. Nhưng khi xe vừa dừng lại thì anh lính cũng nhảy xuống
và trình diện ông đại tá. Ông đại tá bèn khen:
- Anh đã hành động khôn ngoan, tôi tha phạt cho anh, từ
nay trong mọi hoàn cảnh, anh cũng hãy hành động khôn
ngoan như thế.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng đã kể lại
một câu chuyện tương tự như thế. Tên quản lý thực là là một
kẻ trộm cắp. Chúa Giêsu không ca tụng sự gian tham của
hắn, nhưng khen ngợi hắn đã hành động một cách khôn
ngoan, và rồi Chúa đi đến kết luận: Không phải chỉ con cái
thế gian, mà cả con cái sự sáng cũng phải tỏ ra thận trọng và
khôn ngoan như vậy. Rồi Chúa cũng chỉ cho chúng ta cách
5.
thức để hành động khôn ngoan, đó là hãy dùng tiền bạc vật
chất, hãy dùng tất cả những gì chúng ta có để tạo lấy những
bạn hữu sẽ giúp chúng ta vào Nước Trời.
Để hiểu được điều đó, tôi xin kể tiếp một mẩu chuyện
nữa: Ông chủ vườn chôm chôm giàu có, sáng nọ thấy hai em
nhỏ đứng ngoài cổng nhìn vào một cách thèm thuồng. Ông là
người yêu trẻ nên cho gọi hai em đến và bảo:
- Hai em cứ việc vô vườn ăn, nhưng không được đem trái
nào ra.
Trước khi các em đi về, ông đã khám túi và hài lòng vì
không thấy một trái chôm chôm nào cả. Nhưng ông lấy làm
lạ vì thấy hai em đi theo bờ dậu, cúi xuống như lượm một cái
gì đó. Đoán được mưu của hai em, ông cho gọi lại và hỏi.
Hai em bèn phải thú thực rằng mình có ném mấy quả ra
ngoài hàng rào, để rồi sẽ lượm về cho em. Ông khen hai em
đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em đem những
quả chôm chôm ấy về. Hai em nhỏ là chúng ta. Ông chủ
vườn là Thiên Chúa. Thửa vườn là thế gian. Những trái chôm
chôm là những sự tốt lành chúng ta có được như tiền bạc,
cơm gạo, áo quần... Những sự ấy chúng ta không thể đem
theo khi từ giã cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một cách để
hành động, chúng ta có thể ném ra ngoài hàng rào những cái
chúng ta đang có, nghĩa là chúng ta chia sẻ phần tiền bạc vật
chất cho những kẻ nghèo khó. Điều đó Chúa không cấm mà
còn khuyến khích chúng ta nữa. Nếu chúng ta hành động
khôn ngoan, chúng ta sẽ trở thành bạn hữu của Chúa và
chúng ta sẽ tìm thấy ở trên trời tất cả những gì mà trong cuộc
sống trần gian chúng ta đã ném qua hàng rào, bằng cách cho
đi để phục vụ và giúp đỡ những người chung quanh.
Để kết luận, chúng ta có thể nhớ lại lời Kinh Hoà bình
của thánh Phanxico Assie: Vì chính khi hiến thân là khi được
6.
nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì
chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi
vui sống muôn đời.
7.
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG
THÀNH
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một
hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi,
Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh
Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì
mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo
rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều
cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi
trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà
ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm
mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau
Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy
nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân
ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà
ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh
Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý
trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách
làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng,
đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự
khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt
qua được những khó khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan
nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong
một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương
lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí,
làm hại tài sản của chủ.
8.
Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu
không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông.
Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông.
Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy
bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất
cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài
năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý
chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và
khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của
chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người
quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài
sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ
khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền
gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc
thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất
xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật
Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục.
Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có
kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ
làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc
sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật
chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền
mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời
này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc
này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán
9.
của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng
đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần
gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản
trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần
gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản
thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải
rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình.
Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người
nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo
là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo,
đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu
trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con
đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự
khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy
bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi
xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi
tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ
nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng
khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh
cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và
khôn ngoan của Chúa?
10.
4. Người quản lý trung tín
(Trích dẫn từ Logos)
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có ông Phùng Huyên
giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên qua đất
Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh
Thường Quân dặn: “Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua
về”.
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ
của chủ đến và tuyên bố: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá
bỏ tất cả sổ nợ!”. Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những
người thiếu nợ và toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế
Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình công việc với Mạnh
Thường Quân: “Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì
trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa
của cải, không thiếu vật gì cả, chỉ thiếu “điều nghĩa”, nên tôi
trộm lệnh mua điều nghĩa đem về. Mạnh Thường Quân ngạc
nhiên hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Họ Phùng đáp:
“Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế, dân chúng
vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho
tướng quân vậy”.
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường Quân nữa,
ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và
hoan hô ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay
sang Phùng Huyên nói: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa,
ngày nay tôi mới trông thấy”.
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua “điều nghĩa”
làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh
Luca hôm nay: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn
11.
hữu, để khi mất hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào
chốn an nghỉ đời đời”.
Chúa kể dụ ngôn “Người Quản Lý Bất Trung” để giải
thích lời dạy đó của Ngài.
Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người quản lý đã bị ông
chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc
sống an nhàn sung sướng sau khi mất việc: anh ta đã lén chủ
giảm số nợ của những người mắc nợ để dùng tiền bạc của
chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất lương đó đã
hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn “Người
Quản Lý Bất Trung” Chúa Giêsu có ý dạy hai điều:
a) Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư vào hạnh phúc
vĩnh cửu.
Trong thời buổi “kinh tế thị trường” hôm nay, người ta rất
chú trọng đến việc “đầu tư” nghĩa là bỏ vốn để sinh lời.
Đồng tiền được “xoay vòng” là đồng tiền sinh lợi nhuận. Đó
là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan
thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng
vậy, với “định luật Nước Trời”, người ta có thể dùng của cải
trần thế để đầu tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là,
người ta có thể dùng tiền bạc phi nghĩa ở đời này để mua lấy
kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta chỉ có
thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những “đồng bạc
biết cho đi”. Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm
phương tiện giúp ta nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn
nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu cách cuộc đời chúng
ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng
tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy: “Các
con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của
được”.
12.
b) Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong
việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ ra là người khôn
ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ
để mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta
“khôn” nhưng không “ngoan”, vì anh ta đã làm một việc gian
dối để thu lợi một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta
đã “không trung tín trong việc nhỏ nên cũng không trung tín
trong việc lớn”, vì vậy anh ta đã bị chủ đuổi việc. Sau này,
nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta
cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để trở thành
người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho
chúng ta biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần
rỗi đời mình, cũng như làm lợi cho anh em. Nếu chúng ta
biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và xứng
đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh
phúc vĩnh cửu. Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất
trung, chúng ta sẽ đánh mất chính mình và anh em. Nhưng
“cái mất” lớn nhất là “đánh mất Thiên Chúa” là cội nguồn
của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh mẽ lên án tội lỗi
của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê
những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá
và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng
cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ
và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết
xây dựng hòa bình (bài đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng đã lớn tuổi đến
một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng
13.
trọ qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm
thương hai vợ chồng không có chỗ nghỉ đêm trong một đêm
mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói:
- Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông bà.
- Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu?
- Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người chồng nói với
viên quản lý:
- Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một khách sạn lớn
nhất nước Mỹ!
Hai năm sau, người quản lý nhận được một bức thư kèm
theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của
ông khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông khách trọ dẫn
đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga
đồ sộ mới xây và nói:
- Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú William Wadorf
Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt làm quản lý
trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời
mình trong ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa
ban cho tha nhân, chúng ta sẽ làm giàu cho chính mình trong
cuộc sống mai sau.
14.
5. Trung tín – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Ngày xưa có tên lái buôn gian xảo dùng mạt
cưa pha vào cám đem bán. Nhưng có tên bán mướp, còn
gian hơn. Hắn lấy mướp đắng, giả làm dưa leo bán giá đắt
hơn. Ngày kia, hai gã gặp nhau. Cả hai người tưởng hàng
của nhau là thật, liền thỏa thuận đổi cám lấy dưa về dùng.
Cả hai người đều hí hửng. Nhưng tới lúc xài mới hay là của
giả, rõ ràng gian lại gặp tham
Sự gian manh đã len lỏi đi vào lòng người từ rất xa xưa.
Với lòng gian xảo, nhiều người tham lam đã dùng đủ mọi
cách để làm lợi cho mình, bất chấp sự thiệt hại của tha nhân.
Tiên tri Amos đã nêu ra những thói đời xấu xa: Các ngươi
bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi
nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ
giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả (Am 8, 5). Xưa
cũng như nay, xã hội nào cũng có những người xấu chuyên
môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo trá và dùng nhiều thủ
đoạn để vun đắp phần lợi về mình. Họ dùng những đồ giả, đồ
nhái hay đồ giả mạo che mắt người khác để bán kiếm lợi lộc
cách bất công. Làm ít mà muốn hưởng nhiều, của giả mà đòi
bán giá thiệt.
Mỗi thời đại đều có những tệ nạn xã hội khác nhau. Nơi
đâu cũng có kẻ tốt và người xấu xuất hiện. Người tiểu tâm lại
khéo nói và dễ gây cảm tình. Họ dùng rất nhiều mánh khóe
để tìm lợi ích cho cuộc sống riêng tư. Họ khéo xử dụng
miệng lưỡi để mua chuộc nhân tâm. Amos tố cáo âm mưu
của họ. Họ nói: Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy
đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục
nát" (Am 8, 6). Đối với họ, đồng tiền là trên hết. Họ có thể
dùng tiền bạc đổi chác những gì mà họ ưa thích. Của cải
không còn là phương tiện, mà trở thành chủ nhân và cùng
15.
đích cuộc đời. Cũng thế, khi say mê của cải phù vân ở đời,
chúng ta dễ bị lệ thuộc và làm nô lệ cho của cải. Vì sự tham
lam như chiếc túi không đáy. Đã có, lại muốn có thêm.
Chúng ta chẳng khi nào cảm thấy đầy đủ.
Qua bài dụ ngôn Người Quản Lý, Chúa Giêsu vạch rõ
cách cư xử khôn khéo của người đời. Tin rằng đời sống sẽ
không bao giờ bị bế tắc, vì không ra được cửa này và sẽ luồn
qua cửa kia. Người quản lý gian tham và bất tín đã tìm ra
cách gian dối để cứu vãn đời mình. Đặt lợi ích đời sống của
mình trước và bất chấp sự thiệt hại cho người chủ. Anh quản
lý đã sửa đổi văn tự, giảm bớt giấy nợ và lấy của chủ cho đi
để gây phúc cho mình. Phải nói rằng anh quản lý đã tính toán
rất khôn ranh. Lương tâm của anh trở nên chai lì không còn
nhậy bén về sự công bằng và ngay thật. Khi học biết sự việc
đã xảy ra, ông chủ cũng thầm cảm phục sự khéo tính toán
của anh ta: Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành
động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi đối xử với đồng
loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng (Lc 16, 8).
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta bài học về sự
trung tín và ngay thẳng. Dù việc tư hay công, một hành
động gian dối nhỏ, cũng sẽ làm thiệt hại lòng tin tưởng. Chúa
nói: Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc
lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc
lớn (Lc 16, 10). Đúng là một sự bất tín, vạn sự chẳng tin.
Hình như sự gian dối cứ luẩn quẩn quanh cuộc sống của mỗi
người chúng ta. Ở đời có mấy ai thoát khỏi sự dối trá, gian
lận to hoặc nhỏ. Nói dối hoặc nói lối cách này hay cách khác
để tránh nói sự thật. Có khi nói dối để tránh sự tò mò, vô
thưởng vô phạt, không hại mình hay hại người. Người ta
thường nói: Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Trẻ em thành
16.
thật hơn. Chúng ta ghi nhớ Giới răn Chúa dạy: Thứ Tám là
chớ làm chứng dối.
Qua câu truyện trong dụ ngôn, Chúa Giêsu khuyên dạy
chúng ta dùng tiền bạc cách khôn ngoan: Phần Thầy, Thầy
bảo các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn
hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào
chốn an nghỉ đời đời (Lc 16, 9). Tiền bạc gian dối là của cải
trần đời. Tiền được lưu truyền qua tay người này tới người
khác. Đồng tiền lang thang khắp chốn. Chúng ta chẳng biết
tiền sạch hay dơ. Nhờ tín dụng, của cải tiền bạc có giá trị trao
đổi. Tờ giấy đồng tiền có giá trị khi chúng ta biết sử dụng
đúng nơi đúng chỗ. Chúng ta có thể dùng tiền bạc đời này để
sắm sửa gia tài đời sau. Với ý thức, tình yêu và lòng muốn,
con người giúp hoán chuyển những giá trị của cải tạm thời
hư không trở thành những món qùa vô giá. Những của cải
mà chúng ta dâng cúng làm phúc, làm việc bác ái và giúp đỡ
kẻ khó nghèo đã trở thành gia sản quí báu ở Nước Trời.
Truyện kể: Ngày kia, một cô hội viên từ thiện chuẩn bị gõ
cửa để vào quyền tiền, thì nghe bà chủ nhà cằn nhằn cô tớ
gái: Chị lại đốt phí một que diêm rồi đấy. Cô hội viên thầm
nghĩ có lẽ mình sẽ quyên được rất ít. Tuy vậy, cô gõ cửa và
cánh cửa mở ra. Bà chủ nhà tươi cười nói: Thưa cô, chắc cô
vừa nghe tôi cằn nhằn, nhưng nếu tôi không tiết kiệm từng
que diêm, thì ngày nay đâu có 500 quan tiền để giúp Hội Từ
Thiện.
Tiền bạc của cải gắn liền với chúng ta suốt quãng đời trần
thế. Của cải chỉ buông tha khi chúng ta nhắm mắt lìa đời.
Biết rằng, cho dù chúng ta có gắng công làm giầu, gom góp
và tích trữ của cải thật nhiều nhưng khi ra đi, chỉ có hai bàn
tay trắng chẳng mang theo được gì. Khi đó của cải của chúng
ta sẽ để lại cho người khác hưởng dùng. Nên biết cuộc đời
17.
của con người là một hành trình đi về cùng đích. Khởi đi từ
trần thế và lữ hành về cõi sau. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm
thời đang hướng về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không thể
dừng lại bám víu vào của cải phù hoa thế trần. Chúng ta cần
dứt khoát chọn lựa thái độ sống để hưởng hạnh phúc. Chúa
Giêsu nhắc nhở: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì
hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và
khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại
làm tôi tiền của được" (Lc 16, 13). Dĩ nhiên, chúng ta chọn
làm tôi Thiên Chúa. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ ban cho. Có Chúa, chúng ta sẽ có
tất cả.
Thiên Chúa quan phòng yêu thương mọi loài thụ tạo. Kìa
xem hoa qủa đồng nội, Thiên Chúa luôn chăm sóc thiên
nhiên cho mưa thuận gió hòa tưới gội. Muông thú nơi rừng
xanh và chim trời cá biển chẳng cần phải gieo vãi thu hoặch,
Thiên Chúa vẫn nuôi chúng hằng ngày. Sự sống của con
người đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Chúng ta cần nhận biết
sứ mệnh làm người rất là cao cả. Thiên Chúa an bài cho con
người cuộc sống an vui đời này và hạnh phúc đời sau. Thánh
Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêo viết: Đó là điều tốt lành
và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người
muốn cho mọi người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý
(1Tm 2, 3-4). Cùng đích của cuộc đời là lãnh nhân ơn cứu rỗi
và chung hưởng hạnh phúc quê trời. Chính Chúa Giêsu đã
mở lối dẫn đường. Chúng ta không thể chọn lựa con đường
nào khác. Một con đường duy nhất là chọn Thiên Chúa làm
chủ và làm gia nghiệp đời chúng ta. Vì chỉ có một Thiên
Chúa và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài
người, là Đức Giêsu Kitô, cũng là con người (1Tm 2, 5).
18.
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con đã xả thân tìm kiếm
những của cải phù vân. Chúng con bán lương tâm để gom
góp những của nợ hay hư nát của trần đời. Xin cho chúng
con biết tỉnh ngộ, biết buông bỏ và nhận biết chân lý. Xin
Chúa dủ thương dẫn dắt chúng con đến cùng Chúa và chọn
Chúa làm gia nghiệp.
19.
6. Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người quản lý trong Tin Mừng hôm nay, khi biết chủ sắp
sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương
tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, nên anh nghĩ ra
một diệu kế: Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến,
dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ.
Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị đuổi việc,
những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà
họ.
Hành động khôn khéo nầy cũng đã được một người khác
thực hiện và đã được ghi lại trong sách xưa như sau:
Thời Chiến Quốc, tại Nước Tề có một vị tướng quốc tài
hoa lỗi lạc là Mạnh Thường Quân. Ông là người giàu có, lại
có lòng nghĩa hiệp, hào phóng với hết mọi người. Trong nhà
lúc nào cũng tấp nập khách thập phương thăm viếng, chuyện
trò, ăn uống. Danh tiếng Mạnh Thường Quân vang khắp các
lân bang thời ấy.
Một hôm, Mạnh Thường Quân sai một người bạn tên là
Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi lên đường,
Phùng Nguyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng : "Ngài có
muốn tôi mua thứ gì bên đó về cho ngài không?" Mạnh
Thường Quân trả lời : "Ngươi xem thứ gì nhà ta chưa có thì
mua." Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên triệu tập các con nợ
của Mạnh Thường Quân lại và yêu cầu họ xuất trình giấy nợ.
Sau khi nắm được số liệu giấy tờ, thay vì đòi họ thanh toán
hết tiền gốc tiền lãi, Phùng Nguyên nhân danh Mạnh Thường
Quân tuyên bố tha hết nợ cho dân và truyền cho các đầy tớ
đem tất cả giấy nợ ra đốt sạch.
20.
Thế là trong phút chốc, bao nhiêu nợ nần xưa nay biến
tan theo làn khói; tất cả các con nợ thở phào nhẹ nhõm và
ghi tâm khắc cốt ân đức của Mạnh Thường Quân.
Mấy hôm sau, thấy Phùng Nguyên trở về tay không,
Mạnh Thường Quân hỏi: “Nhà ngươi đã thu được bao nhiêu
tiền nợ? Đã mua được thứ gì?” Phùng Nguyên trả lời :
"Theo thiển ý của tôi thì trong nhà của ngài chẳng thiếu gì
cả, có chăng là thiếu ơn nghĩa dành cho người túng cực mà
thôi. Chính vì thế, tôi đã trộm phép ngài để mua ơn nghĩa
cho ngài. Tôi hy vọng là ngài sẽ rất hài lòng".
Về sau, Mạnh Thường Quân bị hàm oan và bị bãi quan,
phải về nương náu tại đất Tiết. Dân chúng nơi đây nhớ ơn vị
đại ân nhân đã tha nợ cho họ năm xưa, rủ nhau ra đón rước
thật tưng bừng và thân mật. Mạnh Thường Quân vui sướng
quay lại nói với Phùng Nguyên: "Nhà ngươi xem, chắc hẳn
đây là cái ơn nghĩa mà trước đây nhà ngươi đã mua giùm
cho ta!"
Dù hôm nay tôi cố hết sức bám trụ vào mặt đất nầy bằng
cách củng cố thật vững địa vị của tôi, nắm ghì thật chặt chiếc
ghế của tôi, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng
vườn… thì mai đây, tôi cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy
như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…
Tất cả những gì tôi mua sắm được hôm nay, người khác
sẽ sử dụng. Những gì tôi đang sở hữu sẽ thuộc về người
khác… Còn lại gì cho tôi?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy phải lấy của cải
phù du để đổi lấy tài sản muôn đời và biết tận dụng những gì
hiện có để mua sắm cho mình một nơi cư ngụ vĩnh cửu trên
thiên quốc. Cụ thể là hãy dùng những ân huệ Chúa ban như
sức khoẻ, thời giờ, tài năng, trí tuệ, tiền bạc… để mua nghĩa,
mua bè bạn, mua lấy một chỗ ở trong Nước Trời.
21.
Người tôi tớ bất lương trong Tin Mừng hôm nay quả là
rất khôn ngoan khi biết lợi dụng tài sản mà anh được người
chủ trao cho quản lý tạm thời để mua lấy bạn hữu và mua lấy
nơi ăn chốn ở cho mình trong những ngày khốn đốn.
Phùng Nguyên cũng đã rất khôn khéo khi dùng tiền bạc
của Mạnh Thường Quân để mua ơn, mua nghĩa cho bạn của
mình, nhờ đó mà sau nầy ông cùng Mạnh Thường Quân
được hưởng phúc trong lúc sa cơ.
Phúc thay cho những người có tầm nhìn xa. Họ như
thuyền trưởng phát hiện được tảng băng từ xa, nên có đủ thời
giờ quay mũi tàu thoát hiểm. Họ như người săn tìm ngọc
quý, bán đi những gì tầm thường mình có để mua cho bằng
được một viên ngọc tuyệt vời.
Lạy Chúa, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức
chúng con khỏi mê đắm những thứ phù phiếm đời nầy và biết
khôn ngoan đánh đổi những thứ phù du để thu về những điều
vĩnh cửu.
22.
7. Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Không biết đã từ thuở nào người ta đã coi "đồng tiền là
Tiên là Phật". Đồng tiền có thể thay đổi vận mạng của một
đời người. Từ hèn ra sang. Từ lính quèn lên quan lớn. Đồng
tiền còn có sức mạnh cải tử hoàn sinh. Từ bản án tử hình có
thể trắng án vô tội. Đồng tiền còn làm biến chất một con
người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham.
Từ con người nết na thuỳ mỵ, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc.
Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem
ra đồng tiền đã làm "hư bột, hư hồ". Xem ra không thể gọi
đồng tiền là tiên là phật được, mà phải gọi là ma, là qủy.
Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở
lành. Tiên Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn
giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên
Phật đâu đang tâm gây nên những xáo trộn cho nhân thế.
Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có
ma qủy mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm
cho con người tha hoá đạo đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng
hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao qúy của
biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.
Thực vậy, đồng tiền luôn có một ma lực hấp dẫn con
người. Nó làm cho con người "hoa mắt vì tiền". Nó mê hoặc
lòng người đến mất cả tính người, và trở thành tay sai cho
ma qủy gieo vãi khổ đau cho nhân thế. Thời xưa, tiên tri
Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn
nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng
quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ
vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi
mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều
kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun
23.
quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: "Hãy
nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu
diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: 'Bao giờ mới hết
tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày
nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng
đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua
người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu' Và Chúa đã
thề rằng: 'Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của
chúng". (Am 8,4-7).
Vâng, Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực. Chính
Ngài sẽ đòi lại công bằng cho những kẻ bị bóc lột và ức hiếp.
Từng hành vi của kẻ gian ác đều phải trả lẽ công bằng trước
toà án Tối Cao. Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt lệ cho
người cùng khốn. Và chính Ngài sẽ trừng phạt những kẻ gian
tham vào nơi tối tăm, ở đó chỉ còn tiếng khóc lóc và nghiến
răng.
Lời nguyền dành cho kẻ gian ác được đọc lên từ thời rất
xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi
vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của
người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm
giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma
qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua.
Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo
hàng để thu lợi. Và vẫn còn đó những kẻ sợ có thêm một
miệng ăn, một gánh nặng cho vợ chồng nên quyết định phá
thai, giết người. Vẫn còn đó những kẻ dùng tiền để biến
người khác thành hàng hoá, đồ vật để trao đổi và thoả mãn
lạc thú. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho
tình con người trở thành thứ yếu vì "tiền là trên hết".
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người
chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã
24.
yêu thương và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản
của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và
tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa
ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh
lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa.
Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà
còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống
hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha
nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng
của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý
phải tuyệt đối trung thành với Chúa. Người quản lý không
thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma qủy. Làm tôi
Thiên Chúa thì không thể để cho ma qủy dẫn dắt vào đường
gian dối, tham lam và ich kỷ hưởng thụ. Cho dù có được
những bổng lộc trần gian nhưng mất linh hồn thì được ích gì.
Ngày xưa, Alexandre Đại đế, một ông vua đầy uy quyền,
đã truyền phải treo ở ngoài quan tài một bàn tay khô và
trống trơn của ông, để nhắc nhở cho mọi người biết rằng: dù
là Đại đế uy quyền, thì cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng
và không thể đem theo bất cứ sự gì. Đó là sự thật. Bên cạnh
đó, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống
vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ
quản lý gia sản của Thiên Chúa. Con người chỉ ở một trong
hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản
lý trung tín hay bị đau khổ muôn đời vì những bất trung
trong đời sống dương gian. Đau khổ hay hạnh phúc đời đời
tuỳ thuộc vào cuộc sống hôm nay. Thế nên, Chúa bảo chúng
ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy
can đảm vượt thắng những cám dỗ của tiền tài và lạc thú.
Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và
khả năng để gieo rắc tình yêu và hạnh phúc cho nhân thế ngõ
hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta
25.
trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Giống
như Mạnh Thường Quân năm xưa, khi ông còn tại chức, ông
đã dùng quyền của mình để xoá nợ cho người nghèo, để giúp
đỡ kẻ thấp hèn, đến khi ông thôi chức quan, và trở về quê
hương, ông đã trở về giữa muôn tiếng reo hò của vạn dân mà
ông đã từng giúp đỡ. Phải chăng đó cũng là cách hay nhất để
chúng ta có được một ngày trở về nhà Cha giữa muôn tiếng
reo hò của bạn hữu Nước trời? Amen.
26.
8. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích dẫn từ ‘Nút vòng xoay’)
CĂN BỆNH NGUY HIỂM
Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri
nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh
sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà
văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa,
trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được
truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10
năm 1990).
Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin. Ba
láp! Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú
Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất
minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt
đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan
tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy
hiểm truyền qua tiền bạc. Rồi nối kết với một vài sự kiện gần
đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh
sáng và băng cướp “quý tử” bị hầu tòa, tôi nghiệm ra ra thật
có một căn bệnh như thế. Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc
Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài
đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu
vết của căn bệnh ấy. Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn.
Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh
thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi
cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu.
Có ba dấu vết:
1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.
Tiền bạc vốn lạnh lùng. “lạnh như tiền”. Tiền chẳng quen
ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng
27.
được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu
ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy
tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ. Một người nhà quê
chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy
bác tính toán sai một đồng.
Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình
cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ
xót xa. Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới,
mừng tiền thế cho tình thân. Dù Tết hay Cưới, người ta đều
chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà
phê phin”.
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra
đã cần tiền để mẹ tròn con vuông và chết rồi vẫn cần tiền để
ma chay tốt đời đẹp đạo. Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để
gầy dựng sự nghiệp và già cần tiền để dưỡng thân. Đời cần
tiền để phát triển nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở
mang.
Tiền cần nên tiền quý. Người làm ra tiền là người giỏi,
nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể
vì. Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và
việc làm của con người. Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm
có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và
sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản
và con người. Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng
đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy. Đáng
giá trị rốt cuộc là đấu giá cả. Và nguy hiểm là ở chỗ đó.
Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội
không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu
vắng một em đóng tiền nhiều nhất.
2. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.
28.
Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc
bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu
cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng vấn đề không phải là kiếm
tiền mà là cách kiếm tiền.
Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính
đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những
trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa thì ở đó
căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính có nguy cơ gây thiệt
hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.
Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó
là lương thiện. Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền
mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động
chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình
cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ
động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống
chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh
mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng
những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm
khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Lúc đó lương tâm nhẹ
hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền và lương tri
phải nhường cho lương bổng lên ngôi. Thiên Chúa ư? Ngài
đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!
Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống
chỉ để kiếm tiền. Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn
bệnh nguy hiểm. Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là
đồng tiền đi liền với bạc bẽo.
Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ
vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh
nghiệm: “Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm
tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm
lại sức khỏe”. Mà nào có được đâu! Mời suy nghĩ.
29.
3. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền.
Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền. Không có gì đáng nói nếu
chỉ có thế. Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn
năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di
căn. Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức
để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân
tính… Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”. Ngoài ra
chấm hết. Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói
“tiền tệ”. Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường
đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn
sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền
miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, tiền là sức bật con người,
tiền là nụ cười tuổi trẻ, tiền là sức khỏe người già, tiền là cái
đà danh vọng, tiền là chiếc lọng che thân, tiền là cán công
công lý. Hết ý!”
Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm
của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự
tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền. Nhưng khi cẩn
trọng quá hóa keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không
dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì
xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít.
Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền
như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra
đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc
ruột mà không ai biết.
Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài
vung vít. Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà
lính tính nhà quan làm một xài hai. Khi vung vít nặng là khi
“vung tiền qua cửa sổ” dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài. Rồi
khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và
giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán
30.
ngợp choáng thời giờ thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng
tiền và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền”
khúc ruột.
Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh
hoạt vốn liên hệ đến tiền? Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần
một chữ Tín. Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết
xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại
là một ông chủ xấu. Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa
để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ
để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm
nhìn hướng thượng. Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa
để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền. Tiền bạc như dòng
nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.
Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà
Bôtrêvích đã tiên báo.
31.
9. Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
ĐỒNG TIỀN ĐẾN
Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là
thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những
người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng
thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy
đồng tiền có quan hệ “máu mủ” với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng.
Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người
muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì
cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý , thì đó
là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng
người sang có gang có thép”.
Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm
gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là
Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi
trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che
thân, là cán cân công lý, tiền là… hết ý !”.
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không
có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!
Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng
mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú
hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh
này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến
mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc
quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được
làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng
tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả
niềm tin thiêng liêng nữa.
32.
Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ
Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!
Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn
thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua
gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết - nhưng
muốn biết cũng không khó - nhiều khi vì lý do này, lý do kia,
người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham
nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ…
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban
ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng
lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc
được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi
đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu
hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông
thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có,
tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai
trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng
thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy
thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng
hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!”
(Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích
phổ thông nhất là “hưởng thụ”. Trong Tin Mừng, chúng ta
gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi
cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31).
33.
Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những
nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”,
càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn
trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn,
sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn
những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ
chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh
hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự
ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và
trở nên độc ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn
lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao
nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không
hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai.
Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót
xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những
chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên
cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà
đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài:
biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là
vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để
định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi
của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ
và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có
những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu
chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm
về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy”
tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân
biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một
34.
cách khác, ai là người “giả”, ai là người “thật”! Ngày nay,
nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài”
giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống
như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê
thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước
giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và
giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi
của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ
mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch
thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng
“thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có
“sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng
ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn
ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng
không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên
nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp,
thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ
khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với
đồng loại.
“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”.
Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp
phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân
loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải
thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn.
Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa
dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu
35.
Thương. "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc
sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử
dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh
Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc
đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo…
Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái
tim biết chia sẻ một cách chân thành.
Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không
phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra
“nhân từ” bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi
nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu
đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo
đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ
thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo
bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức
lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng
tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân
ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình
trên TV !
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo
con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con
người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho
ăn…Mt.25,31-46).
Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta
phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách
nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối
với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người
kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).
36.
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ
mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn
trọng mình?
Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người
nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người
biết nói vậy.
Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là
hạng người biết thời vậy.
- Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có,
thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
- Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì
dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
- Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có
muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được
nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì
“không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu,
nơi hạnh phúc vĩnh hằng. "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em
biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng
khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh
cửu. (Lc.16,9).
Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ
qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng
vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm
37.
nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm
sẵn đó sẽ về tay ai ?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm
sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được
gì ư?
Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình.
Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm
phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình
không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là
Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống
đời đời.
“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình
mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con
có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho
riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.
38.
10. Khôn khéo
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Cuộc đời này tươi hơn nhờ có người say mê nó.
Các vận động viên chịu khổ luyện để phá một kỷ lục. Các
nhà khoa học tận tụy để tìm ra một phát minh. Các văn nghệ
sĩ nhọc nhằn cưu mang một tác phẩm. Các nhà kinh doanh
bù đầu với chuyện nắm bắt thị trường.
Phía sau một tấm huy chương, một bằng khen, một giải
thưởng, có bao là mồ hôi nước mắt.
Say mê cuộc đời này chẳng có gì đáng trách.
Người Kitô hữu cũng sống hết lòng với cuộc đời này,
nhưng họ không say mê như thể chỉ có nó.
Đúng ra họ say mê đời này vì họ say mê đời sau.
Đời này chỉ là con đường dẫn đến mục đích tối hậu.
Sau khi kể xong dụ ngôn về người quản gia khôn khéo,
Đức Giêsu phàn nàn vì chúng ta, những con cái ánh sáng, lại
không khôn bằng những người chỉ biết có đời này.
Người quản gia khôn vì ông dám đối diện với thực tế, đó
là chuyện ông bị chủ cho thôi việc.
Ông khôn vì ông biết giới hạn của mình: Không đủ sức
cuốc đất, không đủ mặt dầy mặt dạn để đi ăn xin.
Ông khôn vì ông biết xoay sở, tìm ra phương án tốt nhất,
biết tận dụng quyền hành còn lại của mình để đem đến cho
tương lai bấp bênh một bảo đảm.
Đức Giêsu không dạy ta bất lương như người quản gia.
Ngài dạy ta biết khôn khéo như ông khi gầy dựng cho đời
mình tương lai vĩnh cửu.
39.
Có vẻ đời sau thì xa xôi, không có sức thu hút, không làm
chúng ta say mê và dám đánh đổi tất cả.
Chúng ta thừa sôi nổi để xây dựng tương lai đời này,
nhưng lại thiếu táo bạo để xây đắp tương lai đời sau.
Chúng ta biết xoay sở để việc làm ăn khỏi thua lỗ, nhưng
chúng ta lại thiếu cương nghị và dứt khoát để đầu tư mọi sự
mình có cho Nước Trời.
Cái giằng co của đời sống Kitô hữu nằm ở chỗ vừa say
mê cuộc đời này, vừa say mê vĩnh cửu.
Họ say mê cuộc đời này không thua bất kỳ ai, bởi vì giữa
cái mau qua, họ gặp được vĩnh cửu.
Kitô hữu làm việc, vui chơi như mọi người, nhưng vẫn có
cái gì rất khác nơi họ.
Không phải vì họ dành cho Chúa một thời gian ít ỏi để
đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ... nhưng vì họ đã để Chúa đi vào
toàn bộ đời mình.
Chúng ta cần giữ một sự thăng bằng trong cuộc sống. Sự
thăng bằng này lại nằm ở chỗ chúng ta nghiêng về phía Chúa
và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc, của cải không phải là
điểm tựa, dù ta rất cần tiền và phải kiếm tiền để sống.
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của,
không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc.
Tôi tự hỏi những chủ nào đang thống lĩnh đời tôi.
Ước gì tôi được tự do nhờ biết làm tôi cho Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đồng tiền là tiên, là phật, và cũng có thể là vị chúa đầy
hấp dẫn quyền uy. Bạn có kinh nghiệm gì về sức mạnh của
đồng tiền? Bạn có thấy ai đánh mất mình vì nô lệ cho tiền
bạc không?
40.
Người Kitô hữu cũng dễ mất hút giữa những bon chen
của đời thường. Theo ý bạn, nếu sống chân thật lương thiện,
người Kitô hữu có hy vọng thành công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra. Xin giúp
chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của
thân xác, tự do trước những đam mê của trái tim, tự do trước
những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận
ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu
cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được tự do như
Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi, khi Chúa
đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe, khi Chúa
không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết, vì Chúa
yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng, để
chúng con được tự do bay cao.
41.
11. Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới lập đàn giải trừ tai
nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số
tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn
cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn tay luôn chân,
không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức,
ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang họa, liền thuê
người khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu
lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi, tôi tự mình lần về
miếu cũng được.
Những người coi đồng tiền to lớn hơn mạng sống của
mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê
tiền bạc của con người. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người
quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo
không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông
biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết
dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào
đối với tiền của để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái
sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại
để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính
để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng
của cải phù du, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn
hữu Nước Trời.
Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được
lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại
42.
không “trung tín trong việc nhỏ” là sử dụng tiền của để bảo
đảm cho ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều
mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban.
Tác giả Augier còn viết: “Trong dự tính của Thiên Chúa,
người giàu chỉ là viên thủ quỹ của người nghèo”. Vì thế, chỉ
khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn,
chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ,
những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi
tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời
chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa”.
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn ba tìm kiếm
những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết
khôn ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc
Nước Trời. Amen.
43.
12. Không thể làm tôi hai chủ – Veritas
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Một nhật báo bằng tiếng Pháp đã có một bài bình luận
như sau về đời sống của những người Kitô: Phúc âm của các
người là một vũ khí mạnh sức hơn triết lý Các-mác của
chúng tôi. Tuy nhiên, nếu cứ theo tình trạng này về lâu về
dài, chúng tôi sẽ chiến thắng trên các người. Vì làm sao
người ta có thể tin vào Phúc âm được, nếu các người không
thực sự sống Phúc âm đó. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu
các người không chịu hy sinh thời giờ, tiền bạc cho chính
nghĩa Phúc âm thì làm sao có người tin vào Phúc âm; nếu
các người không chịu cực, các người không chịu xắn tay lên
hành động cho Phúc âm.
Những nhận xét trên không khỏi đánh động chúng ta và
làm chúng ta xét lại chính nếp sống của mình. Dụ ngôn Chúa
Giêsu kể về người quản lý bất trung được nhắc lại trong bài
Phúc âm Chúa nhật hôm nay mà chúng ta vừa đọc lại cũng
tích chứa cùng một sứ điệp thức tỉnh chúng ta. Chúa Giêsu
không khen người quản lý bất trung, không đề cao nếp sống
của người quản lý bất trung cho chúng ta noi theo, nhưng
Ngài cảnh tỉnh chúng ta phải tránh thói khôn ngoan tinh xảo
của người đời.
Nội dung chính của Lời Chúa dạy qua dụ ngôn trên hệ tại
ở điểm so sánh. Người quản lý bất trung đã vận dụng những
khả năng của anh như trí óc, khôn khéo, chịu khó nghiên cứu
kế hoạch để mưu cầu điều lợi cho bản thân anh. Cuộc đời
của anh chỉ hướng duy nhất về điều này mà thôi là “sống vì
tiền của”. Chịu làm nô lệ cho tiền của, vận dụng mọi khả
năng của mình để tôn thờ tiền của, đó là con cái đời này khôn
ranh, siêng năng, chịu khó hơn con cái sự sáng. Chúa Giêsu
44.
không khen người quản lý khôn ranh, nhưng qua lối so sánh,
Chúa Giêsu muốn chúng ta, những người đồ đệ của Ngài,
những con cái sự sáng biết tích cực dấn thân phụng sự Chúa
với sức hăng say, với sự hy sinh. Hy sinh thời giờ, tiền của
với việc kiên trì làm điều tốt để thực thi Phúc âm Chúa.
Chúng ta có Phúc âm, có sự thật được Chúa mạc khải,
nhưng nếu chúng ta có thái độ ù lì, không tích cực xắn tay áo
lên chịu cực, chịu hy sinh để thi hành Lời Chúa thì chúng ta
đáng Chúa trách là thua xa người quản lý bất trung trong dụ
ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Một cách cụ thể hơn, hôm nay tôi muốn nhắc lại nơi đây
một điểm trong nội dung của bức thư mục vụ của Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam. Bức thư trình bày đường hướng mục
vụ trong bối cảnh mới là đối thoại. Yêu thương và phục vụ
anh chị em. Một đường hướng rất hay, nhưng đòi hỏi nhiều
can đảm dấn thân thi hành thực sự những gì cần được trình
bày trong đó. Nói theo ngôn ngữ của tờ báo vừa được trích
dẫn trên thì đây là thứ vũ khí mạnh hơn triết lý của Các-mác.
Đây là tinh thần Phúc âm cần được mỗi người đồ đệ của
Chúa tại Việt Nam trước tiên noi theo. Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam lưu ý rằng, để thực hiện chương trình đối thoại,
yêu thương và phục vụ anh chị em thì mọi thành phần dân
Chúa, mỗi người cần phải kiên trì, can đảm đổi mới. Các
Giám Mục Việt Nam đã viết như sau: “Đổi mới bản thân là
điều căn bản để có thể yêu thương và phục vụ”. Ở đây,
chúng tôi muốn nói đến đổi mới lòng đạo, nội lực của chúng
ta là lòng tin, lòng mến được Thiên Chúa ban cho. Lòng đạo
đức thật theo thánh Giacôbê là yêu thương phục vụ người
nghèo khổ và giữ mình đừng vướng vào những thói xấu của
thời đại. Thánh Phaolô cũng cho thấy ý Chúa là yêu thương,
là phục vụ nhau. Lời Chúa, những bí tích và đời sống cầu
45.
nguyện là những phương thế hữu hiệu giúp đổi mới bản thân.
Chuyên tâm đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa, chuyên
cần lãnh nhận các bí tích một cách sốt sắng, cầu nguyện kết
hiệp sâu xa với Thiên Chúa sẽ thanh luyện ta khỏi thói ích
kỷ, đem lại cho ta nguồn sức mạnh để quảng đại phục vụ
quên mình theo gương Chúa Giêsu Kitô.
Để thực hiện những điều này mà thôi theo lời dạy của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam trong bức thư chung này chúng
ta cần phải cố gắng, cần phải vận dụng hết sức mình lên.
Hôm nay, trong thánh lễ này chúng ta hãy xin Chúa ban
cho mỗi người chúng ta có được nội lực, có được sự khôn
ngoan và tích cực dấn thân thực hành Lời Chúa. Xin Chúa
giúp mọi người chúng ta trở thành những người quản lý tốt
ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta. Xin Chúa đồng hành với
chúng ta trong giai đoạn mới của lịch sử tại Việt Nam, để
chúng ta mỗi ngày một trưởng thành hơn trong đức tin, đức
cậy và đức mến. Đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau
tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
46.
13. Không thể thờ hai chủ – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn viên quản lý bất lương đòi hỏi người đọc đừng
nghĩ lan man khi tìm cách giải thích các chi tiết. Chủ ý dụ
ngôn cho thấy, trước hết người ta phải quan tâm đến tương
lai vĩnh cửu của mình, phải sử dụng hết tâm cơ tài trí ít nhất
cũng như trong việc lo toan của cải vật chất. Một lần nữa
Đức Giêsu lưu ý các môn đệ về vấn đề thiết yếu vượt trên
mọi vấn đề, ai ai cũng phải dốc tất cả nghị lực, sức lực vào
vấn đề cơ bản đó. Những vấn đề còn lại là phụ, sẽ giải quyết
sau. Vấn đề cơ bản ấy là bổn phận phục vụ Thiên Chúa, nó
trùng hợp với hạnh phúc con người. Từ ngữ ‘của bất lương’
phải hiểu theo nghĩa nào?
1) Căn bản sự sở hữu những của cải thế gian luôn luôn
chứa đựng một nguy cơ bất công. Tuỳ theo mức giàu có
vật chất, một câu hỏi ít hay nhiều nghiêm trọng được đặt ra:
Khởi từ lúc nào việc sở hữu kéo theo một sự tước đoạt quyền
lợi kẻ khác? Ai cũng biết, bình đẳng tuyệt đối về của cải là
một ảo tưởng, và bất bình đẳng mau chóng biến thành bất
công. Dưới mắt Đức Giêsu, giàu về vật chất là một hiểm hoạ.
Rất nhiều lần Chúa trở lại vấn đề này, lúc thì bài xích, lúc thì
thương hại cảnh giác. Qua từ ngữ ‘của bất lương’ chúng ta
phải phát giác nguy cơ bất công đàng sau sự sở hữu vật chất.
2) Của bất lương là thứ của cải thế gian nào khiến cho
tâm hồn quay ra phía khác chứ không hướng về Thiên
Chúa. Tội bất công nặng nhất là tội không thờ kính Thiên
Chúa hết lòng như bổn phận phải làm đối với Đấng Thượng
Đế. Dồn hết tâm trí vào việc làm giàu mà quên Thiên Chúa
là phạm tội biển thủ bởi lẽ để cho của cải thế gian chiếm đoạt
tâm hồn đã được tạo dựng cho Thiên Chúa.
47.
3) Người ta băn khoăn: vậy có lối xử trí nào để con
người có thể tha thiết với của cải đời này mà không xa lìa
Thiên Chúa? Đức Giêsu đáp: không thể cùng một lúc phục
vụ hai chủ. Thật vậy, khi lao mình vào phục vụ tiền bạc thì
chung quy con người phục vụ ông chủ nào? Trong trường
hợp ấy, ông chủ chính là bản thân con người để lộ ra cái chất
gì xấu nhất, nó là tư lợi, là lòng ích kỷ. Dung hoà hai sự thờ
phụng –tôn thờ bản thân và tôn thờ Thiên Chúa- là việc
không thể làm được.
4) Nếu vậy, phải khinh chê tiền bạc ư? Đồng tiền kiếm
bằng mồ hôi nước mắt, cần để sinh sống, có thể san sẻ giúp
đỡ tha nhân vì lòng thương, đồng tiền ấy không bị Đức Kitô
bài xích. Đồng tiền nào nuôi dưỡng lòng ích kỷ, gây thiệt hại
cho đức công bằng, khiến cho con người quên mất Thiên
Chúa, đồng tiền ấy bị kết án trầm luân.
48.
14. Hãy bắt đầu hơn là thế gian
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E.
Miller)
Vào thời điểm này, những đội bóng rổ chuyên nghiệp
đang dự định vào vòng cuối của giải thế giới. Đặc biệt là
những đội đang bị chia rẽ thì họ đang mong chờ một cuộc
trao đổi, chuyển nhượng các cầu thủ, các đội nghĩ rằng vào
mùa chuyển đổi cầu thủ này, họ có những gì họ cần và họ có
thể đạt được điều đó. Họ sẵn lòng trải qua những cuộc trả
giá tiền lương và chuyển nhượng để có được cầu thủ đó. Họ
đã có một cùng loại khởi đầu mà Chúa Giêsu đã nhắc nhở
trong ngày hôm nay về người quản lý bất lương.
Phúc Âm có vẻ như muốn nói Chúa Giêsu đã minh chứng
và trình bày về vẻ bất lương của người quản lý. Một số nhà
chú thích cắt nghĩa rằng, người quản lý đã thật sự giao lại
công việc của mình và không lừa đảo chủ của mình ngay cả
khi anh ta đã làm một việc có vẻ như thiệt hại cho công việc
của chủ. Người chủ đã không tỏ một dấu hiệu nào cho thấy là
ông ta bị lường gạt. Thật ra, ông đã dự định công việc của
mình một cách táo bạo và làm một sự khởi đầu.
Quan điểm của Chúa Giêsu về việc này là: người đàn ông
ở đây đã muốn bảo đảm cho tương lai của ông sau khi ông
mất việc. Ông ta không ngồi đó than khóc về số phận của
mình, ông ta đã làm một điều gì đó để tranh thủ cảm tình với
những con nợ của chủ. Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm này
thì không có ý nói về sự khởi đầu một việc kinh doanh hay là
Ngài có ý nói đến sự chuẩn bị cho chiến thắng của những đội
bóng rổ chuyên nghiệp, nhưng Ngài hy vọng rằng chúng ta
sẽ để ý tới sự cứu rỗi đời đời của chúng ta. Hơn nữa, Ngài
trông đợi chúng ta hãy làm việc khó nhọc cho những giá trị
49.
thiêng liêng như một số người đã làm và coi việc đó như là
mục đích cuối cùng.
Thánh Kinh ngày hôm nay đề nghị hai điều, mà trong đó
chúng ta sẽ tăng trưởng đời sống thiêng liêng. Họ sẽ cầu
nguyện cho những người có nhu cầu và đòi sự công bằng cho
người nghèo. Điều thứ hai là một sự nối kết thân mật, bài đọc
thứ hai ngày hôm nay là một trong những nguồn mạch lời
nguyện của chúng ta phải phản ảnh một bản tính rộng lớn
của lời cầu nguyện được nhắc nhở trong thư của thánh tông
đồ gởi cho Timôthê. Chúng ta cần bao gồm tất cả mọi người
trong lời cầu nguyện của chúng ta, và chúng ta cần nhấn
mạnh đặc biệt đến những người nghèo, những người bị xã
hội ruồng bỏ và khinh khi.
Lời cầu nguyện phải dẫn đến hành động. Đặc biệt là
loại hành động cầu bầu như tiên tri Amos, vị tiên tri của công
bằng xã hội. Ngài đã kết án những kẻ đã dẫm đạp lên những
nhu cầu và hủy diệt người nghèo nơi quê hương. Ngài đã
khuyên nhủ những người này hãy nghĩ đến mục đích tối hậu
của đời mình. Tiên tri Amos không thích quan điểm của
Canvil Coolidge, ông đã nói: Công việc của người Mỹ là
công việc”“. Chúng ta thì không như vậy được. Công việc
của chúng ta sẽ là chia sẻ với những người khác, những
người đang có nhu cầu, những người đang cần lời cầu bầu
hơn những phê bình, những người đang sống trong hoạn nạn
và nhận biết rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta chia sẻ những
khả năng và ân phúc của chúng ta cho những người khác.
Người Công Giáo phải luôn được nhận biết như là những
người sát cánh với người nghèo và những người quảng đại
trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta được kêu gọi để trở nên một
người: “Làm bạn với những người nghèo qua việc chúng ta
dùng những hàng hóa, đặc sản của thế giới này”. Chúng ta có
50.
quyền trông đợi trở nên những người mà Thiên Chúa có thể
tin tưởng để trao phó tài sản, vì chúng ta biết chia sẻ nó cho
những người khác.
Trên hết, những người Công Giáo sẽ trình bày sự khởi
đầu và táo bạo không chỉ trong lời cầu nguyện cho người có
nhu cầu, nhưng cũng vươn đến giúp đỡ họ cách tốt nhất như
chúng ta có thể. Đó là điều sẽ bảo đảm rằng chúng ta chỉ có
một vị Thầy lớn lao tốt lành, một người cha quảng đại, là
Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
51.
15. Những đồng bạc lẻ
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một người Đức giàu có nọ đến nghỉ mát tại một ngôi làng
nhỏ bên cạnh bờ biển, dân chúng đa số là các ngư dân nghèo
nàn chất phác. Chiều đến người khách lạ đi vào các hàng
quán để đổi tiền hầu mua thức ăn và chi trả các thứ cần
thiết. Ông vào một quán nhỏ và nhờ người chủ quán đổi cho
một tờ giấy bạc 1.000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên người
chủ quán nhìn thấy một tờ giấy bạc to như thế. Ông lắc đầu
và nói với người khách lạ: “Với tờ giấy bạc nầy ông sẽ
không mua được bất cứ cái gì ở đây. Ở đây chúng tôi chỉ
trao đổi với nhau bằng những đồng bạc nhỏ mà thôi”.
Nhiều người dân làng bu lại để nhìn tờ giấy bạc 1.000
Đức mã. Họ cười nói với nhau: “Làm gì có giấy bạc 1.000
Đức mã”. Những người đánh cá cũng đứng lại biểu đồng
tình. Họ nói rằng đồng bạc lớn nhất mà họ chỉ thấy năm ba
lần trong đời là tờ 100 Đức mã. Thế là dân làng bắt đầu nghi
ngờ về thành tích bất hảo của người khách lạ. Đêm hôm đó,
từ cửa sổ của nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán như sau:
“Hắn ta phải là một tên bịp bợm. Trước hết là phải tìm
cách tống hắn đi khỏi làng của chúng ta”.
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời lên, người đàn ông giàu
có đã vội vã ra khỏi phòng trọ. Ông đi đến một đô thị nhỏ
cách đó gần một ngày đàng và đổi giấy bạc 1.000 Đức mã ra
những đồng bạc nhỏ. Với hai bao tiền đầy cộm, ông thuê xe
trở lại ngôi làng. Lần nầy dân chúng tin rằng ông thực sự có
tiền và họ đã tiếp đón ông rất tử tế.
Người khách lạ giàu có đã xoay xở khôn khéo và kịp thời
để thoát khỏi sự nghi ngờ niềm nở tiếp đón khi ông đổi tờ
giấy bạc 1.000 Đức mã thành những đồng bạc nhỏ. Tờ giấy
52.
bạc 1.000 Đức mã của ông nhà giàu chẳng có giá trị gì đối
với dân nghèo mà còn trở nên nguy cơ cho chính bản thân
ông nhà giàu. Cũng thế, thái độ của chúng ta đối với tiền của
chỉ đáng tin cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ
thể của bác ái, chia sẻ cho những người nghèo khổ và như
thế chúng ta sẽ mua được nhiều bạn hữu.
Hôm nay, khi kể câu chuyện người quản lý biết dùng tiền
của để mua chuộc bạn bè, Chúa Giêsu cũng muốn kêu gọi
chúng ta hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để bảo đảm
cho tương lai hạnh phúc. Đây là chuyện khéo léo xoay xở
của một người quản lý bất lương. Anh đã lợi dụng cơ hội
biển thủ tiền của hoa lợi của ông chủ. Ông chủ cho đòi người
quản lý tới tính sổ và sau đó sẽ cho anh ta thôi việc. Thât là
một tin bất ngờ như sét đánh. Mất việc làm, anh sẽ đi đâu?
Sinh sống như thế nào? Cuốc mướn thì không nổi, ăn xin thì
xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách là tìm được người để nhờ vả.
Anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến. Anh làm ơn cho
họ để sau nầy họ sẽ giúp đỡ anh. Anh biến họ nên những kẻ
đồng lõa. Và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo anh.
Cứ xử như vậy, đối với chủ bất lương. Nhưng đó là khôn
ngoan theo kiểu thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó
vì Ngài thấy con cái đời nầy khôn khéo hơn con cái sự sáng.
Chúa không khen các việc làm của người quản lý kia, vì anh
ta lả kẻ bất lương. Nhưng Ngài phải nhận rằng anh ta không
khéo và mau lẹ tháo vát, xoay xở. Và Ngài tỏ ra đau lòng khi
nghĩ đến phương diện Nước Trời, ở đây người ta không mau
lẹ và khôn khéo như vậy: Chúa Giêsu đã đem ơn cứu độ đến
qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài, nhưng sao người
ta hững hờ và chậm chạp đến như vậy! Người ta không lanh
lẹ mau trí xoay xở đối với Nước Trời như người quản lý bất
53.
lương kia mau trí lanh lẹ xoay xở đối với việc ở đời nầy. Đó
là điều đau lòng và đáng trách!
Nhưng nếu muốn lanh trí, khôn khéo xoay xở đối với
Nước Trời thì phải làm gì? Và đây là điểm chủ yếu của Tin
Mừng hôm nay.
Phải bắt chước anh quản lý trong việc khôn khéo tìm cách
bảo đảm cho tương lai của mình. Anh quản lý tìm bảo đảm
tương lai ở đời nầy, còn con cái sự sáng phải tìm bảo đảm
tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì? Tiền của đời nầy có
giúp ích được gì không? – Có chứ! Hãy dùng tiền của mà
mua sắm kho tàng cho mình ở trên trời mai ngày, nơi không
có mối mọt đục khoét và không trộm cướp nào lấy mất được
(x. Mt 6,19-21). Ngược lại, nếu chỉ dùng tiền mà tích trữ cho
riêng mình ở đời nầy, thì như có lần Chúa đã nói: “Khốn cho
kẻ ngu ngốc như vậy, vì khi chết y có thể mang theo được
ghì không?” (Lc 12.16-21).
Nhưng thế nào là dùng tiền của để mua sắm kho tàng cho
mình ở trên trời?
Theo giáo huấn của Chúa và như các kitô hữu tiên khởi
đã thi hành, thì của cải vật chất được ký gởi cho chúng ta
không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi nó như thần
tượng để tôn thờ, nhưng là để chúng ta san sẻ với anh em,
làm cho không ai còn thiếu thốn. Tất cả vất đề nằm trong
quan điểm nầy. Người ta phải lựa chọn: hoặc là coi tiền của
hoặc là coi nó như của ký gởi để san sẻ giúp đỡ nhau. Nói
cách khác, hoặc coi tiền của như thần tượng để tôn thờ, hoặc
coi tiền cả như phương tiện để xây dựng hạnh phúc chung
cho mọi người.
Cũng như ngôn sứ Amos (Bđ.1), Chúa không chấp nhận
được thái độ tham lam tiền của, chỉ biết làm giàu cho mình
và không sợ bóc lột người khác. Và tham lam như vậy là
54.
chứng tỏ đã coi tiền của là thần tượng, là một thứ tôn giáo.
Đúng như lời Chúa dạy: “Không thể làm tôi Thiên Chúa và
tiền của được”.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung
sướng, nhưng cũng là nguyên do của những phản bội, tráo
trở, thất nhân thất nghĩa, bôi đen lòng người. Vì thế, người
Kitô hữu xác tín có một đời sau, có một kho tàng thực đang
chờ đón chúng ta, chúng ta không thể chấp nhận và sống
theo tôn giáo thờ Thần Mammon-ngày nay là Thần Đô-la -
tôn đồng tiền làm thần tượng, coi đồng tiền là tất cả, là vạn
năng.
Chúng ta hãy đặt tiền bạc trở về đúng vị trí của nó là một
tên nô lệ chứ không phải là một chủ nhân ông thì mới hy
vọng có một thái độ, một cách cứ xử đúng mức đối với tiền
của trong tương quan với tha nhân. Với lời khuyên nhủ của
Chúa Giêsu qua dụ ngôn hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm
lại thái độ của mình, đồng thời thành khẩn xin Chúa ban cho
chúng ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự
được hấp lực của đồng tiền, biết cách sử dụng tiền bạc, của
cải trần gian cho tình thương yêu, bác ái và chia sẻ. Như thế
là chúng ta gởi vào kho tàng bất diệt trên trời.
Hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống mai sau. Hãy hướng tất
cả mọi sự vào cùng đích của cuộc sống. Hãy coi trọng con
người hơn tiền bạc của cải và trong tình bạn hơn sự giàu sang
phú quý. Bởi vì cái gì sẽ tồn tại mãi mãi? Không phải là tiền
bạc hay giàu sang mà là tình bạn của con người. Hãy cư xử
thế nào để ngày sau luôn có đông đảo bạn hữu chân thành
đón rước chúng ta và Cửa Trời hạnh phúc.
55.
16. Bản năng - McCarthy
Nhiều loài chim có một bản năng quay về nhà rất mạnh
mẽ. Những con chim hải âu ở xứ Manx là một ví dụ hay.
Người ta bắt một con ở xứ Wales và đeo vòng cho nó, rồi
đem nó đến Boston, cách đó ba ngàn dặm và thả nó ra. Hai
tuần lễ sau, nó bay trở về xứ Wales tại chính nơi mà nó bị
bắt. Bản năng quay về nhà (hướng về quê hương) cũng có
nơi con người – không chỉ theo ý nghĩa thể chất. Con người
đã biết quay về nhà sau những kinh nghiệm đau thương,
không chỉ về ngôi nhà cũ của mình, mà về bản thân khi xưa
của mình. Họ quay về để thu nhặt những mảnh vụn của cuộc
đời họ trước đây. Bản thân bẩm sinh của họ hầu như bị
thương tổn. Dĩ nhiên, có những người trở về khi đã trở nên
giàu có.
Nhà văn Ý Primo Levi đã sống qua một năm ở
Auschwitz. Ông là một trong ba người trên chuyến tàu trở về
so với con số 123 người ra đi. Sau này ông nói: “Nếu tôi
không vào một nơi như thế, có lẽ tôi sẽ sung sướng hơn và
thanh thản hơn, nhưng tôi không phong phú như thế này”. Dĩ
nhiên ông không nói về tiền bạc.
Nói chung bản năng quay về nhà mình là một yếu tố tích
cực. Tuy nhiên, nó cũng có thể tiêu cực. Sự thôi thúc quay về
nhà mình cắt đứt những cơ hội tốt và khả năng tốt và làm cho
việc canh tân đời sống trở nên khó khăn và vất vả. Người ta
buộc phải quay về khi muốn giũ bỏ đời sống nông cạn và
tầm thường hoặc cả đời sống lỗi lầm và tội ác. Chúng ta thấy
một ví dụ nơi người quản gia trong câu chuyện của Đức
Giêsu. Khi anh ta bị cho nghỉ việc, lẽ ra đó phải là thời điểm
nhục nhã và đau đớn cho anh ta. Nhưng đó cũng là một thời
điểm cứu chuộc. Bởi vì nó chỉ cho anh ta thấy thực tại bất
lương của cuộc đời anh ta và có thể trở thành một khúc
56.
quanh trong cuộc đời anh ta. Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh
ta vẫn tiếp tục đi theo con đường bất lương trước đây của
mình, không hề có một thay đổi nhỏ nào trong tính cách của
anh ta.
Hoặc bản năng quay về nhà mình là một sự hỗ trợ hoặc là
một trở lực thì nó còn tùy thuộc vào cái nhà chân thực của
mình nằm ở đâu. Những người quen sống trong ánh sáng sẽ
quay về ánh sáng. Nhưng những người quen sống trong bóng
tối thì hầu như quay về với bóng tối.
Một cây có bộ rễ vững chắc và mọc thẳng sẽ trở lại bản
chất cũ đứng thẳng của nó sau khi cơn bão đã đi qua, còn
một cây có thân vặn vẹo trở lại bản chất vặn vẹo của nó. Khi
chúng ta làm tổn thương đến sự chính trực của mình, chúng
ta không làm mất nhân tính của mình, nhưng chúng ta đánh
mất ý thức về sự nguyên vẹn, ý thức về mình lúc nào cũng là
một con người như thế.
Đức Giêsu không lấy người quản gia xấu xa làm một
gương mẫu. Người nói rằng con cái của ánh sáng có thể học
đôi điều từ con cái của bóng tối. Những người xấu thì khéo
léo, theo đuổi một mục đích, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành
những mục tiêu xấu xa của họ. Những người tốt lành, trái lại
thường chỉ ngồi đó không làm gì. Và kẻ xấu sở dĩ thắng thế
chỉ vì người tốt không chịu làm gì.
57.
17. Tiền bạc - McCarthy
Lòng tham tiền bạc đã đưa nhiều người đến chỗ suy sụp.
Hầu như ngày nào trên báo chí chúng ta đều đọc thấy một vài
viên chức cấp cao, hoặc một vài nhà điều hành cấp cao bị
buộc tội tham nhũng. Một trong những trường hợp nghiêm
trọng gần đây là Nicholas Leeson, người đã làm sụp đổ một
đế quốc ngân hàng – Ngân hàng Barings ở Luân Đôn.
Là con trai của một người thợ hồ ở vùng Watford ngoại ô
Luân Đôn, Leeson chưa từng học đại học. Ông ta làm việc ở
ngân hàng Barings như một nhân viên bình thường nhưng
nhanh chóng lên chức và được giao phụ trách việc kinh
doanh tại Ngân hàng Singapore. Ông ta làm việc vất vả và
có rất nhiều tham vọng. Tiền lương hàng năm của ông ta là
350.000 quan cùng với những món tiền thưởng khổng lồ.
Nhưng ông ta vẫn không thỏa mãn. Ông bắt đầu mua bán
các nguồn tài chính. Lúc đầu ông ta đem lại cho ngân hàng
những khoản lời lớn. Càng ngày ông ta càng trở nên tham
lam. Ông lén lút thực hiện những giao dịch tài chính không
cho các ông chủ biết. Sau cùng ông đã thực hiện những vụ
đầu cơ lớn không có tiền trả nổi và làm cho toàn bộ ngân
hàng bị phá sản.
Trong những hoàn cảnh như thế, người ta trả giá cho việc
làm sai lầm trong tiền bạc những cái còn quí giá hơn tiền
bạc. Họ trả giá bằng sự đánh mất lòng tự trọng, nhân phẩm
và niềm hy vọng. Dĩ nhiên, lúc nào cũng có một cơ may
được trả tiền bởi việc bán một câu chuyện của mình cho một
bài báo. Nhưng ở đây cũng thế, có cái giá phải trả. Bất cứ
nhân phẩm nhỏ nhoi nào mà người ta trước đây, sau này
người ta cũng sẽ mất hết.
58.
Leeson làm chúng ta nhớ đến đôi điều về dụ ngôn của
người quản gia. Xem ra người quản gia giống với Leeson đã
bị tiền bạc làm cho hư hỏng. Chúng ta đang sống trong một
thế giới mà tiền bạc được coi là quan trọng nên nó cũng dễ
dàng trở thành thần linh của chúng ta. Chúng ta có thể đặt nó
đứng trước tính lương thiện, công bằng và trước cả đời sống
gia đình. Người ta đã bị tiêm nhiễm bởi não trạng càng có
nhiều tiền càng tốt. Một con người bình thường trở nên mù
mờ đến nỗi không còn nhìn thấy điều gì thật sự quan trọng
nữa.
Ngôn sứ A-mốt đã lên án những người phục vụ Chúa
bằng môi miệng trong ngày sa-bát nhưng bóc lột người
nghèo những ngày khác trong tuần. Đức Giêsu nói chúng ta
không thể phục vụ Thiên Chúa lẫn tiền bạc. Bạn cũng không
thể phục vụ những người khác lẫn tiền bạc.
Một lần kia có một người giàu có nhưng keo kiệt đến gặp
vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho
ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giàu một cách thân
thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến
cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói: “Ông hãy nhìn ra kia
và nói cho tôi biết ông thấy gì”.
“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại”, ông nhà giàu đáp.
Rồi giáo trưởng đem ông ta ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta
đến trước một tấm gương to và nói: “Ông hãy nhìn vào tấm
gương này và ông thấy gì”.
“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giàu đáp.
“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy
cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương
này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có tráng lên một lớp
bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác.
Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác
59.
nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền
bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính
ông”.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc
sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ
người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý
nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta
cảm thấy mình sống mãi.
“Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của các sự vật nhưng
không thể mua mua cái cốt lõi của chúng. Nó đem đến cho
bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc
men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không
phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những
ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh
phúc”. (Henrik Ibsen)
60.
18. Tên quản lý khôn khéo
Nghe xong dụ ngôn này chúng ta không khỏi thắc mắc tại
sao Chúa Giêsu lại khen ngợi một kẻ xấu xa và bảo chúng ta
nên bắt chước cách xử sự của hắn. Và nếu để ý chúng ta sẽ
nhận thấy không phải chỉ lần này mà còn trong nhiều lần
khác, Chúa Giêsu đã đề cập tới cách thức cư xử của người
xấu kẻ ác:
Chẳng hạn như khi so sánh việc phân xử của Thiên Chúa
với một ông quan tòa bất chính, hoặc bảo chúng ta phải khôn
ngoan như con rắn. Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta noi
theo lối sống bất công, hung dữ, xảo trá và lừa đảo, nhưng
Chúa chỉ nói tới sự khéo léo của tên quản lý này mà thôi.
Điều chính yếu là bài học mà Ngài nhằm tới: Hãy khéo
léo phục vụ nước trời như con cái thế gian phục vụ các
công việc của họ. Từ đó Chúa đưa chúng ta sang việc xử
dụng tiền của cho phải phép. Tên quản lý được nói tới ở đây
là một người quan trọng, giữ chức vụ lớn trong một nông
trại, hắn được chủ trao phó cho việc xử dụng gia tài, nhưng
hắn phải làm theo ý chủ. Việc phung phá tiền bạc là điều trái
với ý chủ và phải được điều chỉnh lại.
Ở đây, chủ không còn tín nhiệm hắn nữa vì hắn bị tố là kẻ
bất lương, gian trá, lừa đảo và không đán tin cậy nữa. Trước
sự kiện xảy ra, hắn đã suy nghĩ về tương lai và đã đưa ra
những tính toán khéo léo. Hắn tỏ ra mình là một kẻ khéo
làm, khéo xoay sở cả về phương diện tốt lẫn phương diện
xấu. Chính sự khéo léo này lại làm cho hắn thêm bất lương
hơn. Hắn giảm số nợ của những người vay mắc ông chủ: một
trăm thùng dầu thì chỉ còn phải trả năm mươi thôi. Một trăm
giạ lúa thì chỉ còn phải trả tám mươi thôi. Từ lề lối hành
61.
động của tên quản lý bất trung, Chúa nhận xét về thái thế
nhân tình:
- Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn ngoan
hơn con cái sự sáng.
Con cái đời này là những kẻ chỉ biết đến cuộc sống hiện
tại và hoạt động nhằm đến những của cải vật chất mà thôi.
Trái lại, con cái sự sáng là những người đón nhận tinh thần
của Chúa, con cái đời này đã xử dụng mọi cách thức để đạt
tới mục tiêu, vậy con cái sự sáng cũng phải biết xử dụng sự
vật đời này một cách khôn khéo để chiếm lấy niềm hạnh
phúc nước trời.
Một sự vật đời này gần gũi và căn bản nhất, đó là tiền
của. Tiền của, nếu không biết xử dụng, nó sẽ trở nên một ông
chủ hà khắc, bóp chết những tình cảm kính mến đối với
Thiên Chúa và yêu thương đối với tha nhân.
Trái lại, nếu biết xử dụng đúng mực, nó sẽ đem lại nhiều
lợi ích, chẳng hạn dùng tiền của để làm phúc bố thí cho kẻ
nghèo, để tạo lấy những người bạn chân thành, một mai sẽ
bênh vực cho chúng ta trước ngai tòa của Chúa.
Đằng khác, tiền của còn là một vật trắc nghiệm lòng trung
tín của các môn đệ đối với Chúa. Căn cứ theo cách thức xử
dụng để biết các ông là những người trung tín hay phản bội,
chân thành hay gian dối, vì ai trung tín trong việc nhỏ thì
cũng trung tín trong việc lớn, ai gian dối trong việc nhỏ thì
cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung
thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ trao phó của chân
thật cho các con…
Nên nhớ rằng, chúng ta chỉ là những người quản lý, còn
Chúa mới là chủ. Vậy chúng ta phải biết xử dụng tiền bạc và
những phương tiện vật chất cho phù hợp với ý muốn của
Thiên Chúa.
62.
Để kết luận, tôi xin nhắc lại nơi đây một câu danh ngôn
Tây phương, như một lời khuyên trong vấn đề xử dụng tiền
bạc:
- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng cũng là một ông
chủ hà khắc.
63.
19. Hai chủ
Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay được trích từ sách tiên
tri Amos và bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta hai mẫu
người, hai nếp sống trái ngược nhau. Mẫu sống của con cái
thế gian, tức là con cái của sự tối tăm và mẫu người sống của
những con cái Thiên Chúa, con cái sự sáng. Nếp sống của
con cái thế gian, những kẻ làm nô lệ cho của cải vật chất, tôn
thờ tiền tài được nhắc đến nơi bài đọc I. Họ muốn đề cao tiền
tài và coi thường tha nhân, chỉ nghĩ đến việc buôn bán kiếm
lợi.
Trong ngày nghỉ, ngày dành cho Giavê Thiên Chúa thì họ
không nghỉ ngơi mà âm mưu làm sao để khi ra bán hàng họ
sẽ kiếm lợi thêm nữa, nên họ dùng thời gian nghỉ lễ, dùng
ngày của Chúa để giảm lường đong, tăng giá, làm cân giả.
Họ là những con người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.
Mẫu sống của con cái thế gian còn được làm nổi bật hơn
nữa trong bài Phúc âm kể về dụ ngôn người quản lý bất
trung, mánh mung, phung phí tài sản của chủ để làm lợi cho
bản thân. Trong cuộc đời, họ chỉ nhận điều gì làm lợi cho họ
mà thôi, do đó Thiên Chúa không còn trong tư tưởng, trong
tâm hồn, trong nếp sống của họ nữa.
Kể lại dụ ngôn về người quản lý bất trung này, Chúa
Giêsu không có ý đề cao nếp sống của người quản lý bất
trung cho các môn đệ noi theo, nhưng là để cảnh tỉnh các
môn đệ qua một lời trách khéo: “Con cái thế gian khôn lanh
hơn con cái sự sáng”. Chúa có ý cảnh tỉnh các môn đệ của
Ngài không được ù lì làm biếng và thụ động. Con cái thế
gian tìm đủ mọi cách để có danh vọng, làm sao giây phút
hiện tại có lợi cho tương lai sắp đến, và để đạt đến mục tiêu
64.
này họ không ngại dùng những thủ đoạn mánh mung để làm
lợi cho mình.
Phần Chúa Giêsu, Ngài nhắc khéo cho các môn đệ như
sau: “Chúng con không được làm tôi hai chủ, tức là vừa làm
tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của”. Môn đệ Chúa cần dứt
khoát chọn Chúa, sống theo giáo huấn của Ngài với hết sức
dấn thân và nhiệt tâm. Cần phải chọn Thiên Chúa trước hết
và mọi sự khác như của cải vật chất hoặc ngay cả mạng sống
cũng cần phải sử dụng theo mục tiêu là để giúp chiếm đoạt
được Chúa, đạt được cùng đích cuối cùng của đời sống con
người: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được
ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình”.
Hãy tìm nước Thiên Chúa trước và tìm với hết sức mình,
hết sức nhiệt tâm, hết nghị lực và hết tinh thần, không được ù
lì thụ động. Phải ước mong Chúa làm khát vọng duy nhất
cho cuộc đời mình. Thiên Chúa muốn chúng ta làm người
quản lý tốt của cải, dùng hết khả năng Chúa ban để làm sinh
lợi những khả năng, những nén bạc Chúa trao cho, sao cho
sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị em.
Trong dụ ngôn được Chúa Giêsu kể và ghi lại nơi Phúc
âm thánh Luca hôm nay chúng ta nhận thấy rằng, người quản
lý xấu dùng tài trí của mình và tiền của của chủ để tạo ra bạn
bè mới. Liên kết với của cải trong mục đích hưởng lấy những
lợi lộc trần gian, đó là lối hành xử của con cái thế gian. Con
cái sự sáng cần phải có lòng hăng say, sử dụng tốt những gì
Chúa ban cho để làm cho đời sống con người được cứu rỗi,
được nâng cao, xứng đáng với phẩm vị làm con cái Thiên
Chúa.
Nếu sống vì tiền bạc, danh vọng, tìm cách lạm dụng và
khử trừ người nghèo, tránh xa người nghèo, làm như thế là
họ không phải là con người, không phải là con cái Thiên
65.
Chúa nữa. Bởi vì, con cái sự sáng không bao giờ được làm
như vậy. Ngược lại, họ cần phải sử dụng tài năng Chúa ban,
kể cả của cải vật chất để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho
anh chị em, phục vụ kẻ nghèo chứ không loại trừ người
nghèo.
Người quản lý tốt không lợi dụng cũng không phung phá
tài sản của chủ: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung
tín trong việc lớn”. Trong tất cả mọi sự hãy tìm gặp Chúa
trước hết. Chính trong viễn tượng này mà chúng ta nhớ lại
lời cầu nguyện sau đây được trích lại trong sách giáo lý mới:
“Lạy Chúa, xin ban cho con tất cả những gì giúp con đến
gần Chúa. Xin hãy cất khỏi con tất cả những gì làm con xa
Chúa. Xin hãy giải thoát con khỏi cái tôi ích kỷ, tham lam
tiền của để con biết dâng toàn thân cho Chúa”. Chúng ta hãy
cầu nguyện như vậy hằng ngày và xin Chúa giúp chúng ta
sống được như vậy để luôn trung thành với đức tin vào Chúa.
66.
20. Tiền của
Dụ ngôn của bài Tin Mừng khá dí dỏm và linh động, kể
chuyện một người quản lý đang đứng trước một tương lai
đen tối: sắp bị đuổi việc, nên ông ta đã nghĩ ra một kế hoạch
rất khôn khéo, có thể nói là láu cá, mánh mung hay gian xảo
để thủ lợi khi thất nghiệp sẽ có người trả ơn mình, giúp đỡ
mình. Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý dạy
chúng ta gian xảo như người quản lý ấy, nhưng Chúa muốn
chúng ta phải nhanh trí khôn, biết ứng phó kịp thời với hoàn
cảnh, nhất là tìm được những bảo đảm cho tương lai, mà
tương lai quan trọng nhất là cuộc sống đời sau. Vì thế, sau
khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra những giáo huấn
của Ngài về vấn đề tiền của.
Tất cả những tiền của trần gian chỉ là những thứ vô tri
giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây
dựng, thăng tiến mức sống, đồng thời phát triển tình người,
liên kết yêu thương. Nên tiền của trần gian chỉ là một thứ
trung gian, là phương tiện con người phải biết sử dụng cho
đúng, hợp tình hợp lý, khôn khéo và hữu ích để được ấm no,
hạnh phúc ở đời này và nhất là để đạt tới kho tàng đích thực
là Nước Trời.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại giàu sang, sung
sướng nhưng đồng thời cũng là nguyên do những phản bội,
tráo trở, thất nhân, thất đức, bôi đen lòng người, như câu
trong sách nho: “Hoàng kim hắc thế tâm”. Nhưng trong thực
tế, thường con người lại có những quan điểm trái ngược, đề
cao giá trị đồng tiền, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng:
- Có tiền mua tiên cũng được.
- Tiền không chân xa gần đi khắp.
- Có tiền chán vạn người hầu.
67.
- Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
- Mạnh vì gạo, bạo vì tiền…
Shakespeare cũng đồng ý rằng: “Tiền đi trước thì mọi con
đường đều rộng mở”.
Hoặc như tục ngữ Pháp có câu: “Một người không tiền là
một con sói không răng”. Ngày nay người ta nói: “Đồng tiền
là tiên là phật. Là sức bật của thanh niên. Là sức khỏe của
tuổi già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng để che thân”.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là những nhận định phiến diện về
giá trị của đồng tiền. Những quan niệm xuất phát từ những
giao tế, những công ăn việc làm do thiếu đồng tiền, cũng có
thể do những yếu tố khác, nhưng người ta không nhận ra mà
phải đón nhận những tráo trở, thất bại, ê chề. Nhưng còn
trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dưa thừa
tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao? Hoặc những gia đình giàu
có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta
giải thích thế nào? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một
loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa.
Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu,
mất họ hàng. Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã
phải thú nhận: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, dẫu lòng đổi
trắng thay đen khó gì”. Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng
chua xót nói rằng: “Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết
gạo, hết ông tôi”.
Cho nên, đầy đủ và trung thực nhất, phải là một nhận định
hai chiều: “Tiền bạc chỉ là tên đầy tớ tốt, chứ không thể là
ông chủ tốt được”. Và xa hơn, hỏi rằng đau khổ, cái chết,
đồng tiền có chiến thắng được không? “Vua Ngô ba mươi
sáu tấn vàng. Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Vì
thế, là những Kitô hữu xác tín có một đời sau, có một kho
tàng đích thực đang chờ đón, chúng ta có thể chấp nhận và
68.
sống theo châm ngôn: “Đồng tiền là vạn năng”? Cũng bị
ràng buộc, nô lệ cho đồng tiền không?
Chúng ta hãy đặt tiền của trở về đúng vị trí, khả năng của
nó, chứ đừng phóng đại lên thì mới hy vọng có một thái độ,
cách cư xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan với
tha nhân. Vấn đề vô cùng phức tạp và qui mô. Ở đây, chúng
ta thử nêu vài nhận xét, ví dụ nho nhỏ trong phạm vi gia
đình. Kinh nghiệm cho thấy trong gia đình, thường xuyên
xảy ra những cãi cọ, xích mích chỉ vì mất mát, hư hỏng,
những chia sẽ không đều. Vì tiền bạc, vợ chồng xào xáo lẫn
nhau. Vì tiền bạc, anh em xa cách nhau do cha mẹ phân biệt
đứa này làm nhiều tiền, đứa kia làm ít tiền. Ra đến xã hội,
vấn đề còn phức tạp hơn nhiều. Không lạ gì mà người ta cứ
quay cuồng lên vì đồng tiền, sẵn sàng làm tất cả vì đồng tiền.
Tiền của đã trở thành một cực hút rất mạnh như một khối
nam châm khổng lồ, bề thế như một vị chúa tể dõng dạc ngự
trị trên trái tim mù quáng của con người. Chính trong bối
cảnh như thế mà lời Chúa đã vang lên thức tỉnh lòng người:
“Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền
của được”. Phải lựa chọn một trong hai.
Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta hãy kiểm điểm lại
thái độ của mình: chúng ta kiếm tiền của như thế nào? Chúng
ta chi tiêu tiền bạc như thế nào? Đồng thời thành khẩn cầu
xin Chúa ban cho chúng ta một nghị lực dứt khoát và can
đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, biết cách
sử dụng tiền bạc của cải trần gian để đem lại ấm no, hạnh
phúc đời này và cả đời sau nữa.
69.
21. Tính cách
Người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu không
đáng tin cậy và bất lương. Rõ ràng có những lúc anh ta hoàn
toàn như thế. Có lẽ bắt đầu là những việc bất lương nhỏ,
nhưng dần dần trở thành một cách sống. Anh ta phải biết
rằng mình sống trong nguy hiểm. Nhưng anh ta tránh né
được sự phán xét của dư luận và của bản thân một thời gian
dài. Tuy nhiên, dù có quỷ quyệt, anh ta cũng có lúc bị phát
hiện và ông chủ của người quản gia bắt anh ta phải tính sổ.
Đây quả là một thời điểm rất nhọc nhằn và đau đớn cho
quản gia. Anh ta không chỉ mất việc làm mà còn mất danh
tiếng, anh ta rước lấy xấu hổ và sỉ nhục cho mình và gia đình
mình nếu anh có một gia đình. Tuy nhiên, đây cũng là thời
điểm của chân lý và sự thật được tiết lộ. Nó cho anh ta một
cơ hội để bỏ lại sau lưng mình ảo tưởng và dối trá. Do đó,
thời điểm ấy có thể là một khúc quanh trong cuộc đời anh ta.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta không học hỏi được gì
từ điều đó. Cả sau khi bị cho thôi việc, anh ta tiếp tục sống
theo con đường bất lương trước đây. Không hề có một thay
đổi nào dù rất nhỏ trong tính cách của anh ta. Không hề có
vết trầy xước nào trên bộ áo giáp của anh ta. Anh ta từ chối
nhận lãnh trách nhiệm về loại người mà anh ta đã trở thành.
Thay đổi thói quen của một cuộc đời rất khó. Dostoevsky
nói: “Nửa sau của cuộc đời một người thường được tạo
thành bởi những thói quen được thủ đắc trong suốt nửa đầu
của cuộc đời ấy”. Đây là một tư tưởng hay nhưng đáng sợ.
Dường như đến một lúc nào đó trong cuộc đời chúng ta
khi thể chất quí giá mà chúng ta được tạo thành đã trở nên
khô cứng và chai đá đến nỗi từ lúc đó trở đi chúng ta không
thể đảm nhận một hình thể mới. Con người bất lương vẫn cứ
70.
bất lương mãi cho đến cùng. Con người tham lam sẽ cứ tham
lam mãi cho đến cùng. Một minh họa.
Một lần kia, một người thánh thiện vừa đi dạo trong rừng
vừa giáo huấn các môn đệ. Ông chỉ vào một cây sồi con và
yêu cầu một môn đệ nhổ nó lên. Dù với sự giúp đỡ của tất cả
các bạn, anh ta cũng không thể nhổ lên được.
Và ông thầy kết luận: “Những đam mê và các thói quen
cũng thế. Lúc ban đầu, trước khi chúng đâm rễ sâu xuống,
người ta dễ dàng trừ khử chúng. Nhưng nếu chúng ta để cho
chúng đâm rễ sâu rồi, thì hầu như chúng ta không thể thoát
khỏi chúng”.
Điều đó hầu như đã xảy đến với người quản gia trong câu
chuyện của Đức Giêsu. Anh ta đã quá quen với cách sống bất
lương đến nỗi không thể thay đổi được. Tuy nhiên, điều gì
chúng ta không thể làm được trở thành có thể với sự giúp đỡ
của ân sủng Thiên Chúa.
Trong khi câu chuyện cho chúng ta thấy sự nguy hiểm
của thói quen xấu nó cũng chỉ ra tầm quan trọng của việc
hình thành những thói quen tốt. Bởi lẽ sự bất lương cũng có
thể trở thành một cách sống như sự lương thiện. Sự lương
thiện có thể trở thành tập quán, tự phát và bản tính thứ hai.
Làm thế nào để một người đạt đến tình trạng hạnh phúc
ấy? Nó không thể được hoàn thành trong một sớm, một
chiều. Nó phải được học tập và thực hành lâu dài. Nó không
hoàn thành bởi một ít công trình vĩ đại nhưng bằng nhiều
công việc nhỏ. Phần thưởng thật sự cho một việc làm tốt là
nó làm cho việc làm tốt kế tiếp sau đó được dễ dàng hơn.
Mỗi hành động nhỏ của ngày thường tạo nên hoặc không tạo
nên tính cách.
71.
22. Khôn ngoan đích thực - Lm. Phạm Thanh Liêm
Có người khôn “lỏi”. Có người khôn mà không “ngoan”,
khôn mà không được người khác thương. Có người ngây thơ
như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. “Ai khôn
thời dại, ai dại thời khôn”. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại
đâu?
Khôn theo kiểu thế gian
Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu kể, thật là khôn
theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có
lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được
người ta đón tiếp một khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục
để tồn tại, anh ta phải toan tính làm những điều không lương
thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm việc.
Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương
thiện có thể coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu
tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn nhau, và khi không còn lợi
cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc sống
chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!
“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi”.
Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình gọi là
khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều
người trong cuộc sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn
ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua bán đổi chác trong
mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay
hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu
“dại” như vậy.
Khôn ngoan đích thực
Người khôn ngoan đích thực, phải là người thấy được
điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai
xa nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm
72.
chết trên dưới năm ngàn người. Sống trong một nước văn
minh, con người làm chủ những luật lệ thiên nhiên, biết thời
tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được
những biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo.
Con người gần như cảm thấy an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố
ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run sợ. Cái chết
có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ
con người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại
đâu? Được gì nếu cái chết xảy đến ngay cả khi mình giầu
sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi tiếng, vẫn
là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi
tiếng đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng
khiếp.
Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự khôn ngoan đích
thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết,
toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là
khởi đầu một đời sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị
cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống đời này, thì quả là
dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của
Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích
thực, làm con người sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu
và ngay trong cuộc sống này.
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được cứu độ và
nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết
Ngài yêu thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu
thương con người, con người được tự do và hạnh phúc.
Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau
khổ.
Đau khổ và sự dữ do con người gây ra cho nhau. Biến cố
cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều
73.
người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn
muốn báo thù, muốn hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.
Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ sống yêu thương
mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của
Ngài. Sự khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý
thuyết con người có thể học được trong vài phút, nhưng là
chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu cầu
nguyện: “xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”.
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng
những bất công người ta gây ra cho con mẹ. Cách sống của
Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình
an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn
sống trong bất bình an. Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét
mình, làm con người được bình an tận trong lòng, và giúp kẻ
làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của
Ngài đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả
sự dữ. Đây là cách hành xử của những người tuyệt vời. Khôn
ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc sống với những
hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại sao vậy?
2. Con người có thể sống hạnh phúc không? Khi nào?
3. Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở đời này không?
Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!
74.
23. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn nghĩ gì về một người nghèo được người ta đồng ý
cho “đổi giấy lấy tiền” (cứ một tờ giấy thường nhỏ lấy một tờ
giấy bạc 10.000đ, hay 50.000đ VN, hoặc lấy tờ 10 hay 50
USD), mà lại không chịu đổi, cứ nhất định khư khư giữ lại
những tờ giấy tầm thường cho mình? Bạn có bao giờ nghĩ
mình cũng đang làm tương tự như thế trên bình diện tâm linh
không?
2. Một người thường tỏ ra bất tín trong chuyện tiền bạc,
hay lỗi hẹn, hay thất hứa, v.v… thì bạn có dám giao cho họ
một công việc gì lớn không? Tại sao? Bạn có những kinh
nghiệm nào cụ thể về việc này?
Suy tư gợi ý:
1. Theo khôn ngoan thế gian, phải biết lo liệu trước
tương lai
Ta thử đặt mình vào địa vị tên quản gia bất lương kia để
xem mình nên làm gì hầu “sau khi mất chức quản gia, sẽ có
người đón rước mình về nhà họ”. Nếu không lo liệu trước,
thì coi chừng chết đói, vì ngoài chức quản gia ra, anh ta
chẳng biết làm gì khác để sinh sống, “cuốc đất thì không nổi,
ăn mày thì hổ ngươi”. Tốt nhất là nên lợi dụng ngay quyền
hạn của chức quản gia mà mình còn giữ được trong thời gian
ngắn ngủi một tuần hay một tháng này để lo liệu chuyện đó.
Bây giờ cần phải đầu tư tình cảm nơi mọi người. Cách tốt
nhất và hữu hiệu nhất để gây tình cảm là lợi dụng chức quản
gia để làm ơn cho họ. Anh ta nghĩ: ông chủ có rất nhiều con
nợ, mình giảm nợ cho họ tất nhiên họ phải mang ơn mình, có
tình cảm với mình, nhờ đó, khi mình thất nghiệp, họ sẽ tôn
trọng và giúp đỡ mình. Thế là “anh ta liền cho gọi từng con
75.
nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao
nhiêu vậy?” (6) Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”.
Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống
mau, viết năm chục thôi”. (7) Rồi anh ta hỏi người khác:
“Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: “Một ngàn
giạ lúa”. Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết
lại tám trăm thôi”“.
Như thế, anh ta đã dùng những tiền của không phải của
mình để làm lợi cho mình: dùng tiền của của người khác do
mình tạm thời quản lý để mua lấy tương lai cho mình về sau.
Nhân câu chuyện này, Đức Giêsu khuyên chúng ta: “Hãy
dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền
hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Điều ấy
có ý nghĩa gì? Cần phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào?
2. Áp dụng sự khôn ngoan ấy vào việc lo hạnh phúc
vĩnh cửu
Chúng ta ai nấy đều có một thời gian rất ngắn ngủi ở trần
gian này trước khi bước vào đời sống vĩnh cửu đời sau. So
với đời sống mai hậu, đời sống này rất là ngắn ngủi trong đó
mọi sự đều chóng qua, giả tạm, không bền. Thật vậy, tất cả
mọi sự ta đang có trong tay – trí tuệ, khôn ngoan, sức khỏe,
cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn, của cải, v.v…
– có thể mất đi bất cứ lúc nào. Chỉ một cơn bệnh nặng hay
một tai nạn ở đầu có thể làm ta mất hết trí tuệ, sức khỏe, làm
ta điên loạn, không còn biết gì. Một cuộc đổi đời có thể làm
ta mất hết địa vị, quyền lực và tiền bạc. Như thế tất cả những
gì ta đang có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, đều
không phải là của ta, mà chỉ để ta quản lý một thời gian thôi.
Ta chỉ quản lý nó nhiều lắm là 100 năm ở đời này. 100 năm
đó so với sự hiện hữu vĩnh cửu của ta thì cũng tương tự như
một phút so với cả cuộc đời trần thế của ta. Tới khi chết, tất
76.
cả những của cải ta đang quản lý, dù nhiều tới đâu, cũng đều
phải để lại cho người khác quản lý, và ra đi với hai bàn tay
trắng. Chỉ những gì ta có được ở đời sau, mới là của ta đích
thật, nó sẽ ở với ta mãi mãi.
Tuy nhiên, một điều rất lạ lùng và hết sức đáng mừng là
ta có thể dùng những thứ giả tạm chóng qua mà ta đang quản
lý ở đời này để tạo nên của cải đích thực và vĩnh cửu cho ta ở
đời sau. Vì thế, xét về mặt này, hoàn cảnh của ta giống y hệt
hoàn cảnh của viên quản lý trong dụ ngôn của Đức Giêsu.
Vậy thì dại gì ta cứ giữ khư khư lấy những của giả tạm đó
cho mình, mà không lợi dụng thời gian quản lý quí báu
những của cải ấy để mua sắm lấy Nước Trời, tức hạnh phúc
đích thực và vĩnh cửu của mình. Vì thế, những kẻ chỉ lo làm
giàu ở đời này mà không màng đến việc lo liệu cho hạnh
phúc đời sau, thì đúng là bỏ mất những cơ hội hết sức quí
báu để “đổi giấy lấy tiền”. Cơ hội này mất đi sẽ không bao
giờ trở lại.
Người quản lý trong dụ ngôn đã dùng tiền mà mình đang
quản lý để làm ơn làm phúc cho người này người nọ, nhờ đó
khi không còn quản lý nữa, ông vẫn được người khác quí
trọng, tiếp đón, hậu đãi. Đức Giêsu khuyên chúng ta cũng
nên “dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi
hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Nghĩa là hãy dùng những của cải tạm bợ – tinh thần cũng
như vật chất – mà Chúa trao cho ta quản lý, để sắm lấy
những của cải vĩnh viễn trên trời. Bằng cách nào? bằng cách
sử dụng những của cải ấy để thực hiện những hành động yêu
thương: gây hạnh phúc hay làm lợi cho tha nhân, làng xóm,
xứ đạo, quê hương đất nước, xã hội, Giáo Hội… Ta có thể
dùng tiền của, tài năng, trí tuệ của mình – vốn giả tạm, chóng
qua, nay còn mai mất – để đầu tư cho sự hạnh phúc của tha
77.
nhân, sự phát triển của xã hội, sự thánh thiện của Giáo Hội,
v.v… Nhờ vậy, tự nhiên ta có một kho tàng vĩnh cửu không
thể hư mất ở trên trời. Như thế chẳng phải là ta đã “đổi giấy
lấy tiền”, “đổi đồ giả lấy đồ thật” sao? Vậy dại gì mà không
đổi?
3. Hãy trung tín trong mọi việc hằng ngày
Đã là người, ai cũng muốn mình trở thành người có giá
trị, được mọi người tín nhiệm. Sự tín nhiệm và giá trị của ta
một phần nào được đo bằng việc người khác có dám giao cho
ta đảm trách những việc lớn lao hay không. Nhưng làm sao
người khác có thể dám giao cho ta việc lớn, khi họ thấy ngay
cả việc nhỏ ta cũng không chu toàn được? Đức Giêsu đã đưa
ra một nguyên tắc: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng
trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì
cũng bất lương trong việc lớn”. Sự khôn ngoan đòi buộc
người ta, khi giao việc cho ai mà muốn thành công, thì phải
thử xem người ấy có đủ khả năng và đức độ để chu toàn việc
ấy không. Đức độ và khả năng là hai yếu tố quan trọng để
căn cứ vào đó mà tín nhiệm một người. Nói về việc thử
người, trong dân gian có câu: “Lấy lửa thử vàng, lấy vàng
thử đàn bà, và lấy đàn bà thử đàn ông”. Tôi nghĩ câu ấy cũng
rất chí lý.
Riêng tôi, theo kinh nghiệm cá nhân rất hạn hẹp của tôi
thì chỉ nên tín nhiệm những ai tỏ ra trung tín trong việc sử
dụng tiền bạc hoặc của cải của người khác. Và đó cũng là
điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Vậy nếu
anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính,
thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?
Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải
của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng
cho anh em?” Kinh nghiệm hạn hẹp của tôi cho thấy người
78.
nào không trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất,
thì cũng thường – tôi chỉ dám nói “thường” mặc dù tôi chưa
thấy có luật trừ – không trung tín hay không đáng tín nhiệm
trong những chuyện khác. Còn ai trung tín trong chuyện tiền
bạc, của cải vật chất, thì cũng thường trung tín hay đáng tín
nhiệm trong những việc khác. Theo quan niệm của tôi, một
người không giữ được sự công bằng – dù về tinh thần hay vật
chất – thì cũng khó có thể là một người bác ái đích thật hay
một người thánh thiện được.
Vậy, ta không nên sợ rằng mình không được tín nhiệm,
mà hãy sợ rằng ta chưa có thái độ đúng đắn trong những việc
nhỏ, trong sự công bằng, trong cách sử dụng tiền bạc hay của
cải không phải là của mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng mọi sự con có trong
tay, dù là tinh thần hay vật chất, không phải là của con mà là
của Cha. Cha giao cho con quản lý chứ không phải làm chủ.
Con phải sử dụng chúng theo ý Cha chứ không phải theo ý
con. Xin cho con biết sử dụng những thứ Cha giao cho con
quản lý để tạo nên kho tàng vĩnh viễn cho con ở trên trời.
Xin cho con biết trung tín trong mọi việc nhỏ nhặt của đời
sống thường ngày, để con đáng được Cha và mọi người tín
nhiệm trong những việc lớn lao hơn.
79.
24. Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX Vũ Phan Long
Của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng
mà phục vụ anh chị em.
1.- Ngữ cảnh
Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn
và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi
đề tài của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất,
trong ch. 16 này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử
dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã
được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung phí
của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất
lương (cc. 1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31),
triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời
Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc. 8b-13) và
những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15).
Chỉ có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề
Luật (cc. 16-17) và lời nói về ly dị (c. 18).
Về bài dụ ngôn Người quản lý bất lương, cho đến nay bài
này vẫn là một crux interpretum (“thập giá của các nhà chú
giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải
làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người
quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông
chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã
bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ,
nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên
nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu
đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao
ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì
sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận
chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể
80.
tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện
khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân
biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí
không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì
hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức
Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người.
Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con
tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một
vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên
nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình
thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp
phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết
rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao
anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về
một hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá
hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh
khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng
đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài
dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất
lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình
cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),
c) Áp dụng 3 (c. 13).
81.
3.- Vài điểm chú giải
- một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp oikonomos
thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben
bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người
sinh ra của nhà”), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại
Paléttina, người quản lý không được trả lương; anh toàn
quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ,
thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi
của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết
lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi
thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người
quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không
có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật
Môsê cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-
21), nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là
Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do
đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần
của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không
là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý
do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà
chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa
để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần
lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ[1].
- tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein thường có sắc thái
vu khống.
- phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp diaskorpizein
cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13)
để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn
không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.
- Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ Hy Lạp batos
phiên âm từ tiếng Híp-ri bat, “thùng” tương đương với
82.
khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy
Lạp hoặc 72 sextarii Rô-ma).
- viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả
mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có
nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng
dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý.
Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những món nợ về
lương thực thường có lãi cao như thế thật.
- Một trăm bồ lúa (NTT- 7; “Một ngàn giạ lúa”:
CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên
âm từ từ ngữ Híp-ri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450
lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
- viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là
25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện
bình thường.
- Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể hiểu là “Chúa
(Đức Giêsu )” hay “ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ
kia” (c. 1) hay “ông chủ” (cc. 3.5). Vì các lý do: (1) “Nhà
phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên
đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý
(oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ
được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là
một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng
và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động
nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông
thường, anh này cho những người khác mượn của cải của
ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào
biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là
phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng
bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai-cập dưới thời Hy Lạp và
Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
83.
Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không
biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ
biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người
quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng
ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là
vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ
phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có
phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ
của chủ thành người chiu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì
đến chủ.
- con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ
Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
- nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ
hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền
ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
- Tiền của bất chính (9): Danh từ mamonas là dạng hy-
hóa của danh từ Híp-ri mamôn hoặc danh từ A-ram
mamôna’. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là
một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta
đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của
cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của
loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra.
Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không
được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây
giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông
chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và
dứt khoát.
84.
Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh
những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi
người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?” Người ấy
đáp: “Một trăm thùng dầu ô-liu”. Người quản lý bảo: “Bác
cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục
thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu ô-liu xuống còn
2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa,
tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu
ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi,
tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông chủ” (c. 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã
khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn
giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên
nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ
số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Có một cách giải thích khách
hợp lý hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có
lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%).
Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ,
nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy
sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được
người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là
sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ
điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi
nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn
giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ
bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải hành động
với một sự minh mẫn và khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo
họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian
85.
trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn
và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ
ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo Ba áp dụng
chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ
ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác
nhau
Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu sắc Sê-mít rõ
ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ
“con cái thế gian” , “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất
chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian
ngang hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự “khôn khéo”
của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của
Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các
Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ.
Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ
ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu.
Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô
hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây
giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè
sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định
khôn khéo của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở
thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.
Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài học từ bài dụ
ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách
nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường
chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua
ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là
câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và
trung tín trong việc lớn) ; câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi
86.
(tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải
thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa
việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính
mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung
tín trong đời sống Kitô hữu.
Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền
của” ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ
ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có
thể nói áp dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi
cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải,
cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý
(cc. 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên
nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự
khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải
thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý
bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng
suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do
sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ,
anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý.
Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước
Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể
ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến
cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách
nhiệm và sử dụng để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo
Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng
hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn
87.
đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ
Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để
không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không
những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết.
Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, túc sống hiệp
thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt
được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương
lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được,
nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết
tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất
cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết
tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những
người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ
nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa
chứ không phải tiền của.
2. Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái
tim thuộc về Thiên Chúa. Người phải là Đức Chúa mà họ
yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ
như thế với Người, họ mới có thể có một tương quan đúng
đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai
cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn
nhận Người là Chúa tất cả của cải vạt chất và biết rằng bản
thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng
chỉ là người quản lý.
3. Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách
nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của
riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được
Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu
anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo
tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm
bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra
88.
ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của
chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình
với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho
chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý,
qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của
chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung
thành và khả tín của mình.
4. Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng dắn các
của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn
hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của
cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách
ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm
đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu
nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị
cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh
thần, các tài năng, kiến thức, học vấn…
5. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết
tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào
việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình
có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta
được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là
chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của
chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng
ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới
đảm bảo được tương lai của mình.
-----------------------------------------------
[1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London
1970) 48-77; « “Take Thay Bond … and Write Fifty” (Luke
xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W.
Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic
Papyrology, 16-17 (1971) 7-29.
89.
25. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
DỤ NGÔN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN KHÉO
SUY TƯ VỀ TIỀN BẠC
Ở đây cử toạ khác với cử toạ thù nghịch ở chương trên:
Chúa Giêsu nói với các môn đệ, điều mà Ngài đã không làm
từ 12,22-53. Lập tức Ngài kể một câu chuyện (16,1-8) và
Ngài bổ túc phần giải thích bằng đôi lời ()cc.9-13. Dụ ngôn
này có lẽ được gợi lên bởi một vài sự kiện khác nhau, thuộc
vào số những dụ ngôn mà người ta hiểu rất sai; lấy làm gai
hướng, người ta tự hỏi làm sao Chúa Giêsu có thể tán đồng
những hành xử gian dối khi khen tên lừa đảo giả mạo giấy
tờ. Chúng ta sẽ thấy đó không phải là cao điểm của câu
chuyện, trong đó Chúa Giêsu xác định rõ ràng là tên quản lý
bất lương (c.8). Nhưng để tránh mọi sự hiểu lầm như thế mà
câu chuyện được tiếp tục bằng một giáo huấn về tiền bạc.
Một nhà phú hộ có một đồn điền rộng lớn nghe được báo
cáo bất lợi về người quản gia; ông gọi người này lại, bảo
ngưng việc và trình sổ sách. Người quản gia lâm vào tình
trạng bế tắc vì ông phải thất nghiệp, mà cuốc đất thì không
nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Nhưng ông biết xoay sở để bảo
đảm tương lai; ông ta sẽ hành động cách khôn khéo để sẽ có
người đón rước mình về nhà họ. Phần đầu này (cc. 1-4) làm
ta phải nín thở chờ đợi xem người quản lý sẽ biết làm gì.
Và đây, ông ta gọi các con nợ của chủ đến và đề nghị họ
bớt những khoản nợ quan trọng. Khi người ta nợ 3.700 lít
dầu mà được giảm 50% thì quá ngon rồi… Vài nhà Kinh
Thánh nghĩ rằng: người quản gia chỉ bớt tiền lời, những món
tiền hoa hồng, vốn thuộc về anh ta một cách khá hợp pháp;
một cách giải thích như thế sẽ đi đến chỗ bào chữa cho cách
hành xử của anh ta và luân lý hoá dụ ngôn rồi. Nhưng Luca
90.
không nghĩ như vậy: nếu người quản lý bất lương, gian dối
(c.8) là vì anh ta tỏ ra hào phóng mà gây thiệt hại cho người
thuê mướn anh ta! Và ông chủ khen anh ta, đó có lẽ là Chúa
Giêsu chứ không phải người điền chủ đâu: Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là Chúa Giêsu chấp nhận việc giả mạo
chứng từ; phần cuối của câu 8 nói rõ rằng việc khen ngợi
hướng về tính cách khôn khéo trong việc xử trí chứ không
khen tính chất bất lương của hành động. Còn về tính cách
khôn khéo trong những quan hệ hỗ tương, thì những con cái
ánh sáng –các Kitô hữu thích gọi nhau như thế, sau khi đã trở
nên rạng sáng nhờ nghe Lời Chúa (?Tx 5,5; x. Lc 11,34tt)-
có thể rút kinh nghiệm từ con cái đời này, những kẻ không
hề lo nghĩ đến chiều kích siêu việt của cuộc sống con người.
Ngay cả khi những kẻ này hành động một cách bất lương,
người tín hữu đích thực cũng biết rút ra một vài giá trị có thể
hữu ích cho cuộc sống của mình.
Bài học của dụ ngôn ở câu 8 lại được Chúa Giêsu giải
thích qua lời kết luận thứ hai ở câu 9. Đó là một lời khuyên
cho các môn đệ biết cách sử dùng tiền của một cách khôn
khéo trong viễn tuợng Nước Trời. Nếu người quản lý bất
công đã biết sử dụng của cải đời này để có bạn hữu và chuẩn
bị cho tương lai của mình ở đời này, thì các Kitô hữu càng
phải chuẩn bị tương lai vĩnh cửu của họ bằng cách chia sẻ
với người nghèo bằng việc bố thí; như thế, các kẻ này sẽ tiếp
nhận họ (x.14,14) vào thành đô của Chúa –tại đây những kẻ
nghèo như đang ở trong nhà họ, phù hợp với các mối phúc
6,20tt. Như vậy, tỏ ra khôn khéo là xem Tiền bạc như một
phương tiện chứ không như mục đích. Tiền bạc là bất công,
lường gạt –người quản lý cũng được đánh gía như thế ở câu
8, bởi vì nó có thể trở nên thần tượng và bởi vì, so sánh với
của cải Vương Quốc là của đích thực và bất diệt (x.12,33),
nó có một giá trị bấp bênh và tạm thời: tất yếu nó sẽ vắng
91.
mặt vào ngày mà mỗi người chúng ta phải chết. Vương Quốc
của Tiền bạc sẽ chấm dứt.
Là kết luận thứ hai của câu chuyện người quản lý bất
lương, câu 9 đưa ra hai áp dụng mới mà liên hệ với dụ ngôn
có phần lỏng lẻo hơn. Áp dụng thứ nhất dùng để loại trừ mọi
hiểu lầm và một cách dứt khoát ngăn cản người ta coi câu
chuyện như một lời mời gọi thực hành thói xảo quyệt (cc.10-
12). Trái với sự bất chính của người quản lý và Tiền bạc, áp
dụng này đòi hỏi phải có sự trung tín được thực hiện từng
ngày để quản lý của cải thiêng liêng cũng như vật chất. Nhờ
ba điều tương phản, lời khuyên này có lẽ ưu tiên nói với
những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn Kitô hữu:
sự trung thành phải có nơi những kẻ quản lý của cải vất chất
lại càng cần thiết hơn đối với những kẻ có trách nhiệm về tài
sản thiêng liêng của anh em mình. Được viết từ một dụ ngôn
nhỏ và phần áp dụng (c.13) một giáo huấn cuối cùng còn nói
đến những liên hệ với tiền bạc. Ai thờ nó và làm nô lệ nó
không thể là con cái ánh sáng được. Từ khi Thiên Chúa đột
nhập vào trần gian, con người được đặt trước một chọn lựa
triệt để; qua việc sử dụng của cải người Kitô hữu phải tỏ ra
mình chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi.
92.
26. Chú giải của R. Gutzwiller
DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN LÝ
Trong các diễn từ tiếp theo, Chúa Giêsu nói đến việc sở
hữu của cải.
1. Người quản lý tinh khôn
Dụ ngôn này thường gây nhiều vấp phạm và người ta
đang cố đề phòng gương mù trong khi lại trình bày thái độ
của người quản lý tinh khôn như là được phép. Theo luật lệ
thời đó, một chủ trại có thể làm gì tuỳ ý. Con cái sự sáng,
trong vấn đề này, phải xử sự khéo léo như con cái trần gian:
đây là điểm chính đích thực của dụ ngôn.
Người quản lý không làm theo ý của chủ hay phục vụ
quyền lợi của chủ, mà làm hại cho chủ. Xét về ích kỷ, thì
đường lối người quản lý thật là tinh khôn. Y xử sự một cách
quỷ quyệt, dầu hết sức giận dữ vì bị thiệt, người chủ vẫn phải
khen hắn.
Người quản lý sắp mất chức, không muốn làm việc tay
chân vất vả, cũng không muốn đi hành khất. Cho nên y đành
phải dùng mưu: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các
con nợ. Những người này phải giúp lại hắn, ít là tạm thời,
cho đến khi hắn kiếm được một địa vị tương tự. Sự khéo léo
có tính toán đó có tính cách quan trọng.
Con người được Thiên Chúa trao của cải vật chất để quản
lý chúng. Họ phải sử dụng làm sao để khi gặp khó khăn, sa
sút, sẽ có bạn bè trợ giúp. Hoàn cảnh đó chính là lúc chết.
Khi đó, con người phải bỏ lại tất cả những gì lúc đó là sống
còn đối với họ. Họ sẽ có những bạn hữu, nếu trước đó họ đã
dùng của cải vật chất để giúp đỡ, biện hộ cho họ trước mặt
Thiên Chúa, để họ được ‘đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời’.
93.
Đường lối sử dụng của cải khéo léo (dám nói được là xảo
quyệt) không phải ở chỗ tăng thêm của cải bất cứ cách nào,
hay ham lợi lộc, nhưng là thích cho đi hơn là nhận vào, giúp
đỡ hơn là cậy nhờ người khác giúp đỡ. Càng sử dụng tốt của
cải, người ta càng dùng nó để mưu cầu đời sau.
‘Bố thí’, một từ ngữ mà ngày nay chúng ta không thích và
một cách nào đó lại diễn tả đúng sự kiện. Người thợ đòi hỏi
công bằng chứ không xin bác ái. Tâm thức xã hội bừng tỉnh
thì ý thức xã hội càng tinh tế… Người ta đòi phải có thù lao
tương xứng với công việc chứ không xin bố thí với mục đích
trợ giúp hay do lòng thương xót.
Tuy nhiên, người sở hữu phải dùng của cải để làm việc
thiện ngay cả khi họ không bị bắt buộc làm và chẳng mang
lại lợi ích cho mình. Theo nghĩa này, thì bố thí cũng có giá trị
của nó.
Đức Kitô còn đưa ra một áp dụng khác. Ngài cho biết ai
từng trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc
lớn.
2. Quản lý thanh liêm.
Người ta có thể sai lầm khi kết luận con người có quyền
quản lý tài sản không theo ý chủ muốn. Một cách rõ ràng,
Đức Kitô khẳng định ngược lại. Sự gì đã nhận lãnh từ nơi
Thiên Chúa thì phải sử dụng theo ý Chúa. Cả trong trường
hợp nhận ít, lòng tín trung của chúng ta cũng được tưởng
thưởng và Ngài sẽ ban thêm cho ta.
Tài sản nhỏ nhoi dành cho con người quản lý là những sự
vật ngoại tại và phàm trần: phương tiện sử dụng, sức mạnh
thân thể và sức khoẻ, năng lực trí tuệ và các ơn thiêng liêng.
Không nên đặt vấn đề: cái gì tôi ưa thích? Ước vọng của tôi
thế nào? Tính khí và sở thích sẽ lôi cuốn tôi về đâu? Thiên hạ
94.
mong muốn gì, họ làm gì? Mối quan tâm duy nhất của tôi là:
‘điều nào hợp vơí ý Chúa, Đấng đã ban cho tôi những ơn đó
để quản lý?’
Nếu biết hành động như vậy, người ta sẽ nhận được
những điều cao trọng, siêu nhiên, đạo đức, những kho tàng
ân sủng và ơn huệ Thánh Thần.
Tuy nhiên, có ít người biết hướng đời sống và dùng các
ơn siêu nhiên cũng như các năng lực để tìm Thánh ý Thiên
Chúa! Rất ít người ý thức mình là người quản lý. Họ tưởng
mình là chủ nhân, cho nên xử sự theo ý mình. Họ làm theo
sở thích. Hành động của họ độc đoán.
Trái lại, thái độ đạo đức phải có là lời chúng ta vốn cầu
xin trong kinh Lậy Cha: ‘Ý Cha thể hiện’, đó là quy tắc xử
thế của con người. Chỉ có như vậy, cuộc sống mới đổi thay
được để nhằm mục tiêu phục vụ Thiên Chúa.
Tiền bạc là một trong những cám dỗ lớn lao đối với con
người, nó càng nguy hiểm hơn khi có sự trợ lực của ý muốn
tự quyền và tình dục. Đó là lý do Đức Giêsu đòi hỏi một yêu
sách bất khả nhượng và không thể châm chước.
95.
27. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng
Dụ ngôn về “người quản gia bất lương” là một trong các
câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy trong Tin
Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết
nhà thuyết giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa
bịp đó.
Nhưng đó là một dụ ngôn, một “mâchâl”, một “câu đố “.
Chứ không phải là một câu chuyện xây dựng trong mọi chi
tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của tinh
thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp
luận lý và đơn giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử
dụng văn phong điển hình của những người kể chuyện
phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu
người nghe đừng bỏ mất óc phê bình: “Nào, các bạn sáng
suốt nhé! Hãy hiểu sự tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi
làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là cố ý: Các bạn đã bị
nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến
thế sao...!
Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố
cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông
Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn sẽ diễn tiến trên
ý tưởng “quản lý” này. Trong Luật Rôm, cũng như trong tâm
thức thông thường, quyền “sở hữu” là “quyền sử dụng và lợi
dụng cái gì thuộc về mình”: “Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên
tôi làm gì tùy thích”. Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư
hữu tư nhân thì khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở
hữu, nhưng chỉ là những “người quản lý” của cải vốn vẫn
thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền thống này trực
tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng
96.
sản) và vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại:
“Thiên Chúa đã trao trái đất và mọi vật chứa trong đó cho
con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).
Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói
gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì
từ nay anh không được làm quản gia nữa!'
Tất cả những gì tôi phải “quản lý”: tài sản, đức tính, sự
phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những khả năng tình
cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi
không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã
giao cho tôi và chúng vẫn luôn là các công việc “của Người”.
Thiên Chúa không thích “sự phung phí”, đó là một sự xúc
phạm những người đang thiếu thốn.
Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì
ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì
không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi,
để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình
về nhà họ!'
Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ ràng sự bối rối của
người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai
sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị
“sa thải”. Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được
đàng sau sự vội vàng ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà
Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy những người
đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình
khi còn thời gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian
để “lật lại” như người ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức
lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng đi ngược lại mục
đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải,
và quay về.
97.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi
người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?' Người ấy
đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy
biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.'
Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu
vậy?' Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo: ‘Bác
cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.'
Sự gian lận này khéo léo đến ba lần: Không mất gì cả
không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá
đột xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã
chẳng thay đổi kể từ Đức Giêsu.
Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng lúa mì cũng rất
điển hình ở Palestine. “Một trăm thùng dầu”, là thu hoạch
trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu?
“Một trăm bao lúa” là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa,
tương đương với 364 hecto lít lúa mì! Theo các chuyên gia,
sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500 ngày
công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền
tổng số tiền gian lận.
Về điểm này của câu chuyện, người nghe hẳn phải chờ
đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía
Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp...
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành
động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn
con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại
Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi khen người quản
gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong
lời giải thích mà Người sẽ đưa ra.
Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức Giêsu không tán
thưởng sự lừa bịp của “người quản gia lừa gạt” hoặc người
quản gia bất công” như bản văn Hy Lạp đã nói.
98.
Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc về thế giới “bóng
tối” mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt với các
con cái của “ánh sáng” (1 Thêxalônica 5,4-5).
Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền
Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết
bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu
Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn! Đấy là lý lo của lời
khen ngợi.
Trong công thức này ở trọng tâm của bài dụ ngôn, Đức
Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử
dụng tốt sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu
thương vào các mối quan hệ. Đó còn là một quan niệm thật
sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một phương tiện
để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu.
Nó có thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là
niềm vui cho người nào đã góp phần vào niềm vui ấy khi
“ban tặng”! Luca trong Tin Mừng của Ngài đã nhấn mạnh
đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các
thánh sử khác. Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến
nỗi những người giàu có chỉ vào được đó nhờ sự bảo trợ và
giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có
sẽ làm bạn.
Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu hỏi đáng ngại. Tại
sao không! Nhưng tốt hơn là “Tin Mừng” cho những người
giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào “nơi
ở vĩnh cửu” như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ
không còn nữa”.
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong
việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương
trong việc lớn
99.
Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này, đây là những
châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư
tưởng Đức Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc
là một “việc nhỏ” khi so sánh với “việc lớn” là Nước Thiên
Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có chấp nhận quan điểm đó không?
Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng
Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải
chân thật cho anh em?
Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu nói với chúng ta
rằng tiền bạc thì “bất lương”. Đó là một cái bẫy chỉ đem lại
sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê
6,17). Tính từ “bất lương” trở đi trở lại năm lần trong trang
này. Đức Giêsu đã chới chữ. Người nói về “người quản gia
bất lương” rồi giờ đây, Người nói về “tiền bạc' bất lương”.
Từ này cũng thường được dịch là “người quản gia bất chính,
bất hảo, bất công”... và “tiền bạc bất chính, bất hảo, bất
công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được mời
gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất
chính không? Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một
cách có lợi để tạo thành bạn bè cho mình, nhưng nó cũng có
thể là một quyền lực của sự ác.
Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của
cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành
riêng cho anh em?
Khẳng định thứ ba này có một cung cách hiện đại rất
đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án “tha
hóa” của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành
thật sự cho chúng ta. Sự giàu sang không làm cho một người
nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc. Giá trị thật sự ở chỗ
khác. Tiền bạc làm “tha hóa” chúng ta, nếu chúng ta để nó
“chiếm đoạt” chúng ta.
100.
Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ
ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được
Chữ ‘Tiền Của’ viết với một chữ hoa ở đây để dịch từ
‘Mam-mon’, một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì
nó mà người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc
xiềng xích, chiếm đoạt, đánh đòn với những lo âu về công
việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ thỏa hiệp nào:
Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận
chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông
chủ: Thiên Chúa ngày Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta
và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao, lợi lộc sáu
ngày còn lại trong tuần.
Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết “Người Pharisêu
vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo
Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?